Nhu cầu xây dựng luật về quyền tự do lập hội ở Việt Nam
lượt xem 3
download
Bài viết phân tích sự cần thiết phải luật hóa quyền tự do lập hội, các rào cản ngăn cản sự ra đời của Luật về Hội và đề xuất một số giải pháp xây dựng, ban hành đạo luật về quyền tự do lập hội ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nhu cầu xây dựng luật về quyền tự do lập hội ở Việt Nam
- Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” NHU CẦU XÂY DỰNG LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI Ở VIỆT NAM THE NEED FOR BUIDING THE LAW ON FREEDOM OF ASSOCIATIONS RIGHTS IN VIETNAM NCS. Nguyễn Nhật Khanh1 Tóm tắt – Tự do lập hội là một trong các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Để quyền này được thực hiện trên thực tế, Quốc hội phải xây dựng một đạo luật chuyên ngành, trong đó quy định chi tiết các nội dung của việc thực hiện quyền tự do lập hội cũng như quản lí nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của hội. Mặc dù đã được đưa vào chương trình xây dựng luật của Quốc hội, song qua nhiều lần, dự thảo Luật về Hội vẫn chưa được thông qua. Điều này đã ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền hiến định của công dân. Bài viết phân tích sự cần thiết phải luật hóa quyền tự do lập hội, các rào cản ngăn cản sự ra đời của Luật về Hội và đề xuất một số giải pháp xây dựng, ban hành đạo luật về quyền tự do lập hội ở Việt Nam. Từ khóa: tự do lập hội, quyền công dân, luật về quyền tự do lập hội. 1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI LUẬT HÓA QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI Quyền tự do lập hội xuất phát từ nhu cầu tập hợp lực lượng để tạo nên sức mạnh của Nhân dân. Nhu cầu này xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử. Người nguyên thủy có thể hái quả một mình nhưng để canh tác hoặc săn thú thì phải đông người mới thành công được. Đó là hình thức sơ khai về việc tập hợp lực lượng tạo nên sức mạnh. Xã hội loài người càng phát triển thì các hình thức tập hợp lực lượng ngày càng phong phú, đa dạng và tổ chức chặt chẽ hơn. Khi nhà nước xuất hiện và thực hiện quản lí xã hội, việc lập hội từ nhu cầu tự nhiên chuyển thành quyền lập hội. Việc ghi nhận và bảo đảm quyền lập hội là biểu hiện của một nhà nước dân chủ và văn minh [1, tr18]. Khái niệm “hội” trong tiếng Anh và tiếng Pháp tuy phát âm khác nhau nhưng đều viết là “Association”. Trong tiếng Pháp, hội được định nghĩa là sự liên kết nhiều người vì một lợi ích chung (union des personnes dans un interet commun). Trong tiếng Anh, hội được định nghĩa là một nhóm người công khai liên kết vì một mục đích đặc biệt (an official group of people who have joined together for a particular purpose) [2, tr37]. Như vậy, có thể hiểu một cách đơn 1 Trường Đại học Luật TP.HCM; Email: nnkhanh@hcmulaw.edu.vn 417
- Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” giản rằng hội là sự liên kết một số người để cùng thực hiện một công việc hay một mục đích, lợi ích chung nào đó. Tuy nhiên, cần phải thống nhất rằng, việc các cá nhân liên kết với nhau để thành lập hội không nhằm mục đích kinh doanh hay tìm kiếm lợi nhuận bởi nếu họ liên kết với nhau vì lợi nhuận thì sẽ tạo ra tổ chức kinh tế chứ không phải các hội. Trong trường hợp này, hoạt động của các tổ chức trên sẽ chịu sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp, luật thương mại chứ không phải luật về hội. Pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều thống nhất với nhận thức này về hội. Đơn cử, Khoản 1, Điều 2 Luật về Hội của Cộng hòa Ba Lan năm 1989 (Law on Associations 7 April 1989) quy định: ‘Hội là sự liên kết tự nguyện, tự quản, bền vững và không vì mục đích lợi nhuận’ [3]. Điều 2, Luật về Hội của Cộng hòa Serbia năm 2009 (The law on Associations 14 July 2009) cũng quy định: ‘Theo mục đích của luật này, hội là một tổ chức tự nguyện, tự quản và phi lợi nhuận dựa trên sự tự do của của hội, của các cá nhân và pháp nhân, được thành lập để theo đuổi và thúc đẩy sự chia sẻ đặc biệt hoặc các mục tiêu, lợi ích chung mà không bị cấm bởi Hiến pháp và Luật’ [4]. Qua đó, có thể thấy, đặc trưng cơ bản của hội là sự liên kết của những cá nhân không vì mục đích lợi nhuận, không phải là tổ chức của chính phủ, thực hiện tự quản và tự chủ về tài chính. Có thể thấy rằng, ghi nhận quyền lập hội phản ánh tính dân chủ trong nhà nước pháp quyền. Trong xã hội dân chủ, pháp luật được xem là nguyên tắc tối thượng của việc xây dựng thiết chế, quản lí và điều hành xã hội. Nếu không có sự đề cao nguyên tắc tối thượng của pháp luật thì sẽ không có dân chủ. Nói cách khác, dân chủ sẽ không thể được nảy sinh và tồn tại trên nền tảng của một xã hội mà ở đó các quan hệ xã hội và hành vi của con người hầu như chỉ được điều chỉnh bởi các chuẩn mực đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán thuần túy. Các chuẩn mực như vậy chưa thể tạo ra cơ sở vững chắc cho sự hình thành và phát triển dân chủ bởi những cam kết và chuẩn mực có tính chất chính trị, đạo đức, tôn giáo, phong tục không đủ sức cương tỏa tính tùy tiện của con người [5, tr6]. Chính vì vậy, trong một xã hội, những cam kết về sự tự do của công dân hay cá nhân ấy phải được ghi nhận và quy định thành luật, nghĩa là trong một xã hội được tổ chức chặt chẽ bởi thiết chế luật pháp [6, tr106-107]. Bên cạnh đó, việc ghi nhận và khẳng định quyền lập hội chính là cơ sở khẳng định quyền dân sự hợp pháp của người dân [7]. Do đó, việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền lập hội là phương tiện quan trọng giúp thực thi nhiều quyền dân sự, chính trị và các quyền về văn hóa, kinh tế, xã hội khác. Ở tầm quốc tế, quyền lập hội lần đầu tiên được ghi nhận trong Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người năm 1948 (Điều 20) và được khẳng định lại trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (Điều 21, 22). 418
- Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” Ở Việt Nam, quyền lập hội đã được ghi nhận từ rất sớm trong Hiến pháp năm 1946 (Điều 10), sau đó được tiếp tục ghi nhận trong Hiến pháp năm 1959 (Điều 25), Hiến pháp năm 1980 (Điều 67), Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) (Điều 69) và trong bản Hiến pháp đề cao quyền con người nhất – Hiến pháp năm 2013 (Điều 25). Qua đó, có thể thấy rằng, tất cả các bản Hiến pháp của nước ta từ trước đến nay đều ghi nhận và đề cao quyền lập hội. Tuy nhiên, từ năm 1946 đến nay, nước ta chỉ có một đạo luật riêng biệt để điều chỉnh về quyền lập hội là Luật Quy định quyền lập hội năm 1957. Đây là một đạo luật đã tồn tại rất lâu và đến nay có nhiều điểm không còn phù hợp với nhu cầu của thực tiễn pháp lí ở nước ta. Do đó, vấn đề ban hành một đạo luật mới để điều chỉnh về quyền lập hội trở nên hết sức cần thiết. Trước thời điểm thông qua Hiến pháp năm 2013, dự thảo Luật về Hội đã được soạn thảo và đưa ra Quốc hội thảo luận. Tuy nhiên, vì nhiều lí do đã không được thông qua. Sau khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, nhằm triển khai thi hành và cụ thể hóa các quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp, Quốc hội đã đưa dự thảo Luật về Hội vào Chương trình xây dựng luật năm 2015. Trên cơ sở đó, Bộ Nội vụ tiếp tục được chủ trì xây dựng dự thảo Luật về Hội lần nữa để đưa ra Quốc hội thảo luận và thông qua. Cụ thể, theo báo cáo của Bộ Nội vụ, tính đến tháng 12 năm 2014, cả nước có 52.565 hội (483 hội hoạt động phạm vi cả nước và 52.082 hội hoạt động phạm vi địa phương). Trong đó, 8.792 hội có tính chất đặc thù. Các hội phát triển đa dạng với quy mô, phạm vi và tính chất hoạt động khác nhau [8]. Như vậy, có thể thấy rằng, việc xây dựng hành lang pháp lí để điều chỉnh hoạt động của hội là việc làm thật sự rất cần thiết. Đáng tiếc rằng qua nhiều lần dự thảo nhưng cho đến nay, Luật về Hội vẫn chưa được thông qua, Quốc hội lại tiếp tục “ghi nợ” Nhân dân một đạo luật chính đáng mà không rõ thời gian nào “khoản nợ” này sẽ được “thanh toán”. Khi nào Luật về Hội chưa được ban hành, quyền tự do lập hội vẫn chỉ là quy phạm hiến định mang tính chất “tuyên ngôn” chứ không thể đi vào thực tiễn cuộc sống. 2. NHỮNG RẢO CẢN ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠO LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI Ở VIỆT NAM Thứ nhất, nhà làm luật chưa đủ niềm tin vào các hội. Quyền lập hội là quyền tự do liên kết của người dân nên Nhà nước cảm thấy không yên tâm vì sợ bị lợi dụng vào các mục đích bất hợp pháp, đe dọa an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng lo sợ các hội khi nhóm họp với nhau sẽ nhận tiền tài trợ của các tổ chức khủng bố để rửa tiền, kêu gọi chống phá chính quyền. Đây là những lo lắng từ góc độ quản lí và kiểm soát của Nhà nước. Về mặt kinh tế, Việt Nam đã chuyển đổi cơ bản theo cơ chế kinh tế thị trường, nhưng rõ ràng về mặt xã hội, Việt Nam đi ra từ thể chế mà tất cả đều do Đảng và Nhà nước lãnh đạo, quản lí. Yếu tố lịch sử để lại trong nhận thức của các chính trị gia là phải quản lí mọi vấn đề của xã hội. Trong đó, các hội cũng 419
- Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” thuộc sự quản lí của Nhà nước. Do đó, nhận thức của nhà làm luật về quyền tự do lập hội còn khắt khe. Chính vì vậy, cơ hội để quyền tự do lập hội được cụ thể hóa thành một đạo luật tưởng chừng rất “sáng sủa” khi được quy định một cách minh thị trong đạo luật có giá trị cao nhất là Hiến pháp thì lại trở nên “mong manh, xa vời” bởi nhận thức chưa thật sự “mở” của nhà làm luật. Thứ hai, do Hiến pháp chưa khẳng định được giá trị trong đời sống pháp lí ở Việt Nam nên quyền lập hội chưa được ghi nhận một cách tương xứng. Mặc dù được coi là “luật gốc” và là văn bản có giá trị cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam song Hiến pháp vẫn chưa có khả năng áp dụng trực tiếp. Bằng chứng là các cơ quan thi hành pháp luật chưa một lần viện dẫn Hiến pháp để giải quyết một vấn đề cụ thể. Chính vì vậy, các nội dung của Hiến pháp trong đó có quyền lập hội không thể trực tiếp triển khai thực hiện trên thực tế mà phải cần đến các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành như các đạo luật, nghị định, thông tư. Cụ thể, Điều 25, Hiến pháp năm 2013 quy định: ‘Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định’. Chính vì vậy, khả năng thực thi của quyền lập hội trên thực tế phụ thuộc chủ yếu vào các văn bản luật (thậm chí là các văn bản dưới luật) chứ bản thân Hiến pháp không thể “tự mình” bảo đảm thực hiện được quyền này. Tham khảo kinh nghiệm ở Liên bang Nga, Điều 30, Hiến pháp nước này quy định: ‘1) Mỗi người đều có quyền lập hội, bao gồm quyền thành lập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình. Sự tự do hoạt động của các hiệp hội xã hội được bảo đảm; 2) Không ai có thể bị ép buộc gia nhập hoặc tham dự vào bất kỳ một hiệp hội nào’. Việc hiến định quyền tự do hiệp hội này là sự bảo đảm chắc chắn bởi lẽ Hiến pháp Nga có hiệu lực trực tiếp và có hiệu lực pháp lí cao nhất, không một văn bản nào có thể trái với nội dung của bản Hiến pháp này. Bên cạnh đó, Hiến pháp Nga còn ghi nhận hệ thống nguyên tắc mà qua đó có thể coi là các công cụ hữu hiệu để thực hiện quyền tự do hiệp hội. Đây là những quy định có hiệu lực trực tiếp, tối thượng và nội dung của nó được coi là có ý nghĩa quan trọng bảo đảm cho việc thực hiện các quyền tự do của con người, của công dân, trong đó đương nhiên có quyền tự do hiệp hội [9, tr111-112]. Nhờ có cơ chế bảo đảm về mặt hiến định nên người dân có quyền viện dẫn các quy định của Hiến pháp để thực hiện và bảo vệ quyền tự do lập hội của mình. Đồng thời, do Hiến pháp có giá trị trực tiếp nên có sự tác động mạnh mẽ để Nhà nước ban hành các đạo luật ghi nhận quyền tự do lập hội của công dân. Vì vậy, ở Liên bang Nga không chỉ có đạo luật riêng điều chỉnh về quyền tự do lập hội [10] mà còn có các đạo luật cụ thể để hướng dẫn việc thành lập và hoạt động của các hội riêng biệt như Luật Liên bang về các tổ chức phi lợi nhuận năm 1996, Luật Liên bang về tự do tín ngưỡng và các tổ chức tôn giáo, Luật về các nghiệp đoàn và các quyền, bảo đảm pháp lí cho hoạt động của nghiệp đoàn năm 1995, Luật về hoạt động từ thiện và các tổ chức từ thiện năm 1995, Luật về hoạt động hỗ trợ nhà nước đối với các 420
- Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” tổ chức thanh niên và trẻ em năm 1995. Ngoài ra, cơ chế bảo hiến ở Nga được coi trọng, bảo hiến có vai trò quan trọng trong đời sống pháp luật ở nước này bởi lẽ Hiến pháp dù có tiến bộ nhưng nếu không được bảo vệ thì những quy định, nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp đều trở thành hình thức. Tòa án Hiến pháp giúp cho các quy định trong Hiến pháp được bảo vệ, trong đó, có các quy định về quyền tự do hiệp hội. Thực tiễn xét xử của Tòa án Hiến pháp Nga đã có nhiều vụ việc, khiếu kiện liên quan đến thực hiện quyền tự do hiệp hội của người dân [9, tr113]. Trong khi đó, Việt Nam chưa có một cơ chế bảo hiến độc lập. Quá trình soạn thảo Hiến pháp năm 2013 đã có đề cập đến việc thiết lập cơ quan bảo hiến song cuối cùng vấn đề này vẫn chưa được các nhà lập hiến mạnh dạn ghi nhận. Chính lí do này đã gián tiếp làm giảm giá trị của các quy định được ghi nhận trong Hiến pháp, trong đó có quyền lập hội. Vì thế, người dân không có bất cứ bảo đảm pháp lí nào để đòi hỏi Nhà nước xây dựng và ban hành đạo luật về quyền tự do lập hội mà chỉ có thể trông đợi vào sự “mặn mà” của Nhà nước trong việc xây dựng và ban hành đạo luật này. Thứ ba, Quốc hội còn “bị động” trong hoạt động lập pháp, trong khi Chính phủ lại mang nặng “tư tưởng quản lí” khi xây dựng các dự thảo luật, trong đó có dự thảo Luật về Hội. Mặc dù Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp với vai trò là cơ quan có thẩm quyền xây dựng và ban hành các đạo luật, tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam cho thấy vai trò làm luật của Quốc hội còn khá mờ nhạt. Nói Quốc hội làm luật nhưng thực chất Quốc hội chỉ là chủ thể thông qua luật, còn Chính phủ mới là “nhà thiết kế”, “kiến trúc sư trưởng” của các dự án luật ở Việt Nam. Thống kê cho thấy, 90% các dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ trực tiếp soạn thảo và trình Quốc hội thông qua. Có thể thấy rằng, Chính phủ đã tác động đến hoạt động lập pháp của Quốc hội trên nhiều khía cạnh tích cực như thúc đẩy Quốc hội ban hành nhiều văn bản luật để đáp ứng yêu cầu quản lí, điều hành của Chính phủ. Vì vậy, nội dung và tiến độ công tác lập pháp của Quốc hội bị chi phối bởi nhu cầu lập pháp của Chính phủ. Mối quan hệ chặt chẽ giữa Quốc hội và Chính phủ thể hiện tập trung trong công tác lập pháp. Điều này xuất phát từ vị trí và chức năng của Chính phủ. Với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất thực hiện chức năng chấp hành và điều hành, các cơ quan trong hệ thống hành pháp thường nhận biết sớm nhất các vấn đề đang phát sinh của cuộc sống. Lúc này, Chính phủ sẽ trình các dự án luật trước Quốc hội. Trên thực tế, Quốc hội không có nhu cầu lập pháp, mà Chính phủ mới thực sự có nhu cầu này và hoạt động hành pháp của Chính phủ đã tạo ra “nguồn nguyên liệu” để Quốc hội thực hiện quyền lập pháp [11, tr112]. Ở nước ta, Chính phủ là cơ quan chủ trì soạn thảo, trình Quốc hội xem xét, ban hành trên 95% các dự án luật [12]. Xuất phát từ đặc trưng của Chính phủ là cơ quan quản lí nhà nước, nên khi xây dựng các dự án luật, những người soạn thảo thường mang tư tưởng quản lí 421
- Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” vào trong các nội dung của các dự thảo luật để bảo đảm khi đạo luật được thông qua thì công tác quản lí nhà nước sẽ được thực hiện một cách thuận lợi và hiệu quả. Mặc dù dự thảo Luật về Hội được giao cho Hội Luật gia chủ trì soạn thảo, tuy nhiên phải có ý kiến của Chính phủ về các nội dung liên quan đến quản lí nhà nước về hội. Với việc đề cao quá mức yếu tố quản lí khi thẩm định dự thảo Luật về Hội đã ít nhiều phá vỡ bản chất của các vấn đề mang tính tự nhiên, đó là quyền tự do lập hội. Tự do là một giá trị tự thân và là một giá trị tuyệt đối. Ngược lại, pháp luật là một sự cần thiết, một giá trị có điều kiện. Xác định phạm vi điều chỉnh của pháp luật nghĩa là xác định việc hạn chế quyền tự do có phải là hoàn toàn cần thiết hay không? [13, tr6] Do Chính phủ muốn can thiệp quá sâu vào tổ chức và hoạt động của các hội nên “trói chặt” quyền tự do lập hội bằng các quy định khắt khe, mang nặng yếu tố quản lí, cơ chế “xin – cho”, điều này đi ngược lại với tính “tự do” của quyền lập hội. Đồng ý rằng, quyền tự do lập hội cũng có thể bị hạn chế trong trường hợp cần thiết vì lí do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; thế nhưng Chính phủ không thể “viện cớ” vào nội dung này để hạn chế “quá mức cần thiết” quyền tự do lập hội, chính điều này đã khiến cho Quốc hội chưa thể thông qua “Luật về hội” mặc dù đã dự thảo nhiều lần và lấy ý kiến rộng rãi trong Nhân dân. Như đã trình bày, tự do lập hội là một quyền hiến định, do đó cần phải được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp lí để bảo đảm thực hiện. Trong tinh thần pháp luật, Montesquie cho rằng, tự do có nghĩa là quyền được thực hiện ý chí của mình hoặc ít nhất là được nói lên quan niệm về thực hiện ý chí đó. Sự tự do trong việc lập hội thể hiện qua việc công dân phải được tự do trong việc thực hiện ý chí của mình hoặc ít nhất được thể hiện ý chí của mình về điều lệ của hội, chương trình đại hội, tiêu chuẩn hội viên, cơ cấu tổ chức của hội như thế nào [14, tr43]. Quyền tự do lập hội chỉ bị giới hạn khi việc thực hiện quyền này xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích chung của cộng đồng. Do đó, khi xây dựng một đạo luật về quyền lập hội, nhà làm luật phải xây dựng các quy phạm pháp luật trên tinh thần hướng dẫn cho hội tổ chức và hoạt động như thế nào để loại trừ việc lợi dụng quyền tự do lập hội xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích chung của cộng đồng chứ không phải tạo ra các hàng rào pháp lí để ngăn cản quyền lập hội. Đáng tiếc rằng, các nhà làm luật chưa nhận ra được giới hạn giữa quyền tự do lập hội với nhu cầu quản lí của Nhà nước nên đã can thiệp quá sâu vào quyền tự do lập hội của công dân. Vì thế, các quy định về tổ chức và hoạt động của hội trong các dự thảo Luật về Hội được đưa ra lấy ý kiến trước đây đều mang nặng ý chí của Nhà nước trong việc thiết lập các quy phạm để quản lí các hội chứ không phải tạo điều kiện để các hội tự do thành lập và hoạt động. Do đó, chúng ta cần phải đổi mới mạnh mẽ tư duy pháp luật theo quan điểm pháp luật. Điều này không chỉ thiết lập sự an toàn cho quản lí mà quan trọng hơn, nó giúp kiến tạo một môi trường, một hành lang thuận lợi, dẫn dắt và thúc đẩy phát triển. Mục tiêu cuối cùng của quản lí nhà nước phải là phục vụ nhân dân và kiến tạo phát triển, không phải chỉ đơn thuần là sự an toàn cứng nhắc của xã hội. Để 422
- Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” chuyển đổi được từ tư duy quản lí sang tư duy phục vụ và kiến tạo phát triển, các cơ quan chuyên môn cũng cần phải thay đổi nhiều nhận thức và cách làm trong quy trình xây dựng pháp luật hiện hành [15, tr9]. Trong khi đó, ở Liên Bang Nga, theo quy định của Luật Liên bang về các hiệp hội xã hội, Nhà nước Nga cam kết quyền tự do thành lập hội, tham gia vào các hội hay rút khỏi các hiệp hội. Luật này ghi nhận việc “đăng kí” thành lập hội chỉ quyền chứ không phải là nghĩa vụ. Điều này có nghĩa là người dân có quyền thành lập chứ không phải xin phép thành lập hội. Nhà nước chỉ khuyến khích các hiệp hội đi đăng kí bằng cơ chế trao thêm quyền cho các hội, chẳng hạn như các hội có đăng kí với Nhà nước sẽ được trao quyền pháp nhân cho tổ chức hoặc cơ quan đại diện hiệp hội. Rõ ràng, đây là cơ chế pháp lí quan trọng để bảo đảm thực thi quyền tự do lập hội ở Liên bang Nga, trong khi đó, Việt Nam đặt ra “hàng rào kĩ thuật” trong các dự thảo luật về hội bằng cách bắt phải đăng kí mới được thành lập hoặc nếu không “hợp mắt” thì Nhà nước có thể không cấp phép cho thành lập [9, tr112]. 3. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG KHI XÂY DỰNG LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI Ở VIỆT NAM Một là, như đã trình bày, quyền tự do lập hội là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận. Do đó, việc xây dựng một đạo luật chuyên ngành để bảo đảm thực hiện quyền này của công dân là hết sức cần thiết. Do vậy, Quốc hội phải “vượt lên chính mình” để vượt qua được các rào cản đã phân tích để nhanh chóng ban hành được đạo luật về quyền tự do lập hội ở Việt Nam. Bên cạnh đó, việc tham gia các công ước quốc tế về quyền con người đòi hỏi nhà nước ta có nghĩa vụ thực thi các cam kết quốc tế trong việc luật hóa quyền tự do lập hội của công dân, phải có những bước đi cụ thể trong việc xây dựng pháp luật về hội, với các quy phạm mang tính nguyên tắc về quyền lập và gia nhập hội, quyền hoạt động tự do và được bảo vệ khỏi những can thiệp phi lí, quyền tiếp cận các nguồn vốn và nguồn lực và quyền có cơ chế khắc phục hiệu quả đối với các hành vi vi phạm quyền tự do lập hội của các cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó, pháp luật về hội cũng sẽ phải bảo đảm thực thi quyền tự do lập hội không tổn hại cho xã hội và sự vận hành của Nhà nước. Vấn đề đặt ra là đâu là ranh giới giữa quyền tự do lập hội và hạn chế cần thiết đối với quyền này để bảo đảm quyền tự do lập hội không bị bóp méo nhằm phục vụ những mục đích phi dân chủ [16, tr50]. Hai là, về tên gọi của đạo luật. Đạo luật điều chỉnh về hội lần đầu tiên ở nước ta được ban hành năm 1957 có tên gọi là Luật Quy định quyền lập hội. Trong khi đó, tất cả các bản dự thảo trước và sau Hiến pháp năm 2013 ban hành sử dụng tên gọi là Luật về Hội. Tuy nhiên, theo quan điểm nhiều nhà nghiên cứu và của tác giả bài viết này, tên gọi Luật về Hội chưa phù hợp với quy định về quyền lập hội. Quyền lập hội là một trong những quyền chính trị, dân sự quan trọng của con người đã được ghi nhận trong những văn kiện pháp lí quốc tế cũng như các 423
- Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” bản Hiến pháp của nước ta. Ở góc độ quyền chính trị, quyền lập hội tạo điều kiện cho các cá nhân liên kết lại với nhau để tạo thành sức mạnh tập thể, từ đó tạo ra tiếng nói chung để tác động đến Nhà nước, cùng Nhà nước thực hiện những mục tiêu của hệ thống chính trị, giám sát hoạt động của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi của hội viên và chống lại các tiêu cực trong xã hội như tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cựa quyền. Ở góc độ quyền dân sự, hội do các cá nhân liên kết với nhau để thành lập trên cơ sở tự nguyện, các cá nhân có quyền lựa chọn và quyết định việc tham gia hoặc ra khỏi hội. Việc tổ chức, hoạt động của hội theo điều lệ được xây dựng trên cơ sở ý chí thống nhất của toàn thể hội viên. Thông qua hội, cá nhân, tổ chức thực hiện các quyền nhân thân và quyền tài sản của mình. Hội là nơi giao lưu, bảo vệ quyền lợi của các các hội viên và cũng là nơi thể hiện bản sắc, truyền thống đoàn kết của người Việt Nam [7]. Qua đó, có thể thấy rõ tính “xã hội” rộng rãi của hội và pháp luật cần tôn trọng điều này. Bùi Ngọc Sơn cho rằng lập hội là chuyện tự nhiên và riêng tư của người dân, nhà nước chỉ can thiệp ở mức độ làm sao cho các hội không ảnh hưởng xấu đến các cấu phần khác của xã hội: gia đình, thị trường, chính phủ hoặc việc làm hại lẫn nhau giữa các hội. Ông cho rằng nếu sử dụng tên gọi Luật về Hội thì đạo luật không thể tránh khỏi việc chứa đựng những nội dung định hướng cho tổ chức và hoạt động của hội theo ý chí của nhà nước, trong khi đó theo tinh thần của Hiến pháp, đạo luật này được ban hành để bảo đảm quyền tự do lập hội [14, tr43]. Trong khi đó, Thái Vĩnh Thắng cho rằng tên gọi Luật về Hội vẫn chưa nêu bật lên được tính xã hội của các hội và với tên gọi như vậy thì luật này vẫn hàm chứa việc nhà nước sẽ quản lí và điều phối hoạt động của hội, do đó ông đề xuất nên đổi tên thành Luật về lập Hội, có như vậy mới nêu bật được quyền và sự tự chủ của người dân khi tham gia vào việc lập, tham gia quản lí hoạt động của hội [2, tr37]. Tác giả bài viết này cũng đồng tình với quan điểm của các nhà nghiên cứu nói trên vì tên gọi Luật về Hội còn mang nặng tính hành chính, chưa thể hiện được bản chất của hội. Vì thế, cần đặt tên đạo luật là Luật về quyền tự do lập hội để phản ánh đúng bản chất của đạo luật này. Ba là, cần chuyển đổi từ tư duy quản lí sang tư duy kiến tạo phát triển trong xây dựng đạo luật về