Phân tích các lợi ích và đề xuất mô hình nông lâm kết hợp đô thị
lượt xem 1
download
Bài viết "Phân tích các lợi ích và đề xuất mô hình nông lâm kết hợp đô thị" tổng thuật và phân tích các nghiên cứu về nông lâm kết hợp đô thị từ đó đề xuất một số mô hình nông lâm kết hợp đô thị trong điều kiện đô thị hóa ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phân tích các lợi ích và đề xuất mô hình nông lâm kết hợp đô thị
- PHÂN TÍCH CÁC LỢI ÍCH VÀ ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH NÔNG LÂM KẾT HỢP ĐÔ THỊ Nguyễn Thị Thanh Thảo1 1. Khoa Khoa học Quản lý - Trường Đại học Thủ Dầu Một TÓM TẮT Nông lâm kết hợp đô thị chỉ là một trong nhiều thuật ngữ đã được sử dụng để mô tả các hệ thống sản xuất dựa trên cây trong bối cảnh đô thị. Trong đó thể hiện rõ nhất là mô hình vườn nhà và lâm nghiệp đô thị, hướng tới sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, dược liệu với năng suất bền vững và hiệu quả lâu dài. Đặc biệt, các mô hình này được sản xuất theo định hướng kinh tế tuần hoàn, các nghiên cứu cần tập trung vào sự đóng góp nguồn nguyên liệu đầu vào và đầu ra của một hệ thống sản xuất dựa trên cây trồng và chăn nuôi trong một khu dân cư đô thị, vừa giúp cung cấp lương thực, thực phẩm thiết yếu, vừa giúp tiết kiệm nguồn tài nguyên, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái đô thị. Bài viết tổng thuật và phân tích các nghiên cứu về nông lâm kết hợp đô thị từ đó đề xuất một số mô hình nông lâm kết hợp đô thị trong điều kiện đô thị hóa ở Việt Nam. Từ khóa: , hệ thống nông lâm, kết hợp nông lâm kết hợp, kinh tế tuần hoàn, nông lâm kết hợp đô thị,. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hệ thống nông lâm kết hợp (agroforestry system) được xem như là một mô hình canh tác kinh tế tuần hoàn. Đó là một hệ sinh thái nhân tạo với đa dạng sinh học, đã nhận được sự quan tâm lớn trên toàn thế giới và trở thành xu hướng chủ đạo của nông lâm kết hợp sinh thái. Hiện nay, mô hình nông lâm kết hợp chủ yếu được sử dụng ở các vùng nông thôn, hoặc vườn tham quan nông nghiệp, ít được sử dụng ở các không gian xanh đô thị. Các sản phẩm trong hệ thống này có mối tương hỗ và liên kết với nhau, trong hệ thống này, sản phẩm đầu ra của thành phần sản xuất này là nguồn nguyên liệu đầu vào của thành phần sản xuất khác. Nông lâm kết hợp đô thị (urban agroforestry) là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả các hệ thống nông lâm kết hợp được giới hạn ở các thị trấn hoặc khu vực đô thị, đây là một mô hình đặc trưng của sản xuất nông lâm nghiệp tuần hoàn ở đô thị. Trong đó, vườn nhà và lâm nghiệp đô thị là hai mô hình được sử dụng phổ biến nhất trong nông lâm kết hợp đô thị. Sở dĩ nhiều sân, vườn đô thị có thể bố trí thành hệ thống nông lâm kết hợp đô thị là vì có thể kết hợp cảnh quan đô thị với các công trình sản xuất như nông, lâm nghiệp, chăn nuôi và ngư nghiệp, nông lâm kết hợp, lâm nghiệp, lâm y, lâm nghiệp và chăn nuôi. Mục đích của việc nghiên cứu làm thế nào để thúc đẩy phát triển hệ thống nông lâm kết hợp đô thị nhằm tận dụng hiệu quả diện tích đất nhỏ trong đô thị, cải thiện môi trường sinh thái, cung cấp lương thực, thực phẩm, gỗ, nhiên liệu và tạo cơ hội việc làm cho lao động nhàn rỗi. 630
- Với đặc trưng đô thị Việt Nam có sự đan xen, hòa trộn giữa nông thôn và thành thị cả về mặt không gian địa lý, cơ sở hạ tầng, dân cư, tôn giáo, văn hóa và hoạt động kinh tế, một là do lịch sử phát triển của Việt Nam là một nước nông nghiệp cùng với sự phát triển kinh tế nhanh chóng và hòa nhập với thế giới nên đô thị hóa cũng ngày càng cao; hai là tập quán lao động nông nghiệp của người dân vẫn còn được duy trì; ba là điều kiện khí hậu Việt Nam rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Vì vậy việc phân tích các lợi ích của nông lâm kết hợp đô thị và đề xuất mô hình phù hợp với điều kiện đô thị Việt Nam là rất cần thiết. Mục tiêu: Phân tích lợi ích của hệ thống nông lâm kết hợp đô thị, từ đó đề xuất mô hình nông lâm kết hợp đô thị trong điều kiện đô thị hóa ở Việt Nam. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bài viết áp dụng phương pháp tổng thuật và phân tích các nguồn thông tin từ các tài liệu nghiên cứu về lợi ích hệ thống nông lâm kết hợp đô thị, từ các nguồn tài liệu bài báo khoa học, tạp chí khoa học, website từ đó tổng hợp, phân tích và đề xuất mô hình nông lâm kết hợp đô thị phù hợp điều kiện đô thị hóa ở Việt Nam. 3. KẾT QUẢ THỰC HIỆN 3.1 Tổng quan hệ thống nông lâm kết hợp đô thị 3.1.1 Thuật ngữ nông lâm kết hợp Nông lâm kết hợp (agroforestry) là hệ thống sử dụng đất, trong đó các cây thân gỗ lâu năm (cây gỗ, cây bụi, cọ, tre…) được trồng có tính toán trên cùng một đơn vị diện tích đất với các loại cây nông nghiệp ngắn ngày và/hoặc được kết hợp với chăn nuôi, có thể kết hợp đồng thời hoặc kế tiếp nhau theo thời gian và không gian (Lundgren và Raintree, 1982). Một hệ thống nông lâm kết hợp phải có 5 đặc điểm: (i) thường bao gồm hai hay nhiều hơn hai loại cây trồng (hay cây trồng và vật nuôi), trong đó ít nhất phải có một loại cây thân gỗ lâu năm; (ii) thường tạo ra hai hay nhiều sản phẩm; (iii) chu kỳ sản xuất dài hơn một năm; (iv) đa dạng hơn về sinh thái và kinh tế so với hệ thống sản xuất độc canh; (v) có sự tương tác qua lại giữa các yếu tố cấu thành hệ thống (có thể là tương tác thuận và/hoặc tương tác nghịch) (Nair, 1993). Nông lâm kết hợp là việc trồng và bảo vệ cây trồng và việc trồng cây lâm nghiệp có chủ ý trong và xung quanh các hệ thống nông nghiệp ở cả khu vực nông thôn và thành thị, nhằm cải thiện hoặc duy trì năng suất kinh tế ngắn hạn và dài hạn, canh tác thống nhất và hệ sinh thái ổn định của các hệ thống nông nghiệp (Thaman, Elevitch và Wilkinson (2006). 3.1.2 Tại sao cần phải thực hiện mô hình sản xuất nông lâm kết hợp Các hệ thống nông lâm kết hợp giúp sử dụng tối đa nguồn tài nguyên đất đai. Mỗi phần của đất đai được coi là thích hợp cho các loại cây hữu ích riêng biệt. Việc tập trung vào các loại cây lâu năm, đa mục đích được trồng một lần và mang lại lợi ích trong một thời gian dài. Các lợi ích mang lại từ hệ thống nông lâm kết hợp bao gồm cung cấp nguyên vật liệu, thức ăn cho người và động vật, nhiên liệu, sợi, thảo dược và bóng râm. Cây xanh trong các hệ thống nông 631
- lâm kết hợp cũng có những công dụng quan trọng như giữ đất chống xói mòn và cải thiện độ màu mỡ của đất (bằng cách cố định đạm, hút khoáng chất từ sâu trong đất và tích lũy dinh dưỡng đất do nguồn lá cây rụng xuống và lưu lại trong đất). Hơn nữa, các hệ thống nông lâm kết hợp được thiết kế tốt sẽ tối đa hóa các tương tác có lợi của cây trồng đồng thời giảm thiểu các tương tác bất lợi. Tương tác phổ biến nhất trong hệ sinh thái là cạnh tranh, có thể là ánh sáng, nước hoặc chất dinh dưỡng trong đất. Cạnh tranh luôn làm giảm sự tăng trưởng và năng suất của bất kỳ loại cây trồng nào. Tuy nhiên, việc cạnh tranh cũng xảy ra trong mô hình canh tác độc canh, và trong hệ thống nông lâm kết hợp sự cạnh tranh ít gây hại hơn hơn so với các hệ thống độc canh cây trồng. Tương tác giữa các thành phần của hệ thống nông lâm kết hợp thường bổ sung cho nhau. Trong một hệ thống có cây cối và đồng cỏ, là nguồn thức ăn cho động vật, cây cung cấp bóng mát và/hoặc thức ăn cho động vật trong khi động vật cung cấp phân bón cho cây trồng. Do đó, các hệ thống nông lâm kết hợp hạn chế rủi ro và tăng tính bền vững của cả hệ nông nghiệp quy mô nhỏ và quy mô lớn. Các hệ thống nông lâm kết hợp có thể được coi là các bộ phận chính của chính hệ thống trang trại, bao gồm nhiều hệ thống phụ khác cùng chung trong một môi trường sinh sống. 3.1.3 Những lợi ích của hệ thống nông lâm kết hợp Cải thiện sản xuất lương thực, thực phẩm, các sản phẩm hữu ích và tăng thu nhập. Cải thiện việc sử dụng lao động và tài nguyên quanh năm. Bảo tồn và cải tạo đất (đặc biệt là cây họ đậu) và nguồn nước trong đất. Tăng hiệu quả sử dụng đất. Sản xuất lương thực ngắn hạn bù đắp chi phí trồng cây lâu năm. Cung cấp bóng râm cho rau hoặc các loại cây trồng chịu bóng khác. Cung cấp các loại trái cây. Sản xuất cây lâu năm, cung cấp gỗ, nhiên liệu, tinh dầu và các sản phẩm phụ khác. Giảm thiểu rủi ro trong sản xuất, tăng cường an ninh lương thực. Nông lâm kết hợp trong việc bảo tồn tài nguyên rừng và đa dạng sinh học. Giúp bảo vệ và cân bằng môi trường sinh thái, giảm hiệu ứng nhà kính. 3.1.4 Khái niệm về nông lâm kết hợp đô thị Nông lâm kết hợp đô thị là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả sự tồn tại của các hệ thống nông lâm kết hợp trong ranh giới của một thị trấn hoặc thành phố. Nông lâm kết hợp đô thị được thực hiện phổ biến nhất là các mô hình vườn nhà ở đô thị. Nhiều mô hình vườn nhà được phân loại là các hệ thống nông lâm kết hợp đô thị vì sự tích hợp của các cây trồng trong một cảnh quan đô thị mang lại năng suất hiệu quả. Việc thúc đẩy các hệ thống làm vườn tại gia được công nhận là một chiến lược xóa đói giảm nghèo trên toàn thế giới và trong khu vực quốc gia. 632
