intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn hay: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển khoa học và công nghệ từ năm 1996 đến năm 2006

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

120
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ thập niên 80 của thế kỷ XX trở lại đây, những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Bước vào thế kỷ XXI, trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, giao thông vận tải, môi trường... đều có những biến...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn hay: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển khoa học và công nghệ từ năm 1996 đến năm 2006

  1. LUẬN VĂN: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển khoa học và công nghệ từ năm 1996 đến năm 2006
  2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ thập niên 80 của thế kỷ XX trở lại đây, những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Bước vào thế kỷ XXI, trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, giao thông vận tải, môi trường... đều có những biến đổi to lớn do tác động của cuộc cách mạng KH&CN. Cùng với việc xuất hiện những cơ hội mới cho sự phát triển thì nguy cơ tụt hậu về kinh tế, KH&CN, thông tin... sẽ là những thách thức không nhỏ đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Nhờ vận dụng nhanh chóng và sáng tạo những thành tựu mới nhất của KH&CN, cũng như tận dụng có hiệu quả làn sóng đổi mới công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học... nên cục diện hiện nay của nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới đã có sự thay đổi căn bản. Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, trên quy mô toàn cầu, nhiều nước đã xây dựng cho mình cơ cấu sản xuất và nền tảng của sự tăng trưởng kinh tế ngày càng dựa vào việc ứng dụng các thành tựu KH&CN, nhất là các công nghệ cao; các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) với nền tảng là hoạt động xử lý thông tin; tri thức và quyền sở hữu trí tuệ đang được coi là tài sản quan trọng và quý báu nhất của mỗi quốc gia, sáng tạo là động lực của sự phát triển. Việt Nam quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, tiềm lực KH&CN còn yếu, trình độ công nghệ còn lạc hậu, do đó quá trình CNH, HĐH đất nước tất yếu phải được tiến hành thông qua cách mạng KH&CN. Nhận thức được vai trò to lớn của KH&CN đối với sự phát triển của đất nước, trước hết là sự phát triển của kinh tế - xã hội, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn rất quan tâm và đã đề ra một số nghị quyết về KH&CN (như Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị khoá IV; Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị khoá VI; Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị và Nghị quyết TW7 khoá VII...). Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, sự quan tâm của Đảng về KH&CN được thể hiện rõ nét trong các Nghị quyết của
  3. Đại hội lần thứ VIII và thứ IX của Đảng, nhất là trong Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX. Với sự quan tâm và lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với lĩnh vực KH&CN, từ sau năm 1996 đến nay, KH&CN Việt Nam đã có những bước phát triển nhảy vọt, góp phần to lớn vào thắng lợi của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên: "Nền KH&CN nước ta phát triển còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ CNH, HĐH, còn thua kém so với nhiều nước trong khu vực" [16, tr.51]. Nguyên nhân chủ yếu là: Một số chủ trương của Đảng về KH&CN chưa được thể chế hoá đầy đủ, chưa được quán triệt trong hoạt động thực tế của các cấp chính quyền, các Bộ , ngành, địa phương; phương pháp quản lý nhà nước đối với KH&CN chưa đổi mới kịp thời; chậm tổng kết thực tiễn để phát hiện những vướng mắc nảy sinh trong lĩnh vực hoạt động KH&CN để đổi mới, thể chế hoá cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn cuộc sống... Tất cả đã làm cho hiệu quả tác động của các chủ trương, chính sách về KH&CN còn hạn chế, triển khai thiếu đồng bộ, đưa đến trình độ KH&CN nước ta còn lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây cũng là mặt hạn chế và khó khăn lớn nhất trong sự phát triển của nền kinh tế nước ta khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Chính vì vậy , việc nghiên cứu, tổng kết về quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện Định hướng chiến lược phát triển KH&CN trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước là một vấn đề rất cần thiết, giúp chúng ta hiểu được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển KH&CN Việt Nam, thấy được những thành tựu và hạn chế của KH&CN Việt Nam, từ đó tìm ra những giải pháp chủ yếu cho việc nâng cao và phát triển tiềm lực KH&CN nước ta trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trong đó giải pháp quan trọng hàng đầu là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với khoa học - công nghệ. Với những lý do đó, tôi đã chọn vấn đề: "Đảng Cộng sản Việt Nam lónh đạo phát triển khoa học và công nghệ từ năm 1996 đến năm 2006" làm đề tài cho luận văn thạc sĩ, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
  4. Đã có nhiều tài liệu, nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu lý luận trong nước và quốc tế viết về KH&CN như: - PTS. Danh Sơn (chủ biên), Quan hệ giữa phát triển khoa học và công nghệ với phát triển kinh tế - xã hội trong CNH, HĐH ở Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1999. - PTS. Trần Thanh Phương, Tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đối với nền kinh tế các nước tư bản phát triển, một số gợi mở về thời cơ và thách thức đối với Việt Nam, Luận án PTS Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1996. - PTS. Trần Thanh Phương, Tác động và những hệ quả kinh tế - xã hội của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với sự phát triển ngưỡng cửa năm 2000, Hà Nội. - Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, Chiến lược CNH, HĐH đất nước và cách mạng công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. - GS.TS Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải, Tư duy khoa học trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. - V.V.Đênixốp, Nguyễn Duy Thông, Nguyễn Trọng Chuẩn, Cách mạng khoa học kỹ thuật và công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam, Nxb Tiến bộ, M, 1986. - B.Kêđrốp (chủ biên), Cách mạng khoa học, kỹ thuật và CNXH, Nxb KHXH, Hà Nội, 1978. Một luận văn, luận án các chuyên ngành Quản lý kinh tế, Kinh tế chính trị, Kinh tế phát triển... có bàn đến vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội cũng như việc ứng dụng các thành tựu của KH&CN hiện đại trong các lĩnh vực kinh tế, như: - Nguyễn Kim Phúc, Khoa học và công nghệ đối với phát triển nuôi trồng thủy sản Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005. - Nguyễn Đức Lợi, Vận dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong sự phát triển nông nghiệp nước ta, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000. - Cao Quang Xứng, Tiến bộ khoa học, công nghệ và tiến trình hình thành kinh tế tri thức ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.
  5. - Nguyễn Minh Ngọc, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của ngành thuế Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005. Nhiều bài viết của nhiều tác giả được đăng tải trên các tạp chí như: - Đặng Ngọc Dinh, Vấn đề định hướng chiến lược phát triển khoa học công nghệ nước ta, Tạp chí Cộng sản, số 3/1998. - GS.VS Đặng Hữu, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với khoa học - công nghệ, Tạp chí Cộng sản, số 8/1990. - GS.VS Đặng Hữu, Phát triển đất nước bằng khoa học và công nghệ, Tạp chí Cộng sản, số 8/1991. Ngoài ra còn có những tài liệu dùng trong các lớp tập huấn giảng viên Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường Đại học và Cao đẳng tổ chức hàng năm như: "Khoa học và công nghệ quá độ sang thế kỷ XXI và toàn cầu hoá" của GS.TSKH Vũ Đình Cự (2000); "Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Việt Nam" của TS. Chu Văn Cấp (2003)... Nhưng tất cả đều mới chỉ đề cập đến vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội nói chung và của đất nước nói riêng, chưa có một công trình, một đề tài khoa học nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển KH&CN ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nhất là trong giai đoạn từ 1996 đến năm 2006. Tuy nhiên để làm rõ những yêu cầu, nhiệm vụ của đề tài này, luận văn có kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu trước. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Nhằm góp phần làm sáng tỏ hơn quá trình nhận thức và lãnh đạo, chỉ đạo của TW Đảng, Chính phủ về phát triển KH&CN từ 1996 đến 2006, qua đó khẳng định việc đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định làm cho KH&CN trở thành động lực mạnh mẽ của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, góp phần đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước trong thời kỳ hội nhập. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn
  6. - Trình bày có hệ thống đường lối, chủ trương phát triển KH&CN của Đảng từ 1996- 2006, nêu rõ sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng trong việc thực hiện các Nghị quyết của Trung ương về KH&CN. - Nêu những kết quả nổi bật đã đạt được trên một số lĩnh vực KH&CN, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân, bước đầu rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu trong quá trình Đảng lãnh đạo phát triển KH&CN thời kỳ CNH, HĐH đất nước. 4. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự phát triển KH&CN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu quan điểm, đường lối của Đảng về KH&CN giai đoạn 1996-2006 và chứng minh trên một số lĩnh vực như nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp; nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn... 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận - Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về khoa học, kỹ thuật và công nghệ. - Quan điểm, đường lối của Đảng về KH&CN trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. 5.2. Nguồn tư liệu - Các tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh. - Các văn kiện của Đảng về KH&CN, đặc biệt là các văn kiện Đại hội Đảng, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương và các Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. - Các văn bản pháp luật của Nhà nước về KH&CN. - Các số liệu điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường (nay là Bộ Khoa học và công nghệ). 5.3. Phương pháp nghiên cứu
  7. Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành như thống kê, so sánh, đồng đại, lịch đại, phân tích - tổng hợp... 6. Đóng góp mới của luận văn - Luận văn làm rõ những bước phát triển trong tư duy và đường lối phát triển KH&CN của Đảng từ 1996-2006; làm rõ sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng trên một số lĩnh vực cụ thể như nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, nghiên cứu và ứng dụng KH&CN vào sản xuất nông nghiệp... từ đó khẳng định những thành tựu, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo phát triển KH&CN. - Những kết quả của luận văn góp phần vào việc nghiên cứu và giảng dạy bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
  8. Chương 1 Đường lối phát triển khoa học và công nghệ của đảng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (1996 - 2006) 1.1. Vai trò của khoa học, kỹ thuật và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh 1.1.1. Theo quan điểm của các nhà kinh điển mác xít Khoa học là một hệ thống những tri thức chân thực về thế giới, được khái quát, đúc rút từ thực tiễn và được kiểm nghiệm bởi thực tiễn, phản ánh những thuộc tính, kết cấu, những mối liên hệ bản chất của sự vật, những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy. Khoa học, kỹ thuật, công nghệ bắt nguồn từ sản xuất, từ đấu tranh xã hội, từ nhu cầu khám phá và cải tạo thế giới của con người. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen đã đi đến nhận định: "... Như thế là ngay từ đầu, sự phát sinh và phát triển của các ngành khoa học đã do sản xuất quy định... " [31, tr.659]. Khoa học chân chính bắt nguồn từ những nhu cầu của đời sống xã hội và có sứ mệnh phục vụ con người, phục vụ xã hội, chính nhu cầu thực tiễn là động lực thúc đẩy khoa học phát triển. Ph.Ăngghen viết: "Nếu trong xã hội xuất hiện một nhu cầu kỹ thuật thì điều đó sẽ thúc đẩy khoa học tiến lên nhiều hơn một chục trường đại học" [34, tr.271]. Cùng với việc chỉ ra nguồn gốc, động lực phát triển của khoa học, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã coi khoa học "là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng" [30, tr.500]. Thiên chức của khoa học là đi tìm chân lý khách quan, khám phá bản chất của chính sự vật, là "nói bằng ngôn ngữ của chính bản thân sự vật", chỉ ra những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong của sự vật, cung cấp bức tranh chân thực về thế giới. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Giải thích những thuộc tính khác nhau ấy, tức là những thuộc tính mà chỉ những giác quan khác nhau mới thu nhận được, dựng mối liên hệ nội tại giữa chúng với nhau, đó chính là nhiệm vụ của khoa học..." [31, tr.723]. Nói đến khoa học là nói đến sự tìm tòi, khám phá, sáng tạo, tiếp cận chân lý, là quá trình nâng cao nhận thức đến một trình độ mới. Ph.Ăngghen còn chỉ ra rằng: "Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại ngay
  9. cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử - tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó" [32, tr.409]. Có thể khái quát tư tưởng của các nhà kinh điển mác xít về khoa học ở những khía cạnh sau: - Thứ nhất, khoa học với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, ra đời khi xã hội có sự phân công lao động thành lao động chân tay và lao động trí óc; khoa học là kết quả tất yếu của phân công lao động xã hội, khoa học xuất hiện khi hoạt động nhận thức khách quan đã trở thành một loại công việc đặc thù của một số ít người, của một nhóm người hoặc một số tổ chức xã hội đặc biệt nào đó. Nội dung của khoa học chính là sự phản ánh đúng đắn thế giới khách quan, nói cách khác, đối tượng của khoa học chính là thế giới khách quan, thực tại khách quan. Một trong những đặc trưng quan trọng nhất của khoa học là tính khách quan của nó, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất cứ một cá nhân hay một tập đoàn xã hội nào. Trong xã hội có giai cấp, tính khách quan của khoa học thường phù hợp với lợi ích của những giai cấp đang lên, những giai cấp đại diện cho một PTSX mới, cho một chế độ xã hội mới đang hình thành và phát triển. Khoa học ra đời, tồn tại và phát triển xuất phát từ những đòi hỏi, nhu cầu của hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là hoạt động sản xuất vật chất. Thực tiễn lao động sản xuất vừa là mục đích tối cao, vừa là nguồn gốc ra đời và là động lực phát triển của khoa học, ngược lại những tri thức khoa học càng phát triển và chính xác bao nhiêu thì càng đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của quá trình hoạt động thực tiễn, quá trình lao động sản xuất của con người. - Thứ hai, khoa học có vai trò là một động lực của lịch sử, một lực lượng cách mạng, đồng thời cũng là một tác nhân, một lực lượng trong LLSX xã hội. Trong tác phẩm "Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị" (viết năm 1843-1844), Ph.Ăngghen đã cho rằng: "khoa học thì ngày lại càng làm cho các lực l ượng tự nhiên phải phục tùng loài người" [28, tr.774]. Khoa học đã thúc đẩy sản xuất phát triển, làm thay đổi bộ mặt thế giới một cách nhanh chóng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, sở dĩ giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những LLSX nhiều hơn và đồ sộ hơn LLSX của tất cả các thế hệ trước gộp lại nhờ áp dụng những thành tựu khoa học trong việc chinh phục tự nhiên... Không chỉ
  10. khẳng định vai trò của khoa học trong việc thúc đẩy LLSX phát triển, C.Mác còn coi khoa học là lĩnh vực sản xuất trí óc, xem xét khoa học với tư cách là một thành tựu sản xuất độc lập và "khoa học gia nhập quá trình lao động với tư cách là một sức mạnh độc lập" [33, tr.525, 908]. Trong Phê phán khoa kinh tế chính trị (1857-1858), khi phân tích vai trò của khoa học trong việc làm biến đổi, thay thế các xã hội khác nhau trong lịch sử, C.Mác đã nêu tư tưởng coi khoa học là một trong những mặt , những hình thức biểu hiện sự phát triển của LLSX. C.Mác viết: "Chỉ riêng sự phát triển của khoa học - nghĩa là của hình thái của cải căn bản nhất, vừa là sản phẩm, vừa là nhân tố sản xuất ra của cải - cũng đủ để làm cho các xã hội ấy tan rã" [35, tr.60 -61]. C.Mác còn nói rõ hơn tư tưởng coi khoa học là một LLSX, khi ông cho rằng: "Trong số lực lượng sản xuất ấy có cả sự phát triển của khoa học" [35, tr.358], hay "Có một lực lượng sản xuất khác mà tư bản có được không mất khoản chi phí nào, - đó là sức mạnh của khoa học" [35, tr.483]. - Thứ ba, không chỉ thừa nhận khoa học là một lực lượng, một yếu tố thúc đẩy LLSX phát triển, C.Mác còn cho rằng, đến một giai đoạn phát triển nào đó, khoa học sẽ trở thành LLSX trực tiếp. C.Mác nhận định: "Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến [Wissew knowledge] đã chuyển hoá đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp" [35, tr.372]. Mác còn cho rằng: Để phát huy tác dụng của khoa học đối với sản xuất, để khoa học trở thành LLSX trực tiếp, thì phải có phát minh, sáng tạo, tiến bộ kỹ thuật để cách mạng hoá công cụ sản xuất, đồng thời người lao động phải có tri thức khoa học, có đủ năng lực áp dụng khoa học vào thực tiễn sản xuất. Hơn nữa, khoa học vốn là sản phẩm của tư duy, của trí tuệ, của lao động trí óc, muốn trở thành LLSX trực tiếp, khoa học phải cần đến hoạt động thực tiễn của con người. Trong Gia đình thần thánh, C.Mác đã chỉ rõ: "tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" [29, tr.181]. Tư tưởng ở đây chính là tư tưởng khoa học, lý luận khoa học. Theo quan điểm của C.Mác, khoa học tự bản thân nó không thể tạo ra bất kỳ một tác động nào, càng không thể chuyển hoá thành LLSX, mà phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người mới phát huy được tác dụng, mới tạo thành sức mạnh vật chất. Nói về mối quan hệ giữa khoa học với
  11. tính cách là một hình thái ý thức xã hội với LLSX, trong lời nói đầu Góp phần phê phán trong pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã viết: "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [28, tr.580]. V.I.Lênin - người kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph. Ăngghen, người đã đứng ra bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đã thấy rõ tầm quan trọng đặc biệt của khoa học kỹ thuật đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước Nga. Theo quan điểm của V.I.Lênin: - Phát triển khoa học, kỹ thuật là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng và củng cố chế độ kinh tế XHCN. - Phát triển khoa học, kỹ thuật là biện pháp quan trọng số một để nước Nga có thể đuổi kịp và vượt các nước TBCN, chỉ khi nào CNXH có năng suất lao động cao hơn năng suất lao động của CNTB thì mới có thể chiến thắng được CNTB. Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò quan trọng của khoa học, kỹ thuật đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước Nga, V.I.Lênin đã dành nhiều thời gian và tâm sức cho việc tìm biện pháp để phát triển khoa học, kỹ thuật cho quá trình xây dựng CNXH. V.I.Lênin đã đề xuất một loạt các biện pháp phát triển khoa học, kỹ thuật trong điều kiện của CNXH: Một là, thực hiện điện khí hoá toàn quốc. Hai là, sử dụng đội ngũ chuyên gia tư sản và đào tạo đội ngũ chuyên gia công nông thông qua hai con đường: sử dụng đội ngũ chuyên gia từ xã hội cũ để lại; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia công nông. Ba là, học tập, tiếp thu, kế thừa những thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến của các nước tư bản, trong đó việc học tập các chuyên gia tư sản là vấn đề được V.I.Lênin hết sức coi trọng và đề cập trong nhiều tác phẩm. Đây là tư tưởng rất táo bạo và đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược thiên tài của V.I.Lênin. Tư tưởng của V.I.Lênin về vai trò của khoa học, kỹ thuật đối với công cuộc xây dựng CNXH có ý nghĩa to lớn trong xây dựng nền kinh tế nước Nga sau Cách mạng tháng Mười và sự nghiệp phát triển khoa học, kỹ thuật của Liên Xô sau này.
  12. Tư tưởng của V.I.Lênin nói riêng, của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung về vai trò của khoa học, kỹ thuật có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với các nước đang xây dựng CNXH hiện nay trong việc nắm bắt thời cơ để thúc đẩy khoa học, kỹ thuật phát triển. 1.1.2. Khoa học và kỹ thuật trong tư tưởng Hồ Chí Minh Xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về khoa học và từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã nhận thức một cách sâu sắc ý nghĩa, vai trò to lớn của khoa học, kỹ thuật đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Người coi "Thời đại của chúng ta bây giờ là thời đại vệ tinh nhân tạo, nghĩa là thời đại của khoa học phát triển mạnh, thời đại XHCN..." [37, tr.174]. Chính vì thế, Người khẳng định một cách dứt khoát rằng, cách mạng XHCN phải gắn liền với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật..., đồng thời Người cũng tin tưởng, CNXH cộng với khoa học chắc chắn sẽ mang lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho loài người nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng. Khái quát thực trạng và những khó khăn to lớn của miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ, xét từ góc độ khoa học và kỹ thuật, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: "trình độ khoa học, kỹ thuật của ta hiện nay còn thấp kém. Lề lối sản xuất chưa được cải tiến nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng suất lao động còn thấp kém. Phong tục tập quán lạc hậu còn nhiều" [38, tr.77]]. Vì thế, "Nhiệm vụ của khoa học là ra sức cải biến những cái đó. Khoa học là tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột và đấu tranh giữa con người với thiên nhiên" [38, tr.77]. Ngay từ khi miền Bắc triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1958-1960), cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hoá XHCN, coi cách mạng khoa học và kỹ thuật là then chốt. Theo Người, trong chế độ XHCN, khoa học là tài sản chung của toàn dân chứ không phải của riêng một nhóm người nào. Tiến bộ của khoa học, kỹ thuật hướng về con người, bởi vì mục đích cao cả và đầy tính nhân văn của CNXH là giải phóng con người, phát triển con người toàn diện. Trong xã hội mới, những thành tựu của khoa học và kỹ thuật được sử dụng vì sự tiến bộ xã hội, vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân lao động. Nói về mối quan hệ biện chứng giữa khoa học, kỹ thuật với sản xuất và đời sống xã hội, trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội nghị phổ biến
  13. khoa học, kỹ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho CNXH thắng lợi" [38, tr.78]. Có thể nói, tư tưởng về sự phát triển xã hội bằng biện pháp phát triển khoa học, kỹ thuật là một nét độc đáo, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi cho rằng, chúng ta phải dựa vào khoa học để tăng năng suất lao động, để cải thiện không ngừng đời sống nhân dân và bảo đảm cho sự thắng lợi của CNXH..., Người đã nhìn thấy ở khoa học, kỹ thuật một nguồn lực quan trọng của sự phát triển xã hội. Nhờ có tri thức khoa học, con người có thể hạn chế những sai lầm, lệch lạc mang nặng tính chủ quan, kinh nghiệm trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, và do vậy làm cho quá trình phát triển của xã hội ngày càng gần hơn, phù hợp hơn với quy luật khách quan. Vì thế, Người đòi hỏi cán bộ và nhân dân phải tích cực học tập, rèn luyện thói quen sinh hoạt và làm việc theo khoa học, "cái gì trái với khoa học chúng ta kiên quyết chống". Người còn đặc biệt quan tâm đến nhiệm vụ giáo dục khoa học, kỹ thuật cho nhân dân, coi việc cung cấp tri thức khoa học, kỹ thuật là một nội dung cơ bản của giáo dục. Người viết: Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công [36, tr.81]. Đó cũng chính là một trong những hình thức căn bản để xã hội hoá tri thức khoa học, để khoa học thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hồ Chí Minh còn cho rằng: Việc áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học, kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân nhằm đưa nước ta trở thành một nước văn minh, hiện đại là công việc rất quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, công việc ấy không thể tiến hành một cách tùy tiện, thiếu sự kiểm tra, giám sát. Là một người đã từng đặt chân tới nhiều nước công nghiệp phát triển trên thế giới, Hồ Chí
  14. Minh đã chứng kiến cả mặt tích cực, tiến bộ lẫn những mặt tiêu cực và hậu quả mà cuộc cách mạng này đưa lại. Chính vì vậy, Người đòi hỏi: những tri thức khoa học, kỹ thuật đem phổ biến phải thiết thực, chính xác; nếu chỉ phổ biến rồi bỏ mặc quần chúng, không quan tâm theo dõi họ có thực hiện được hay không, kết quả thực hiện tốt hay xấu, "như vậy là thiếu tinh thần trách nhiệm"... Tư tưởng này của Người có ý nghĩa rất sâu sắc, thấm đượm tinh thần của chủ nghĩa nhân văn: tất cả vì lợi ích chung, vì một cuộc sống tốt đẹp hơn của con người. Ngày nay, khi phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng do sự lạm dụng khoa học, kỹ thuật vì những toan tính vụ lợi, ích kỷ của con người gây ra, chúng ta lại càng cảm nhận rõ hơn chiều sâu cũng như ý nghĩa vượt thời đại trong tư tưởng của Người. Hơn nửa thế kỷ qua, nền khoa học, kỹ thuật và công nghệ nước ta đã có những bước chuyển biến tích cực trên mọi phương diện và do vậy, có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và xu hướng phát triển của nền kinh tế tri thức, khoa học, kỹ thuật và công nghệ biểu hiện như là nguồn lực cơ bản nhất, như là "chìa khoá" của sự phát triển xã hội, thì việc kế thừa và phát huy những tư tưởng đúng đắn của các nhà kinh điển mác xít và Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của khoa học, kỹ thuật, lấy đó làm nền tảng tư tưởng cho việc xây dựng chiến lược phát triển KH&CN trong thời kỳ mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, từng bước tiến lên một nền KH&CN hiện đại, đáp ứng các yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, sớm tạo ra "vũ khí" cho thắng lợi của cuộc đấu tranh xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu để đi lên CNXH. 1.2. Nhận thức và quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 1.2.1. Đường lối phát triển khoa học và công nghệ của Đảng thời kỳ trước đổi mới Cuộc cách mạng KH&CN hiện đại phát triển với tốc độ rất nhanh chóng, tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội loài người. Bất cứ một quốc gia nào cũng phải điều chỉnh lại chiến lược của mình trong cuộc cạnh tranh hiện nay bằng việc phát triển các công nghệ mới, kể cả các nước phát triển nhất, mạnh nhất.
  15. Là một Đảng mác xít, từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi cương lĩnh hành động của mình. Cơ sở lý luận để hình thành đường lối của Đảng về khoa học, kỹ thuật chính là những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như đã phân tích ở phần trên. Quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của khoa học, kỹ thuật lần đầu tiên được chính thức nêu lên trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960): Đi đôi với cuộc cách mạng về tư tưởng, cần phải tiến hành cuộc cách mạng XHCN về văn hoá và kỹ thuật. Mục tiêu của cuộc cách mạng văn hoá và kỹ thuật là làm cho nhân dân lao động đông đảo có trình độ văn hoá vững vàng, nắm được những hiểu biết cần thiết về khoa học và kỹ thuật, và vận dụng được những hiểu biết đó vào công cuộc cải biến bộ mặt lạc hậu của văn hoá và kỹ thuật nước ta, xây dựng một nền văn hoá, khoa học và kỹ thuật hiện đại [20, tr.550]. Việc đưa ra quan điểm đó của Đảng là một tất yếu khách quan, phù hợp với bối cảnh lịch sử cụ thể của nước ta lúc bấy giờ. Sau khi hoà bình lập lại, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH trong điều kiện có nhiều khó khăn. Lịch sử để lại cho chúng ta một nền sản xuất nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí thấp, trình độ kỹ thuật sản xuất thấp kém, tư liệu lao động giản đơn, công cụ lao động phổ biến là thủ công, lao động chưa được tổ chức, phân công một cách hợp lý... Do đó muốn đi lên CNXH, chúng ta phải tạo ra được cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Đảng đã nhận thức được rằng, khoa học, kỹ thuật là không thể thiếu và giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta. Quan điểm này của Đảng được tiếp tục thể hiện trong Nghị quyết 157 của Ban Bí thư (khoá III), đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò của khoa học, kỹ thuật đã được nâng lên một bước. Sự nhìn nhận về vị trí, vai trò của khoa học, kỹ thuật đối với sự nghiệp xây dựng CNXH trở nên rõ nét hơn. Đảng nhận thức được rằng: "đẩy mạnh công tác khoa học, kỹ thuật sẽ giúp chúng ta xoá bỏ nhanh tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, rút ngắn thời gian xây dựng CNXH"[21, tr.552]. Từ đó Đảng chỉ rõ: Khoa học, kỹ thuật phải là một trong những nhân tố hàng đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, tiết kiệm đạt hiệu quả cao, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, do vậy trong ba cuộc cách mạng, "cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt" [21, tr.508].
  16. Quan điểm của Đại hội được khẳng định rõ trong Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị khoá IV (20/4/1981) về chính sách khoa học và kỹ thuật. Nghị quyết đánh dấu sự khởi đầu trong chủ trương đổi mới cơ chế hoạt động KH&CN ở Việt Nam. Trên cơ sở nhận định tình hình công tác khoa học và kỹ thuật trong thời gian qua, Nghị quyết đã xác định nhiệm vụ và mục tiêu của chính sách khoa học và kỹ thuật n ước ta, đồng thời đã đề ra những phương hướng chủ yếu cho khoa học và kỹ thuật ở Việt Nam trong các lĩnh vực cụ thể, phương hướng phát huy và phát triển tiềm lực khoa học và kỹ thuật cũng như những vấn đề cơ bản trong tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với khoa học và kỹ thuật... Nghị quyết 37 đã đánh dấu bước phát triển mới về nhận thức của Đảng đối với sự phát triển khoa học, kỹ thuật nước ta, tạo ra những đổi mới cơ bản trong phát triển khoa học, kỹ thuật và trong mối quan hệ giữa khoa học, kỹ thuật với phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói, so với những văn kiện trước đó của Đảng, việc xây dựng chiến lược khoa học, kỹ thuật lần này là một bước tiến mới. Lần đầu tiên, Đảng đã đưa ra được một chính sách khoa học và kỹ thuật thống nhất, có hệ thống và tương đối hoàn chỉnh, góp phần đưa hoạt động khoa học, kỹ thuật gắn bó hơn với sản xuất và đời sống, đặt nền móng cho việc chuyển sang một thời kỳ phát triển KH&CN theo quy hoạch và kế hoạch của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng; khẳng định những nguyên tắc cơ bản của chính sách Nhà nước về KH&CN trong thời kỳ đất nước vừa thống nhất, đi lên CNXH. Với Nghị quyết này, lần đầu tiên Việt Nam có một chính sách thành văn về KH&CN. Tuy nhiên, Nghị quyết 37 ra đời trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nước quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ với cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp nặng nề, LLSX bị kìm hãm, cho nên khoa học, kỹ thuật vẫn phát triển chậm, các nguồn lực sẵn có chưa được phát huy đầy đủ. Đến Đại hội lần thứ V (3/1982), xuất phát từ quan điểm coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, tính "chiến lược" của khoa học, kỹ thuật trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở nên rõ nét hơn, đã có sự phát triển trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách về khoa học, kỹ thuật, góp phần quan trọng vào những thắng lợi nhất định của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội chỉ rõ: "tiến bộ khoa học và kỹ thuật phải trở thành một nội dung chủ yếu của kế hoạch kinh tế - xã hội ở tất cả các ngành, các cấp"; nhiệm vụ của