quyền tự do lập hội. Nhà nước kiến tạo phát triển là Nhà nước pháp quyền, quản trị đất nước bằng pháp luật và theo pháp luật, bảo đảm các quyền con người và quyền công dân, ít can thiệp hành chính vào đời sống xã hội. Nói cách khác, muốn xây dựng một Nhà nước kiến tạo phát triển thì việc trước nhất và cơ bản nhất mà Nhà nước cần làm là phải xây dựng được một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển của hiện tại cũng như phải phù hợp với xu thế phát triển của tương lai. Hệ thống pháp luật đó cần phải được xây dựng và hoàn thiện bằng một tư duy mới đó là làm luật vì mục tiêu tạo dựng cho phát triển chứ không phải là để quản lí, giám sát theo nghĩa cai trị. Nói đúng hơn, làm luật không phải chỉ để quản lí, để bảo đảm an toàn xã hội một cách thuần túy và cứng nhắc theo kiểu tư duy cũ mà phải hướng đến việc tạo dựng một môi 424
- Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” trường, một hành lang pháp lí an toàn, thuận lợi cho sự phát triển của xã hội. Với chủ trương xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, mục tiêu kiến tạo phát triển của pháp luật cũng phải được nhận thức là mục tiêu chủ yếu [15, tr9]. Do đó, với tinh thần xây dựng khung pháp lí để cụ thể hóa quyền tự do lập hội của công dân, chúng tôi cho rằng khi xây dựng Luật về Hội, nhà làm luật cần đặc biệt chú trọng đến tư duy làm luật theo hướng tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp lí để công dân thực hiện hiệu quả quyền tự do lập hội trên thực tế. Do vậy, nội dung của Luật về Hội phải được xây dựng theo hướng tạo điều kiện, thúc đẩy quyền tự do lập hội của công dân, tạo điều kiện cho các hoạt động của hội được độc lập, tự chủ và không nên thiết lập các quy định mang tính hành chính nhà nước cho các hoạt động thành lập, tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội [17, tr19]. Bốn là, luật về quyền tự do lập hội phải khuyến khích hoạt động của hội để hướng tới mục tiêu xây dựng một xã hội đa dạng, dân chủ và phát triển bền vững. Thực tiễn ở nhiều quốc gia cho thấy rằng sự hình thành và hoạt động của các tổ chức xã hội do quyền tự do lập hội được phát huy đã và đang mang lại những lợi ích, đóng góp với những giá trị vật chất và phi vật chất to lớn cho cộng đồng, xã hội và quốc gia. Tính đa dạng về hình thức tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội góp phần phát huy tối đa các nguồn lực xã hội, các sáng kiến cộng đồng để cùng với Nhà nước giải quyết các vấn đề chung. Sự tham gia của các tổ chức xã hội vào những công việc, lĩnh vực mà Nhà nước đang thực hiện có thể được coi là một sự chia sẻ gánh nặng trách nhiệm từ Nhà nước sang xã hội dân sự. Nơi nào xã hội dân sự được chia sẻ trách nhiệm như vậy thì nơi đó Nhà nước đang thực sự ý thức được rằng sự nghiệp phát triển không phải là một công việc riêng, “độc quyền” của Nhà nước mà sự nghiệp đó là của Nhân dân, người dân được tham gia và thực hiện vì Nhân dân [18, tr16]. Việc phát huy các giá trị tích cực của các hội không chỉ có ý nghĩa trong việc hỗ trợ Nhà nước giải quyết các vấn đề mang tính “quốc kế dân sinh”, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội mà còn có ý nghĩa trong việc hạn chế các mục đích bất hợp pháp trong việc thành lập và hoạt động của các hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phạm Thị Hồng. Xây dựng pháp luật về hội ở Việt Nam: Nên đi từng bước. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2003;11. [2] Thái Vĩnh Thắng. Một số ý kiến về Dự thảo Luật về Hội. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2016;10. [3] Luật về Hội của Cộng hòa Ba Lan năm 1989 (Law on Associations 7 April 1989). [4] Luật về Hội của Cộng hòa Serbia năm 2009 (The law on Associations 14 July 2009). 425
- Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” [5] Nguyễn Đăng Dung. Nhà nước pháp quyền là nhà nước phòng chống sự tùy tiện. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2009;8. [6] Hoàng Văn Nghĩa. Dân chủ và việc thực hiện quyền dân chủ. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2003;1. [7] Anh Chi. Trình Quốc hội dự án Luật về Hội. Truy cập từ: https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/trinh-quoc-hoi-du-an-luat-ve-hoi- 247557/ [Ngày truy cập 22/11/2020]. [8] Thế Dũng. Luật hóa quyền lập hội. Truy cập từ: http://nld.com.vn/thoi-su- trong-nuoc/luat-hoa-quyen-lap-hoi-2015092422330766.htm [Ngày truy cập 22/11/2020]. [9] Mai Văn Thắng. Luật về hội và cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tự do hiệp hội ở Nga. Tạp chí Quản lí Nhà nước. 2016;248. [10] Đạo luật Liên bang số 82-FZ về các hiệp hội xã hội ban hành ngày 19/5/1995, được sửa đổi 11 lần (lần gần nhất là ngày 30/1/2016). Đạo luật này quy định về các hình thức hiệp hội; các quyền, nghĩa vụ của các hiệp hội xã hội; quá trình, điều kiện thành lập, chấm dứt hoạt động, các bảo đảm pháp lí thực hiện quyền tự do hiệp hội cũng như những quy định quản lí nhà nước trong trường hợp vi phạm pháp luật về tự do hiệp hội ở Nga. [11] Cao Vũ Minh. Quyết định quản lý nhà nước của Chính phủ – Lý luận và thực tiễn. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật; 2017. [12] Nguyễn Đăng Dung. Lại bàn về nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phân nhiệm giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2011;12. [13] Nguyễn Sĩ Dũng. Bàn về triết lí của lập pháp. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2003;6. [14] Bùi Ngọc Sơn. Từ giới hạn của pháp luật đến điểm dừng của Luật về Hội. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2007;27. [15] Đinh Dũng Sỹ. Hệ thống pháp luật Việt Nam trong tiến trình đổi mới và phát triển đất nước. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp. 2020;1. [16] Trần Việt Dũng. Bảo đảm quyền tự do hiệp hội trong Luật quốc tế và pháp luật của Đức: Một số góp ý cho Dự thảo Luật về Hội của Việt Nam. Tạp chí Khoa học Pháp lý. 2017;2. [17] Trương Hồng Quang. Một số góp ý cho Dự thảo Luật về Hội. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. 2015;11. [18] Hoàng Ngọc Giao. Một số ý tưởng cơ sở trong việc xây dựng luật về hội. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. 2005;12. 426
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬT Ề SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG SỐ 20/2004/QH11 NGÀY 15 THÁNG 6 NĂM 2004
10 p | 820 | 231
-
NGHỊ ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ DỰ ÁN XÂY DỰNG ĐẦU TƯ CÔNG TRÌNH
0 p | 799 | 160
-
Quy định luật về Luật giao thông đường bộ
10 p | 388 | 110
-
Đề cương môn học: Kinh tế và Luật xây dựng (Có đáp án)
16 p | 416 | 75
-
Quản lý nhà ở, xây dựng và Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân: Phần 2
89 p | 111 | 16
-
Tố tụng rút gọn trong giải quyết tranh chấp tiêu dùng
8 p | 102 | 8
-
Đánh giá thực trạng công tác thu hồi đất giải phóng mặt bằng của dự án xây dựng khu đô thị mới Thịnh Liệt, Quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội
13 p | 126 | 8
-
Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự của Việt Nam: Suy ngẫm về những nguyên tắc cơ bản
11 p | 83 | 7
-
Tìm hiểu Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005: Phần 1
21 p | 121 | 6
-
Kinh tế chia sẻ trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và một số yêu cầu về xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay
7 p | 25 | 4
-
Các yêu cầu đặt ra khi xây dựng pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế – xã hội
16 p | 6 | 4
-
Nhu cầu xây dựng chế định hủy việc nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam
8 p | 29 | 3
-
Vai trò của Bộ luật Dân sự năm 2015 trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
8 p | 36 | 3
-
Đặc khu hành chính - kinh tế Vân Đồn: Tiềm năng và phát triển
7 p | 46 | 2
-
Các quy định của pháp luật về công an xã - thực trạng và kiến nghị
4 p | 40 | 2
-
Giá trị xã hội của Pháp luật Việt Nam hiện nay - Lý luận và thực tiễn: Phần 1
170 p | 5 | 2
-
Lý luận về xây dựng pháp luật quản lý người lao động nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực giáo dục tại Việt Nam hiện nay
7 p | 6 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn