intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng tới phân tích tài chính

Chia sẻ: Lan Xi Chen | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:24

154
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Để đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, trước tiên phải so sánh tổng tài sản và tổng nguồn vốn giữa kì và đầu năm. Qua so sánh, có thể thấy được sự thay đổi quy mô vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ cũng như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, số tổng cộng của tài sản và nguồn vốn tăng giảm là do nhiều nguyên nhân khác nhau, do đó cần đi sâu phân tích các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng tới phân tích tài chính

NỘI DUNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI <br /> PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH<br /> <br /> Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp<br /> <br /> Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp có thể được trình bày theo hai cách sau:<br /> ­ Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính<br /> ­ Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính.<br /> <br /> Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính<br /> <br /> Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính là nội dung phân tích mà đồ án sử <br /> dụng. Vì vậy, nội dung phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính, không <br /> được nêu chi tiết ở phần này mà đựơc trình bày chi tiết ở phần sau (Chương 2).<br /> <br /> Phân tích khái quát tình hình tài chính<br /> <br /> Để  đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, trước tiên phải so sánh tổng tài  <br /> sản và tổng nguồn vốn giữa kì và đầu năm. Qua so sánh, có thể  thấy được sự  thay đổi quy  <br /> mô vốn mà doanh nghiệp sử  dụng trong kỳ  cũng như  khả  năng huy động vốn của doanh  <br /> nghiệp. Tuy nhiên, số tổng cộng của tài sản và nguồn vốn tăng giảm là do nhiều nguyên nhân <br /> khác nhau, do đó cần đi sâu phân tích các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế <br /> toán.<br /> Tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Hai loại tài sản này  <br /> được hình thành chủ  yếu từ  nguồn vốn chủ  sở  hữu, nhưng cân đối này chỉ  mang tính lí  <br /> thuyết tức là nguồn vốn chủ sở hữu chủ doanh nghiệp đủ  trang trải các loại tài sản cho các  <br /> hoạt động chủ yếu mà không phải đi vay hoặc chiếm dụng. Thực tế thường xảy ra 1 trong 2  <br /> trường hợp sau:<br /> ­ Trường hợp doanh nghiệp thừa nguồn vốn, không sử dụng hết nên sẽ bị chiếm dụng.<br /> ­ Trường hợp doanh nghiệp thiếu vốn để  trang trải tài sản nên doanh nghiệp phải đi vay  <br /> hoặc chiếm dụng vốn từ bên ngoài.<br /> Qua phân tích các mối quan hệ cân đối, cho thấy số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng (hoặc  <br /> đi chiếm dụng) đúng bằng số chênh lệch giữa số tài sản phải thu và nợ phải trả.<br /> Bên cạnh đó, trong phân tích tổng quát ta còn tính toán và so sánh các chỉ tiêu tỉ suất tài trợ đẻ <br /> thấy được khả năng đảm bảo về mặt tài chính và tính chủ động trong kinh doanh của công ty  <br /> (phần này được trình bày trong phân tích kết cấu nguồn vốn của doanh nghiệp). Bên cạnh đó, <br /> về  khả  năng thanh toán cũng cần được quan tâm chú ý (được trình bày  ở  phần nhu cầu và  <br /> khả năng thanh toán)<br /> <br /> Phân tích chi tiết tình hình tài chính<br /> <br /> Trong phân tích chi tiết tình hình tài chính ta đi phân tích tình hình phân bổ vốn, xem xét doanh  <br /> nghiệp đã phân bổ vốn hợp lí và phát huy hiệu quả chưa? Để phân tích, ta tiến hành xác định  <br /> tỉ trọng từng khoản vốn ở thời điểm đầu kì và cuối kì và so sánh sự thay đổi về tỉ trọng giữa  <br /> đầu kì và cuối kì nhằm tìm ra nguyên nhân của sự chênh lệch này. Qua so sánh ta thấy được <br /> sự  thay đổi về  số  lượng, quy mô và tỉ  trọng của từng loại vốn. Để  có thể  thấy được tình  <br /> hình thay đổi của tài sản là hợp lí hay không cần đi sâu nghiên cứu sự biến động của tài sản. <br /> Việc đầu tư chiều sâu, mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ để  tạo tiền đề  tăng năng <br /> suất lao động và sử dụng vốn đầu tư  có hiệu quả  hoặc đầu tư  tài chính dài hạn được xem  <br /> xét thông qua các chỉ tiêu: Tỉ suất đầu tư chung, tỉ suất đầu tư tài sản cố định, tỉ suất đầu tư <br /> tài chính dài hạn. Bên cạnh đó việc phân tích kết cấu nguồn vốn; phân tích tình hình công nợ <br /> và khả năng thanh toán; phân tích hiệu quả và khả năng sinh lợi của vốn; phân tích tình hình <br /> đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được phân tích một cách cụ thể và được <br /> trình bày cụ thể trong Chương 2 của đồ án này.<br /> Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính.<br /> Phân tích các tỷ lệ tài chính<br /> <br /> Trong phân tích tài chính, các tỷ lệ tài chính chủ yếu thường được phân thành 4 nhóm chính. <br /> Đó là: nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về khả năng cân đối vốn, nhóm tỷ  lệ <br /> về  khả  năng hoạt động, nhóm tỷ  lệ  về  khả  năng sinh lãi. Nhìn chung, mối quan tâm trước <br /> hết của các nhà phân tích tài chính là tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh <br /> không? Liệu doanh nghiệp có khả  năng đáp  ứng được những khoản nợ  đến hạn không? <br /> Nhưng tuỳ theo mục đích phân tích tài chính mà nhà phân tích tài chính chú trọng nhiều hơn  <br /> đến nhóm tỷ  lệ  này hay nhóm tỷ  lệ  khác. Chẳng hạn, các chủ  nợ  ngắn hạn đặc biệt quan  <br /> tâm đến tình hình khả  năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư  dài hạn  <br /> quan tâm nhiều hơn đến khả  năng hoạt động có lãi và hiệu quả  sản xuất kinh doanh. Họ <br /> cũng cần nghiên cứu tình hình về  khả  năng thanh toán để  đánh giá khả  năng của doanh <br /> nghiệp đáp  ứng nhu cầu chi trả  hiện tại và xem xét lợi nhuận để  dự  tính khả  năng trả  nợ <br /> cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ lệ cân đối vốn vì sự thay <br /> đổi tỷ lệ này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ.<br /> Các tỷ lệ tài chính cung cấp cho người phân tích khá đầy đủ các thông tin về từng vấn đề cụ <br /> thể liên quan tới tài chính doanh nghiệp. Nhiệm vụ của người phân tích là phải tìm hiểu mối <br /> liên hệ giữa các nhóm tỷ lệ để từ đó đưa ra kết luận khái quát về toàn bộ tình hình tài chính  <br /> doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình phân tích nên lưu ý rằng một tỷ lệ tài chính riêng rẽ <br /> thì tự nó không nói lên điều gì. Nó cần phải được so sánh với tỷ lệ ở các năm khác nhau của  <br /> chính doanh nghiệp đó và so sánh với tỷ lệ tương ứng của các doanh nghiệp hoạt động trong <br /> cùng ngành.<br /> Mỗi nhóm tỷ lệ trên bao gồm nhiều tỷ lệ và trong từng trường hợp các tỷ lệ được lựa chọn <br /> sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích.<br /> Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét cả bốn nhóm tỷ lệ thường dùng để phân tích và đánh  <br /> giá hoạt động tài chính doanh nghiệp.<br /> Các tỷ lệ về khả năng thanh toán:<br /> Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản của mình các doanh  <br /> nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ  sở hữu mà còn cần đến nguồn tài trợ  khác là vay  <br /> nợ. Việc vay nợ này được thực hiện với nhiều đối tượng và dưới nhiều hình thức khác nhau.  <br /> Cho dù là đối tượng nào đi chăng nữa thì để  đi đến quyết định có cho doanh nghiệp vay nợ <br /> hay không thì họ đều quan tâm đền khả năng thanh toán của doanh nghiệp.<br /> Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản phải <br /> có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Việc phân tích các tỷ <br /> lệ về khả năng thanh toán không những giúp cho các chủ nợ giảm được rủi ro trong quan hệ <br /> tín dụng và bảo toàn được vốn của mình mà còn giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được <br /> khả năng chi trả thực tế để từ đó có biện pháp kịp thời trong việc điều chỉnh các khoản mục <br /> tài sản cho hợp lý nhằm nâng cao khả năng thanh toán.<br /> Các tỷ lệ về thanh toán bao gồm:<br /> Hệ số thanh toán hiện hành<br /> Là tỷ  lệ  được tính bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ  ngắn hạn. Tài sản lưu động <br /> thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự trữ (tồn  <br /> kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín <br /> dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả khác...Cả tài sản lưu động và nợ <br /> ngắn hạn đều có thời hạn nhất định ­ tới một năm. Tỷ lệ khả năng thanh toán chung là thước <br /> đo khả  năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ  các khoản nợ  của  <br /> các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai <br /> đoạn tương ứng với thời hạn của các khoản nợ đó.<br /> Công thức của khả năng thanh toán chung như sau:<br /> <br /> Hệ số thanh toán hiện hành(ngắn hạn) =<br /> <br /> Tài sản lưu động<br /> Nợ ngắn hạn<br /> Tỷ lệ này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng tốt  <br /> và ngược lại. Nêú khả năng thanh toán chung nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp không đủ khả năng <br /> thanh toán nợ  ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu con số này quá cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã <br /> đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động so với nhu cầu. Thông thường thì phần vượt trội đó sẽ <br /> không sinh thêm lợi nhuận. Vì thế mà việc đầu tư đó sẽ kém hiệu quả. Vấn đề  này đòi hỏi  <br /> nhà doanh nghiệp phải phân bổ vốn như thế nào cho hợp lý.<br /> Hệ số thanh toán nhanh:<br /> Một tỷ lệ thanh toán chung cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp có thể  đáp ứng  <br /> nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với chi phí thấp hay không vì <br /> nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản mục trong tài sản lưu động và kết cấu  <br /> của các khoản mục này. Vì vậy, chúng ta cần phải xét đến hệ số thanh toán nhanh của doanh  <br /> nghiệp.<br /> Hệ số thanh toán nhanh được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh cho nợ ngắn hạn. <br /> Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể  nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao <br /> gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn và các khoản phải thu. Hàng tồn kho là tài sản khó chuyển <br /> thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ  bị lỗ  khi đem bán. Do vậy, tỷ  lệ  khả  năng <br /> thanh toán nhanh cho biết khả  năng hoàn trả  các khoản nợ  ngắn hạn không phụ  thuộc vào <br /> việc bán dự trữ (tồn kho).<br /> <br /> Hệ số thanh toán nhanh (thanh toán tức thời) =<br /> <br /> Tiền + Đầu tư ngắn hạn + Khoản phải thu<br /> Nợ ngắn hạn<br /> <br /> Nói chung tỷ lệ này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, cũng giống như trương hợp  <br /> của hệ  số  thanh toán ngắn hạn để  kết luận giá trị  của hệ  số  thanh toán tức thời là tốt hay  <br /> xấu cần xét đến đặc điểm và điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ <br /> hơn 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ.<br /> Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn<br /> Tỷ  lệ  này được dùng để  đo lường phần vốn góp của các chủ  sở  hữu doanh nghiệp so với  <br /> phần tài trợ của chủ nợ cho doanh nghiệp. Nó còn được coi là tỷ lệ đòn bẩy tài chính và có ý  <br /> nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu của  <br /> doanh nghiệp để  thể  hiện mức độ  tin tưởng vào sự  bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu <br /> chủ sở hữu chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn thì rủi ro trong hoạt động sản  <br /> xuất kinh doanh là do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, <br /> các chủ doanh nghiệp vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra,  <br /> các khoản vay cũng tạo ra những khoản tiết kiệm nhờ thuế do chi phí cho vốn vay là chi phí  <br /> trước thuế.<br /> Những doanh nghiệp có tỷ  lệ  này thấp phải chịu rủi ro lỗ  ít hơn khi nền kinh tế  suy thoái  <br /> đồng thời có lợi nhuận kỳ  vọng thấp hơn so với doanh nghiệp có tỷ  lệ  này cao trong nền  <br /> kinh tế  bùng nổ. Hay nói cách khác, những doanh nghiệp có tỷ  lệ  nợ  cao có nguy cơ  lỗ  lớn  <br /> nhưng lại có cơ  hội nhận được lợi nhuận cao. Tuy lợi nhuận kỳ vọng cao nhưng phần lớn  <br /> các nhà đầu tư đều rõ´t so? rủi ro. Vì thế quyết định về sử dụng nợ phải được cân bằng giữa  <br /> lợi nhuận và rủi ro.<br /> Trên cơ sở phân tích kết cấu nguồn vốn, doanh nghiệp sẽ nắm được khả  năng tự  tài trợ  về <br /> mặt tài chính, mức độ  chủ  động trong sản xuất kinh doanh hay những khó khăn mà doanh  <br /> nghiệp gặp phải trong việc khai thác nguồn vốn.<br /> Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản<br /> <br /> Hệ số nợ =<br /> Nợ<br /> <br /> Tổng tài sản<br /> <br /> Tỷ  lệ này được sử dụng để xác định nghĩa vụ  của chủ doanh nghiệp đối với các chủ  nợ  đã  <br /> góp vốn cho doanh nghiệp. Thông thường các chủ nợ thích tỷ lệ vay nợ vừa phải vì tỷ lệ này  <br /> càng thấp thì các khoản nợ  càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản.  <br /> Trong khi đó, các chủ sở hữu  ưa thích tỷ lệ  nợ cao vì họ  muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và  <br /> muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi <br /> vào trạng thái mất khả năng thanh toán. Để đánh giá được việc sử dụng nợ cũng như mức độ <br /> sử  dụng nợ  của doanh nghiệp người ta tính mức độ  đòn bẩy tài chính (Degree of Financial <br /> Leverage ­ DFL) của doanh nghiệp.<br /> Mức độ   ảnh hưởng của DFL được xác định như  là tỷ  lệ  thay đổi về  doanh lợi vốn chủ  sở <br /> hữu phát sinh do sự thay đổi về lợi nhuận trước thuế và lãi vay phải trả.<br /> <br /> DLF =<br /> <br /> Q (P ­ V) ­ F<br /> Q (P ­ V) – F ­ 1<br /> <br /> Trong đó: Q là sản lượng<br /> P là giá bán đơn vị sản phẩm<br /> V là chi phí biến đổi mỗi đơn vị sản phẩm<br /> F là chi phí cố định<br /> I là chi phí lãi vay phải trả<br /> Từ công thức trên ta thấy khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay không đủ  lớn để  trang trải lãi  <br /> vay thì doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bị giảm sút. Nhưng khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay  <br /> đã đủ  lớn để  trang trải lãi vay phải trả  thì chỉ  cần một sự  gia tăng nhỏ  về  sản lượng cũng  <br /> mang lại một biến động lớn về doanh lợi vốn chủ sở hữu.<br /> Khả năng thanh toán lãi vay hay số lần có thể trả lãi<br /> Tỷ lệ này được xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi vay cho<br /> lãi tiền vay.<br /> <br /> Khả năng thanh toán lãi vay =<br /> <br /> Lợi nhuận trước thuế và lãi<br /> Lãi tiền vay<br /> Khả  năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ  lợi nhuận đảm bảo cho khả  năng trả  lãi hàng <br /> năm. Việc không trả  được các khoản nợ này có thể  làm cho doanh nghiệp bị phá sản. Cùng <br /> với tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, tỷ lệ này giúp ta thấy được tình trạng thanh toán công nợ  của <br /> doanh nghiệp tốt hay xấu. Một tỷ lệ nợ trên tổng tài sản cao cộng với khả năng thanh toán lãi <br /> thấp so với mức trung bình của ngành sẽ  khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc <br /> muốn gia tăng nợ.<br /> Khả năng độc lập về tài chính<br /> <br /> Khả năng độc lập về tài chính =<br /> Vốn chủ sở hữu<br /> <br /> Vốn trung và dài hạn<br /> <br /> Tỷ lệ này phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và tính chủ động trong kinh doanh <br /> của doanh nghiệp. Tỷ lệ này càng lớn thì tài sản của doanh nghiệp càng ít chịu rủi ro. Tuy  <br /> nhiên, chi phí của vốn cổ phần lớn hơn chi phí vay nợ và việc tăng vốn cổ phần cổ phần có  <br /> thể dẫn đến bị san sẻ quyền lãnh đạo doanh nghiệp.<br /> Tỷ lệ về cơ cấu tài sản<br /> Đồng thời với việc xác định cho mình một cơ  cấu vốn hợp lý, doanh nghiệp cần phải xem  <br /> xét việc sử dụng vốn đó như  thế  nào để  đáp ứng yêu cầu kinh doanh và nâng cao hiệu qủa <br /> kinh tế  của đồng vốn. Việc phân tích tình hình phân bổ  vốn hay kết cấu tài sản của doanh <br /> nghiệp sẽ cho ta thấy việc sử dụng vốn của doanh nghiệp có hợp lý hay không, có phù hợp  <br /> với đặc điểm loại hình kinh doanh không và sự thay đổi kết cấu tài sản qua từng thời kỳ có  <br /> ảnh hưởng gì đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.<br /> <br /> Tỷ lệ về cơ cấu tài sản =<br /> <br /> Tài   sản   cố   định   hoặc   tài   sản   lưu <br /> động<br /> <br /> Tổng tài sản<br /> Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và máy móc thiết bị <br /> nói riêng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của <br /> doanh nghiệp. Giá trị của chỉ tiêu này tuỳ thuộc vào từng ngành kinh doanh cụ thể.<br /> Các tỷ lệ về khả năng hoạt động<br /> Các tỷ  lệ  về  khả  năng hoạt động được sử  dụng để  đánh giá hiệu quả  sử  dụng nguồn vốn  <br /> của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được đầu tư cho các loại tài sản khác nhau <br /> như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc  <br /> đo lường hiệu quả sử dụng của tổng nguồn vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của <br /> từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp.<br /> Chỉ  tiêu doanh thu thuần được sử dụng chủ  yếu trong các tỷ  lệ  này nhằm tính tốc độ  quay  <br /> vòng của một số  đại lượng rất cần cho quản lý tài chính ngắn hạn. Các tỷ  lệ  này cho ta  <br /> những thông tin hữu ích để đánh giá mức độ cân bằng tài chính và khả năng thanh khoản của <br /> doanh nghiệp.<br /> Vòng quay tiền<br /> Tiền là khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Việc giữ tiền  <br /> và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi thế như chủ động trong <br /> kinh doanh, mua hàng trả tiền ngay được hưởng chiết khấu, ngoài ra khi vật tư hàng hoá rẻ <br /> doanh nghiệp có thể  dữ  trữ  với lượng lớn tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất. Tuy nhiên, <br /> tiền được lưu giữ ở mức không hợp lý có thể gây ra nhiều bất lợi. Thứ nhất, điều kiện thiếu  <br /> vốn đang phổ  biến  ở  các doanh nghiệp thì việc giữ  quá nhiều tiền sẽ  gây ứ  đọng vốn, hạn <br /> chế khả năng đầu tư vào các tài sản khác, do đó lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị giảm. <br /> Thứ hai, do có giá trị theo thời gian và do chịu tác động của lạm phát, tiền sẽ  bị mất giá. Vì <br /> vậy, cần quan tâm đến tốc độ vòng quay tiền sao cho đem lại khả năng sinh lợi cao nhất cho  <br /> doanh nghiệp.<br /> <br /> Vòng quay tiền =<br /> <br /> Doanh thu thuần<br /> Tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán<br /> <br /> Vòng quay hàng tồn kho<br /> Dự  trữ  và tồn kho thường chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động của doanh nghiệp. Vì <br /> vậy, một mặt ta phải giới hạn mức dự trữ này ở  mức tối ưu, mặt khác tăng vòng quay của <br /> chúng. Dự trữ là một khoản đầu tư cần thiết để đảm bảo tính liên tục của sản xuất và không  <br /> bỏ  lỡ  cơ  hội trong kinh doanh. Khoản đầu tư  này được giải phóng sau khi sản phẩm được <br /> tiêu thụ.<br /> Vòng quay hàng tồn kho là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh  <br /> doanh của doanh nghiệp, nó được xác định bằng công thức dưới đây.<br /> <br /> Vòng quay hàng tồn kho =<br /> <br /> Doanh thu thuần<br /> Hàng tồn kho<br /> <br /> Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho phản ánh số lần hàng tồn kho được bán ra trong kỳ kế toán  <br /> và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu vốn luân chuyển. Con số này càng cao chứng tỏ khả <br /> năng bán ra càng lớn. Trên góc độ chu chuyển vốn thì hệ số quay vòng tồn kho lớn sẽ giảm  <br /> bớt được số vốn đầu tư vào công việc này, hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao hơn. Tuy nhiên, khi <br /> phân tích cũng cần phải chú ý đến những nhân tố khác ảnh hưởng đến hệ số quay vòng tồn  <br /> kho như  việc áp dụng phương thức bán hàng, kết cấu hàng tồn kho, thị  hiếu tiêu dùng, tình <br /> trạng nền kinh tế, đặc điểm theo mùa vụ của doanh nghiệp, thời gian giao hàng của nhà cung  <br /> cấp...