Nhân cách Nguyn
Công Tr, nhìn tquan
điểm bản thlun
Mt người như Nguyễn ng Trứ được khắc họa qua Đại Nam thực lc như thế
đầy đủ quyền được tự hào, được ng về mình như là người tài, mt điển hình ca chí nam
nhi. Có mt sự tươngng rất rõ giữa thơ viết về chí nam nhi của ông với tiểu sử ông được
dng lại qua những dòng ghi chép ca Đại Nam thc lục. Phán đoán n Trương Tửu cho
rằng ông nêu cao chí nam nhi để “đánh” bọn phú hộ chỉ là suy diễn thiếun cứ mặc dù s
biện luận ca ông vduy vật biện chứng. Nhưng nếu là một người ảoởng về nhân ch
cao thượng mà phản ứng, mà lui về ẩn dật thì có lẽ Nguyễn chẳng bao giờ làm được những
ng trạng lẫy lừng đcả vua phải khen, dân lập sinh t.
V vấn đề hưởng lạc,ng căn cứ vào Đại Nam thc lục, ta phải ghi nhn một sự thực
hiển nhiên về t giải trí của vua quan thời Nguyễn. Theoch Đại Nam thực lục, tng 3-
1835, do vây bắt và đốt chết ngn n, vua ban thưởng cho cđạo quân trong đó có
Nguyễnng Trứ, trả lại mũ áo đã tưc trước đây. Tng 4 nămy, vua d cho Nguyễn
ng Tr và các ớng khác được lại Thái Nguyên, được ăn yến, xem chèot (chúng
tôi nhấn mạnh), sẽ về Kinh chầu sau. Thuở thiếu thời ông mê hát, từng đi hát vì mê cô đào
Hiệu Thư, lớn lên làm quan, vẫn được thưởng thức hát xướng dưới sự bảo trchính thức của
nhà nước. Nếu nhìn rộng ra, ta thấy, thú hát xướng, chơi bời là thú chơi khá phbiến trong
giới nho t ngay thế k XVIII và tiếp tc được duy trì, gia tăng trong thế k XIX, thành
một dấu hiu của t thức, k. Nguyễn Khản, anh cả ca Nguyễn Du mê hát xướng, nuôi
con hát trong nhà, đến nỗi con hát có tang trở, cũng không cho về chịu tang, bắt lại hát.
Nguyễn Hữu Chỉnh nuôi riêng trong nhà hàng chc ca nhi k nữ. Bnớngnh Tây Sơn
khi chiếm đóng Thăng Long, tiếp tc những người của tiền triều, cũng tậnởng tài nghệ ca
Cầm, một người còn sót lại của làng ca vũ của triều Lê, mê hát đến nỗi ném tiền vàng
thưởng cho cô, coi tiền như đất bùn. Nguyn Khuyến thú nhn đã cùng ông bạn Dương
Kh.
Có khi từng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiu cầm xoang.
lẽ không phải đi đọc Trang Tử thì quan chc, quí tộc hay thương nhân thời Lê-
Trnh - Tây Sơn - Nguyễn mới thú hưởng lạc. Những người thuộc c khuynh hướng
chính tr-ởng khác nhau trong hàng thế kỷ đều gặp nhau tại chiếu hát của các đào,
c ca nhi, k nữ. Đó là “phong khí” ca thi đại. Đừng nghĩ là ch riêng Nguyễn Công Trứ
mới hát, mới chơi. Tất nhiên, cũng có mẫu người như Phm Đình Hổ, lmkhông hiểu gì
về câu ca bản đàn thơ văn Nôm và hát ca t, song mu người này không phổ biến.
Nguyễn Công Tr viết bài Lun kẻ, chia cuc đời của kẻ sĩ thành ba chặng chính
vi các hoạt động ch rời nhau, khi còn ở miềnơng đảng thì tu dưỡng, gương mu về
đạo; khi ra hành đạo thì đem quách cả sở tồn làm sdụng” vàc về ở ẩn, thì hưởng lạc,
vui sống. Nhưng đó thc ra chỉ là một tuyên ngôn tính chtch vở chứ không phải là
thực tế cuộc đời ông nhưđã din ra. Ôngởng lạc ngay từ thi thanh niên, t ngày làm
chân kép hát và vẫn duy trì cách sống ấy trong lúc hành đạo, cho đến tậnmái tóc đã phau
phau”, ông hoạt động xã hội say mê và thường xuyên nếm mùi trách phạt, thăng giáng nên
không phải chỉ đến già mi thm thía nhân tình thế thái. Bị trách phạt, giáng chức nhưng
không lấy thế làm điều mà t ái, oán hận, bỏ dở giữa chừng công việc - dẫu than thchán
chường trong c bài thơ, hát nói - mà vn hăng hái, tận tâm làm việc cho đến tận cuối đời,
ông xin ra trận đánh giặc năm 1858 - khi nghe tin Pháp gây hấn ở Đà Nẵng. Vinh/ nhc,
nh/ tàng nếu hiểu ch bạch thành những cặp phạm trù đối lập thì không thích hợp vi
con người Nguyn Công Trứ.
Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Vào cuc trần ai kc trưc cười.
Ông khôngn trách cuộc đời mà nhn thc đây mới chính là cuộc đời. Và ông cũng
không ảo tưởng về một thời đại Nghiêu Thun như nhiều nhà Nho khác. Trong hoàn cảnh
chế độ chuyên chế độc đoán, đấy chính là tư tưởng hiện thực tỉnho. Nhiều lần kiến ngh bị
vua và đình thầnc bỏ, không nn chí, cứ tiếp tục kiến ngh, nêu sáng kiến; bị cách chc,
thậm chí lúc b nghị án t hình mà cứ ung dung hành đạo, cứ tiếp tc kiến nghị, nêuc
bn tấu sớ (năm 1834, BHình tng đề nghị kết án ông (và Lê Văn Đc) tội tử hình chậm
tr hành quân, vua châm chước cho lập công chuộc tội:trước hãy tước mũ áo, đoạt hết
lương bổng - Lê Văn Đc b giáng 4 cấp, Nguyễn Công Tr giáng 3 cấp, khiến họ thung
về sau để chuộc tội trước” ri cuối năm lại khen và phc hồi 1 cấp, tháng 1/1835 thì cho phc
cp do bắt được vngnn). Hệt như trong thơ, Nguyễnng Trứ than nhc vinh,
tch thế thái nhân tình ri lại vn hăm hở nhập cuộc với chí nam nhi. Thật khác xa tâm lý
cao đạo, dtổn thương của nhiều nhà Nho mà mẫu hình được ca ngợi chính là Đào Tiềm,
người lập tức treo ấn từ quan khi buộc phi khom lưng đón quan trên. Thậm chí trước Đào
Tiềm, có mẫu nhà Nho như Bá Di, Thúc Tề và Khuất Nguyên đã lấy cái chết để bảo toàn
nhân cách độc lập, cao đạo ấy. Đây là hiệnợng lạ nếu ta nhìn từ góc đ một mẫu hình nhân
ch được khái quát có hthống như Nho- Phật- Đạo. Dường như ông ý thức được bản chất
ca chế đchuyên chế, độc đoán và lý tưởng vviệc kết hợp vừa làm quan, hành đạo lại vừa
bo toàn nhân ch cao thượng tuy rất đẹp song ch là mộto ởng.
ờng như ông cũng biết, con người trong cuộc đời này không thhoàn thiện; lý
tưởng vcon người hoàn thin, dù là thánh nn, là phật hay là tiên ch là mộto tưởng hay
khôngởng. Ông sống ngất nởng trong mọi hoàn cnh, trong triều ngoài nội, khi làm
quan mọiơng v, mọi thi đim, và ngay cả khi vhưu, vẫn tiếp tc ngất nởng, tức là
không trình diện mình trong cuộc đời một cách trọng thể, trang nghiêm “xuất môn như kiến
đại tân, sửn như thừa đại tế”; ông thừa nhn mình “không Phật không Tiên nhưng khác
tc”. Ông hát hò vui vvới các đào như rất nhiều nhà nho khác, nhiều tướng lĩnh khác, ch
điều khác là nếu như họ im lặng không nói lời nào về đtài này thì ông lại khoe tướng lên
với mọi người, vì ông không quan niệm rằng kể một sự thật hò hát, liếc mắt đưa tình vớic
đào là chuyện thể làm hoen nhân cách. Chơi là quyền sống mà cũng là nghệ thuật:
- Cuc hành lc bao nhiêu là lãi đấy,
Nếu không chơi thiệty ai bù.
Ngh ci cũng lm ng phu
- Ci cho lịch mới là ci,
Chơi cho đài c cho người biết tay.
Tài nh dmy xưa nay.
Cũng như thế, ông không coi chuyệnkhoe bảy mươi ba tuổi cưới vhầu là chuyện có
th h nhục nhân cách.
t vcon nời bản thể, Nguynng Trứ là một con người tự nhiên. Ông là con
người theo mẫu nhất nguyên luận (monism), kết hợp trong bản thân nhiều khả năng, nhiều
thế lựa chọn. Ông học giỏi, đọc tngc kinhch thánh hiền nhưng lại ng và sng không
u nệ theo kinh sách. Ông vào đời như mt người tự nhiên, làm việc, hành đạo, chơi
bi, Hành tàng bt nhị kì quan, với tất csuy ng thành thc của con người t nhiên đó,
không hquan tâm như thế nào là hiền nhân quân t, như thế nào là phàm nhân. Từ ngay
chính trong bản thân mu hình nhân cách ông đã bao hàm tất cc khả năng, kng thch
biệt phàm/ thánh, thanh/tc, lễ/ tc, hành/ tàng trong khi văn hóa Nho giáo chính thống đối
lập c phạm trù này... Ngay thơ hát nói, với ông, cũng là một hình thc nghệ thuật tổng hợp,
vừa nói c, vừa đcác cô đào cất lên tiếng hát hòa với tiếng đàn nhp phách - thế ông viết
bng chữ Nôm mà không viết bằng ch Hán - các bn tấu schữ Hán đã đảm nhiệm quá đ
s mệnh chuyển tải quan điểm chính trị - xã hội rồi. Nhưng thơ hát nói ca ông khác với hát
nói ca một snhà nho khác, va dùng đca tụng t ăn chơi, ca tng thú tàinh (khi đắc ý
mt đi mày li/ đủ thiên thiên thập thập thêm nng/ n phong lưu ai nỡ chi không/ duyên tri
ngộ nên đeo đẳng mãi), va nói chí nam nhi (đường trung hiếu ch qn tn là nhc/
trung hiếun đứng trong trời đất/ không công danh thời t với cỏ cây)