- Nông lâm kết hợp đô thị là việc trồng và bảo vệ cây trồng và lâm nghiệp có chủ ý trong và xung quanh các hệ thống nông nghiệp trong ranh giới thành phố, nhằm cải thiện hoặc duy trì năng suất kinh tế ngắn hạn và dài hạn, sự thống nhất canh tác và ổn định sinh thái của các hệ thống nông nghiệp (Thaman và nnk 2006; Foeken và Mwangi 2000). Một ví dụ về hệ thống nông lâm kết hợp đô thị có thể là việc thành lập một trang trại đô thị tại khu vực đô thị để cung cấp rau, củ, quả tươi sạch cho người dân địa phương. Trang trại này có thể được thiết kế để sử dụng các kỹ thuật canh tác hiện đại và bền vững như canh tác thủy canh, canh tác nông nghiệp thẳng đứng, sử dụng nguồn nước tái sử dụng để giảm thiểu tác động đến môi trường và tối đa hóa sản lượng. Việc tạo ra một trang trại đô thị không chỉ cung cấp rau, củ, quả tươi sạch cho người dân địa phương mà còn giúp giảm thiểu chi phí vận chuyển và giảm thiểu lượng khí thải từ các phương tiện vận chuyển. Bên cạnh đó, trang trại đô thị cũng có thể cung cấp những cơ hội việc làm cho người dân địa phương và tăng cường sự đa dạng về nguồn lương thực cho đô thị. 3.2 Các mô hình nông lâm kết hợp đô thị 3.2.1 Mô hình vườn nhà (Homegarden) Mô hình vườn nhà được xem như là một hệ thống nông lâm kết hợp đô thị. Vườn nhà được cho là một trong những hình thức sử dụng đất sản xuất lương thực lâu đời nhất từng tồn tại (Nair, P. K. R. 1993). Tuy rằng vườn nhà là phương thức canh tác có từ lâu đời, nhưng các nghiên cứu ban đầu về các hệ thống này chỉ được thực hiện vào những năm 1940 (Nair, P. K. R. 1993). 3.2.1.1 Định nghĩa về vườn nhà Thuật ngữ “vườn nhà” và các thuật ngữ liên quan khác (làm vườn trước nhà, làm vườn hỗn hợp, làm vườn thực phẩm, vườn ghép, vườn nhà bếp, nông lâm kết hợp tại nhà) đã được sử dụng để mô tả nhiều hoạt động liên quan đến sản xuất lương thực ở cấp độ hộ gia đình ở cả khu vực thành thị và nông thôn (Fernaandes và Nair 1990; Nair, P. K. R. 1993, A.J. Long 1999). Mặc dù định nghĩa “vườn nhà” vẫn chưa thống nhất trên toàn cầu, nhưng các hệ thống chi phí thấp này cực kỳ phổ biến ở hầu hết các nền văn hóa và đặc biệt phổ biến ở các khu dân cư nhiệt đới và cận nhiệt đới (Fernaandes và Nair 1990; Kumar và Nair 2004; Marsh 1998). Trong bài viết này, thuật ngữ “vườn nhà” được sử dụng để chỉ các hệ thống trồng cây, trồng trọt (hàng năm và lâu năm) và chăn nuôi đa mục đích, đa tầng được canh tác bởi lao động gia đình trong khuôn viên các ngôi nhà riêng biệt (Fernandes và Nair 1986, vAndrew J.E. 2008). Định nghĩa này thiết lập vườn nhà như một hệ thống nông lâm kết hợp nông lâm kết hợp, nơi các hệ thống cây cối, hoa màu và động vật được tối ưu hóa để đạt được kết quả mong muốn của hộ gia đình (Fernaandes và Nair 1990; Nair, P. K. R. 1993, Andrew J.E. 2008). Những điểm tương đồng khác tồn tại khi so sánh khái niệm được đề cập trong nông lâm kết hợp và làm vườn tại nhà với các giải pháp thiết kế hữu cơ liên quan đến sự kết hợp kỹ thuật nuôi trồng thủy sản. Nông nghiệp bền vững dựa trên sự “tích hợp cảnh quan và con người”, cung cấp lương thực, năng lượng, chỗ ở và bất kỳ nhu cầu vật chất và phi vật chất nào khác của cộng đồng (Mollison và Jeeves 1988). Tuy nhiên, mặc dù có những điểm tương đồng giữa nông lâm kết hợp, làm vườn tại gia và nuôi trồng thủy sản liên quan đến thiết kế tổng hợp và bền 633
- vững của các loài cây trồng, vật nuôi và cây cối, nuôi trồng thủy sản khác về cơ bản với nông lâm kết hợp và làm vườn tại nhà ở chỗ nó bao gồm các vấn đề đạo đức và xã hội khác nhau liên quan đến phát triển con người bền vững. vượt xa cách tiếp cận dựa trên hệ thống sản xuất liên quan đến nông lâm kết hợp và vườn nhà. Vườn nhà được cho là một trong những hình thức sử dụng đất lâu đời nhất (Kumar và Nair 2004). Tập quán làm vườn tại nhà đã phát triển qua hàng nghìn năm ở các quốc gia như Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam khi nông dân thử nghiệm và cải tiến các kỹ thuật canh tác, truyền đạt kiến thức của họ cho các thế hệ tương lai (Nair, P. K. R. và Kumar 2006, Andrew J.E. 2008). Do lâu đời, việc làm vườn tại nhà bắt nguồn từ các vùng nông thôn nhưng trong lịch sử gần đây hơn cũng được thực hiện ở các khu dân cư ở đô thị (Nair, P. K. R. và Kumar 2006). Vườn nhà có bốn đặc điểm chính: - Thứ nhất, Kumar và Nair (2004) cho rằng cấu trúc tán đa tầng, đa loài, đa mục đích trong vườn nhà là một trong những đặc điểm nổi bật nhất hệ thống, vườn nhà sở hữu từ ba đến sáu tầng thực vật. Mặc dù vườn nhà thường có vẻ không có kế hoạch, nhưng mỗi loài thường được chọn để thực hiện một mục đích và chức năng cụ thể trong hệ thống vườn lớn hơn, nơi các loài chịu bóng râm (chiếm tầng thấp hơn) dần dần nhường chỗ cho tán cây không chịu bóng râm (Kumar và Nair 2004 ; Nair, P. K. R. 1993). Sự đa dạng về loài liên quan đến vườn nhà cho phép nhiều chu kỳ sản xuất diễn ra đồng thời trong suốt cả năm. Việc tiếp tục sản xuất cây lương thực thường được thực hiện thông qua mức độ tái tạo chất dinh dưỡng và phân hủy hữu cơ cao trong các hệ thống vườn nhà (Fernaandes và Nair 1990). Đặc điểm phân biệt thứ hai của vườn nhà là sự gần gũi với nơi ở của hộ gia đình làm vườn. Hơn nữa, định nghĩa của Fernandes và Nair (1986) về vườn nhà giới hạn sản xuất nông nghiệp trong phạm vi các hộ gia đình. Tương tự, so sánh các nghiên cứu về vườn nhà khác nhau của Kumar và Nair (2004) cho thấy các loài sản xuất thực phẩm và trái cây nằm gần nơi cư trú hơn với các mảng rau xanh nhỏ (thường gần nhà bếp) ngăn cách khu vực này với các khu vực sản xuất các loại cây gỗ ở khu vực xa hơn. Các loại cây cảnh và cây dược liệu khác thường được trồng thành cụm giữa các loại cây lương thực, thực phẩm gần nhà (Kumar và Nair 2004). Các mô hình áp dụng phổ biến khác trong vườn gia đình bao gồm trồng cây đa năng và cây bụi làm hàng rào sinh sống trên ranh giới hộ gia đình (Kumar và Nair 2004) và cấu hình thiết kế trồng các loại cây chiếm ưu thế như cây dừa, cây ăn trái xung quanh sân vườn của gia đình (Kumar và Nair 2004). - Đặc điểm thứ ba của vườn nhà là mục đích chính của chúng là sản xuất lương thực (Fernaandes và Nair 1990). Mặc dù vườn nhà có khả năng sản xuất một lượng lương thực đáng kể, nhưng chúng hiếm khi được sử dụng để đáp ứng toàn bộ nhu cầu lương thực chính của hộ gia đình mà thay vào đó chúng đóng vai trò bổ sung chế độ ăn uống (Marsh 1998). Ngoài quy mô của một khu vườn nhiệt đới, việc sản xuất lương thực ở bất kỳ khu vườn nào cũng bị ảnh hưởng chủ yếu bởi việc lựa chọn, sắp xếp và phân tầng các loài cây trồng nhất định (Marten 1990). - Cuối cùng, vườn nhà chiếm diện tích “nhỏ” so với các mô hình sản xua16g nông nghiệp quy mô lớn. Mặc dù không có kích thước quy định tối đa cho vườn nhà, tuy nhiên, nghiên cứu trên các vùng sinh thái khác nhau cho thấy rằng kích thước trung bình của vườn nhà là dưới 5000 m2 (Fernaandes và Nair 1990). 634
- 3.2.1.2 Tại sao vườn nhà được quyết định tham gia nông lâm kết hợp đô thị? Trong bối cảnh của những quốc gia đang phát triển, hộ gia đình trong thành phố hoặc thị trấn cân nhắc quyết định trồng trọt loại lương thực, thực phẩm làm sản phẩm cần đáp ứng được nhu cầu tồn tại của hộ gia đình, khả năng đào tạo kỹ thuật nông nghiệp, triển vọng tài chính và yếu tố tác động của môi trường (khí hậu, lượng mưa, độ phì nhiêu của đất) trong một khu vực dân cư nhất định (Choguili 1995; Sanyal 1987). Nhìn chung, một hộ gia đình sẽ chọn đầu tư vào nông lâm kết hợp đô thị vì họ tin rằng khoản đầu tư như vậy sẽ mang lại hiệu quả tích cực đến chất lượng cuộc sống của họ (Mbiba 1995). Về cốt lõi, với mô hình nông lâm kết hợp đô thị, người nông dân vừa là người tiêu dùng vừa là nhà sản xuất nguồn nguyên liệu ở vùng đất quanh nhà, hàng rào được canh tác thâm canh với rất ít vốn đầu tư (Midmore, Niñez và Venkataraman 1991). Do đó, ở một khu dân cư nơi đất đai dồi dào, nguồn nước sẵn có, khí hậu thuận lợi cho sản xuất lương thực, sẽ giúp cho người dân khó khăn trong khu dân cư thu được lợi nhuận cao từ việc bán lương thực, tiềm năng sản xuất nông lâm kết hợp vườn nhà sẽ tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên, ở một khu dân cư mà việc đầu tư vào nông nghiệp, khuyến khích tài chính và chuyên môn kỹ thuật nông nghiệp bị hạn chế và có nguồn dự trữ lương thực nói chung dồi dào, thì người dân sẽ ít có động lực để đầu tư lao động và nguồn lực vào các hệ thống nông lâm kết hợp đô thị như vườn nhà. Vườn nhà với tư cách là một hệ thống nông nghiệp đô thị thường hấp dẫn đầu tư đối với người nghèo khó ở đô thị, những người áp dụng sản xuất mô hình này nhằm mục đích sản xuất lương thực cần thiết cho cuộc sống của chính mình (Smit và nnk 1996); hoặc khi nhu cầu lương thực của cư dân đô thị tăng lên do các sự kiện như nạn đói, dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế hoặc chiến tranh, thì sự cần thiết phải sản xuất lương thực cũng tăng lên (Sanyal 1987). Tóm lại, Nugent (2000) nhận xét rằng “một hộ gia đình sẽ tự sản xuất lương thực, thực phẩm khi nó ít tốn kém hơn (về thời gian và tiền bạc) so với việc mua lương thực”. 3.2.1.3 Những thách thức về phương pháp liên quan đến nghiên cứu vườn nhà Có nhiều thách thức liên quan đến việc tiến hành nghiên cứu các hệ thống nông lâm kết hợp đô thị, đặc biệt là mô hình vườn nhà. Mặc dù đã có nhiều bài viết liên quan đến các mô tả định tính về các áp dụng mô hình hiện có như thống kê các loại cây trồng vật nuôi tham gia, phân tích những lợi ích của các hệ thống vườn nhà và đánh giá các dự án làm vườn tại nhà, nhưng vẫn có rất ít công trình được tiến hành để cải thiện các hệ thống này (Fernaandes và Nair 1990; Kumar và Nair 2004; Nair, P. K. R. 1993 ). Theo các tác giả như Fernaandes và Nair (1990) và Kumar và Nair, (2004) sự thiếu sót này phần lớn là do sự phức tạp liên quan đến việc sử dụng các quy trình kỹ thuật canh tác hiện có để giải quyết các vấn đề phức tạp về cấu trúc, đa dạng loài, tính chất đa dạng đầu ra và tính biến đổi của vườn nhà. Theo phân tích của Kumar và Nair (2004), vườn nhà phần lớn vẫn là một “điều bí ẩn” có khả năng vẫn còn tiềm năng to lớn để đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất của nhân loại trong môi trường đô thị. Như vậy, các vấn đề liên quan đến mô hình vườn nhà đô thị như: - Diện tích đất cần thiết để trồng trọt mô hình vườn nhà để của một hộ gia đình trung bình rất khác nhau. - Các mô hình kinh tế tuần hoàn giúp tối ưu hóa các loại cây trồng, vật nuôi trong vườn nhà, diện tích đất và sản lượng nông sản. 635
- - Việc tận dụng các nguồn nguyên liệu đầu vào đầu ra hiệu quả của chuỗi sản xuất trong mô hình vườn nhà. Ví dụ: Andrew John East (2008) báo cáo diện tích tối thiểu cần thiết để cung cấp lượng dinh dưỡng cần thiết cho một gia đình ở Tây Java đã được khảo sát và kết quả từ Marten (1990) cho thấy diện tích từ 0,26 đến 0,33 ha là cần thiết để thực hiện sản xuất theo mô hình nông lâm kết hợp đô thị như vườn nhà. Những nghiên cứu này cho thấy gần như không thể đạt được khả năng tự cung tự cấp hoàn toàn trong các khu dân cư đô thị được quy hoạch trong tương lai ở Kiribati (nơi đất kém màu mỡ hơn đáng kể) thông qua việc sử dụng các hệ thống nông lâm kết hợp đô thị, trong khi vẫn phải duy trì mật độ các yếu tố có liên quan đến khu định cư đô thị. Phương pháp tối ưu hóa được sử dụng bởi Marten (1990) cho thấy rằng cần có nhiều nghiên cứu để thực hiện mô hình hóa các hệ thống nông lâm kết hợp đô thị làm vườn tại nhà và sự đóng góp lương thực, thực phẩm của các hệ thống nông lâm kết hợp đô thị còn phụ thuộc rất nhiều vào diện tích đất đô thị đang được canh tác. 3.2.2 Mô hình lâm nghiệp đô thị (Urban forestry) Nông lâm kết hợp, lâm nghiệp cộng đồng, lâm nghiệp trang trại, lâm nghiệp xã hội và lâm nghiệp đô thị là những thuật ngữ quan trọng nhất đã trở nên nổi bật trong số