<br /> Biến động của chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho cung cấp cho ta nhiều thông tin. Việc giảm <br /> vòng quay vốn hàng tồn kho có thể  do chậm bán hàng, quản lý dự  trữ  kém, trong dự  trữ  có <br /> nhiều sản phẩm lạc hậu. Nhưng việc giảm vòng quay hàng tồn kho cũng có thể  là kết quả <br /> của quyết định của doanh nghiệp tăng mức dự trữ nguyên vật liệu khi biết trước giá cả  của <br /> chúng sẽ tăng hoặc có thể có sự gián đoạn trong việc cung cấp các nguyên vật liệu này (có  <br /> đình công, suy giảm sản xuất). Ngược lại, việc tăng vòng quay hàng tồn kho có thể do những  <br /> cải tiến được áp dụng trong khâu bán hàng hay hàng hoá của doanh nghiệp đạt chất lượng  <br /> cao, kết cấu hợp lý. Đây là điều đáng khích lệ. Còn nếu doanh nghiệp duy trì mức tồn kho  <br /> thấp thì cũng làm cho hệ số quay vòng hàng tồn kho tăng cao nhưng điều này đôi khi gây ra  <br /> tình trạng thiếu hàng để bán và ảnh hưởng đến việc tăng doanh thu.<br /> Kỳ thu tiền bình quân<br /> Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc tồn tại các khoản phải thu là điều khó tránh khỏi. <br /> Nhờ bán chịu, doanh nghiệp có thể thu hút thêm khách hàng, mở rộng thị trường và duy trì thị <br /> trường truyền thống, do đó có thể  giảm hàng tồn kho, duy trì được mức sản xuất, nâng cao <br /> hiệu quả  sử dụng máy móc, thiết bị. Hơn nữa, nó còn có thể  mang lại lợi nhuận tiềm năng <br /> cao hơn nhờ việc tăng giá do khách hàng mua chịu. Song việc bán hàng chịu cũng đẩy doanh <br /> nghiệp vào tình trạng phải đối mặt không ít với các rủi ro. Đó là giá trị  hàng hoá lâu được  <br /> thực hiện dẫn đến giảm tốc độ  chu chuyển của vốn, đặc biệt trong tình trạng thiếu vốn  <br /> doanh nghiệp phải huy động nguồn tài trợ  cho việc bán chịu; một điều đáng lo ngại hơn là  <br /> rủi ro về khả năng thu nợ, chi phí đòi nợ. Vì vậy, nhiệm vụ của người quản lý doanh nghiệp  <br /> là phải quan tâm đến kỳ thu tiền bình quân và có biện pháp rút ngắn thời gian này.<br /> Kỳ thu tiền bình quân được tính theo công thức sau (đơn vị của công thức này là ngày):<br /> <br /> Kỳ thu tiền bình quân =<br /> <br /> Các khoản phải thu<br /> Doanh thu thuần<br /> <br /> x 360<br /> <br /> Trong phân tích tài chính, chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trong  <br /> thanh toán của doanh nghiệp. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào nhiều yếu tố:<br /> ­ Tính chất của việc doanh nghiệp chấp nhận bán hàng chịu: Một số doanh nghiệp có chính <br /> sách mở rộng bán chịu và chấp nhận kéo dài thời hạn thanh toán hơn các đối thủ  cạnh tranh <br /> để phát triển thị trường.<br /> ­ Tình trạng của nền kinh tế: Khi tình hình thuận lợi các doanh nghiệp có khuynh hướng dễ <br /> dàng chấp nhận bán chịu và ngược lại. Nếu chấp nhận tăng thời gian bán chịu cho khách  <br /> hàng mà không tăng được mức tiêu thụ thì đó là dấu hiệu xấu về tình hình kinh doanh. Doanh  <br /> nghiệp cần phải thay đổi chính sách tiêu thụ để giữ khách hàng hoặc nâng cao khả năng cạnh  <br /> tranh của sản phẩm. Nhưng tình trạng đó cũng có thể  là do khách hàng gặp khó khăn trong <br /> chi trả  nhất là ở  vào thời kỳ  kinh tế suy thoái. Tình huống đó gây khó khăn dây chuyền cho <br /> các doanh nghiệp bán chịu.<br /> ­ Chính sách tín dụng và chi phí bán hàng chịu: khi lãi suất tín dụng cấp cho các doanh nghiệp  <br /> để tài trợ cho kinh doanh tăng, các doanh nghiệp có xu hướng giảm thời gian bán chịu vì nếu  <br /> tiếp tục kéo dài thời hạn sẽ rất tốn kém về chi phí tài chính.<br /> ­ Ngoài ra độ  lớn của các khoản phải thu còn phụ thuộc vào các khoản trả trước của doanh <br /> nghiệp.<br /> Vòng quay vốn lưu động<br /> <br /> Vòng quay vốn lưu động =<br /> Doanh thu thuần<br /> <br /> Vốn lưu động<br /> <br /> Chỉ  tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số  vòng quay tăng  <br /> chứng tỏ  hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Chỉ  tiêu này còn được gọi là hệ  số  luân  <br /> chuyển. Đẩy nhanh tốc độ  luân chuyển vốn sẽ  góp phần giải quyết nhu cầu về  vốn cho  <br /> doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.