  17. công tác KH&CN giai đoạn 1981-1985 là: "Làm tốt việc ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Triển khai có hiệu quả các chương trình khoa học và kỹ thuật trọng điểm..." [22, tr.94]. Khoa học và kỹ thuật phải phục vụ tốt nhất cho việc đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn XHCN trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Phải ứng dụng rộng rãi thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật, đặc biệt chú ý những thành tựu về sinh học nhằm thúc đẩy nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp chế biến phát triển. Đồng thời, phải hướng khoa học và kỹ thuật phục vụ các ngành công nghiệp quan trọng... Như vậy, có thể thấy, trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam, Đảng ta đã rất quan tâm phát triển KH&CN, tuy nhiên đến trước khi đổi mới toàn diện đất nước, đường lối của Đảng về KH&CN chưa thực sự phát huy được vai trò của KH&CN trong việc thúc đẩy đất nước phát triển. 1.2.2. Sự phát triển trong quan điểm của Đảng về khoa học và công nghệ thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước (1986-1996) Đại hội VI (12/1986) của Đảng đã mở đầu cho một giai đoạn mới - giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước, giai đoạn đổi mới tư duy lý luận của Đảng và cũng là mốc đánh dấu sự đi lên của quá trình xây dựng chiến lược KH&CN của Đảng ta. Trên cơ sở đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội của đất nước sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng, Đại hội đã đặt ra nhiệm vụ hàng đầu của công tác khoa học và kỹ thuật là: xây dựng cho kỳ được một chiến lược phát triển khoa học, kỹ thuật làm luận cứ cho chiến lược kinh tế - xã hội, định hướng cho sự phát triển khoa học và kỹ thuật. Trên cơ sở đó, Đại hội đưa ra những chủ trương, chính sách về khoa học, kỹ thuật đúng đắn, phát huy vai trò động lực của khoa học, kỹ thuật trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội. Điều đáng chú ý hơn trong chiến lược khoa học, kỹ thuật mà Đảng đề ra tại Đại hội VI là chính sách về đầu tư, chủ trương thực hiện các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện và giải quyết quyền lợi thích đáng để phát huy trí tuệ, tài năng của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau; đồng thời Đại hội cũng đã đề ra một số chủ trương mới về cơ cấu tổ chức các cơ quan khoa học, kỹ thuật...
  18. Với những chủ trương đó, sau Đại hội VI, khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã có những bước phát triển rõ rệt, song để phục vụ tốt hơn sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đối mặt với những thách thức mới trên con đường hội nhập, Đảng cần phải có một Nghị quyết mới, đầy đủ hơn, hệ thống hơn, phù hợp hơn nữa về KH&CN. Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị khoá VI "Về KH&CN trong sự nghiệp đổi mới" (30/3/1991) đã chỉ rõ: chúng ta phải quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhiệm vụ của khoa học, kỹ thuật "để quyết tâm xây dựng, phát triển nền KH&CN nước ta, bảo đảm cho KH&CN thực hiện được vai trò nhận thức và cải tạo xã hội..." [23, tr.560]. Từ đó Nghị quyết đề ra những nhiệm vụ cấp bách và cơ bản của KH&CN, những biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh phát triển KH&CN Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước, trong đó xây dựng một hệ thống 8 biện pháp trải rộng trên các lĩnh vực. Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị khoá VI là Nghị quyết thể hiện quan điểm mới của Đảng trong lĩnh vực KH&CN, phù hợp với tình hình chung của công cuộc đổi mới đất nước. Nghị quyết đã hình thành những nguyên tắc cơ bản của chính sách KH&CN của Đảng trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là chính sách trong thời kỳ khai phá những hướng đi mới cho KH&CN Việt Nam theo cơ chế thị trường, trong điều kiện đa phương hoá và mở cửa, hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991) đã thông qua một số văn kiện có tính bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, xã hội từ 1991 đến 2000. Đại hội đã khẳng định các quan điểm, chủ trương, chính sách đổi mới của Đại hội VI, từ đó xác định một số luận điểm về công tác KH&CN: Một là, KH&CN giữ vai trò then chốt trong sự phát triển LLSX và nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Hai là, hoạt động KH&CN phải đảm bảo cơ sở khoa học cho các quyết định quan trọng của các cơ quan lãnh đạo, quản lý; là công cụ chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế - xã hội; khoa học xã hội phải góp phần xứng
  19. đáng cho việc đổi mới tư duy, xây dựng luận cứ khoa học cho con đường đi lên CNXH ở nước ta, xây dựng lập trường, quan điểm, ý thức và nhân cách đúng đắn, khắc phục những tư tưởng sai lầm...; các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ phải tập trung vào việc cải tạo, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong nước hiện có, hiện đại hoá những công nghệ truyền thống có ý nghĩa kinh tế, xã hội cao, lựa chọn tiếp thu những công nghệ mới. Tập trung phát triển có trọng điểm một số hướng công nghệ hiện đại như điện tử, tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới... Chủ trương, chính sách, phương hướng đối với khoa học, kỹ thuật nêu trong văn kiện của Đại hội VII đã thể hiện những đổi mới trong chính sách KH&CN, ghi thêm một dấu ấn quan trọng trên bước đường cải cách thể chế KH&CN trong xu thế chung của cuộc cải cách kinh tế và xã hội hướng vào sự hình thành những biện pháp, chính sách và cơ sở pháp lý điều tiết nền kinh tế thị trường ở nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (14/7/1994) về "Phát triển công nghiệp và công nghệ đến năm 2000 theo hướng CNH, HĐH" đã đánh giá: Mấy chục năm qua, trong những hoàn cảnh đặc biệt của đất nước, công tác nghiên cứu, triển khai KH&CN có tiến bộ, góp phần tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật bước đầu cho CNXH, tuy nhiên nhìn chung còn rất yếu kém [24, tr.441-442]. Từ đó Nghị quyết nêu rõ định hướng nhiệm vụ phát triển KH&CN đến 2000 là "phát triển KH &CN - nền tảng của phát triển công nghiệp theo hướng CNH, HĐH..."; "phải gắn khoa học - công nghệ với sản xuất, dịch vụ; gắn các chương trình phát triển khoa học - công nghệ với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, khuyến khích sự sáng tạo của các nhà khoa học, đồng thời coi trọng phát huy sáng kiến của người lao động..." [24, tr.463]. Đặc biệt, điểm mới ở đây là Đảng đã xác định cơ chế đúng đắn trong việc thúc đẩy sự phát triển của KH&CN, đó là "tạo lập thị trường cho KH&CN để sản phẩm của các hoạt động khoa học - công nghệ được lưu thông như các hàng hoá cao cấp khác" [24, tr.463]. Những chủ trương, chính sách, phương hướng và nhiệm vụ phát triển KH&CN được đề ra trong Đại hội VII và Hội nghị Trung ương 7 khoá VII được tiếp tục khẳng định và phát triển ở Đại hội lần thứ VIII và các văn kiện tiếp theo của Đảng khoá IX, thể hiện sự phát triển trong nhận thức và quan điểm của Đảng về vai trò của KH&CN đối với quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
  20. Như vậy, cho đến trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, qua các kỳ Đại hội, mặc dù vai trò của KH&CN trong các văn kiện của Đảng được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng tất cả đều thể hiện rằng: vai trò của KH&CN đã được Đảng ta nhận thức từ rất sớm và đúng đắn, chủ trương, đường lối về phát triển KH&CN mà Đảng đưa ra đã dần dần thay đổi phù hợp với tình hình và yêu cầu phát triển của đất nước, đặc biệt từ khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN. 1.3. Đường lối phát triển khoa học và công nghệ của Đảng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (1996 - 2006) 1.3.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996), và đường lối phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau 10 năm tiến hành đổi mới toàn diện, đất nước ta đã đạt được những thành tựu cơ bản và quan trọng. Kinh tế tăng trưởng khá, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được củng cố vững chắc, quan hệ đối ngoại được mở rộng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, lòng tin của nhân dân đối với chế độ và tiền đồ của đất nước, đối với Đảng và Nhà nước được nâng lên... Những thành tựu đó đã đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đồng thời tạo ra những tiền đề cần thiết để đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tuy tình hình kinh tế - xã hội của đất nước đã đi vào thế ổn định sau 10 năm đổi mới, nhưng muốn tiến hành thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, phải dựa vào KH&CN, phải phát triển KH&CN. Nhận thức được vai trò của KH&CN đối với sự nghiệp phát triển của mỗi quốc gia trong tình hình mới, Đại hội khẳng định: "Khoa học và công nghệ là động lực của CNH, HĐH" [15, tr.85]; "Phát triển KH &CN, nâng cao năng lực nội sinh để thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH..." [15, tr.37], từ đó xác định 5 phương hướng chủ yếu cho hoạt động KH&CN nước ta trong giai đoạn 1996-2000: 1. Vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phát triển và kết hợp chặt chẽ các ngành khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ... làm chỗ dựa khoa học cho việc triển khai thực
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2