VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 444 (Kì 2 - 12/2018), tr 59-62<br />
<br />
NHU CẦU VỀ ĐÀO TẠO VÀ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN<br />
Nguyễn Đỗ Hương Giang - Cao Đức Minh - Lèng Thị Lan<br />
Trường Đại học Nông lâm - Đại học Thái Nguyên<br />
Ngày nhận bài: 10/10/2018; ngày sửa chữa: 20/10/2018; ngày duyệt đăng: 25/10/2018.<br />
Abstract: Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry orients and builds up a model for<br />
students with good political and ethical qualities, ideal, professional and professional manner,<br />
becoming a global citizen.In addition to building a career and career education system, soft skills<br />
training for students is very important in the current period. However, this work still faces many<br />
difficulties and challenges. The article presents results of the demand of soft skills training for<br />
students in Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry.<br />
Keywords: Demand, soft skills, students, Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry.<br />
1. Mở đầu<br />
Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên được thành<br />
lập năm 1970, hiện nay là một đơn vị thành viên của Đại<br />
học Thái Nguyên. Trải qua 48 năm xây dựng và phát<br />
triển, nhà trường đã trở thành một trung tâm đào tạo và<br />
chuyển giao khoa học - công nghệ hàng đầu Việt Nam<br />
về nông, lâm nghiệp, quản lí tài nguyên và môi trường<br />
cho các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc Việt Nam. Theo<br />
bảng xếp hạng mới nhất của Webometrics, Trường Đại<br />
học Nông lâm Thái Nguyên được xếp hạng thứ 13 ở Việt<br />
Nam và hạng 4.103 trên thế giới. Hàng năm, trường<br />
tuyển hơn 3.000 sinh viên (SV) cho 18 ngành, 24 chuyên<br />
ngành bậc đại học các hệ chính quy và hệ vừa làm vừa<br />
học, khoảng 500 học viên vào học 9 ngành đào tạo thạc<br />
sĩ và 8 ngành đào tạo tiến sĩ.<br />
Năm học 2010-2011, nhà trường đã tổ chức đào tạo<br />
ngành Khoa học & Quản lí môi trường theo chương trình<br />
tiên tiến từ Đại học California Davis (Hoa Kì). Nhà trường<br />
luôn duy trì số lượng SV khoảng 14.000 SV các hệ bậc đại<br />
học; hơn 100 SV quốc tế; hơn 1.000 học viên cao học và<br />
nghiên cứu sinh. Báo cáo phát triển Việt Nam 2014 của<br />
Ngân hàng thế giới đã chỉ ra rằng: “việc trang bị cho người<br />
lao động những kĩ năng cần thiết sẽ là một phần quan<br />
trọng trong những nỗ lực của Việt Nam để tăng tốc độ tăng<br />
trưởng kinh tế và tiếp tục tiến trình hiện đại hóa nền kinh<br />
tế trong thập kỉ tới và xa hơn nữa” [1; tr 3].<br />
Vậy, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để SV sau khi<br />
ra trường thích ứng nhanh với môi trường công việc và<br />
có thể vận dụng tốt các kiến thức chuyên ngành đã được<br />
học, đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng? Đây là<br />
điều mà không những chính bản thân SV cần phải quan<br />
tâm khi đang ngồi trên giảng đường mà còn đòi hỏi sự<br />
quan tâm của các cơ sở đào tạo, trong đó có Ban Giám<br />
hiệu và các khoa của nhà trường. Bởi lẽ, việc làm cho SV<br />
sau khi tốt nghiệp là một trong những mục tiêu quan<br />
<br />
59<br />
<br />
trọng để đánh giá chất lượng hoạt động đào tạo của các<br />
trường đại học. Tuy nhiên, Trường Đại học Nông lâm<br />
còn gặp nhiều khó khăn và thách thức trong quá trình<br />
triển khai đào tạo chính thức kĩ năng mềm (KNM) cho<br />
SV các khoa, ngành trong trường.<br />
Bài viết trình bày một số kết quả về nhu cầu đào tạo<br />
KNM cho sinh viên Trường Đại học Nông lâm - Đại học<br />
Thái Nguyên.<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Khái niệm về kĩ năng mềm<br />
Xét về góc độ thuật ngữ, có khá nhiều quan niệm hay<br />
định nghĩa khác nhau về KNM.<br />
Tác giả Forland, Jeremy “KNM là một thuật ngữ thiên<br />
về mặt xã hội để chỉ những KN có liên quan đến việc sử<br />
dụng ngôn ngữ giao tiếp, khả năng hòa nhập xã hội, thái<br />
độ và hành vi ứng xử hiệu quả trong giao tiếp giữa người<br />
với người. Nói khác đi, đó là KN liên quan đến việc con<br />
người hòa mình, chung sống và tương tác với cá nhân<br />
khác, nhóm, tập thể, tổ chức và cộng đồng” [2].<br />
Nhà nghiên cứu N.J. Pattrick định nghĩa “KNM là<br />
khả năng, là cách thức chúng ta tiếp cận và phản ứng với<br />
môi trường xung quanh, không phụ thuộc và trình độ<br />
chuyên môn và kiến thức. KNM không phải là yếu tố<br />
bẩm sinh về tính cách hay là những kiến thức của sự hiểu<br />
biết lí thuyết mà đó là khả năng thích nghi với môi trường<br />
và con người để tạo ra sự tương tác hiệu quả trên bình<br />
diện cá nhân và cả công việc” [3].<br />
Như vậy, có thể hiểu KNM là những biểu hiện cụ thể<br />
của năng lực hành vi và trí tuệ mà con người tích lũy<br />
được để làm cho mình dễ dàng được chấp nhận, làm việc<br />
thuận lợi và đạt được hiệu quả.<br />
2.2. Kết quả nghiên cứu<br />
Năm học 2017-2018, chúng tôi tiến hành điều tra 200<br />
bảng hỏi nhằm thu thập những thông tin cần thiết phục<br />
Email: nguyendohuonggiang@tuaf.edu.vn<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 444 (Kì 2 - 12/2018), tr 59-62<br />
<br />
vụ cho việc phân tích và đánh giá nhu cầu học KNM của<br />
SV Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên. Ngoài ra,<br />
còn thực hiện 15 phỏng vấn sâu SV, 05 giảng viên (GV)<br />
nhằm tìm hiểu về các vấn đề liên quan đến nhu cầu và<br />
đánh giá thực trạng của người học đối với học tập KNM<br />
đó là nhu cầu về đào tạo, nhận thức của SV về KNM,<br />
sự cần thiết của môn học đối với SV Trường Đại học<br />
Nông lâm.<br />
Đối với SV Trường Đại học Nông lâm, khi được hỏi<br />
Bạn đánh giá tầm quan trọng của KNM trong công việc<br />
và học tập như thế nào?, có 51,0% cho rằng hoạt động<br />
giảng dạy KNM là “Cần thiết”, 16,5% lựa chọn phương<br />
án “Rất cần thiết”. Như vậy, có thể thấy rằng có số đông<br />
SV đã nhận thức được sự cần thiết của hoạt động giảng<br />
dạy KNM. Điều này đã thể hiện SV hiểu đúng đắn về<br />
tầm quan trọng của giảng dạy KNM đối với mình, từ sự<br />
nhận thức này nó sẽ dẫn tới sự tham gia học tập, hoạt<br />
động ngoại khóa của SV để nâng cao năng lực chính trị<br />
tư tưởng. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn 25,0% số<br />
người được hỏi thờ ơ với hoạt động giảng dạy KNM khi<br />
lựa chọn phương án “bình thường”. Đặc biệt, 7,0% cho<br />
rằng hoạt động giảng dạy KNM là “không cần thiết”, có<br />
1 SV (0,5%) cho rằng “rất không cần thiết”. Như vậy,<br />
bên cạnh số lượng lớn SV nhận thức sự cần thiết, tầm<br />
quan trọng của hoạt động giảng dạy KNM thì vẫn còn số<br />
ít SV, vẫn nhận thức chưa đúng đắn về vai trò của hoạt<br />
động giảng dạy KNM (bảng 1).<br />
Bảng 1. Sự cần thiết của KNM với SV Trường Đại học<br />
Nông lâm Thái Nguyên<br />
Tần số (người)<br />
<br />
Tần suất<br />
(%)<br />
<br />
1. Rất cần thiết<br />
<br />
33<br />
<br />
16,5<br />
<br />
2. Cần thiết<br />
<br />
102<br />
<br />
51,0<br />
<br />
3. Bình thường<br />
<br />
50<br />
<br />
25,0<br />
<br />
4. Không cần thiết<br />
<br />
14<br />
<br />
7,0<br />
<br />
5. Rất không cần thiết<br />
<br />
1<br />
<br />
0,5<br />
<br />
Mức độ<br />
<br />
dạy của GV tại lớp học là hoạt động đa dạng, phức tạp;<br />
là tác động có mục đích và tích cực vào toàn bộ quá trình<br />
nhận thức của người học. Luật Giáo dục ban hành năm<br />
2005 cũng đề cập đến yêu cầu về phương pháp trong hệ<br />
thống giáo dục quốc dân ở nước ta hiện nay: “phải phát<br />
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của<br />
người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học,<br />
khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn<br />
lên”. Bởi vậy, mỗi GV giảng dạy bậc đại học phải là quá<br />
trình đánh thức, phát huy tiềm năng vốn có của SV, khơi<br />
dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở họ bằng các<br />
phương pháp giảng dạy tích cực. Phương pháp tích cực<br />
trong giảng dạy đại học là cách thức làm việc của người<br />
GV chuyển từ địa vị người dạy chuyển sang địa vị người<br />
thiết kế, cố vấn, huấn luyện và tạo ra môi trường học tập<br />
sáng tạo cho SV.<br />
“Các phương pháp giảng dạy tích cực tôi đã áp dụng<br />
như: phương pháp vấn đáp, phương pháp nêu vấn đề,<br />
phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai,<br />
phương pháp trực quan (sử dụng các phương tiện như:<br />
máy vi tính, bảng điện tử, máy chiếu đa năng Projector,<br />
giấy khổ to, bút dạ…)” (PVS, nữ, GV, môn Toán).<br />
“Tôi luôn cố gắng tạo cảm giác thoải mái nhất khi<br />
lên lớp với SV, tôn trọng bản sắc cá nhân của các em,<br />
không quá yêu cầu cao với các em SV năm nhất, đặt địa<br />
vị của mình vào nhiệm vụ người hướng dẫn, định hướng<br />
kiến thức cho các em nên môn học của tôi là môn Vật lí,<br />
tuy khô khan nhưng các em vẫn ủng hộ rất tích cực”<br />
(PVS, nam, GV, môn Vật lí).<br />
“Học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, các em vẫn kêu<br />
ca có quá nhiều ngày và mốc thời gian phải nhớ, bộ môn<br />
chúng tôi thay đổi và tổ chức các hình thức dạy học đa<br />
dạng phong phú giúp SV nắm vững nội dung tri thức và<br />
KN, chú trọng việc nhận xét, động viên, góp ý SV trong<br />
quá trình học tập. Kết quả học tập của SV được đánh giá<br />
dựa trên mục tiêu giáo dục và các mức năng lực đạt được<br />
như thế nào sau khi kết thúc một môn học” (PVS, Nữ,<br />
Trưởng bộ môn Lí luận chính trị).<br />
<br />
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra)<br />
Khi được hỏi thêm: KNM quyết định bao nhiêu phần<br />
trăm trong sự thành công của bạn sau này? thì câu trả lời<br />
là chiếm trung bình 43,3%.<br />
Khi được hỏi về KNM có cần thiết với SV không, có<br />
1 GV đã cho rằng: “Ý thức của SV vẫn là điều chủ yếu để<br />
họ có thể trang bị KN hiệu quả nhất. Nếu họ tự giác nhận<br />
thấy rằng, những KNM là rất quan trọng để bước vào<br />
đời thì sẽ tự tìm ra cách trau dồi thiết thực nhất”. Học kì<br />
2 năm học 2017-2018, nhà trường đưa chương trình<br />
giảng dạy môn KNM cho SV khóa 49. Tuy nhiên, năm<br />
học 2018-2019 lại không thực hiện nữa. Hoạt động giảng<br />
<br />
60<br />
<br />
Việc thay đổi, điều chỉnh thời lượng giảng dạy và<br />
những thách thức đặt ra cho đội ngũ GV hiện nay, đòi<br />
hỏi trước hết phải thay đổi chính mình, nâng cao trình độ<br />
chuyên môn, cập nhật thông tin, kiến thức mới và linh<br />
hoạt sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy, “lấy người<br />
học - SV làm trung tâm”, để dạy cách học trở thành một<br />
trong những mục tiêu đào tạo chứ không chỉ là một trong<br />
những giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.<br />
Những phương pháp thường xuyên được các GV nhà<br />
trường thực hiện: Tổ chức các câu lạc bộ, đội, nhóm<br />
trong nhà trường thường xuyên hoạt động, sinh hoạt<br />
trong và ngoài giờ lên lớp (67,0%); giao bài tập cho SV<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 444 (Kì 2 - 12/2018), tr 59-62<br />
<br />
Bảng 2. Mức độ thực hiện các phương pháp giảng dạy tích cực cho SV (%)<br />
(Kí hiệu: RTX: Rất thường xuyên; TX: Thường xuyên; ITX: Ít thường xuyên; KTH: Không thực hiện)<br />
Mức độ thực hiện (%)<br />
<br />
Các phương pháp giảng dạy tích cực cho SV<br />
RTX<br />
Tổ chức các câu lạc bộ, đội, nhóm trong nhà trường thường xuyên hoạt<br />
20,5<br />
động, sinh hoạt trong và ngoài giờ lên lớp<br />
Giao bài tập cho SV chuẩn bị trước và tìm kiếm tài liệu tại thư viện<br />
nhà trường, phòng đọc, phòng tra cứu; trang bị tủ sách pháp luật tại<br />
15,5<br />
các lớp học, sách, báo, tạp chí và trên các phương tiện thông tin, truyền<br />
thông khác<br />
Tổ chức lồng ghép các hoạt động giảng dạy với hoạt động ngoại khóa,<br />
giao lưu, trao đổi thông tin gắn với các sự kiện, ngày hội, ngày lễ, ngày<br />
23,5<br />
truyền thống của nhà trường<br />
Yêu cầu SV cập nhật các thông tin thời sự trong nước và thế giới qua<br />
các bài học trên lớp qua điện thoại thông minh hoặc máy tính kết nối<br />
5,5<br />
mạng<br />
Lấy người học là trung tâm, tôn trọng bản sắc của SV<br />
5,5<br />
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra)<br />
chuẩn bị trước và tìm kiếm tài liệu tại thư viện nhà<br />
trường, phòng đọc, phòng tra cứu; trang bị tủ sách pháp<br />
luật tại các lớp học, sách, báo, tạp chí và trên các phương<br />
tiện thông tin, truyền thông khác (73,0%), Tổ chức lồng<br />
ghép các hoạt động giảng dạy với hoạt động ngoại khóa,<br />
giao lưu, trao đổi thông tin gắn với các sự kiện, ngày hội,<br />
ngày lễ, ngày truyền thống của nhà trường (53,0%). Bên<br />
cạnh đó, các GV thực hiện cũng cần tăng cường Lấy<br />
người học là trung tâm, tôn trọng bản sắc của SV vì theo<br />
khuôn mẫu giảng dạy truyền thống nên còn ít thực hiện<br />
thường xuyên (51%); thậm chí hoạt động: Yêu cầu SV<br />
cập nhật các thông tin thời sự trong nước và thế giới qua<br />
các bài học trên lớp qua điện thoại thông minh hoặc máy<br />
tính kết nối mạng (45,5%) chưa được thực hiện phổ biến<br />
ở tất cả các môn học.<br />
Tại Trường Đại học Nông lâm, chương trình đào tạo<br />
trình độ đại học được áp dụng là đào tạo theo tín chỉ<br />
không tổ chức theo năm học mà theo học kì. Một năm<br />
học có thể tổ chức đào tạo từ 2 đến 3 học kì, mỗi chương<br />
trình đào tạo của một ngành học nhất định không tính<br />
theo năm mà tính theo sự tích lũy kiến thức của SV, SV<br />
tích lũy đủ số tín chỉ quy định cho một ngành học thì<br />
được cấp bằng tốt nghiệp đại học, được ra trường.<br />
Với hình thức đào tạo theo tín chỉ, SV phải tự đăng<br />
kí lịch học, SV không đăng kí sẽ không có lịch học. Vì<br />
vậy mà đào tạo theo tín chỉ yêu cầu SV phải nắm rõ<br />
chương trình học, nội dung đào tạo. Ngoài ra, SV được<br />
chủ động sắp xếp lịch học cho phù hợp với bản thân. Việc<br />
đó giúp ích rất nhiều cho các bạn SV trong rèn luyện kĩ<br />
<br />
61<br />
<br />
TX<br />
<br />
Ít TX<br />
<br />
KTH<br />
<br />
67,0<br />
<br />
9,5<br />
<br />
3,0<br />
<br />
73,0<br />
<br />
3,0<br />
<br />
8,5<br />
<br />
53,0<br />
<br />
16,0<br />
<br />
7,5<br />
<br />
13,5<br />
<br />
35,5<br />
<br />
45,5<br />
<br />
25,5<br />
<br />
51,0<br />
<br />
18,0<br />
<br />
năng lập kế hoạch và tổ chức công việc và bắt đầu bằng<br />
chính việc lên kế hoạch học tập cho chính bản thân. Việc<br />
nâng cao sự chủ động của SV trong giờ học được đặt lên<br />
hàng đầu. Có thể nói trong đào tạo theo tín chỉ, đối với<br />
SV tự học là vấn đề quan trọng nhất, SV phải tự học ngay<br />
trên lớp, lên lớp là làm việc và học tập để đạt hiệu quả<br />
cao nhất. Yêu cầu đối với các KNM là hết sức cần thiết.<br />
Tuy nhiên, vẫn gặp phải những khó khăn nhất định.<br />
Việc thực hiện KNM ở mức độ cao chỉ đạt 7%: SV<br />
biết lập kế hoạch, tổ chức công việc của bản thân một cách<br />
hợp lí, thường xuyên thực hiện đúng các nội dung công<br />
việc đã được xây dựng trong kế hoạch, biết cách ghi chép<br />
bài giảng của thầy cô một cách khoa học, biết cách tự học,<br />
tự nghiên cứu thông qua việc tìm kiếm và đọc tài liệu tham<br />
khảo để mở rộng, cập nhật các thông tin phục vụ cho việc<br />
học tập. Hầu hết, SV còn nhiều hạn chế trong việc tổ chức<br />
học tập bản thân, thậm chí việc ghi chép bài vẫn còn nhiều<br />
sai sót do khả năng ngôn ngữ tiếng Việt của các em còn<br />
hạn chế. Các KNM của SV thực hiện ở mức độ trung bình<br />
đạt 48,7%: SV có thể lập kế hoạch học tập nhưng chưa<br />
thường xuyên thực hiện đúng các nội dung trong kế hoạch,<br />
ghi chép bài đầy đủ nhưng chưa khoa học, chưa tích cực,<br />
chưa thường xuyên tìm kiếm và đọc sách, tài liệu tham<br />
khảo liên quan đến môn học. Theo kết quả điều tra có SV<br />
cho rằng họ chỉ đạt được KN học tập ở mức độ trung bình.<br />
Các KNM thực hiện ở mức độ thấp. SV không lập kế<br />
hoạch học tập hoặc chưa lập kế hoạch học tập sát với thực<br />
tế nên thường xuyên không thực hiện được, không ghi bài<br />
hoặc không biết cách ghi bài; thường xuyên không tìm<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 444 (Kì 2 - 12/2018), tr 59-62<br />
<br />
kiếm và tự nghiên cứu tài liệu liên quan đến môn học<br />
(chiếm đến 45%). Vậy một vấn đề đặt ra là tại sao nhu<br />
cầu học tập KNM của SV hình thành ở mức độ cao<br />
nhưng việc được huấn luyện và đào tạo KN một cách bài<br />
bản cho SV chỉ đạt được ở mức độ thấp, trung bình là<br />
chủ yếu? (xem biểu đồ).<br />
<br />
đội; rèn luyện sự nhạy bén, sự tự tin, vững vàng trong<br />
giao tiếp; suy nghĩ lạc quan, tư duy tích cực và sáng tạo<br />
trong học tập cũng như công việc; phát huy tối đa điểm<br />
mạnh của bản thân từ đó có thể phát triển bản thân một<br />
cách nhanh nhất và tốt nhất; định hướng công việc của<br />
mình, biết cách soạn hồ sơ xin việc và trả lời<br />
các câu hỏi phỏng vấn của nhà tuyển dụng, từ<br />
đó SV có đủ khả năng và tự tin khi đi xin việc<br />
làm; tăng cường khả năng giao tiếp và thích<br />
nghi; lập kế hoạch trong tổ chức công việc...<br />
Mức độ cao<br />
Đây là mục tiêu phát triển tương lai của<br />
7%<br />
Trường Đại học Nông lâm nói riêng và cũng<br />
48%<br />
Mức độ thấp<br />
là của các trường đại học trên cả nước nói<br />
45%<br />
chung, góp phần đưa nhà trường từng bước<br />
trở thành một trong những trung tâm hàng đầu<br />
Mức độ trung<br />
của Việt Nam và có uy tín trong khu vực<br />
bình<br />
Đông Nam Á trong đào tạo, nghiên cứu và<br />
chuyển giao khoa học công nghệ về lĩnh vực<br />
nông nghiệp, lâm nghiệp, phát triển nông<br />
thôn, quản lí tài nguyên và môi trường, chủ<br />
Biểu đồ. Đánh giá mức độ thực hiện KNM của SV<br />
Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên (đơn vị tính %)<br />
động và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế.<br />
(Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm tác giả)<br />
Mỗi SV cần dựa trên những khả năng của bản thân, Tài liệu tham khảo<br />
mục tiêu nghề nghiệp cụ thể trong tương lai để xây dựng<br />
[1] Ngân hàng thế giới (2014). Báo cáo phát triển Việt<br />
kế hoạch, lộ trình rèn luyện qua mỗi học kì và mỗi năm<br />
Nam 2014, Phát triển kĩ năng: Xây dựng lực lượng<br />
học. Để khi ra trường, sẽ tự tin với năng lực của mình<br />
lao động cho một nền kinh tế thị trường hiện đại ở<br />
cùng với bộ hồ sơ tìm việc hoàn hảo, đặc biệt là các KNM<br />
Việt Nam. Trung tâm thông tin phát triển Việt Nam,<br />
đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng. SV cũng cần đa<br />
Hà Nội.<br />
dạng hóa các hình thức học hỏi, phương pháp rèn luyện [2] Đại học Quốc gia Hà Nội (2010). Hướng dẫn số<br />
KNM: cách tốt nhất để trau dồi KNM là phải luyện tập,<br />
3109/HD-ĐHQGHN ngày 29/10/2010 về Xây dựng<br />
học hỏi thường xuyên, tạo cho mình một phản xạ tức thời<br />
và hoàn thiện chương trình đào tạo theo chuẩn đầu<br />
mỗi khi gặp các tình huống cần thiết. SV có thể tham gia<br />
ra ở Đại học Quốc gia Hà Nội.<br />
các khóa học KNM tại các trung tâm phát triển kĩ năng [3] Forland - Jeremy (2006). Managing Teams and<br />
của các trường đại học, hoặc cũng có thể tham gia học tại<br />
Technology. UC Davis, Graduate School of<br />
cổng đào tạo trực tuyến... SV không thể thành thạo các<br />
Management.<br />
KNM này chỉ sau một vài khóa học mà cần được trau dồi [4] Bộ môn Tiếng Việt - Xã hội học, Khoa Khoa học<br />
hàng ngày qua quá trình làm việc và đúc kết kinh nghiệm<br />
Cơ bản (2017). Bài giảng Kĩ năng mềm (tài liệu lưu<br />
thực tế của chính bản thân mình. Mỗi SV cần dựa trên<br />
hành nội bộ). Trường Đại học Nông lâm Thái<br />
Nguyên.<br />
những khả năng của bản thân, mục tiêu nghề nghiệp cụ<br />
thể trong tương lai để xây dựng kế hoạch, lộ trình rèn [5] Nancy J. Pattrick (2008). Social skills for teenagers<br />
and adults with esperger syndrome. Jessica<br />
luyện qua mỗi học kì và mỗi năm học. Để khi ra trường,<br />
Kingsley Publisher.<br />
SV sẽ tự tin với năng lực của mình, đặc biệt là các KNM<br />
[6] Nguyễn Thanh Bình (2011). Giáo trình chuyên đề<br />
đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng.<br />
Giáo dục kĩ năng sống. NXB Đại học Sư phạm.<br />
3. Kết luận<br />
[7] Huỳnh Văn Sơn (2013). Thử nghiệm một vài biện<br />
Qua việc học tập và rèn luyện KNM, SV sẽ hình<br />
pháp phát triển kĩ năng mềm cho sinh viên đại học<br />
thành nên những kiến thức, KN và thái độ như: biết cách<br />
sư phạm. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư<br />
làm việc nhóm, hòa nhập vào tập thể và có tinh thần đồng<br />
phạm TP. Hồ Chí Minh, số 50, tr 68-77.<br />
<br />
62<br />
<br />