Nhận diện những cơ hội và thách thức của nhóm doanh nghiệp thâm dụng lao động tại Việt Nam trước ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp 4.0 – phân tích từ góc nhìn thị trường lao động
lượt xem 2
download
Bài viết đi sâu phân tích trên góc độ thị trường lao động về những cơ hội và thách thức mà những nhóm doanh nghiệp đang thâm dụng lao động sẽ gặp phải từ đó gợi ý một số giải pháp đón đầu cũng như khắc phục để đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển bền vững doanh nghiệp. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nhận diện những cơ hội và thách thức của nhóm doanh nghiệp thâm dụng lao động tại Việt Nam trước ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp 4.0 – phân tích từ góc nhìn thị trường lao động
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG NHẬN DIỆN NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA NHÓM DOANH NGHIỆP THÂM DỤNG LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM TRƢỚC ẢNH HƢỞNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 – PHÂN TÍCH TỪ GÓC NHÌN THỊ TRƢỜNG LAO ĐỘNG THE INDUSTRIAL REVOLUTION OF 4.0 -OPPORTUNITIES AND CHALLENGES FOR THE IMPLEMENTATION OF THE SPEEDY AND SUSTAINABLE DEVELOPMENT OBIECTIVES FOR INTENSIVE – LABOR ENTERPRISES IN VIETNAM – ANALYSIS FROM THE INSIGHT OF LABOR MARKET TS.Đinh Kiệm Tiến sĩ ,Trƣởng khoa Quản Lý nguồn Nhân lực, Đại học Lao động Xã hội (CSII) NCS. Trần Quốc Việt Phó Trƣởng khoa Quản Lý nguồn Nhân lực, Đại học Lao động Xã hội (CSII) TÓM TẮT Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 khởi phát từ năm 2000 cho đến nay được gọi là cuộc cách mạng số. Cuộc cách mạng hiện nay có sự khác biệt so với 3 cuộc cách mạng trước về tốc độ, quy mô và phạm vi tác động, nó ảnh hưởng sâu rộng tới tất cả các lĩnh vực và tới tất cả các nền kinh tế trên thế giới. Công nghiệp 4.0 sẽ ảnh hưởng tới hầu hết các ngành kinh tế đang hiện hữu, mức độ ảnh hưởng với từng ngành tùy theo đặc điểm sẽ khác nhau. Đối với Việt Nam, ảnh hưởng trước mắt có thể thấy rõ trực tiếp và mức độ nặng nhất là các ngành thâm dụng lao động cao như dệt may, giày da, điện tử… Bài viết đi sâu phân tích trên góc độ thị trường lao động về những cơ hội và thách thức mà những nhóm doanh nghiệp đang thâm dụng lao động sẽ gặp phải từ đó gợi ý một số giải pháp đón đầu cũng như khắc phục để đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển bền vững doanh nghiệp. Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, thâm dụng lao động, thị trường lao động,ngành dệt may, da giày, cách mạng số, robot. SUMMARY The industrial revolution of 4.0 that began in 2000 has been called the digital revolution. The current revolution is different from the three previous on revolutions in terms of speed, scale and scope of impact, which has profound implications on all sectors and to all economies in the world. . Industry 4.0 will affect most of the existing economic sectors, but the degree of impact on each sector will vary depending on the characteristics. For Vietnam, the immediate impact can be seen directly and the heaviest is the labor-intensive sectors such as textiles, footwear, electronics, etc. The writing analyzes the labor market in terms of opportunities and challenges that labor-intensive enterprises will encounter, suggesting a number of early and corrective solutions to ensure the implementation of the sustainable objectives for the development of enterprises. 1. GIỚI THIỆU Cách mạng công nghệ lần thứ tư đang diễn ra với tốc độ khác nhau trên quy mô toàn thế giới, nó tạo ra tác động mạnh mẽ, và gia tăng với tốc độ nhanh tới mọi mặt của đời sống kinh tế-xã hội, dẫn đến thay đổi lớn về phương thức và lực lượng sản xuất của xã hội. Đối với thị trường lao động, thách thức của cách mạng công nghiệp 4.0 là robot thay thế con người. Người lao động sẽ đối mặt với nguy cơ thất nghiệp trên diện rộng. Cách mạng công 335
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG nghệ lần thứ tư đang xóa nhòa khoảng cách giữa thế giới thực tại với thế giới ảo thông qua những công nghệ tiên tiến, hiện đại, sáng tạo và phát minh ứng dụng với tốc độ chóng mặt. Hiện nay cách mạng công nghệ 4.0 đang trong giai đoạn khởi đầu, ngoài những thách thức đặt ra, nó cũng mang lại những cơ hội quý báu cho doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng tiếp cận đón bắt. Để việc tiếp cận những cơ hội có hiệu quả, yêu cầu đặt ra là doanh nghiệp phải nhanh chóng định rõ mục tiêu, cách thức tiếp cận, xúc tiến đầu tư phát triển khoa học và công nghệ phù hợp, xây dựng chiến lược đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển bền vững của doanh nghiệp. Theo các chuyên gia của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo áp lực lớn cho doanh ngiệp VN nói chung và khu vực doanh nghiệp đang sản xuất theo hướng thâm dụng lao động nói riêng như: dệt may, da giày, điện tử,…Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp trước áp lực cần phải đổi mới dây chuyền công nghệ tiến tới hình thành các nhà máy sản xuất công nghiệp thông minh với nền tảng công nghiệp tự động hóa, tạo những bước đột phá về sản xuất công nghiệp với những sản phẩm chất lượng cao hơn, có tính cạnh tranh, thời gian giao hàng nhanh và đáp ứng quy mô đơn hàng số lượng lớn. Nền kinh tế sản xuất gia công của Việt Nam đang có lợi thế về xuất khẩu khẩu số lượng lớn các sản phẩm công nghiệp như dệt may, da giày, linh kiện điện tử,… nhưng giá trị gia tăng chưa cao, do chưa có nhiều hàm lượng tri thức và yếu tố sáng tạo trong nội hàm sản phẩm. Vì vậy đứng trước làn sóng cách mạng CN 4.0 đang đặt ra những thách thức nghiêm trọng, một sự cạnh tranh nghiệt ngã về sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Công nghiệp 4.0 sẽ ảnh hưởng tới hầu hết các ngành kinh tế đang hiện hữu, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng với từng ngành tùy theo đặc điểm sẽ khác nhau. Ảnh hưởng trước mắt có thể thấy rõ trực tiếp và mức độ nặng nhất là các ngành thâm dụng lao động cao như dệt may, da giày, điện tử,…Đây là các ngành có số lượng lao động lên đến hàng triệu người, khi mà mức độ tự động hóa ngày càng tăng sẽ tạo ra nhiều áp lực cũng như thách thức đối với thị trường lao động Việt Nam nói chung và khối doanh nghiệp này nói riêng. Tại hội thảo chủ đề “Việt Nam cần làm gì để đáp ứng được sự thay đổi về công nghệ và nhu cầu kỹ năng lao động” do Bộ LĐTB &XH phối hợp với Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tháng 12/2016 đã đưa ra nhận định: “Ngành dệt may và da giày sử dụng nhiều lao động là hai ngành bị đe dọa nhiều nhất về việc làm trước sự thay đổi công nghệ”. Điểm lại vị trí của hai ngành dệt may và da giày trong nền kinh tế của VN, cho thấy đây là hai ngành có vai trò đầu tàu có đóng góp lớn trong xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam: theo số liệu của Thời báo Kinh tế VN, ngành dệt may là ngành kinh tế lớn của VN xét về cả quy mô và tầm vóc. Đóng góp kim ngạch xuất khẩu hàng hóa chỉ đứng sau ngành điện tử và linh kiện. Việt Nam hiện là một trong 5 nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới với thị phần chiếm lĩnh toàn cầu khoảng từ 4%-5%. Năm 2016 kim ngạch xuất khẩu đạt 23,84 tỷ USD. Bên cạnh đó, ngành da giày là ngành cũng có vị trí không kém phần quan trọng, trong năm 2016 ngành da giày-túi xách đã đạt kim ngạch 16,2 tỷ USD, đây nhóm mặt đạt giá trị cao thứ tư trong cơ cấu kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, là mặt hàng chiếm khoảng 10% thị phần toàn cầu, là nước có lượng xuất khẩu giày dép đứng thứ 4 trên thế giới (Thời báo Kinh tế VN, 2017) Mặc dù là những ngành kinh tế chủ lực của VN nhưng đây là hai ngành có đặc điểm thâm dụng lao động lớn nhất và trong các thập niên tới phải đối mặt với những thách thức không hề nhỏ khi trào lưu cách mạng công nghệ lần thứ tư lan đến và mở rộng ảnh hưởng. Trong nghiên cứu này tác giả chỉ tập trung vào hai ngành dệt may và da giày xét về tầm vóc đóng góp cho nền kinh tế và mức độ thậm dụng lao động hiện hữu. 1.1 Điểm lại các giai đoạn hình thành và phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 trên thế giới Nhìn lại lịch sử, nhân loại đã chứng kiến 3 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lớn: Thứ nhất: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (1.0) diễn ra từ 1784, ghi nhận khi loài người phát minh ra động cơ thủy lực và hơi nước, tác động trực tiếp đến các ngành 336
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG nghề như dệt may, chế tạo cơ khí, giao thông vận tải. Động cơ hơi nước được đưa vào chế tạo ôtô, tàu hỏa, tàu thủy, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại. Thứ hai: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (2.0) diễn ra từ 1870, gắn với kỷ nguyên động cơ điện và dây chuyền sản xuất hàng loạt. Khi loài người phát minh ra động cơ điện, mang lại cuộc sống văn minh, năng suất tăng nhiều lần so với động cơ hơi nước. Thứ ba: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (3.0) từ năm 1969, là kỷ nguyên của máy tính và tự động hóa. Xuất hiện khi con người phát minh ra bóng bán dẫn, điện tử, kết nối thế giới liên lạc được với nhau. Lần lượt vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại, Internet…ra đời, là những công nghệ hiện nay chúng ta thụ hưởng là từ cuộc cách mạng này. 1.2 Cách mạng công nghiệp 4.0 là gì? Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 khởi phát từ năm 2000 cho đến nay được gọi là cuộc cách mạng số, thông qua các công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)… để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số. Cuộc cách mạng hiện nay có sự khác biệt so với 3 cuộc cách mạng trước về tốc độ, quy mô và phạm vi tác động, nó ảnh hưởng sâu rộng tới tất cả các lĩnh vực và tới tất cả các nền kinh tế trên thế giới 2. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC MANG LẠI TỪ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ĐỐI VỚI CÁC NGÀNH SẢN XUẤT THÂM DỤNG LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM 1.1 Tổng quan một số ngành sản xuất thâm dụng lao động tiêu biểu ở Việt Nam: Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2016, lực lượng lao động của cả nước là 54,4 triệu người, gồm 53,3 triệu người đang tham gia làm việc trong nền kinh tế và hơn 1,1 triệu người thất nghiệp trong độ tuổi lao động. Tỉ lệ thất nghiệp cao nhất ở nhóm người có trình độ cao đẳng là 8,1% và thấp nhất ở những người không có chuyên môn kỹ thuật là 1,8%. Điều này một mặt phản ảnh trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam chủ yếu lấy thế mạnh thâm dụng lao động là chủ yếu, mặt khác lại phản ảnh chất lượng đào tạo chưa đáp ứng và chưa thật sự chú trọng đào tạo lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật trên thị trường lao động Việt Nam. Nền sản xuất của Việt Nam dựa vào lợi thế nhân công giá rẻ, đã duy trì một thời gian quá dài những loại hình sản xuất lấy hình thức lắp ráp, gia công giản đơn làm phương thức sản xuất chủ yếu. Trước yêu cầu hội nhập, đòi hỏi năng suất chất lượng lao động cao để tham gia vào chuỗi sản phẩm toàn cầu thì việc sản xuất thâm dụng lao động nói trên sẽ đẩy doanh nghiệp vào nguy cơ giảm sút năng lực cạnh tranh và sản xuất thiếu bền vững. Hình thức doanh nghiệp thâm dụng lao động ở Việt Nam khá phổ biến nhưng điển hình theo quy mô lao động phải kể đến các ngành như may mặc, da giày, lắp ráp điện tử. Điểm lại ngành Da giày, trong năm 2016, VN được đánh giá là nước sản xuất và xuất khẩu giày dép lớn thứ 3 châu Á (sau Trung Quốc và Ấn Độ) và đứng thứ 4 trên thế giới. Đối với VN, sản phẩm da giày là sản phẩm xuất khẩu chủ lực đứng thứ 3 và chiếm 10% kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt Nam (Thời báo Kinh tế VN, Niên giám thống kê 2016). Tuy đạt những kết quả sản xuất khả quan nhưng điểm lại, có thể thấy rằng còn tồn tại nhiều bất cập, trước hết về trình độ công nghệ, theo Hiệp hội Da giày VN, thì trình độ của ngành đang còn ở mức trung bình và trung bình khá, song lệ thuộc vào nước ngoài về trang thiết bị máy móc, khả năng đầu tư thì hạn chế do nguồn tài chính hạn hẹp, khả năng tiếp nhận công nghệ chuyển giao từ các nhà đầu tư nước ngoài thì lại phụ thuộc vào đội ngũ chuyên gia trong nước. Đội ngũ này còn rất thiếu, có quá ít người có hiểu biết sâu và cập nhật về công nghệ. Quá trình sản xuất nhìn chung hiện đang ở giai đoạn cơ giới hóa mà chưa tự động hóa, tỷ lệ công việc làm thủ công còn ở mức cao. Về cơ cấu lao động ngành da giầy VN năm 2015, theo Hiệp hội Da giầy VN (Lefaso) như sau: đại học và trên đại học chiếm 5% trong tổng số, cao đẳng và trung cấp chiến 6%, công nhân kỹ thuật các loại chiếm 34%, sơ cấp và lao động phổ thông chiếm 55%. Khi tham gia thị trường quốc tế, tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn 337
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG cung ứng lao động dồi dào do đang ở vào giai đoạn “dân số vàng” nhưng năng suất lao động của ngành da giầy VN rất thấp, trung bình trên một dây chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất lao động của các doanh nghiệp Nhật Bản, bằng 1/30 của Thái Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của Indonesia. Đối với ngành dệt may, sự phát triển của ngành dệt may trong nhiều thập niên qua với tốc độ tăng trưởng ngoạn mục về sản xuất và xuất khẩu đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu lớn đứng thứ hai của Việt Nam chỉ sau điện thoại và linh kiện điện tử. Góp phần tạo việc làm cho hơn 2,5 triệu lao động trực tiếp và gần 2 triệu lao động gián tiếp (thuộc các ngành công nghiệp phụ trợ, kho bãi, vận chuyển,…). Mặc dù kết quả đạt được với con số đáng khích lệ nhưng nhìn lại nội tại hoạt động của ngành thì còn tồn tại nhiều bất cập. Theo Hiệp hội Dệt may VN (VITAS), hiện tại ngành dệt may VN có quy mô khoảng 3.700 doanh nghiệp dệt may và nhuộm, trong đó có 50% cơ sở trang bị thiết bị đã sử dụng nhiều năm với công nghệ sản xuất lạc hậu gần khoảng 10-15 năm so với Thái Lan và Trung Quốc. Toàn ngành hiện có 90% doanh nghiệp dệt may có quy mô vừa và nhỏ, doanh nghiệp luôn gặp phải vấn đề thiếu vốn do số vốn yêu cầu đầu tư cho lĩnh vực công nghiệp phụ trợ dệt may là rất lớn. Về cơ cấu lao động theo chuyên môn kỹ thuật ngành dệt may: Hình 1: Cơ cấu lao động doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành Dệt may chia theo trinh độ CMKT năm 2014 (Nguồn:Hiệp hội Dệt may VN-VITAS;Thời Báo Kinh tế Việt Nam (2015) và tác giả tổng hợp) Về chất lượng và năng suất lao động: Tại hội thảo khoa học chuyên đề: “Công nghệ dệt may Việt Nam-Hàn Quốc năm 2015” do Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Viện Công nghệ Công nghiệp Hàn Quốc tổ chức tại TPHCM, đã đưa ra nhận định: đa số các doanh nghiệp may của Việt Nam có kỹ năng nhân công dệt may đạt trung bình, đội ngũ kỹ sư công nhân lành nghề có thể vận hành quản lý máy móc, thiết bị, tiếp nhận công nghệ còn thiếu và yếu. Năng suất lao động của ngành dệt may VN thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực cũng như thế giới chỉ số năng suất lao động tại các doanh nghiệp dệt may VN chỉ đạt 2,4 trong khi các quốc gia sản xuất dệt may lớn như Trung Quốc là 6,9 và Indônesia là 5,2. Đây là điểm yếu lớn nhất cùa dệt may VN. 1.2 Những cơ hội mang đến từ Cách mạng công nghệ 4.0 Khi công nghiệp 4.0 diễn ra một cách sâu rộng và nhanh chóng bên cạnh những thách thức sẽ mang lại nhiều cơ hội phát triển cho doanh nghiệp Việt Nam nói chung, cụ thể là: Thứ nhất, nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, cuộc cách mạng công nghệ 4.0 gắn với chiến lược phát triển quốc gia sẽ xúc tiến thực hiện các chương trình khoa học công nghệ quốc gia ở tầm vĩ mô, đổi mới công nghệ, phát triển công nghệ cao sẽ giúp tạo nên một môi trường khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại giúp các 338
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG doanh nghiệp tiếp thu ứng dụng đổi mới công nghệ sản xuất theo tiêu chuẩn tiên tiến hiện đại nhằm nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi sản phẩm. Thứ hai, Khi diễn ra cách mạng công nghệ 4.0 Việt Nam đang có lợi thế địa kinh tế và nguồn lao động trẻ, dồi dào, có điều kiện tham gia vào nhiều chuỗi giá trị toàn cầu ở những công đoạn lắp ráp, trở thành công xưởng sản xuất mới của nền kinh tế thế giới điều này giúp cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất hoặc thành lập các cơ sở mới. Thứ ba, Cách mạng CN 4.0 diễn ra, với áp lực cạnh tranh gay gắt trên nhiều lĩnh vực, tạo điều kiện cho năng suất trên đầu người lao động sẽ có sự cải thiện rất nhanh chóng. Với việc áp dụng tự động hóa, robot và sử dụng các dữ liệu lớn (big data) thì khả năng tăng năng suất sẽ trở thành cấp số nhân, vì thế những ngành sản xuất bị đánh giá là thu nhập thấp sẽ có khả năng cải thiện rất nhanh thu nhập của mình và tạo ra một bộ mặt doanh nghiệp sản xuất mới mà ở đó thu nhập của người lao động được nâng lên theo một mặt bằng mới tương đương với các ngành khác. Đây cũng chính là cơ hội để ngành tiếp tục thu hút được lượng lớn lao động, phát triển bền vững hơn, tránh được tình trạng biến động môi trường lao động. Thứ tư, Cách mạng công nghệ lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội giúp tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp dệt may, da giày nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi sản phẩm, giảm đáng kể chi phí giao dịch vận chuyển, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đón lấy cơ hội đầu tư hấp dẫn và thay đổi trong lĩnh vực công nghệ số hóa, tự động hóa và internet để tiến đến trình độ khoa học và công nghệ sản xuất tiến tiến. 1.3 Nhận diện những thách thức Bên cạnh những cơ hội do cách mạng công nghệ 4.0 mang đến còn có những thách thức gay gắt đối với mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của nhóm doanh nghiệp dệt may và da giày của Việt Nam, những tác động có thể hình dung như sau: Thứ nhất, thách thức lớn nhất và quan trọng nhất đối với nền kinh tế nói chung và khối doanh nghiệp nói riêng là làm thế nào để nắm bắt và định hình được cuộc cách mạng công nghệ mới, cuộc cách mạng sẽ kéo theo sự biến đổi trên nhiều lĩnh vực từ sản xuất đến đời sống của nhân loại. Cách mạng CN lần thứ tư mang đến những cách thức mới trong việc sử dụng công nghệ sẽ làm thay đổi hành vi và các hệ thống sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp. Khác với những cuộc cách mạng trước đây, cuộc cách mạng này tiến triển với một tốc độ theo cấp số lũy thừa chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Cuộc cách mạng này dựa trên cuộc cách mạng số và kết hợp nhiều công nghệ dẫn đến những thay đổi chưa có tiền lệ trong mô hình kinh tế, kinh doanh, xã hội,và cá nhân. Cộng đồng doanh nghiệp đang chứng kiến những biến đổi sâu sắc trên tất cả các ngành công nghiệp, đánh dấu bằng sự xuất hiện của các mô hình kinh doanh mới, sự phá vỡ của các mô hình hiện tại và sự định hình lại hệ thống sản xuất, tiêu thụ, vận chuyển và giao nhận. Thứ hai, với cuộc cách mạng 4.0, thị trường lao động ngành dệt may và da giày sẽ bị thách thức nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động cũng như cơ cấu lao động. Việc sản xuất sản phẩm dệt may và da giày sẽ ngày càng yêu cầu đáp ứng về năng suất chất lượng cao để nâng tính cạnh tranh, đòi hỏi người lao động phải có tính sáng tạo, phải thích ứng nhanh với sự thay đổi nếu không sẽ bị dư thừa và thất nghiệp. Thứ ba, dưới cách mạng CN 4.0, khiến một đơn vị của cải vật chất được tạo ra trong ảnh hưởng của nó có khả năng sử dụng ít nhân công hơn so với 10 hay 15 năm trước đây. Một mối lo ngại đặc biệt là sự bất bình đẳng trầm trọng trong thị trường lao động vì những người hưởng lợi lớn từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là các nhà cung cấp vốn tri thức hoặc vốn vật chất – các nhà cải cách, nhà đầu tư, và các bên liên quan, điều này giúp giải thích khoảng cách ngày càng gia tăng về của cải giữa những người sở hữu vốn và những người lao động. Nó cũng giải thích tại sao rất nhiều người lao động thất vọng. Thứ tư, ngày nay rô bốt ngày càng được sử dụng nhiều hơn trên mọi lĩnh vực và cho một loạt các công việc từ chính xác đến các công việc, dịch vụ thay thế con người. Tiến bộ nhanh chóng trong công nghệ rô bốt sẽ sớm khiến sự hợp tác giữa con người và máy móc trở 339
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG thành hiện thực. Khi thế hệ tiếp theo của rô bốt xuất hiện, ngày càng cải tiến, nó có thể sẽ phản ánh ngày càng rõ nét sự hợp tác hiệu quả giữa con người-máy móc. Từ đó kích thích các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ robot vào hoạt động sản xuất của mình, nếu việc sắp xếp lại lao động không đồng bộ và kém hiệu quả sẽ dẫn đến việc sa thải nhân công hàng loạt, gây bất ổn cho thị trường lao động. Thứ năm, dưới tác động của công nghệ 4.0. Nhiều loại hình công việc khác nhau, đặc biệt là những công việc có liên quan đến lao động chân tay vận hành cơ học và đòi hỏi tính chính xác, sẽ sớm được tự động hóa. Nhiều công việc khác sẽ tiếp nối, bởi vì sức mạnh máy tính cũng đang tiếp tục phát triển theo cấp số nhân. Theo các dự đoán sớm, công việc của các ngành nghề khác nhau đặc biệt là các hình thức lao động giản đơn có tính cách lập lại rất phổ biến trong các ngành dệt may, da giày, hoặc ở các ngành khác có thể được tự động hóa một phần hoặc hoàn toàn. Như vậy chắc chắn sự thay thế lao động sớm muộn cũng sẽ xãy ra. Thứ sáu, khi công nghiệp lần thứ tư xãy ra và lan tỏa, thì điều kiện sản xuất sẽ thay đổi, mục tiêu hóa lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ đưa công nghiệp SX chế tạo quay lại các nước phát triển để gẩn thị trường tiêu thụ, gần vùng nguyên liệu, và các trung tâm R&D thì sẽ làm suy giảm lợi thế lao động giá rẻ, cũng như lợi tế về địa kinh tế. Thứ bảy, theo báo cáo của ILO, dự đoán, robot sẽ thay thế 85% công nhân ngành dệt may trong vài thập kỷ tới điều này đồng nghĩa cơ hội việc làm cho công nhân sẽ ngày một khó hơn và trình độ yêu cầu cao hơn. Thứ tám, đối với lao động VN, trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0, dần dần lao động giá rẻ không còn là ưu thế cạnh tranh, vì trong thời đại công nghệ mới chi phí nhân công rẻ vẫn chưa đủ mà phải tính đến năng suất lao động. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy năng suất lao động xã hội của toàn nền kinh tế VN năm 2016 là 84,5 triệu đồng/người lao động (theo giá hiện hành), chỉ bằng 4,4% của Singapore, bằng 17,4% của Malaysia, bằng 35,2% của Thái Lan và bằng 48,5% so với Philippines và Inđônesia. Năng suất thấp có nguyên nhân, theo ILO nhận định do nguồn lao động VN chỉ có gần 20% được đào tạo bài bản, đa số không đủ chất lượng chuyên môn, kỹ năng để đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi của thị trường. Vì vậy rất khó cho lao động VN tại các doanh nghiệp hiện nay khi tiếp cận và thích ứng với cơ sở kỹ thuật của công nghệ 4.0. 3. GỢI Ý MỘT SỐ GIẢI PHÁP Để giúp cho doanh nghiệp dệt may và da giày chủ động nhận diện những thách thức cũng như có những ứng phó kịp thời trong giai đoạn cách mạng công nghệ 4.0 đang ở thời kỳ khởi phát, tác giả gợi ý một số giải pháp cơ bản như sau: Trước hết, cần ưu tiên tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp gắn với chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm có hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cao thay vì các sản phẩm, các ngành sản xuất thâm dụng lao động. Mặt khác doanh nghiệp cần thay đổi phương thức đào tạo kỹ năng chuyên môn của người lao động từ cách làm cũ sang phương thức đào tạo tiên tiến hơn phù hợp với xu thế quản lý kỹ thuật hiện đại làm sao để có được đội ngũ lao động có trình độ cao thích ứng với công nghiệp 4.0. Thứ hai, tăng cường và đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các đối tác, công ty và tổ chức và khu vực và trên thế giới về đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong mỗi doanh nghiệp, về đổi mới và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và sản xuất kinh doanh ngành dệt may và da giày. Trong đó cần chú trọng việc đào tạo chuyên gia thuộc các lĩnh vực quản lý và kỹ thuật chuyên sâu của ngành. Thứ ba, trong tình hình hiện nay để tiếp cận và đón đầu làn sóng cách mạng công nghệ 4.0, bên cạnh những chiến lược mang tầm vĩ mô về quy hoạch phát triển ngành dệt may và da giày của Chính phủ. Các doanh nghiệp trong ngành cần nâng cao nhận thức về những tác động “được” và “mất” trước sự lan tỏa cách mạng công nghiệp 4.0. để vượt qua những thử thách cam go đang hiện hữu và tác động, buộc các doanh nghiệp trong hiệp hội phải có sự đoàn kết, hợp tác, đồng thuận. Bên cạnh đó, mỗi doanh nghiệp phải chủ động đổi mới, tăng 340
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG cường nội lực cả về tài chính, khoa học- công nghệ và nguồn nhân lực để vươn lên tự khẳng định mình. Thứ tư, các doanh nghiệp phải huy động tối đa mọi nguồn lực trong doanh nghiệp và ngoài xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ càng sớm càng tốt, giai đoạn 2017-2020 được xem là giai đoạn bản lề có ý nghĩa quan trọng trong việc đầu tư vào công nghệ theo yêu cầu của cuộc cách mạng CN 4.0 để tăng năng suất lao động, tạo chất lượng sản phẩm cao, hòa nhập trong bối cảnh đổi mới chung của toàn nền kinh tế. Thứ năm, về phía nhà nước, cần có chủ trương chính sách tạo sự bức phá mạnh mẽ về hạ tầng, ứng dụng và nhân lực công nghệ thông tin-truyền thông. Phát triển hạ tầng kết nối số và đảm bảo an toàn, an ninh mạng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng trong tiếp cận các cơ hội phát triển nội dung số trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Thứ sáu, trên tầm vĩ mô, cần thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung phương pháp giáo dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới, trong đó cần tập trung đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật, ngoại ngữ, tin học trong chương trình giáo dục phổ thông, nâng cao chất lượng đào tạo đại học, dạy nghề, đào tạo đại học đối với một số ngành đặc thù nhằm nâng cao lợi thế trong hội nhập và phân công lao động quốc tế. 4. KẾT LUẬN Ngành dệt may và da giày là hai ngành sản xuất có vai trò chủ lực xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng hiện tại đang sử dụng nhiều lao động kỹ thuật giản đơn nhất, do đó trước làn sóng diễn ra của cách mạng công nghiệp 4.0 đây cũng là hai ngành được cảnh báo sẽ bị đe dọa nhiều nhất trước sự thay đổi của công nghệ tự động hóa. Tổ chức Lao động thế giới (ILO) đã dự báo khả năng 86% số lao động sẽ bị thay thế vì xu hướng tự động hóa. Thực tế đã cho thấy tự động hóa là xu hướng không thể cưỡng lại vì vậy các doanh nghiệp trong ngành để thực hiện thành công và bền vững các mục tiêu phát triển của doanh nghiệp, cần phải mạnh dạn thay đổi tư duy để có thể cạnh tranh với các quốc gia khác trong khu vực, thay vì bằng cách sử dụng lao động giá rẻ như trước đây, cần chú trọng đổi mới công nghệ, quản trị và tuyển chọn nhân tài, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, thời đại của công nghệ số và tự động hóa TÀI LIỆU THAM KHẢO: 8- Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Tổ chức Lao động Thế giới (2016), Tài liệu hội nghị tọa đàm chủ đề: “Việt Nam làm gì để đáp ứng được thay đổi về công nghệ và nhu cầu kỹ năng lao động”, Hà nội 2016 9- Bộ Khoa học và Công nghệ (2017), Kỷ yếu hội thảo chủ đề “Cách mạng công nghệ 4.0”. Hà Nội 2015 10- Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Công nghệ Công nghiệp Hàn Quốc (2015), Kỷ yếu hội thảo khoa học chuyên đề Công nghệ may Việt Nam-Hàn Quốc, TPHCM 2015 11- Đinh Kiệm (2016) Toàn cảnh bức tranh nguồn nhân lực Việt Nam, nhân diện những cơ hội và thách thức khi hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế.. Đại học Kinh tế Luật TPHCM, 2016 12- Klaus Schwab (2015) Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư, (người dịch Đồng Bích Ngọc, Trần thị Mỹ Anh).Trung tâm Dự báo Kinh tế xã hội Quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015) 13- Thời báo Kinh tế Việt Nam (2017,2016, 2015) 14- Thủ tướng Chính phủ (2017) Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Công báo (2017) 15- Hiệp hội da giày Việt Nam (2015), Báo cáo hoạt động thường niên 16- Tổng cục Thống kê, Niêm giám thống kê 2014, 2015, 2016. 341
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
7 nguyên tắc vàng gọi điện chào hàng thành công
5 p | 557 | 239
-
GBS Basic: Thời đại mới và cơ hội kinh doanh cho mọi người
80 p | 250 | 105
-
Công cụ EDAC - Chỉ dẫn nhân viên 1 kỹ năng
4 p | 493 | 71
-
GIÁO TRÌNH QUẢN TRỊ NHÂN SỰ - PHẦN 5
8 p | 182 | 62
-
Làm Website Đơn Giản - Tăng Cơ Hội Bán Hàng
3 p | 207 | 58
-
PHÁT TRIỂN CÔNG TY - VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN THƯỜNG GẶP PHẢI
35 p | 112 | 17
-
Góp phần nhận diện, đánh giá văn hóa doanh nhân Việt Nam
7 p | 126 | 16
-
Giáo trình phân tích phương pháp quản lý nguồn nhân lực với thực trạng và giải pháp về số lượng p5
5 p | 101 | 15
-
Đăng kí thương hiệu - Cơ hội làm nổi bật nhãn hiệu.
5 p | 105 | 15
-
Bài giảng Thương mại điện tử (Electronic Commerce) - Chương 2: Cơ sở để phát triển thương mại điện tử
42 p | 53 | 11
-
Bộ nhận diện thương hiệu trong chiến lược sáp nhập
3 p | 122 | 11
-
Cơ hội và thách thức đối với phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
7 p | 64 | 10
-
Bài giảng Marketing manager - Chương 16: Nghề bán hàng và quản trị bán hàng
30 p | 90 | 8
-
Khởi nghiệp fintech từ cơ hội cách mạng 4.0
7 p | 52 | 7
-
Giáo trình phân tích khả năng ứng dụng trong quy trình quốc hữu hóa doanh nghiệp tư bản tư nhân p8
6 p | 48 | 4
-
Cơ hội và thách thức cho hoạt động xuất khẩu hàng mang thương hiệu Việt giai đoạn hiện nay
17 p | 9 | 4
-
Cơ hội và thách thức đối với ngành da giày Việt Nam xuất khẩu trong thời kỳ hội nhập
15 p | 44 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn