intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ngữ nghĩa của động từ nghĩ trong Tiếng Việt

Chia sẻ: Bình Bình | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

90
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này không chỉ thu thập nghĩa của động từ nhận thức “nghĩ” trên cơ sở định nghĩa của từ điển mà còn xem xét những ngữ cảnh khác nhau nơi động từ này có thể xuất hiện và được thay thế bởi các từ đồng nghĩa. Điều này cho phép chúng ta hình dung một cách đầy đủ những đặc trưng ngữ nghĩa của “nghĩ” và những từ đồng nghĩa với nó trong tiếng Việt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ngữ nghĩa của động từ nghĩ trong Tiếng Việt

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 72A, số 3, năm 2012<br /> <br /> NGỮ NGHĨA CỦA ĐỘNG TỪ NGHĨ TRONG TIẾNG VIỆT<br /> Nguyễn Thị Thu Hà<br /> Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế<br /> <br /> Tóm tắt. Bài viết này không chỉ thu thập nghĩa của động từ nhận thức “nghĩ” trên<br /> cơ sở định nghĩa của từ điển mà còn xem xét những ngữ cảnh khác nhau nơi động<br /> từ này có thể xuất hiện và được thay thế bởi các từ đồng nghĩa. Điều này cho phép<br /> chúng ta hình dung một cách đầy đủ những đặc trưng ngữ nghĩa của “nghĩ” và<br /> những từ đồng nghĩa với nó trong tiếng Việt.<br /> <br /> 1. Đặt vấn đề<br /> Hoạt động nhận thức là hoạt động bản chất và đặc thù của con người. Thời nào<br /> và ở đâu cũng thế, con người không thể tồn tại và phát triển nếu không có nhận thức.<br /> Nhưng hoạt động này có tính tinh thần, hoàn toàn trừu tượng, diễn ra không có một dấu<br /> vết nào, nhờ phương tiện ngôn ngữ mà được di chuyển ra bên ngoài. Chính ở đây, trong<br /> quá trình sáng tạo ngôn ngữ, con người đã có nhu cầu gọi tên hoạt động này bằng một<br /> số các từ ngữ gọi chung là từ ngữ chỉ hoạt động nhận thức, bao gồm nghĩ, nghĩ bụng,<br /> tính, đoán, suy, động não, lưu tâm, hiểu, biết, nhớ, quên, nhận thấy, vỡ vạc... Trong số<br /> này, chúng tôi quan tâm đến động từ nghĩ.<br /> Nghĩ được chọn làm từ đại diện cho nhóm này là bởi:<br /> - Nó được xem là từ nguyên sơ (primary word) của ngôn ngữ tự nhiên, thuộc<br /> vào những từ có năng lực làm siêu ngôn ngữ để giải thích, minh họa cho các từ phức<br /> tạp khác trong phạm trù ngữ nghĩa liên quan đến hoạt động nhận thức. Điều này đã<br /> được A. Wierzbicka công bố trong cuốn sách Các sơ giản ngữ nghĩa (Semantic<br /> primitives) vào năm 1972 (được bổ sung qua các năm 1980, 1996), trong đó động từ<br /> think (nghĩ) được xếp vào mục vị từ tinh thần (cùng với know, want, feel, see, hear).<br /> - Nó cùng với một số động từ cảm nghĩ cơ bản khác (hiểu, biết, cảm thấy, tin,<br /> yêu, muốn...) tạo nên một tiểu hệ thống từ vựng quan trọng nối kết với thế giới tinh thần<br /> thầm kín của con người.<br /> 2. Nghĩa của động từ nghĩ trong tiếng Việt<br /> Trong Giáo trình Việt ngữ (1962), căn cứ vào ý nghĩa khái quát của các vị từ,<br /> Hoàng Tuệ đã xếp biết, hiểu vào động từ biểu thị trạng thái nhận thức, và xếp nghĩ vào<br /> động từ biểu thị hoạt động nhận thức. Chúng tôi tán thành cách phân loại này.<br /> 111<br /> <br /> Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên ghi lại nghĩa của biết như sau:<br /> 1. vận dụng trí tuệ vào những gì đã nhận biết được, rút ra nhận thức mới để có ý<br /> kiến, sự phán đoán, thái độ. Nghĩ mưu kế. Nghĩ cách đối phó.<br /> 2. có ở trong tâm trí, nhớ đến, tưởng đến. Đi xa, lúc nào cũng nghĩ về quê hương.<br /> Nghĩ đến công ơn cha mẹ<br /> 3. cho là/rằng sau khi đã nghĩ. Tôi nghĩ thế nào anh ấy cũng đến.<br /> Trên cơ sở lời giải nghĩa của từ điển, căn cứ vào một số ngữ cảnh mà động từ<br /> nghĩ xuất hiện, khi xem xét nghĩ trong sự liên hệ ngữ nghĩa với một số các động từ<br /> nhận thức gần nghĩa với nó, chúng tôi nhận thấy nghĩa của nghĩ trong tiếng Việt có<br /> những thuộc tính sau:<br /> a. +/- tính đánh giá, tính nhận định của chủ thể nhận thức đối với đối tượng<br /> nhận thức (kí hiệu: + :có , - :không có )<br /> -/+ tính đánh giá, tính nhận định: nghĩ<br /> - tính đánh giá, tính nhận định: cho (rằng/ là)<br /> Nghĩ có thể xuất hiện trong những phát ngôn đơn giản, hầu như chỉ thuần túy<br /> giới thiệu tình trạng của các sự việc còn cho rằng/ là, thấy luôn trình bày một sự đánh<br /> giá, một cách nhìn, một sự suy xét có tính phân loại, tuyển lựa, nghĩa là ở đó đối tượng<br /> nhận thức được +/- đồng tình, được đánh giá đúng/ sai, được giải thích, phân loại theo<br /> những cách chủ quan của người nói, và vì thế, cho rằng/ là, thấy thường xuất hiện trong<br /> những phát biểu có tính nhận định, có tính đánh giá.<br /> So sánh:<br /> (Nghe tiếng gõ cửa), ai đó có thể nói:<br /> - Tôi nghĩ anh ta đến.<br /> - Sofa đã uống những thứ ngon nhất của họ. Cô ta nghĩ là tôi không để ý, cô ấy<br /> liếc nhìn tôi. (dẫn theo Juri)<br /> - Anh nghĩ là em đỏ mặt à, còn lâu!<br /> - Nhìn cậu tươi tỉnh thế kia không ai nghĩ là cậu đau đâu.<br /> với những phát ngôn có tính đánh giá rõ ràng như:<br /> - Tôi cho rằng đây là sai lầm của chúng ta.<br /> - Cậu đúng khi cho rằng điều tồi tệ nhất vẫn chưa xảy ra.<br /> - Từ đó Hợi hoàn toàn cự tuyệt tôi, cho tôi là xảo trá, hèn hạ, không xứng đáng<br /> với tình yêu của Hợi. (Ăn mày dĩ vãng – Chu Lai)<br /> - Tôi thấy chẳng có mất mát gì lớn ở đây cả.<br /> 112<br /> <br /> - Tớ thấy anh ta chẳng có năng lực gì.<br /> Rõ ràng, thấy, cho rằng/là... trong hầu hết các ngữ cảnh đều chỉ ra những phát<br /> biểu có tính đánh giá (đúng, sai, cần thiết/ không cần thiết…) và vì vậy, thường được sử<br /> dụng trong cấu trúc kiểu như: thấy ai đó/ cái gì đó như thế nào; trong khi đó nghĩ có<br /> thể xuất hiện trong những phát ngôn đơn giản, không có tính đánh giá.<br /> Tuy nhiên sẽ không bao quát đầy đủ ngữ nghĩa của nghĩ nếu chúng ta chỉ giới<br /> hạn nghĩa của nghĩ vào những phát ngôn đơn giản, thuần tuý phản ánh tình trạng của sự<br /> việc như đã nói, vì trong nội bộ ngữ nghĩa của nghĩ có một vùng hoạt động như nghĩa<br /> của cho là/rằng, thấy, tức nghĩ cũng mang hàm lượng đánh giá về đối tượng và lúc này,<br /> có thể nói nghĩ đồng nghĩa với cho là/rằng, thấy. Xem xét những ví dụ sau:<br /> - Tôi cho rằng/ nghĩ đây là sai lầm của chúng ta.<br /> - Cậu đúng khi cho rằng/ nghĩ điều tồi tệ nhất vẫn chưa xảy ra.<br /> - Từ đó Hợi hoàn toàn cự tuyệt tôi, cho/ nghĩ tôi là xảo trá, hèn hạ, không xứng<br /> đáng với tình yêu của Hợi. (Ăn mày dĩ vãng – Chu Lai)<br /> - Tôi thấy/ nghĩ chẳng có mất mát gì lớn ở đây cả.<br /> - Tôi nghĩ/thấy cô ấy quá tệ khi cư xử với anh như thế.<br /> - Tôi nghĩ/ cho rằng/thấy chúng ta không nên ở lại đây (khi mà không khí căng<br /> thẳng thế này)<br /> Ở đây, tính nhận định, đánh giá thể hiện rõ qua sự kết hợp giữa những động từ<br /> nhận thức: nghĩ, cho (rằng/ là), thấy + sự bình giá: đúng/ sai, +/- cần thiết, +/- đến lúc,<br /> +/- có lí ... Ví dụ:<br /> - Cậu đúng khi cho rằng/ nghĩ rằng điều tồi tệ nhất vẫn chưa xảy ra.<br /> - Tôi nghĩ/cho rằng chúng ta đã sai lầm khi đánh giá anh ta quá thấp.<br /> - Tôi nghĩ/ cho rằng đã đến lúc (cần thiết/không cần thiết) phải đưa ra những<br /> quyết định cuối cùng.<br /> - Tôi nghĩ/ cho rằng nhất thiết chúng ta phải kiểm tra thông tin này.<br /> - Đã đến lúc tôi nghĩ không biết có nên gắn bó tiếp với anh nữa hay không. (Ăn<br /> mày dĩ vãng – Chu Lai)<br /> Từ sự phân tích trên đây (trong sự liên hệ với cho là / rằng), chúng tôi nhận thấy<br /> cho là/ rằng bao giờ cũng mang sự đánh giá chủ quan của chủ thể phát ngôn nhưng nghĩ<br /> có thể chỉ là hoạt động nhận biết đối tượng một cách thuần túy, không nhất thiết phải kèm<br /> theo yếu tố bình giá hay nhận định. Nhưng khi nghĩ xuất hiện trong những phát ngôn thể<br /> hiện sự đánh giá chủ quan của người nói, lúc này có thể thấy nghĩ đồng nghĩa với cho<br /> là/rằng (đây chính là nghĩa thứ 3 của nghĩ được giải nghĩa ở trong từ điển tiếng Việt).<br /> 113<br /> <br /> Yếu tố chủ quan trong những phát ngôn do nghĩ đảm nhiệm được "nén" trong<br /> những cấu trúc như: Không biết làm sao lại nghĩ như thế (về ai đó). Cấu trúc này được<br /> chính chủ thể hoặc của người đứng ngoài sử dụng nhằm "đặt vấn đề" trở lại với những<br /> gì chủ thể đã nghĩ.<br /> b. +/- Mức độ chắc chắn trong sự phỏng đoán của chủ thể<br /> + mức độ cao: tin<br /> + mức độ chắc chắn không được rõ ràng (dè dặt, khiêm tốn): nghĩ<br /> Nghĩ khác với tin nếu không muốn nói là trái ngược với tin trên tất cả các cấp<br /> độ của sự phỏng đoán (mà sự phỏng đoán thường không có gì là chắc chắn, và giá trị<br /> chân thực của những phỏng đoán đó vẫn còn là câu hỏi ở thời điểm hiện tại).<br /> Những phát biểu kiểu như Tôi nghĩ là anh đang nói dối chỉ ra một sự phỏng<br /> đoán và bản thân người nói cũng hết sức dè dặt, họ thấy không có gì là chắc chắn trong<br /> những phán đoán của chính mình. Trong khi đó, chủ thể của những phát ngôn: Tôi tin là<br /> anh đang nói dối dù ý thức về tính phỏng đoán trong lời nói của mình, họ đồng thời<br /> cũng cho thấy sự chắc chắn của bản thân khi nói ra điều đó bởi họ có kinh nghiệm, có<br /> sự quan sát, có xem xét tình hình rồi, và cũng có thể do họ có niềm tin như thế rồi. Vậy<br /> nên, khi Tôi nghĩ là…, Tôi tin là… xuất hiện trong lời nói, “nhân vật tôi” muốn cho thấy<br /> rằng “tôi”có thái độ dè dặt hay chắc chắn đối với điều được phỏng đoán. Nếu nói Tôi<br /> nghĩ anh ta sẽ quay lại thì việc anh ta quay lại là có khả năng, là chưa chắc chắc và<br /> không có căn cứ nên người nói tỏ ra dè dặt. Nhưng khi nói Tôi tin rằng anh ta sẽ quay<br /> lại thì người nói chịu trách nhiệm về những gì mình nói, dù người nói ít nhiều tỏ ra vô<br /> can với mệnh đề P.<br /> Nếu chủ ngữ của cho là/ rằng thường có vẻ khiêm tốn hơn khi trình bày quan<br /> điểm của anh ta, những điều "tôi" nói ra ở mệnh đề P chỉ là một ý kiến trao đổi với<br /> người đối thoại, chỉ là phỏng đoán chủ quan của cá nhân, chưa phải là điều khẳng định<br /> hay phủ định hoàn toàn. Có lẽ vì thế mà anh ta có sự chuẩn bị để chấp nhận quan điểm<br /> của phía bên kia, nếu nó gần với thực tế hơn quan điểm của anh ta. Trong khi đó chủ<br /> ngữ của tin thì được khẳng định hơn, ít có tính thăm dò, ít cho phép phía bên kia (phía<br /> người đối thoại) đúng.<br /> Thực ra sự phân biệt tin và nghĩ căn cứ vào thuộc tính này liên quan đến cái<br /> chúng ta gọi là động từ trong ngoặc (parenthetical verb, cách gọi của J.O.Urmson) hay<br /> tiểu từ tình thái (modal particle, cách gọi của Aijmer Karin) hay là toán tử logic - tình<br /> thái (cách gọi của Hoàng Phê). Lúc này, tin và nghĩ không đơn giản là động từ phản ánh<br /> những hoạt động nhận thức của thế giới nội tâm con người mà chúng đã làm nên bộ<br /> phận tình thái của câu, phản ánh thái độ, sự đánh giá,... của người nói đối với điều được<br /> nói đến.<br /> 114<br /> <br /> c. +/- sự nỗ lực của ý chí, nỗ lực của trí óc chủ thể<br /> +/- sự nỗ lực của ý chí, nỗ lực của trí óc chủ thể: nghĩ, đoán<br /> + sự nỗ lực của ý chí, nỗ lực của trí óc chủ thể: cân nhắc, xem xét<br /> Sự phân biệt này liên quan đến một sự thật là một suy nghĩ (sản phẩm của tư<br /> duy), một nhận thức ngắn gọn, đơn giản về đối tượng nào đó có thể xuất hiện trong đầu<br /> mà không đòi hỏi một nỗ lực nào của ý chí. Chúng ta có thể kiểm tra nước tắm và nói: Tôi nghĩ khoảng 40 độ; trả lời câu hỏi (về việc ai gọi điện thoại): - Cậu nghĩ là ai gọi?<br /> Ai đó có thể trả lời: Tớ nghĩ/đoán là anh ta; trả lời câu hỏi: - Chị biết mấy giờ tàu đến<br /> không? - Chị cũng không rõ lắm, nhưng chị nghĩ khoảng 8 giờ, bình thường khoảng 8<br /> giờ là nó đến.<br /> Rõ ràng, không cần một sự tính toán, một nỗ lực nào về mặt trí tuệ để có được<br /> kết luận vừa nêu, vậy nên không lạ khi xuất hiện những kết hợp như nghĩ đại ở trong<br /> tiếng Việt (chẳng hạn: Mày nghĩ đại đi, lí do nào cũng được/ nghĩ đại một cái tên nào<br /> đó cũng được, đừng để họ nghi ngờ). Đặc biệt là đoán, đoán có thể là: đoán mò, đoán<br /> đại, đoán chừng, nó là sản phẩm tức thời ngay cả khi có vẻ như có một sự đầu tư nỗ lực<br /> như trong thành ngữ đoán già đoán non thì thực chất tính chân lí của nó vẫn không hề<br /> được bảo đảm, gần như hú họa, trúng được đâu hay đó. Cân nhắc, xem xét ít thích hợp<br /> trong ngữ cảnh này bởi vì chúng thường xuất hiện trong những tình huống phức tạp hơn,<br /> tình huống đòi hỏi xuất hiện một ý kiến đánh giá chứ không phải là những phát ngôn<br /> nêu ra một thực tế hoặc thuần túy miêu tả thực tế như trên.<br /> Như vậy, thuộc tính có hay không sự tham gia của ý chí/ nỗ lực cá nhân khi định<br /> hình sự đánh giá phụ thuộc vào bản chất của tình huống đang được xét:<br /> - Tình huống càng phức tạp, thì những cách hiểu có thể có về đối tượng càng lớn,<br /> tình huống càng khó để nhìn ra sự thật thì sự biện hộ/ sự bào chữa cho các kết quả nhận<br /> thức của chủ thể càng lớn bấy nhiêu và vì thế càng đòi hỏi nhiều nỗ lực từ phía chủ thể.<br /> Ở đây, sử dụng cân nhắc, xem xét là thích hợp.<br /> Và :<br /> - Tình huống càng đơn giản, càng rõ ràng và ít quan trọng bao nhiêu thì càng thích<br /> hợp để sử dụng nghĩ vì nó không nhất thiết phải đòi hỏi nỗ lực.<br /> Tuy nhiên, không nhất thiết phải đòi hỏi nỗ lực không có nghĩa lúc nào nghĩ<br /> cũng hoạt động ở vùng ngữ nghĩa này, vì bên cạnh nghĩ đại (tức không đòi hỏi nỗ lực)<br /> lại có nghĩ nát óc, vắt óc suy nghĩ, nghĩ nát nước, nghĩ đi nghĩ lại, nghĩ được, nghĩ<br /> nhiều, hay nghĩ, bắt đầu nghĩ, đủ tỉnh táo để nghĩ, v.v... Chúng không đơn giản là sự<br /> tiếp tục hay bắt đầu trạng thái nhận thức mà là ý chí của người nói. Lúc này vắt óc suy<br /> nghĩ, nghĩ nát nước, nghĩ đi nghĩ lại nghĩ được, nghĩ nhiều, hay nghĩ, đủ tỉnh táo để<br /> nghĩ, v.v... thích hợp khi chúng ta cần nhấn mạnh lượng nỗ lực của trí óc đã tiêu hao, đã<br /> huy động hoặc sự khó khăn của nỗ lực này. Ví dụ:<br /> 115<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2