intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Niên luận Công nghệ môi trường: Nghiên cứu, đánh giá khả năng xử lý Asen trong nước ngầm bằng Hyđroxit sắt theo dạng mẻ

Chia sẻ: Băng Băng | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:26

107
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Niên luận Công nghệ môi trường: Nghiên cứu, đánh giá khả năng xử lý Asen trong nước ngầm bằng Hyđroxit sắt theo dạng mẻ được tiến hành nghiên cứu với mục đích nghiên cứu khả năng xử lý asen của sắt (III) hyđroxit và các ứng dụng của sắt(III) hyđroxit trong xử lý asen, nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian, giá trị của pH, tỉ lệ của Fe(III) và As(III) đến khả năng xử lý asen, nghiên cứu động học hấp phụ, trạng thái cân bằng của asen hấp phụ trên sắt (III) hyđroxit. Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Niên luận Công nghệ môi trường: Nghiên cứu, đánh giá khả năng xử lý Asen trong nước ngầm bằng Hyđroxit sắt theo dạng mẻ

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN KHOA MÔI TRƯỜNG ­­­­­­­­ NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG XỬ LÝ  ASEN TRONG NƯỚC NGẦM BẰNG HYĐROXIT  SẮT THEO DẠNG MẺ NIÊN LUẬN CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG Cán bộ hướng dẫn: PGS.TS.NGUYỄN MẠNH KHẢI Hà Nội ­ Năm 2016. MỤC LỤC Nội dung Trang  VÀ BẢNG Trang Hình 1. Một mẫu lớn chứa As tự nhiên.............................................................3 Hình 2. Asenic ....................................................................................................3 Hình 3. Mô hình tinh thể As và cấu trúc nguyên tử As......................................4 Hình 4. Các con đường As thâm nhập vào cơ thể con người...........................6 Hình 5. Động học quá trình As(III) hấp phụ bởi hydroxit sắt theo thời gian......... 13
  2. Hình 6. Động học hấp phụ của As(III) tại giá trị pH khác nhau.....................13 Hình 7. Ảnh hưởng của pH đến lượng As III bị hấp phụ bởi hyđroxit sắt............ 14 Hình 8.  Ảnh hưởng giữa tỷ  lệ  Fe/As và hàm lượng As(III) còn lại trong dung  dịch cân bằng.....................................................................................................15  Hình 9. Tương quan giữa tỉ lệ Fe/As và hiêu  xuất xử lý................................15 Hình 10. Bố trí thí nghiệm xác định phương pháp...........................................18 Hình 11: Vật liệu hấp phụ sắt(III) hydroxit – bã mía......................................20 Hình 12: Ảnh hưởng của pH đến khả năng xử lý As(V).................................20 Hình 13: Hấp phụ đẳng nhiệt của As(V) ở nồng độ As ban đầu...................21 Bảng 1: Hiệu suất hấp phụ As của vật liệu...................................................18
  3. MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Ô nhiễm nước đang là một vấn đề nóng bỏng và là mối quan tâm hàng đầu trên  thế giới hiện nay. Các chất ô nhiễm có thể tồn tại trong nước ở cả hai dạng tan hoặc   không tan như  các chất hữu cơ, các hợp chất của nitơ, kim loại nặng.... Trong đó ô  nhiễm asen nguồn nước ngầm đang là mối nguy cơ  lớn về  môi trường trên thế  giới.  Hàng triệu người ở các nước đang tiếp xúc với asen ở hàm lượng cao trong các giếng  nước ngầm, được ghi nhận  ở  Chile, Mexico, Trung Quốc, Argentina, Mỹ, Hungary   cũng như ở Ấn Độ bang Tây Bengal, Bangladesh, và Việt Nam [6].Tại Việt Nam, nước  ngầm được sử  dụng làm nước sinh hoạt chính của nhiều cộng đồng dân cư. Sự  có  mặt của asen trong nước ngầm tại nhiều khu vực, nhất là vùng nông thôn Việt Nam đã  và đang gây ra nguy cơ cho sức khỏe con người. Theo thống kê của bộ y tế, tính đến   năm 2010, hiện có 21% dân số Việt Nam đang dùng nguồn nước nhiễm asen vượt quá  mức cho phép và tình trạng nhiễm độc asen ngày càng rõ rệt và nặng nề trong dân cư,  đặc biệt ở khu vực sông Hồng.   Asen là một chất độc, độc gấp 4 lần thủy ngân. Asen tác động xấu đến hệ  thần kinh. Nếu bị nhiễm độc từ từ, mỗi ngày một ít, tùy theo mức độ bị nhiễm và thể  trạng mỗi người, có thể  xuất hiện nhiều bệnh như: rụng tóc, buồn nôn, sút cân, ung  thư, giảm trí nhớ...[1].Asen làm thay đổi cân bằng hệ thống enzim của cơ thể, nên tác   hại của nó đối với phụ nữ và trẻ  em là rất lớn. Ngộ độc asen gây ra hậu quả nghiêm  trọng cho đời sống, cuộc sống gia đình, khả  năng kiếm sống khi mà các cá nhân gặp  nạn. Với sự ô nhiễm cao asen  ở  một khu vực có thể  dẫn đến căng thẳng xã hội, sự  nghèo đói, sự  giảm giá cả  thị trường do sản phẩm nhiễm bẩn dẫn đến thu nhập của   nông dân thấp [8]. Hiện nay, ô nhiễm asen được ước tính có ảnh hưởng đến hơn 150 triệu người  trên thế giới với nồng độ ngày càng cao của nó trong nước uống [7]. Nhiễm độc asen  chủ yếu  ở  các đồng bằng lớn và các lưu vực sông lớn trên toàn thế  giới như  ở  đồng 
  4. bằng Bengal, đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, Campuchia [4]. Các  nguồn nước ngầm nhiễm độc asen ở Bangladesh đang là mối nguy hiểm lớn nhất trên  thế giới đối với người dân bị ảnh hưởng. Hàng triệu giếng ngầm cấp nước bị nhiễm   độc asen, do đó khoảng 80 triệu người có khả  năng nhiễm độc asen [8]. Các nghiên   cứu hiện đại của  Chakraboti (2010) cho thấy 27,2% số 52.202 mẫu nước các giếng   thu thập từ  64 huyện của Bangladesh có lượng asen cao hơn 0,05 mg/ L. Hơn nữa,   Shiai (2011) thu thập 30 mẫu nước từ tầng nước ngầm cạn qua ống giếng và phân tích  asen thì có 26 mẫu cho thấy sự hiện diện của asen vượt quá giới hạn an toàn 0,05mg/L   ở Bangladesh [8]. Vì vậy cần phải tìm ra các giải pháp nhằm loại bỏ asen khỏi nguồn   nước ngầm để bảo vệ sức khỏe của con người. Hiện tại trên thế giới và ở Việt Nam đã và đang áp dụng nhiều phương pháp xử  lý asen như: oxi hóa, hấp phụ, trao đổi ion, kết tủa, lắng lọc...Trong đó có nhiều công   trình   đã   thành  công   trong   việc   sử   dụng   vật  liệu   mới   như   đá   ong   biến   tính,   nano   cacbon....để  xử  lý asen. Xuất phát từ  thực tế  trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề  tài: “   Nghiên cứu, đánh giá khả  năng xử  lý Asen trong nước ngầm bằng hyđroxit sắt   theo dạng mẻ”. 2. Mục tiêu của nghiên cứu ­ Nghiên cứu khả  năng xử  lý asen của sắt (III) hyđroxit và các  ứng dụng của  sắt(III) hyđroxit trong xử lý asen. ­ Nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian, giá trị  của pH, tỉ lệ của Fe(III) và As(III)  đến khả năng xử lý asen. ­ Nghiên cứu động học hấp phụ, trạng thái cân bằng của asen hấp phụ  trên sắt  (III) hyđroxit. 
  5. Chương 1. Tổng quan về Asen 1.1. Giới thiệu chung về asen Asen( As) là nguyên tố  phổ  biến thứ  20 trong vỏ  trái đất, thứ  14 trong nước   biển và thứ 12 trong cơ thể con người [1]. Asen là nguyên tố hóa học thuộc phân nhóm   chính nhóm V trong bảng hệ thống tuần hoàn Mendeleep. As có thể tồn tại trong hợp   chất vô cơ hoặc hợp chất hữu cơ với bốn mức hóa trị là ­3, 0, +3 và +5. Trong nước tự  nhiên, As tồn tại chủ yếu  ở 2 dạng hợp chất vô cơ là asenat [As(V)], asenit [As(III)],   As(V) là dạng tồn tại chủ yếu của As trong nước bề mặt và As(III) là dạng chủ yếu   của As trong nước ngầm. Asen là một nguyên tố không chỉ có trong nước mà còn có trong không khí, đất,   thực phẩm và có thể  xâm nhập vào cơ  thể  con người, nguyên nhân chủ  yếu khiến  nhiều vùng  ở  nước ta nhiễm asen là do cấu tạo địa chất. Trong công nghiệp asen có  trong ngành luyện kim, xử lý quặng, sản xuất thuốc bảo vệ thực vật, thuộc da. Asen   thường có mặt trong thuốc trừ sâu, diệt nấm, diệt cỏ dại.... Ngoài ra, những khu vực người dân tự  động đào và lấp giếng không đúng tiêu   chuẩn kỹ  thuật khiến chất bẩn, độc hại bị  thẩm thấu xuống mạch nước, cũng như  việc khai thác nước ngầm quá lớn làm cho mực nước trong giếng hạ xuống khiến cho   khí oxy đi vào địa tầng và gây ra phản  ứng hóa học tạo ra thạch tín từ  quặng pyrite   trong đất và nước ngầm nông.
  6. Tính chất vật lý của asen Ở   vị   trí   thứ   33   trong   bảng   tuần   hoàn   Mendeleep   có   cấu   trúc   electron   là:  [Ar]3d10.4s2.4p3. Asen mang nhiều độc tính tương tự như một số kim loại nặng như chì   và thủy ngân, khối lượng phân tử là 74,9216g/mol. Asen dạng nguyên tố ( hóa trị 0) là dạng không tan trong nước và rất hiếm gặp  ở  trạng thái tự  do. As là một á kim độc hại được tìm thấy là một chất gây ô nhiễm   nước ngầm nghiêm trọng trên toàn thế giới [5]. Nó tồn tại ở một số dạng thù hình: phi  kim loại và kim loại.   Dạng phi kim loại của As được hình thành khi làm ngưng tụ  hơi tạo nên chất  rắn màu vàng gọi là As vàng. As vàng có mạng lưới lập phương, gồm những phần tử  As4  liên kết với nhau bằng lực Vanderwall, tan trong Cs 2  cho dung dịch gồm những  phần tử  tứ  diện As4. As vàng kém bền,  ở  nhiệt độ  thường nó chuyển sang kim loại  [1]. Dạng kim loại của As có màu bạc trắng, là chất dạng polyme có mạng lưới   nguyên tử, mỗi nguyên tử As liên kết với 3 nguyên tử As bao quanh bằng liên kết As­ As. Nó có khả  năng dẫn điện, dẫn nhiệt, nhưng giòn dễ  nghiền thành bột, không tan  trong Cs2 [1]. Hình 3: Mô hình tinh thể As và cấu trúc nguyên tử của As Tính chất hóa học của As
  7. Asen có khả  năng cộng kết với nhiều các oxit kim loại như  Fe, Mg, Al, Zn.   Trong môi trường khí hậu khô: các hợp chất asen dễ bị hòa tan, rửa trôi , dễ xâm nhập   vào đất, vào nước, vào không khí. Asen tham gia phản  ứng với oxy trở  thành dạng   As2O3 rồi sau đó thành As2O5, nếu trong môi trường yếm khí thì As(V) sẽ  bị  khử  về  trạng thái As(III). 1.2. Độc tính của asen a. Con đường xâm nhập của Asen Nhiễm độc As đã được xác định là một vấn đề mang tính cộng đồng. Về ngắn   hạn, tiếp xúc với As có thể  gây ra các vấn đề  đến da, hô hấp, tiêu hóa và tim mạch,   gây đột biến và ung thư, có tác động đến hệ thống miễn dịch. As có vai trò trong trao  đổi nuclein, tổng hợp protit và hemoglobin. As ảnh hưởng đến thực vật như một chất   cản trở  trao đổi chất, làm giảm mạnh năng suất, đặc biệt trong môi trường thiếu  photpho. Độc tính của các hợp chất As đối với sinh vật dưới nước tăng dần theo dãy  Asasenat  asenit  hợp chất asen hữu cơ. Độc tính của As liên quan đến sự hấp thụ và thời gian lưu của nó trong cơ thể.  Liều lượng gây chết của asen (LD 50) đối với con người là 1­4 mg/kg trọng lượng. As   xâm nhập vào cơ  thể bằng tất cả  các con đường như  hít thở, ăn uống và thẩm thấu   qua da. As đi vào cơ  thể  người thông qua chuỗi thức ăn trong một ngày đêm khoảng  25­50 , qua bụi không khí 1,4 g, các đường khác 0,04­1,4g. Trong đó uống nước nhiễm   As là con đường xâm nhập chính. Khi đi vào cơ  thể  As thể  hiện tính độc bằng cách  tấn công nên các nhóm –SH của enzim, làm cản trở hoạt động của enzim.
  8. Hình 4 : Các con đường As thâm nhập vào cơ thể con người [1]. Do sự tương tự về tính chất hóa học với phospho, As can thiệp vào một số quá  trình hóa sinh làm rối loạn phospho. Ta thấy hiện tượng này khi nghiên cứu sự  phát  triển hóa sinh của các chất sinh năng lượng chủ  yếu là ATP. Một số  giai đoạn quan   trọng trong quá trình hình thành và phát triển của ATP là tổng hợp enzim của 1,3­ diphotphatglixerat từ glixeandehit­3­photphat. Vì vậy, As xẽ dẫn đến sự tạo thành hợp  chất 1­aseno­3­photphoglixerat gây cản trở giai đoạn này [1]. Asen (III)  ở  nồng độ  cao làm đông tụ  các protein do sự  tấn công liên kết của   nhóm sunfua bảo toàn các cấu trúc bậc 2 và bậc 3 [1]. Như  vậy, asen tác động theo 3  cơ chế: làm đông tụ protein, tạo phức với enzim, phá hủy các quá trình photpho hóa. b. Ảnh hưởng của asen đến sức khỏe con người Nhiễm độc As thường qua đường hô hấp và tiêu hóa dẫn đến các thương tổn da   như tăng hay giảm màu da, tăng sừng hóa, ung thư da và phổi, ung thư bàng quang, ung   thư  thận, ung thư  ruột....Ngoài ra, asen còn có thể  gây các bệnh khác như: to chướng   gan, bệnh đái đường, bệnh sơ gan.... Khi cơ thể bị nhiễm độc asen, tùy theo mức độ và 
  9. thời gian tiếp xúc sẽ biểu hiện những triệu chứng với những tác hại khác nhau, chia ra  làm 2 loại sau: Nhiễm   độc   cấp   tính:   Qua   đường   tiêu   hóa   khi   anhydrit   arsenous     hoặc   chì   arsenate vào cơ thể sẽ biểu hiện các triệu chứng nhiễm độc như rối loạn tiêu hóa (đau   bụng, nôn, bỏng, khô miệng, tiêu chảy nhiều và cơ  thể  bị  mất nước...). Bệnh cũng  tương tự như bệnh tả có thể dẫn tới tử vong từ 12­18 giờ. Trong trường hợp nếu còn  sống, nạn nhân có thể  bị  viêm da tróc vẩy và viêm dây thần kinh ngoại vi. Một tác   động đặc trưng khi bị  nhiễm độc asen dạng hợp chất vô cơ  qua đường miệng là sự  xuất hiện các vết màu đen và sáng trên da. Qua hô hấp ( hít thở không khí có bụi, khói   có bụi, khói hoặc hơi Asen): có các triệu chứng như: kích ứng các đường hô hấp với   biểu hiện ho, đau khi hít vào, khó thở, rối loạn thần kinh như  nhức đầu, chóng mặt,  đau các chi, hiện tượng xanh tím mặt được cho là tác dụng gây liệt của Asen đối với  các mao mạch. Ngoài ra còn có các tổn thương về mắt như: viêm da mí mắt, viêm kết  mạc. Nhiễm độc mãn tính: Trong môi trường tiếp xúc thường xuyên với asen ở nồng  độ vượt quá độ an toàn nhưng chưa có thể gây độc cấp tính, asen gây nhiễm độc mãn   tính và thường biểu hiện  ở  các triệu chứng lâm sàng như: mệt mỏi, chán ăn, giảm   trọng lượng cơ  thể, xuất hiện các bệnh về  dạ  dày, ngoài da, gan bàn chân, rối loạn  chức năng gan. Nhiễm độc As mãn tính thường xảy ra sau 2­8 tuần. 1.3. Tình hình ô nhiễm asen trên thế giới và Việt Nam Ô nhiễm asen trên thế giới Hiện nay trên thế giới có hàng chục triệu người đã bị  bệnh đen và rụng móng   chân, sừng hóa da, ung thư da...do sử dụng nguồn nước sinh hoạt có nồng độ asen cao.   Nhiều nước và vùng lãnh thổ  đã phát hiện hàm lượng As rất cao trong nguồn nước   sinh   hoạt   như   Canada,   Alaska,   Chile,   Argentina,   Trung   Qu ốc,   India,   Thái   Lan,  Bangladesh, Việt Nam....
  10. Ở Trung Quốc, trường hợp bệnh nhân nhiễm độc Asen đầu tiên được phát hiện  từ năm 1953. Số liệu thống kê cho thấy 88% nhiễm qua thực phẩm, 5% tư không khí  và 7% từ  nước uống. Đến năm 1993 mới có 1546 nạn nhân của căn bệnh nhiễm độc  Asen nhưng cho đến thời điểm này đã phát hiện 13500 bệnh nhân trong số  558.000   người được kiểm tra ở 462 làng thuộc 47 vùng bị liệt vào khu vực nhiễm As cao. Trên  cả  nước Trung Quốc có tới 13­14 triệu người sống trong những vùng có nguồn bị  ô   nhiễm As cao, tập trung nhiều nhất ở tỉnh An Huy, Sơn Tây, Nội Mông, Ninh Hạ, Tân   Cương. Tại Sơn Tây đã phát hiện 105 làng bị ô nhiễm Asen, hàm lượng As tối đa thu   được trong nước uống là 4,43 mg/l gấp 433 lần giá trị  Asen cho phép của Tổ  chức Y  tế Thế giới WHO (10g/l) [1]. Khu vực có vấn đề lớn nhất là đồng bằng châu thổ sông Ganges nằm giữa Tây  Bengal của  Ấn  Độ  và Bangladesh.  Ở  Tây Bengal, trên 40 triệu người có nguy cơ  nhiễm độc Asen do uống trong các khu vực có nồng độ  asen cao. Tới nay đã có 0.2   triệu người bị  nhiễm và nồng độ  As tối đa trong nước cao gấp 370 lần nồng độ  cho   phép của WHO. Tại Bangladesh, trường hợp đầu tiên nhiễm As mới được phát hiện  vào năm 1993, nhưng cho đến nay có tới 3000 người chết vì nhiễm độc As mỗi năm và  77 triệu người có nguy cơ nhiễm Asen [9]. Con số bệnh nhân nhiễm độc Asen  ở Argentina cũng có tới 20000 người. Ngay  cả  các nước phát triển mạnh như  Mỹ, Nhật Bản cũng đang phải đối phó với thực   trạng ô nhiễm Asen.  Ở  Mỹ, theo những nghiên cứu mới nhất cho thấy trên 3 triệu  người dân Mỹ có nguy cơ nhiễm độc Asen, mức độ nhiễm Asen trong nước uống dao   động từ  0,045­0,092 mg/l. Còn  ở  Nhật Bản, những nạn nhân đầu tiên có triệu chứng  nhiễm Asen đã được phát hiện từ  năm 1971, cho đến năm 1995 đã có 217 nạn nhân  chết vì Asen [1]. Ô nhiễm Asen ở Việt Nam Do cấu tạo tự nhiên của địa chất, nhiều vùng của nước ta nước ngầm bị nhiễm   Asen, điển hình là hai vùng đồng bằng châu thổ  sông Hồng và sông Mekong. Theo 
  11. thống kê chưa đầy đủ, hiện có khoảng hơn 1 triệu giếng khoan, nhiều giếng trong số  này có nồng độ  Asen cao hơn từ  20­50 lần theo tiêu chuẩn của Bộ  Y tế  và của Tổ  chức Y tế  Thế  giới WHO (0,01mg/l), gây  ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng  của người dân. Mười triệu người Việt Nam có nguy cơ  mắc các bệnh do ăn phải  nguồn nước bị nhiễm Asen cao hơn mức cho phép. Ở  khu vực đồng bằng sông Hồng, nồng độ  As trong nước ngầm dao động rất  lớn trong khoảng từ 10g/L và 1 triệu người  sử dụng nước ngầm nhiễm As với nồng độ >50 g/L.  Kết quả điều tra tình hình cấp nước sinh hoạt tại xã Văn Lý, huyện Lý Nhân và   Bình Nghĩa, huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam cho thấy các hộ dân chủ yếu sử dụng nước   giếng khoan, nước giếng khơi và nước mưa cho sinh hoạt, ăn uống. Theo điều tra cho  thấy việc khoan giếng để khai nước ngầm của các hộ dân ở Hà Nam không chú ý đến   khoảng cách tối thiểu giữa vị trí giếng với các công trình chăn nuôi, hố xí mà chủ yếu   căn cứ vào các vị trí thuận tiện cho sinh hoạt của hộ gia đình. Kết quả phân tích tại xã   Văn Lý với 10 mẫu nước nghiên cứu thì có 1/10 mẫu có hàm lượng asen dưới 10g/L,  9/10 mẫu nước có hàm lượng asen lớn hơn 50g/L; tại xã Bình Nghĩa với 10 mẫu nước   nghiên cứu thì không có mẫu nước nào có hàm lượng asen nhỏ  hơn 10g/L, 5/10 mẫu   nước có hàm lượng asen nằm trong khoảng 10­50g/L, còn lại 5/10 mẫu nước có hàm   lượng asen lớn hơn 50g/L [2]. Hàm lượng As trong nước ngầm  ở  xã Trung Châu,  huyện Đan Phượng, Hà Nội hầu hết đều vượt quá giới hạn tối đa cho phép đối với As   trong nước sinh hoạt (10g/L) từ 2­4 lần [3].
  12. Chương 2. Tìm hiểu về phương pháp xử lý asen bởi Hyđroxit sắt 2.1. Khả năng hấp phụ asen của hyđroxit sắt [1] Những nghiên cứu địa hóa ở Bangladesh đã cho thấy hai mặt của quá trình vận   chuyển asen do các khoáng vật của sắt gây ra. Quá trình hòa tan hydroxit đã giải phóng   ra nước ngầm Fe2+  và các chất hấp phụ  lên nó, trong đó bao gồm cả  asen, đây là  nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm asen ở hầu hết các khu vực ô nhiễm nước ngầm. Ngược lại các hợp chất của Fe2+ được oxi hóa và bị thủy phân kết tủa thành sắt  (III) hyđroxit làm giảm đáng kể As tan trong nước. Điều này chứng tỏ  khả  năng hấp   phụ  tốt As của các khoáng vật chứa sắt. Các phản  ứng có thể  xảy ra giữa các hợp  chất asen vô cơ và sắt hyđroxit. FeOH(s)  H3AsO4(aq)  FeH2AsO4(s) H2O FeOH(s)  H3AsO4(aq)  FeHAsO4(s) H+(aq) H2O FeOH(s)  H3AsO4(aq)  FeAsO4(s) 2H+(aq) H2O FeOH(s)  H3AsO3(aq)  FeH2AsO3(s) H2O FeOH(s)  H3AsO3(aq)  FeHAsO3(s) H+(aq) H2O Trong đó kí hiệu [ FeOH] là vị trí sắt(III) hyđroxit trên bề mặt vật liệu. 2.2. Nghiên cứu xử lý As trong nước ngầm bằng hyđroxit sắt Hydroxit sắt(III) được tổng hợp và áp dụng để loại bỏ As(III) và As(V). Sự hấp   phụ của As(III) trên bề mặt của sắt hydroxit bị ảnh hưởng bởi pH, thời gian tiếp xúc,  phụ thuộc vào nồng độ Fe và pH tối ưu trên hấp phụ là giữa pH 4 và pH 9. Các phản   ứng hấp phụ giữa các ion asen với hydroxit sắt dựa trên các đặc tính của tính chất vật  lý và hóa học của hydroxit sắt, bản chất của các phức hợp sắt và các đặc tính của điện  tích bề mặt hấp phụ [10].   Nghiên cứu về  khả  năng sử  dụng hydroxit sắt để  hấp phụ  As trong nước cho   thấy khoảng pH tối  ưu là 6,5­7 và tỷ  lệ  Fe/As  ảnh hưởng rõ rệt đến khả  năng xử  lý  As, với tỷ lệ Fe/As > 30, hàm lượng As trong nước có thể đạt dưới 10 mg L­1[2]. 
  13. 2.2.1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu a) Địa điểm lấy mẫu Mẫu nước được lấy là mẫu nước ngầm sử  dụng cho sinh hoạt tại xã Văn Lý,   huyện Lý Nhân và xã Bình Nghĩa, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Tại các xã trên, 10  mẫu nước được lấy ngẫu nhiên cho mỗi xã. b) Phương pháp nghiên cứu ­ Phân tích một số chỉ tiêu trong nước: Mẫu nước được đo pH bằng máy đo pH   nhanh tại   hiện trường, As  được phân tích bằng phương pháp quang phổ  hấp thụ  nguyên tử (AAS) có sử dụng bộ bay hơi hydride HVH­1 trên máy Shimadzu AAS 6800. ­ Các thí nghiệm về ảnh hưởng của thời gian, pH, nồng độ  kim loại nặng đến   khả  năng hấp phụ của hyđroxit sắt. Mỗi thí nghiệm đều được lặp lại 2 lần, kết quả  lấy giá trị trung bình của các lần lặp: + Thời gian hấp phụ: Cho vào mỗi bình nhựa 100ml dung dịch Fe(III) có nồng   độ  50 mgL­1, điều chỉnh pH của hệ  đến khoảng 6,5 bằng NaOH hoặc HNO3 0,01M.  Thêm vào hệ 1 mL dung dịch có nồng độ As(III) 100 mgL ­1, khuấy đều sau các khoảng  thời gian: 1, 5, 10, 15, 25, 30, 40, 60 phút, lọc dung dịch để xác định hàm lượng As còn  lại bằng phương pháp nêu trên. + pH: Cho vào bình nhựa 40 mL dung dịch 125 mg Fe (III) L ­1, 10 mL dung dịch  0,5 mg As(III) L­1. Để  các pH khác nhau, các thể  tích axit (HNO3) hoặc kiềm (NaOH  0,02 M) từ  0 đến 20 mL được thêm vào bình nhựa trên. Để  đảm bảo cường độ  ion  trong các mẫu thí nghiệm tương đương nhau, một lượng dung dịch muối NaNO 3 0,02  M được thêm vào sao cho thể tích của hệ đạt 100mL. + Tỉ  lệ  Fe/As: Với dung dịch có hàm lượng As( III) ban đầu là 0,5 mgL ­1 trộn  với dung dịch hyđroxit Fe(III) có nồng độ từ 5, 10, 15, 20, 25, 30, 40, 50, 60, 70, 80, 90   mg Fe L­1 theo tỷ lệ 1:1. Khuấy đều dung dịch trong khoảng thời gian là 40 phút sau đó  lọc và xác định hàm lượng asen còn lại trong dung dịch.
  14. + Phương trình Lagergren: phương trình Lagergren ( bậc 1) mô tả động học của   quá trình hấp phụ như sau:  Lấy tích phân xác định ( t (o­t), qt (0­qt) ), ta được phương trình: Hay , trong đó k là hằng số  hấp phụ Lagergren,  qt  là lượng ion (mg g­1) bị  hấp  phụ tại thời điểm t (phút). 2.2.2. Kết quả của nghiên cứu a. Động học hấp phụ Lượng As (III) bị hấp phụ bởi hyđroxit sắt tăng lên theo thời gian. Tốc độ  hấp  phụ  tăng nhanh trong khoảng 15 phút đầu tiên, sau đó tốc độ  hấp phụ  giảm xuống 
  15. Hình 5: Động học quá trình As(III) hấp phụ bởi hyđroxit sắt theo thời gian[2]. Theo một nghiên cứu về động học hấp phụ asen lên sắt hydroxit, cho thấy nồng  độ As so với thời gian phản ứng tại các giá trị pH khác nhau 4, 7, 9, 11 như ở hình: Hình 6: Động học hấp phụ của As(III) tại giá trị pH khác nhau [11]. Kết quả là việc loại bỏ As(III) tăng theo thời gian hấp phụ và lượng cân bằng   đạt được sau 15 phút nhưng tỷ  lệ hấp phụ  thấp  ở 30­240 phút và nồng độ  As không   đổi khi pH tăng. Như vậy, tốc độ loại bỏ As nhanh lúc đầu tại các giá trị pH khác nhau   và tỷ lệ As(III) loại bỏ tốt ở pH trung tính [11].
  16. b. Ảnh hưởng pH đến khả năng hấp phụ Hiệu quả loại bỏ As bởi hyđroxit sắt phụ thuộc chủ yếu vào pH và tỷ lệ Fe/As.   Phân tích mẫu nước  ở xã Văn Lý, huyện Lý Nhân và xã Bình Nghĩa, huyện Bình Lục  cho thấy kết quả  ảnh hưởng của pH đến khả  năng hấp phụ  As(III) của hyđroxit sắt  được thể hiện ở hình. Kết quả pH tối ưu cho xử lý loại bỏ asen nhờ sắt hyđroxit là từ  6,5­7,0, vì tại pH này khả năng hình thành keo hydroxit sắt điện tích bề mặt dương là  lớn nhất. [2]. Hình 7: Ảnh hưởng của pH đến lượng As(III) bị hấp phụ bởi hyđroxit sắt [2]. c. Ảnh hưởng của tỷ lệ chất hấp phụ
  17. Hình 8:  Ảnh hưởng giữa tỷ  lệ  Fe/As và hàm lượng As(III) còn lại trong dung   dịch cân bằng [2]. Tại pH xấp xỉ 6,5, với nồng độ  As ban đầu là 50gL­1, hiệu suất xử lý As khỏi  dung dịch đạt đến 60% khi tỷ lệ Fe/As =20, tỷ lệ Fe/As càng lớn thì lượng As còn lại   trong dung dịch cân bằng càng giảm, tương  ứng với lượng bị hấp phụ càng tăng. Để  đạt giá trị nồng độ  As trong nước dưới 10 gL­1 thì tỷ lệ Fe/As > 30 [1]. Khi phân tích  mẫu nước  ở  xã Trung Châu, huyện Đan Phượng, Hà Nội, đối với các mẫu nước có  hàm lượng Fe lớn hơn 20mg/L, hiệu quả loại bỏ asen rất tốt, hiệu su ất x ử lý lên đến  trên 90%, đối với các mẫu nước có nồng độ  asen từ  10­ 20mg/L thì khả  năng xử  lý   giảm đáng kể xuống còn khoảng 80­90%, nhưng hàm lượng As sau xử lý vẫn đạt tiêu  chuẩn cho phép, những mẫu có nồng độ Fe trong nước nhỏ khoảng 1­2mg/L thể hiện   khả năng loại bỏ asen rất hạn chế từ 44­63% [3]. Hình 9: Tương quan tỉ lệ Fe/As và hiệu suất xử lý [3]. Tỷ  lệ  Fe/As trong nước ngầm mới khai thác tại xã Trung Châu, huyện Đan   Phượng, Hà Nội cao (từ 100­1500 lần) là điều kiện thuận lợi để loại As ra khỏi nguồn  nước bằng công nghệ đơn giản nhờ hàm lượng Fe sẵn có trong nước (hấp phụ/ cộng  kết), hiệu quả  loại As trong các giếng nghiên cứu có thể  đạt tới hiệu suất đến trên   90% [3].
  18. 2.3. Xử lý As bằng hyđroxit sắt (III) phế thải trong ngành mạ [3]. 2.3.1. Vật liệu hyđroxit sắt (III) phế thải trong ngành mạ Sơ đồ quy trình tổng hợp vật liệu [3] Khi xử lý 1 lít nước thải thu được Fe(OH)3 có khối lượng là 85 g. 2.3.2 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu a) Địa điểm lấy mẫu Mẫu nước được lấy ở giếng khoan trong các hộ  gia đình tại các vị  trí ô nhiễm  As trên địa bàn thành phố Hà Nội, cụ thể Thanh Trì, Gia Lâm, Đông Anh, Từ Liêm. b) Phương pháp nghiên cứu Các thử  nghiệm xác định thời gian tối  ưu, pH tối  ưu để  hấp phụ  asen của vật   liệu, lặp lại thí nghiệm 3 lần lấy giá trị trung bình kết quả trong 3 lần thí nghiệm: ­ Thời gian hấp phụ  tối  ưu: Cho vật liệu vào cốc cho từ  từ  dung dịch As có   nồng độ  1mg/l sao cho mực nước cao bằng mực vật liệu trong cốc thì ngừng cho   nước. Ngâm dung dịch As trong các thời gian khác nhau 5, 10, 15, 20, 25, 30, 35, 40   phút sau đó đưa nước ra ngoài lọc tách kết tủa và tiến hành phân tích. ­ pH tối  ưu: Dung dịch As nồng độ  1mg/l ở các pH khác nhau 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9,  điều chỉnh pH bằng cách cho từ  từ  dung dịch NaOH vào dung dịch nước chứa As và   dùng máy đo đến giá trị  pH cần thì dừng cho NaOH. Cho 200g vật liệu vào cốc thủy 
  19. tinh thêm từ  từ  dung dịch As  ở các pH khác nhau vào cốc đựng vật liệu để  một thời   gian bằng thời gian tối ưu, sau đó lấy nước ra lọc và tiến hành phân tích.   ­ Thử nghiệm vật liệu hấp phụ theo mẻ: + Dụng cụ thí nghiệm: Thiết kế cột lọc như hình vẽ, ống đong, bình nón, pipet,  buret.... + Tiến hành: Cân 200 g vật liệu hấp phụ vào ống lọc. Mẻ 1: Đổ từ  từ  dung dịch asen 0,1 (mg/l) vào cột lọc đến khi dung dịch   đầy bằng mặt lớp vật liệu thì ngưng lại, ngâm 30 phút, xả hết lượng nước ra lọc qua   giấy lọc và phân tích hàm lượng Asen trong dung dịch. Mẻ 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10: Làm tương tự như mẻ 1. Hình 10: Bố trí thí nghiệm xác định phương pháp [1]. 2.3.3. Kết quả xử lý As bằng hiđroxit sắt (III) phế thải trong ngành mạ. Thời gian hấp phụ tối ưu của vật liệu là 30 phút và pH tối ưu là 7 cho hiệu suất   xử lý asen cao. Bảng 1: Hiệu suất hấp phụ As theo mẻ của vật liệu.
  20. Hiệu suất hấp phụ giữa các mẻ là như  nhau và rất ổn định, từ  đó cho thấy vật  liệu có tính chất ổn định bề mặt tiếp xúc với nước rất tốt, hiệu suất các mẻ như nhau   đạt 90% nồng độ As của dung dịch sau hấp phụ đều đạt ở QCVN 02/2009 0,01(mg/l)  [1]. 2.4. Xử   lý As (V) trong nước từ vật liệu hấp phụ  sắt (III) hydroxit kết hợp bã   mía Cơ  chế xử  lý As(V) trong nước bởi sắt (III) hydroxit – bã mía đã được nghiên   cứu với ảnh hưởng của các thông số khác nhau là giá trị pH, nồng độ As ban đầu, liều   lượng hấp phụ, thời gian tiếp xúc.... Dung lượng hấp phụ  của vật liệu cho As (V) là  22,1 mg/g trong điều kiện tối ưu pH =4, thời gian tiếp xúc là 3 giờ, nhiệt độ 22 [12]. 2.4.1. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu ­ Chuẩn bị bã mía: Bã mía thu được từ một vùng ngoại ô Hà Nội, Việt Nam đã   được nghiền thành bột trong một nhà máy và rây trong một máy sàng với lỗ lưới 125 –   200  đã được rửa bằng nước khử ion. Không khí khô và bã mía (50g) được thủy phân   bằng 1,15M H2SO4 để loại bỏ tinh bột, protein, đường. Sau đó các hợp chất ligin phân  tử  thấp được loại bỏ  trong 24 giờ  bởi dung dịch NaOH 0,1M. Sau đó chất hấp phụ  được sấy khô trong lò ở 50  và được lưu trữ trong bình hút ẩm.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0