<br /> Hiệu suất sử dụng tài sản cố định<br /> Chỉ  tiêu này cho biết một đồng tài sản cố  định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong  <br /> kỳ. Tài sản cố  định  ở  đây được xác định là giá trị  còn lại tới thời điểm lập báo cáo tức là  <br /> bằng nguyên giá tài sản cố định trừ đi hao mòn luỹ kế.<br /> <br /> Hiệu   suất   sử   dụng   tài   sản   cố <br /> =<br /> định<br /> Doanh thu thuần<br /> <br /> Giá trị còn lại của tài sản cố định<br /> <br /> Hiệu suất sử dụng tổng tài sản<br /> Tỷ lệ này cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Nó cũng thể hiện số <br /> vòng quay trung bình của toàn bộ vốn của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Hệ số này làm rõ <br /> khả năng tận dụng vốn triệt để  vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tăng vòng <br /> quay vốn kinh doanh này là yếu tố quan trọng làm tăng lợi nhận cho doanh nghiệp đồng thời  <br /> làm tăng khả năng cạnh tranh, tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.<br /> <br /> Hiệu   suất   sử   dụng   tổng   tài <br /> =<br /> sản<br /> <br /> Doanh thu thuần<br /> Tổng tài sản<br /> <br /> <br /> Các tỷ lệ về khả năng sinh lời<br /> <br /> Khả năng sinh lời là kết quả tổng hợp chịu tác động của nhiều nhân tố vì thế khác với các tỷ <br /> lệ  tài chính phân tích  ở  trên chỉ  phán ánh hiệu quả  từng hoạt động riêng biệt của doanh  <br /> nghiệp, tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và <br /> hiệu năng quản lý của doanh nghiệp. Mục đích chung của các doanh nghiệp là làm sao để <br /> một đồng vốn bỏ  ra mang lại hiệu quả cao nhất và khả  năng sinh lời nhiều nhất. Để  đánh <br /> giá khả năng sinh lời người ta dùng các chỉ tiêu sau:<br /> Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm<br /> <br /> Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm =<br /> <br /> Lợi nhuận sau thuế<br /> Doanh thu thuần<br /> <br /> Chỉ tiêu trên phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong một đồng doanh thu. Chỉ tiêu này có thể <br /> tăng giảm giữa các kỳ  tuỳ  theo sự  thay đổi của doanh thu thuần và chi phí. Nếu doanh thu  <br /> thuần giảm hoặc tăng không đáng kể trong khi đó chi phí tăng lên với tốc độ lớn hơn sẽ dẫn  <br /> đến lợi nhuận sau thuế giảm và kết quả là doanh lợi tiêu thụ sản phẩm thấp. Khi đó, doanh <br /> nghiệp vẫn cần xác định rõ nguyên nhân của tình hình để có giải pháp khắc phục.<br /> Doanh lợi vốn chủ sở hữu<br /> Được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế  cho vốn chủ  sở  hữu. Nó phản ánh khả <br /> năng sinh lời của vốn chủ  sở hữu và được các nhà đầu tư  đặc biệt quan tâm khi họ  quyết  <br /> định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu cũng là mục tiêu <br /> của hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Ta xét các nhân tố  ảnh hưởng đến doanh lợi  <br /> vốn chủ sở hữu như sau:<br /> <br /> <br /> Lợi nhuận sau thuế<br /> Vốn chủ sở hữu<br /> <br /> =<br /> Lợi nhuận sau thuế<br /> <br /> Doanh thu thuần<br /> X<br /> <br /> Doanh thu thuần<br /> Tổng tài sản<br /> <br /> x<br /> Tổng tài sản<br /> <br /> Vốn chủ sở hữu<br /> <br /> Như vậy, doanh lợi vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng của ba nhân tố:<br /> ­Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm.<br /> ­Hiệu suất sử dụng tổng tài sản.<br /> ­Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản.<br /> Vì vậy, khi xem xét sự biến động của doanh lợi vốn chủ sở hữu ta cần phân tích sự thay đổi <br /> của cả ba yếu tố trên để đưa ra những kết luận đúng đắn.<br /> Doanh lợi vốn<br /> Đây là chỉ  tiêu tổng hợp nhất được dùng để  đánh giá khả  năng sinh lời của một đồng vốn  <br /> đầu tư (ROA). Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi <br /> so sánh mà người ta lựa chọn lợi nhuận trước thuế và lãi hay lợi nhuận sau thuế để  so sánh  <br /> với tổng tài sản. Đối với doanh nghiệp có sử dụng nợ trong kinh doanh, người ta thường sử <br /> dụng chỉ tiêu doanh lợi vốn xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi cho tổng tài <br /> sản.<br /> <br /> Doanh lợi vốn =<br /> Lợi nhuận trước thuế và lãi vay<br /> <br /> Tổng tài sản<br /> <br /> <br /> Phân tích các hoạt động tài chính<br /> <br /> Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn<br /> Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính là bảng nguồn vốn và sử dụng  <br /> vốn (bảng tài trợ). Nó giúp các nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và mục đích  <br /> sử dụng các nguồn vốn.<br /> Trong phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta thường xem xét sự  thay đổi <br /> của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo  <br /> số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán.<br /> Để lập được bảng này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi của các khoản mục trên bảng cân <br /> đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột sử dụng vốn và  <br /> nguồn vốn theo nguyên tắc:<br /> Sử dụng vốn: tăng tài sản hoặc giảm vốn.<br /> Nguồn vốn: giảm tài sản hoặc tăng vốn.<br /> Việc thiết lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn là cơ  sở  để  tiến hành phân tích tình hình <br /> tăng giảm nguồn vốn, sử  dụng vốn, chỉ  ra những trọng điểm đầu tư  vốn và những nguồn <br /> vốn chủ  yếu được hình thành để  tài trợ  cho những đầu tư  đó. Từ  đó có giải pháp khai thác <br /> các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.<br /> Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh<br /> Vốn lưu động thường xuyên<br /> Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có tài sản bao gồm tài sản lưu  <br /> động và tài sản cố định. Để hình thành hai nguồn tài sản này phải có các nguồn tài trợ tương <br /> ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.<br /> Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử  dụng trong khoảng thời gian dưới  <br /> một năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm nợ ngắn hạn, nợ quá hạn, nợ nhà cung <br /> cấp và nợ ngắn hạn phải trả khác.<br /> Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt động kinh doanh, nó  <br /> có thời hạn trên một năm và bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay nợ trung hạn và  <br /> dài hạn.<br /> Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư  để  hình thành tài sản cố  định (TSCĐ), phần dư <br /> của nguồn vốn dài hạn được đầu tư để hình thành tài sản lưu động (TSLĐ). Chênh lệch giữa  <br /> nguồn vốn dài hạn và tài sản cố định hay giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn được gọi là  <br /> vốn lưu động thường xuyên. Mức độ an toàn của tài sản ngắn hạn phụ thuộc vào độ lớn của <br /> vốn lưu động thường xuyên.<br /> VLĐ thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn ­ TSCĐ = TSLĐ ­ Nợ ngắn hạn<br /> Có 3 trường hợp có khả năng xảy ra như sau:<br /> ­ Vốn lưu động thường xuyên > 0, nghĩa là nguồn vốn dài hạn lớn hơn tài sản cố định, phần  <br /> dư  thừa đó đầu tư  vào tài sản lưu động. Đồng thời, tài sản lưu động lớn hơn nợ  ngắn hạn  <br /> nên khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt.<br /> ­ Vốn lưu động thường xuyên = 0, có nghĩa nguồn vốn dài hạn vừa đủ tài trợ  cho tài sản cố <br /> định và tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn, tình hình tài chính  <br /> như vậy là lành mạnh.<br /> ­ Vốn lưu động thường xuyên  0, tức là tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ <br /> ngắn hạn. Tại đây các sử dụng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn <br /> hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để <br /> tài trợ  vào phần chênh lệch. Trong trường hợp này doanh nghiệp cần có biện pháp để  giải <br /> phóng tồn kho và giảm các khoản phải thu từ khách hàng.<br /> ­ Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên = 0, tức là các nguồn vốn từ bên ngoài vừa đủ để  tài  <br /> trợ cho các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp.<br /> ­ Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0