See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/237797032<br />
<br />
PHÂN LOẠI CƠN ĐỘNG KINH TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I THÀNH PHỐ<br />
HỒ CHÍ MINH<br />
Article<br />
CITATIONS<br />
<br />
READS<br />
<br />
0<br />
<br />
224<br />
<br />
3 authors, including:<br />
Duc To<br />
International SOS<br />
1 PUBLICATION 0 CITATIONS <br />
SEE PROFILE<br />
<br />
Some of the authors of this publication are also working on these related projects:<br />
<br />
Classification of Epilepsy in Children View project<br />
<br />
All content following this page was uploaded by Duc To on 04 July 2018.<br />
<br />
The user has requested enhancement of the downloaded file.<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 3 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
PHÂN LOẠI CƠN ĐỘNG KINH TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG I THÀNH<br />
PHỐ HỒ CHÍ MINH<br />
Tô Hồng Đức*, Nguyễn Quang Vinh**, Trần Diệp Tuấn***<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục đích: Phân loại cơn theo Hiệp Hội Chống Động Kinh Thế Giới 1981 (ICES) trên bệnh nhi động kinh mới được<br />
chẩn đoán hoặc chưa điều trị.<br />
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca trên bệnh nhi động kinh (ĐK) tại Bệnh Viện Nhi Đồng I TP Hồ Chí<br />
Minh (BVNĐI) từ tháng 4/2006 đến tháng 3/2007.<br />
Kết quả: Có 99 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, gồm 53 nam và 46 nữ, tỷ lệ nam nữ là 1,15:1. Đến từ các tỉnh là 77 ca<br />
(78%). Chúng tôi ghi nhận có 47 ca (47,5%) có cơn cục bộ, trong đó cơn cục bộ đơn giản là 10 ca (10,1%), cơn cục bộ<br />
phức tạp là 4 ca (4%), và cơn cục bộ toàn thể hóa là 33 ca (33,3%). Có 38 ca là cơn toàn thể, chiếm tỷ lệ 38,4%. Cơn<br />
không phân loại được là 14 ca (14,1%). Có 33 ca (33,3%) là ĐK triệu chứng. Theo dõi từ 3 tháng trở lên có 86 ca (86,9%),<br />
bỏ trị 13 ca (13,1%). Đáp ứng sớm có 63/86 ca (73,3%).<br />
Kết Luận: Kết quả phân loại được chiếm tỉ lệ khá cao bằng phân loại cơn động kinh theo ILAE 1981. Đây là cách<br />
phân loại đơn giản, dễ thực hiện và phù hợp với hoàn cảnh của các nước đang phát triến như nước ta, khi mà các phương<br />
tiện hỗ trợ chẩn đoán còn hạn chế. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, cần có các chương trình giáo dục trong<br />
cộng đồng để nâng cao hiểu biết về bệnh động kinh.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
CLASSIFICATION OF PEDIATRIC EPILEPTIC SEIZURES IN CHILDREN HOSPITAL No1<br />
AT HO CHI MINH CITY<br />
To Hong Duc, Nguyen Quang Vinh, Tran Diep Tuan<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - No 3 – 2008: 172 - 177<br />
Objectives: To classify epileptic seizures based on the 1981 International Classification of Epileptic Seizures (ICES)<br />
for children with newly diagnosed or untreated epilepsy.<br />
Methods: A case-series study of 99 epileptic children at Children Hospital No1 HCMC from 4/2006 to 3/2007.<br />
Results: Ninety-nine patients were enrolled in this study with 53 boys and 46 girls (male to female ratio is 1.15:1).<br />
There were 77 cases (78%) came from provinces. Out of 99 patients, 47 (47.5%) were classified as partial seizures,<br />
including simple partial seizures in 10 cases (10.1%), complex partial seizures in 4 cases (4%), and 33 cases (33.3%) with<br />
secondarily generalized seizures. Thirty-eight patients (38.4%) were classified as generalized seizures. Unclassified<br />
seizures comprised of 14 cases (14.1%). Thirty-three out of 99 patients were symptomatic epilepsy. Eighty-six cases<br />
(86.9%) were followed up for more than 3 months, and early responding to antiepileptic drug was found in 63 out of 86<br />
patients (73.3%).<br />
Conclusions: Based on the 1981 ICES, the frequency of patients with classifiable seizures were high in this study. This<br />
classification is rather simple and suitable for developing countries such as Vietnam, where diagnostic facilities are limited.<br />
Furthermore, the results also suggest that health education is necessary to improve the awareness of epilepsy in the publics.<br />
League Against Epilepsy: ILAE) đã đưa ra hệ thống phân<br />
* Bệnh viện Đa Khoa Trung Tâm An Giang<br />
* Bệnh Viện Nhi Đồng I TPHCM<br />
*** Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới, động kinh (ĐK) chiếm<br />
từ 0,5-1% dân số(14). Ở các nước đang phát triển tỷ lệ này<br />
cao hơn gấp 2-5 lần, trong đó trước 6 tuổi chiếm 60%(4).<br />
Bệnh lý ĐK tại các nước đang phát triển chưa thật sự được<br />
ngành y tế quan tâm mặc dù đây là một bệnh có thể chữa<br />
khỏi được(14)<br />
(4)<br />
. Phần lớn bệnh nhân<br />
ở các nước đang phát triển không được điều trị bằng thuốc<br />
chống động kinh. Ước tính vào khoảng 85% bệnh nhân<br />
này hoặc là không được điều trị hoặc là được điều trị<br />
không thích hợp (Meinardi và cs 2001). Một trong những<br />
trở ngại chính đó là vấn đề chẩn đoán bệnh ĐK.<br />
Hiệp Hội Chống Động Kinh Thế Giới (International<br />
<br />
loại cơn ĐK (1981), phân loại ĐK và hội chứng ĐK<br />
(1989) nhằm giúp thống nhất trong báo cáo, nghiên cứu và<br />
thực hành lâm sàng. Tuy nhiên, tại Thành Phố Hồ Chí<br />
Minh (TPHCM) chưa có nghiên cứu nào thật sự sử dụng<br />
hệ thống phân loại này trong ĐK trẻ em. Những năm gần<br />
đây, tuy có những hệ thống phân loại khác đã được đề<br />
nghị, nhưng chưa được chấp nhận. Do đó, phân loại của<br />
ILAE là phân loại được chấp nhận và sử dụng rộng rãi nhất<br />
hiện nay. Hệ thống phân loại cơn ĐK của ILAE 1981 tuy<br />
đã sử dụng đến các phương pháp khách quan như đo EEG<br />
lâu dài và ghi hình video, nó vẫn còn đơn giản hơn nhiều<br />
so với phân loại ĐK và hội chứng ĐK của ILAE 1989.<br />
Phân loại ILAE 1989 đòi hỏi phải phân định được hội<br />
chứng ĐK toàn thể hay cục bộ và bệnh sinh của ĐK. Phân<br />
loại cơn ĐK theo ILAE 1981 đơn giản, chỉ dựa trên 3 yếu<br />
172<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 3 * 2008<br />
tố: (1) biểu hiện lâm sàng của cơn động kinh, (2) biểu hiện<br />
của điện não đồ (EEG) trong cơn, và (3) biểu hiện của<br />
EEG ngoài cơn. Tuy không giúp xác định được bệnh lý<br />
ĐK và hội chứng ĐK cụ thể, nhưng dựa trên bệnh sử đáng<br />
tin cậy và EEG, các thầy thuốc thường có thể phân loại<br />
được cơn ĐK, xác lập chẩn đoán và lên kế hoạch điều trị<br />
thích hợp.<br />
Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài này để khảo sát khả<br />
năng áp dụng phân loại cơn ĐK theo ILAE 1981 cho trẻ từ<br />
1 tháng đến 15 tuổi tại Bệnh viện Nhi đồng 1. Đồng thời<br />
khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kết quả điều trị,<br />
và các yếu tố liên quan đến đáp ứng sớm và bỏ trị.<br />
<br />
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
ĐK, hoặc có nguyên nhân kích gợi, hoặc đã được điều trị<br />
trước đó, hoặc theo dõi không đầy đủ và khai thác được<br />
bệnh sử không đáng tin cậy. Như vậy số bệnh nhi trong<br />
nghiên cứu của chúng tôi là 99. Ngòai ra, chúng tôi cũng<br />
thực hiện xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh đối với trẻ nghi<br />
ngờ có tổn thương cấu trúc, có 45 trẻ được thực hiện siêu<br />
âm no, 11 trẻ có CT (computed tomography) scan não và 3<br />
trẻ được thực hiện MRI (magnetic resonance imaging) não.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Có 99 bệnh nhi tham gia nghiên cứu, bé trai 53 ca và<br />
gái 46 ca. Tỷ lệ nam trên nữ là 1,15:1. Có 77 bệnh nhi đến<br />
từ các tỉnh, chiếm tỷ lệ 78%. Lý do vào viện do co giật là<br />
92 ca (92,9%), cơn mất ý thức và ngã là 3 ca (3%), nhức<br />
đầu là 2 ca (2%), rối loạn tiền đình – thị giác là 2 ca (2%),<br />
và mất ý thức là 1 ca (1%). Tiền sử bệnh lý thần kinh là 40<br />
ca (40,4%), chậm phát triển tâm vận là 26 ca (26,3%), sốt<br />
co giật là 14 ca (14,1%). Số ngày trung bình trước khi đến<br />
cơ sở y tế sau cơn ĐK đầu tiên và đến BVNĐI lần lượt là<br />
83±216 ngày (dao động từ 1 đến 1460 ngày) và 212±466<br />
ngày (dao động từ 1 đến 3190 ngày). Chỉ có 22 (22,2%) trẻ<br />
được đưa ngay đến cơ sơ y tế ngay sau cơn co giật đâu<br />
tiên. Trong khi đó, có đến 11 ca (11,1%) sau 6 tháng mới<br />
được đưa đến cơ sở y tế lần đầu và 26 trẻ (26,3%) sau 6<br />
tháng mới đến khám lần đầu tiên tại BVNĐI.<br />
Chẩn đoán động kinh chỉ dựa trên bệnh sử và biểu<br />
hiện lâm sàng mà không có sự hỗ trợ của EEG có thể thực<br />
hiện được trên 91 ca (91,9%). Trong đó, phân loại được<br />
cơn động kinh là 32 ca, chiếm tỉ lệ 35,2% (32/91 ca).<br />
<br />
Chúng tôi tiến hành phân loại cơn ĐK theo hệ thống<br />
phân loại ILAE 1981 cho 99 trẻ từ 1 tháng tới 15 tuổi mới<br />
được chẩn đoán ĐK (chưa được chẩn đoán và điều trị<br />
trước đó) tại khoa Nhiễm – Thần Kinh BVNĐI từ tháng<br />
4/2006 đến tháng 3/2007. Trẻ được chẩn đoán ĐK khi có ít<br />
nhất 2 cơn kịch phát (xuất hiện đột ngột, thời gian ngắn,<br />
phục hồi nhanh, có tính định hình, liên quan đến vận động,<br />
cảm giác, giác quan, ý thức và tâm thần) mà không có yếu<br />
tố kích gợi (yếu tố kích gợi là các yếu tố như sốt, nhiễm<br />
trùng hệ thần kinh trung ương, chấn thương, xuất huyết<br />
não, rối loạn điện giải…). Hai cơn kịch phát phải cách<br />
nhau ít nhất là 24 giờ. Cơn ĐK của trẻ được phân loại theo<br />
bảmg phân loại ILAE 1981, tuy nhiên, do chúng tôi không<br />
đủ điều kiện để thực hiện các EEG theo dõi liên tục, EEG<br />
có kèm ghi hình vidéo, EEG nội sọ … nên phân loại của<br />
chúng tôi chủ yếu dựa vào (1) khai thác bệnh sử cẩn thận<br />
Phân loại cơn động kinh theo bảng phân loại của<br />
và tỉ mỉ và (2) EEG trong 20 phút theo qui cách đang thực<br />
ILAE 1981<br />
hiện tại BVNĐI (đặt điện cực theo hệ thống 10-20, bao<br />
Chúng tôi ghi nhận có 47 ca (47,5%) có cơn cục bộ,<br />
gồm 2-3 nghiệm pháp tăng thông khí và kích thích ánh<br />
trong<br />
đó cơn cục bộ đơn giản là 10 ca (10,1%), cơn cục bộ<br />
sáng). Chủ yếu là các EEG được thực hiện ngoài cơn. Ban<br />
phức<br />
tạp<br />
là 4 ca (4%), và cơn cục bộ toàn thể hóa là 33 ca<br />
đầu chúng tôi ghi nhận có 129 bệnh nhi có thể đưa vào<br />
(33,3%).<br />
Có<br />
38 ca là cơn toàn thể, chiếm tỷ lệ 38,4%. Cơn<br />
nhóm nghiên cứu, nhưng sau khi khai thác bệnh sử cẩn<br />
không phân loại được là 14 ca (14,1%). (Xem Bảng 1).<br />
thận và thực hiện EEG, thì 30 bệnh nhi bị loại khỏi lô<br />
nghiên cứu do hoặc là cơn kịch phát của trẻ không phải là<br />
Bảng 1. Phân loại cơn ĐK theo ILAE 1981 và phân bố theo nhóm tuổi<br />
Loại cơn<br />
Đơn giản<br />
Cảm giác<br />
Vận động<br />
Thực vật<br />
Tâm thần<br />
Phức tạp<br />
Rối loạn ý thức từ đầu<br />
Rối loạn ý thức trong cơn<br />
Toàn thể hóab<br />
Đơn giản<br />
Phức tạp<br />
Đơn giản-phức tạp<br />
2. Toàn<br />
Cơn vắng ý thức<br />
thể<br />
Cơn giật cơ<br />
38<br />
Cơn co cứng<br />
(38,4%)<br />
Cơn co cứng co giật<br />
Cơn co giật<br />
Cơn mất trương lực cơ<br />
3. Không xếp loại được<br />
Tổng cộng<br />
<br />
1. Cục bộ<br />
47<br />
(47,5%)<br />
<br />
1-12 tháng<br />
<br />
1<br />
<br />
1<br />
4<br />
<br />
13-23 tháng<br />
<br />
2-5 tuổi<br />
<br />
6-10 tuổi<br />
<br />
2<br />
<br />
1a<br />
3<br />
<br />
2<br />
2<br />
<br />
1<br />
1<br />
<br />
1<br />
<br />
1<br />
<br />
1<br />
6<br />
<br />
4<br />
5<br />
2<br />
<br />
3<br />
2<br />
<br />
5<br />
<br />
11-15 tuổi<br />
<br />
1<br />
2<br />
3<br />
12<br />
2<br />
<br />
2<br />
6<br />
<br />
2<br />
27<br />
<br />
4<br />
19<br />
<br />
2<br />
4<br />
1<br />
1<br />
5<br />
25<br />
<br />
2<br />
<br />
3<br />
21<br />
<br />
7<br />
<br />
Số ca (tỉ lệ)<br />
10 (10,1%)<br />
2<br />
8<br />
<br />
4 (4,0%)<br />
3<br />
1<br />
33 (33,3%)<br />
9<br />
22<br />
2<br />
1<br />
2<br />
7<br />
24<br />
3<br />
1<br />
14 (14.1%)<br />
99 (100%)<br />
<br />
173<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 3 * 2008<br />
a<br />
<br />
1 ca vừa có cơn vận động vừa có cơn cảm giác; b<br />
Trong đó cơn vận động là 30 ca và cơn cảm giác là 3<br />
ca (1 ca vừa có cơn vận động vừa có cơn cảm giác), và<br />
1 cơn tâm thần. Trong số này có 1 ca có biểu hiện mất<br />
trương lực cơ và 2 ca có biểu hiện của động tác tự<br />
động.<br />
<br />
Động kinh không co cứng hoặc co giật – Phân<br />
loại khi không có EEG<br />
Điểm đáng lưu ý là chúng tôi ghi nhận 8 bệnh nhân<br />
không có biểu hiện co cứng hoặc co giật trong nghiên<br />
cứu này, chiếm tỉ lệ là 8%. Trong đó biểu hiện lâm sàng<br />
là mất trương lực cơ có 2 ca; động kinh thể cảm giác gồm<br />
nhức đầu 2 ca, tiền đình 1 ca, và thị giác 1 ca; động kinh<br />
thể tâm thần 1 ca; và cơn vắng ý thức là 1 ca.<br />
<br />
Điện não đồ và hình ảnh não (siêu âm não<br />
xuyên thóp, CT scan và MRI)<br />
Tất cả 99 ca đều được thực hiện EEG ngoài cơn.<br />
Kết quả EEG với sóng ĐK điển hình (sóng gai, sóng<br />
nhọn, đa gai, phực hợp sóng gai-sóng chậm, phức hợp<br />
đa sóng gai-sóng chậm, đợt sóng ức chế, đợt sóng<br />
chậm, sóng hypsarrythmia trong hội chứng West) l 56<br />
ca (56,6%), không điển hình (hoạt động điện bất<br />
thường nhưng không điển hình cho ĐK) là 15 ca<br />
(15,2%), không bất thường l 28 ca (28,3%) (Xem bảng<br />
2).<br />
Bảng 2. Kết quả EEG theo loại cơn ĐK<br />
Tính chất EEG (số ca)\<br />
Sóng ĐK điển hình (56)<br />
Cục bộ 1 bên<br />
Cục bộ 2 bên – đa ổ<br />
Toàn thể hóa<br />
Toàn thể<br />
Sóng ĐK không điển hình<br />
(15)<br />
EEG không bất thường (28)<br />
Tổng cộng<br />
<br />
ĐK cục ĐK toàn ĐK không<br />
bộ<br />
thể<br />
phân loại<br />
6<br />
2<br />
14<br />
13<br />
<br />
34<br />
2<br />
<br />
12<br />
47 ca<br />
<br />
2<br />
38 ca<br />
<br />
14<br />
14 ca<br />
<br />
Siêu âm não xuyên thóp được thực hiện trên 45 trẻ<br />
nhũ nhi, trong đó 11 ca có bất thường, gồm dãn não<br />
thất, dị tật não bẩm sinh và khối choán chỗ bất thường.<br />
Hình ảnh CT scan não được làm trên 11 ca, bất thường<br />
gặp trên 8 ca, gồm u não, xuất huyết não, di chứng<br />
chấn thương sọ não, u xơ củ và dị tật teo một bán cầu<br />
đại não trong hội chứng Sturge-Weber. MRI được thực<br />
hiện trên 3 ca, và đều cho kết quả bình thường. Bằng<br />
cách kết hợp các chi tiết trong khai thác bệnh sử, thăm<br />
khám thần kinh tổng quát và kết quả hình ảnh học,<br />
chúng tôi ghi nhận động kinh triệu chứng trong 33 ca<br />
(33,3%). Trong đó nguyên nhân bất thường não bẩm<br />
sinh<br />
là<br />
6<br />
ca<br />
(6,1%),<br />
chu<br />
sinh<br />
là 19 ca (19,2%), và sau thời kỳ chu sinh là 8<br />
ca (8,1%).<br />
<br />
Kết quả điều trị bƣớc đầu<br />
Điều trị ban đầu đa số là đơn trị. Nghiên cứu của<br />
chúng tôi ghi nhận có 97 ca (98%) là đơn trị. Trong đó<br />
chủ yếu là dùng valproic acid gồm 82 ca (82,8%), ngoài<br />
ra còn có carbamazepin, phenobarbital và phenytoin.<br />
Theo dõi từ 3 tháng trở lên thực hiện được trên 86 ca<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
(86,9%), bỏ trị 13 ca (13,1%). Trong 86 ca được theo dõi<br />
trong 3 tháng thì có 63 ca có đáp ứng sớm (sau 3 tháng<br />
dùng thuốc có giảm ≥ 75% cơn động kinh trở lên so với<br />
ban đầu), chiếm tỉ lệ 73,3%. Trong 23 ca thuộc nhóm<br />
không đáp ứng sớm, thì có 17 ca có giảm về tần số cơn<br />
và thời gian của mỗi cơn; và 6 ca hoàn toàn không đáp<br />
ứng nhưng không có ca nào có tăng tần số cơn so với<br />
trước khi điều trị.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Tỉ lệ phân loại được trong nhóm nghiên cứu của<br />
chúng tôi là 85,9%. Đây là một tỉ lệ khá cao. Các<br />
nghiên cứu được thực hiện tại các nước phát triến và<br />
đang phát triển có tỉ lệ phân loại được dao động từ<br />
71% đến gần 98%(9). Nghiên cứu của Shah(10) có<br />
phương pháp gần giống chúng tôi nhất như về phân<br />
loại, lứa tuổi và địa điểm là tại bệnh viện, các tỷ lệ gần<br />
giống về ba nhóm lớn, tuy nhiên trong nhóm ĐK cục<br />
bộ có tỷ lệ ĐK đơn giản thấp hơn và phức tạp cao hơn<br />
của chúng tôi. Nghiên cứu trong nước có của Lê Thị<br />
Khánh Vân (2003), tuy nhiên chưa theo cách phân loại<br />
của ILAE nên kết quả cũng khác (không có nhóm<br />
không phân loại được). Nghiên cứu của Hoàng Viết<br />
Bôn (2001) có cách phân loại theo ILAE cho tỷ lệ<br />
tương tự như nghiên cứu của chúng tôi, nhưng đây là<br />
nghiên cứu chủ yếu về kiến thức thái độ hành vi, chưa<br />
đi sâu vào các thể lâm sàng.<br />
Tỉ lệ ĐK cục bộ trong nghiên cứu của chúng tôi là<br />
47,5%. Theo Sananayake, tỷ lệ ĐK cục bộ ở các nước<br />
đang phát triển (54 -73%) cao hơn ở các nước phát<br />
triển (33 – 66%)(9). Kết quả của chúng tôi cho tỷ lệ cục<br />
bộ cao phù hợp với nhận định này, lý do có thể là do tỷ<br />
lệ này phản ảnh tần suất khá cao của ĐK triệu chứng<br />
tại các nước đang phát triển, mắc phải sau tổn thương<br />
chu sinh, nhiễm trùng và chấn thương đầu. Chúng tôi<br />
tin rằng tỉ lệ ĐK cục bộ ở lô nghiên cứu của chúng tôi<br />
cơ lẽ còn cao hơn, nhưng do chúng tôi phân loại chủ<br />
yếu dựa vào bệnh sử biểu hiện lâm sàng mà không có<br />
các phương tiện trợ giúp khác như video, nên có thể đã<br />
phân loại một số trường hợp ĐK cục bộ toàn thể hóa<br />
vào nhóm ĐK toàn thể. Trong nhóm ĐK cục bộ thì<br />
cơn cục bộ toàn thể hóa chiếm ưu thế (33/47 ca). Giải<br />
thích lý do có tỷ lệ cao hơn các nhóm khác trong ĐK<br />
cục bộ có thể là sau khi bị thể cục bộ đơn giản hoặc<br />
phức tạp ban đầu bệnh nhân không đi khám và điều trị<br />
cho tới lúc họ chuyển qua giai đoạn toàn thể hóa.<br />
Tỉ lệ ĐK toàn thể trong nghiên cứu của chúng tôi<br />
là 38,4%. Trong đó chỉ có một ca là ĐK cơn vắng ý<br />
thức. Theo một số nghiên cứu thì ĐK cơn vắng ý thức<br />
ít gặp ở các nước nhiệt đới hơn ở các nước vùng ôn<br />
đới(9). Ngoài ra, ĐK cơn vắng cũng thường gặp ở lứa<br />
tuổi lớn hơn. Chúng tôi cũng ghi nhận 3 ca ĐK với cơn<br />
co giật, là một dạng cơn ĐK tương đối hiếm. Phần lớn<br />
các cơn toàn thể là cơn co cứng co giật gồm 24 ca.<br />
Tỉ lệ không phân loại được trong nghiên cứu của<br />
chúng tôi là 14,1%, có cao hơn so với nghiên cứu của<br />
Sananayake(9). Trong các trường hợp được chẩn đoán<br />
ĐK khi chưa đo EEG (91 bệnh nhân - 91,9%), nếu<br />
không có EEG chỉ phân loại cơn được 35,2%, nếu có<br />
EEG phân loại được 85,9%. So sánh với Sananayake<br />
174<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Số 3 * 2008<br />
(1250 bệnh nhân trẻ em và người lớn), tỷ lệ này lần<br />
lượt là 95,6% và 97,1%; đây là một trong những báo<br />
cáo có tỷ lệ phân loại được cao nhất trên thế giới(9).<br />
Sananayake phân loại cơn toàn thể khi không có EEG<br />
bằng lâm sàng, sau khi có EEG phải chuyển 30 ca<br />
(2,4% trên tổng số) sang loại cục bộ (nhóm toàn thể<br />
hóa thứ phát). Vì vậy để tránh lầm lẫn này, chúng tôi<br />
xếp những ca có biểu hiện lâm sàng toàn thể (không có<br />
yếu tố giúp xác định khác) khi chưa có EEG hoặc sau<br />
đo EEG có kết quả bình thường vào loại không phân<br />
loại được, cũng do sự khác nhau này chúng tôi có tỷ lệ<br />
không phân loại được cơn cao hơn của Sananayake.<br />
Ngoài ra, có lẽ còn do thời gian theo dõi của chúng tôi<br />
ngắn chỉ trong 3 tháng.<br />
Về 8 ca không co cứng hoặc co giật, khả năng<br />
chẩn đoán ĐK chủ yếu là dựa trên lâm sàng, tuy nhiên<br />
không thể xác định sớm đây là ĐK nếu không có EEG.<br />
Điều này cho thấy khi áp dụng bảng phân loại chỉ cần<br />
dựa trên lâm sàng và EEG, hiệu quả phân loại cơn rất<br />
tốt. Tuy nhiên cần chú ý dù có EEG, một số ca không<br />
co gòng hoặc co giật vẫn có thể bị bỏ sót nếu EEG<br />
bình thường hoặc không nghĩ tới nên không chỉ định.<br />
Chúng tôi nhận thấy với 28,3% EEG bình thường,<br />
15,2% không điển hình đã khẳng định việc chẩn đoán<br />
ĐK không bao giờ bị loại trừ chỉ vì kết quả EEG<br />
không thấy sóng ĐK điển hình(1,13). Siêu âm não có<br />
24,2% bất thường trên tổng số được chỉ định (11/45<br />
ca), xét nghiệm này đơn giản, vô hại, ít tốn kém và hữu<br />
ích khi cho biết những thông tin quan trọng về dãn não<br />
thất, khối bất thường, dị tật não bẩm sinh… giúp định<br />
hướng chẩn đoán nguyên nhân và cho thêm xét nghiệm<br />
khác. Về nguyên nhân gây ĐK triệu chứng, nhiều nhất<br />
là bệnh lý chu sinh với 19,2% (ngạt, sinh non…), kế<br />
tới mới là bệnh lý thần kinh, chứng tỏ vấn đề quản lý<br />
và đề phòng bệnh lý chu sinh còn cần được quan tâm.<br />
Trong nghiên cứu, chúng tôi đánh giá tỷ lệ đáp<br />
ứng sớm vì đây là yếu tố tiên lượng thuyên giảm về lâu<br />
dài, bất kể nguyên nhân(3). Dù chủ yếu là đơn trị<br />
(98%), tỷ lệ đáp ứng sớm khả quan trên số theo dõi<br />
điều trị đầy đủ trong 3 tháng đầu (63/86 ca, 73,3%),<br />
nhóm không đáp ứng sớm cũng không thấy tăng tần số<br />
cơn. Tỷ lệ bỏ trị còn rất cao (13,1%) và không liên<br />
quan với nhóm tuổi, giới, địa chỉ, tiền sử bệnh lý thần<br />
kinh. Do đó, cần chú ý tư vấn và giúp người thân hiểu<br />
rõ về sự cần thiết của quá trình điều trị và theo dõi lâu<br />
dài trong điều trị ĐK.<br />
Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng ghi nhận tỷ<br />
lệ vào cơ sở y tế lần đầu ở ngày đầu là 22,2% dù co<br />
giật là tình trạng gây lo lắng cho thân nhân. Đây là một<br />
tỷ lệ thấp đáng ngạc nhiên. Tỉ lệ bệnh nhi được đưa<br />
đến cơ sở y tế cao nhất ở tuần 2-4 (25 ca, chiếm<br />
25,6%), có thể do một số ca có cơn thưa hoặc chỉ sau<br />
2-4 tuần đầu thì tần số cơn mới tăng đáng kể. Trong<br />
khi đó, có đến 11 ca (11,1%) sau 6 tháng mới được<br />
đưa đến cơ sở y tế lần đầu và 26 trẻ (26,3%) sau 6<br />
tháng mới đến khám lần đầu tiên tại BVNĐI. Điều trị<br />
chậm càng có nguy cơ khó trị(1) và trẻ nên được đến<br />
khám chuyên khoa ngay sau khi có cơn co giật không<br />
kèm sốt đầu tiên(11).<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
KẾT LUẬN<br />
Đây là nghiên cứu phân loại cơn ĐK theo ILAE<br />
1981 ở trẻ em được khám và điều trị tại BVNĐ1. Với<br />
khai thác bệnh sử chi tiết và EEG ngoài cơn, kết quả<br />
phân loại được chiếm tỉ lệ khá cao, tuy có thể có một<br />
số lầm lẫn khi xếp loại do chúng tôi không có EEG<br />
liên tục và video để quay phim theo dõi. Dù vậy, đây<br />
là phân loại mà chúng ta có thể xử dụng được, đặc biệt<br />
là tại một nước đang phát triến và thiết các phương<br />
tiện chẩn đoán khác như nước ta. Với việc phân loại<br />
cơn như vậy, tuy không giúp xác định được bệnh lý<br />
ĐK và hội chứng ĐK cụ thể, nhưng dựa trên bệnh sử<br />
đáng tin cậy và EEG, các thầy thuốc thường có thể<br />
phân loại được cơn ĐK, xác lập chẩn đoán và lên kế<br />
hoạch điều trị thích hợp. Điều trị với đơn trị cho tỷ lệ<br />
đáp ứng sớm cao, nhưng tỷ lệ bệnh nhân đến điều trị<br />
muộn và bỏ trị cũng rất cao, chứng tỏ công tác tuyên<br />
truyền về bệnh ĐK cần được chú ý quan tâm hơn nữa.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1.<br />
2.<br />
3.<br />
4.<br />
5.<br />
6.<br />
<br />
7.<br />
8.<br />
9.<br />
10.<br />
<br />
11.<br />
<br />
12.<br />
13.<br />
<br />
Bazil CW, Morrell MJ, Pedley TA (2005). Epilepsy. In: Rowland<br />
LP. Merritt’s Neurology, 11th edition, pp. 992-1034. Lippincott<br />
Williams & Wilkins, Philadelphia<br />
Bùi Song Hương, Lê Nam Trà, Hoàng Cẩm Tú (2005). Một số đặc điểm<br />
lâm sàng và điện não đồ của động kinh cục bộ ở trẻ em. Tạp chí nghiên<br />
cứu y học, số phụ trương 35 (2): 92 - 95<br />
Guerrini R (2006). Epilepsy in children. The Lancet, 367(9509): 499524<br />
Hoàng Cẩm Tú (1996). Bệnh động kinh trẻ em dưới 6 tuổi tại Viện<br />
bảo vệ sức khoẻ trẻ em, Luận án phó tiến sĩ khoa học y dược. Đại<br />
Học Y Khoa Hà Nội, tr. 1-7<br />
Lê Thị Khánh Vân (2003), Đặc điểm bệnh động kinh tại Bệnh Viện<br />
Nhi Đồng II TPHCM, Luận án chuyên khoa cấp II, Đại Học Y Dược<br />
TPHCM, tr. 5-60<br />
Marson A, Jacoby A, Johnson A, Kim L, Gamble C, Chadwick D<br />
(2005). Immediate versus deferred antiepileptic drug treatment for<br />
early epilepsy and single seizures: a randomised controlled trial. The<br />
Lancet, vol 365, June: 2007-2013<br />
Ngô Viết Bôn (2001). Nghiên cứu kiến thức, thái độ, hành vi của các<br />
bà mẹ có con bị động kinh tại Bệnh Viện Nhi Đồng I TPHCM. Y Học<br />
TPHCM, số phụ bản 5(4): 86 - 88<br />
Phan Việt Nga (2002). Nghiên cứu chẩn đoán và theo dõi kết quả<br />
điều trị động kinh toàn thể ở trẻ em. Luận án tiến sĩ khoa học y dược,<br />
Học Viện Quân Y, tr. 1-24<br />
Senanayake N (1993). “Classification of Epileptic Seizures: A<br />
Hospital-Based Study of 1,250 Patients in a Developing Country”.<br />
Epilepsia, 34(5): 812-818<br />
Shah NK, Rajadhyaksha BS, Shah VS , Shah NS, Desai VG (1992).<br />
Experience with the International League Against Epilepsy<br />
Classifications of Epileptic Seizures (1981) and Epilepsies and Epileptic<br />
Syndrome (1989) in epileptic children in a developing country. Epilepsia,<br />
33(6): 1072-1077<br />
Stokes T, Shaw EJ, Juarez GA, Camosso SJ, Baker R (2004). The<br />
diagnosis and management of the epilepsies in adults and children in<br />
primary and secondary care, 1st edition, pp. 12-75. National<br />
Collaborating Centre for Primary Care, London.<br />
Trần Thu Hương (1996). Nghiên cứu động kinh tự phát ở trẻ em<br />
dưới 15 tuổi. Luận án phó tiến sĩ khoa học y dược. Đại Học Y Khoa<br />
Hà Nội, tr.1-41.<br />
Wallace JS, Farrell K (2004). Epilepsy in children, 2nd edition,<br />
pp.21-81, 123-148. Arnold, London.<br />
<br />
World Health Organization (2004). Epilepsy in the Western<br />
Pacific Region, 1st edition, pp. 3-10. Regional Office for the<br />
Western Pacific, Manila<br />
<br />
175<br />
View publication stats<br />
<br />