những thuật ngữ đại diện cho nỗ lực trồng cây quy mô nhỏ. Lâm nghiệp đô thị, như tên gọi, đề cập đến việc trồng cây ở khu vực đô thị, trong khi tất cả các thuật ngữ khác đều có định hướng nông thôn. Nông lâm kết hợp nhấn mạnh sự tương tác giữa cây lâu năm thân gỗ và cây trồng nông nghiệp hoặc động vật để tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ, và các thuật ngữ khác đề cập cụ thể đến việc trồng cây, thường là trong các lô rừng nhỏ (A.J. Long và P.K.R. Nair 1999, Andrew J.E. 2008). Lâm nghiệp đô thị là một khái niệm khác được sử dụng để mô tả các hệ thống nông nghiệp ở các khu vực đô thị. 3.2.2.1 Định nghĩa và trọng tâm của lâm nghiệp đô thị Mô hình lâm nghiệp đô thị là một hình thức trồng cây trong các khu vực đô thị nhằm tạo ra một môi trường sống xanh và giảm thiểu tình trạng khô hạn trong thành phố. Mô hình này bao gồm việc sử dụng các khu đất trống, chưa được sử dụng hoặc bị bỏ hoang trong thành phố để trồng các loại cây, tạo ra các không gian xanh và giảm bớt ô nhiễm môi trường. Mô hình lâm nghiệp đô thị có nhiều ưu điểm như tối ưu hóa sử dụng đất trong thành phố, tạo ra các không gian xanh để thư giãn và giảm stress, giảm thiểu khí thải carbon, tăng cường sức khỏe và đóng góp vào hoạt động kinh tế địa phương. Để triển khai mô hình lâm nghiệp đô thị, cần có các bước sau đây: xác định khu vực trồng cây phù hợp, chọn loại cây phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu của khu vực, đảm bảo quản lý chăm sóc và bảo vệ cây trồng đúng cách, thu hoạch và chế biến sản phẩm đạt chất lượng và an toàn, tạo ra các khu vực xanh và tạo ra một môi trường sống xanh tốt cho cộng đồng. Có rất nhiều cơ hội cho những người ủng hộ việc trồng cây để tăng đáng kể quy mô và chất lượng của các khu rừng đô thị trên toàn thế giới. Ở những khu vực có mức nghèo đói cao, cây xanh đô thị có khả năng ảnh hưởng đến nguồn cung cấp nhu yếu phẩm tại địa phương như trái cây và củi đốt. Ở một số nơi, người dân ở thành phố đánh giá thực tế là cây cối được trồng 636
- để cung cấp các dịch vụ và lợi ích cụ thể, cây xanh được trồng phục vụ chức năng và mục đích chính phục vụ trong cảnh quan đô thị (Dwyer và Schroeder 1994). Sự hỗ trợ của họ đối với các hoạt động trồng cây ở khu vực sinh sống có thể rất quan trọng trong việc hình thành chính sách tài nguyên trong tương lai. Cũng như các hệ thống nông lâm kết hợp, rừng đô thị có vô số hình thức và chức năng. Chúng được trồng thành hàng có khoảng cách rộng rãi dọc theo đường phố hoặc ranh giới các khu đất, giống như cây ăn quả có thể được trồng dọc theo hàng rào ranh giới quanh các trang trại. Mô hình lâm nghiệp đô thị ở các tuyến đường giao thông và công viên cung cấp vẻ đẹp cảnh quan đô thị và bóng râm; trong khi lâm nghiệp trồng xung quanh trang trại vừa mang lại bóng râm vừa cung cấp thức ăn. Chúng được trồng thành những hàng cách đều nhau hoặc những hàng rào để lọc âm thanh hoặc che chắn tầm nhìn; những hàng rào cây xanh trên sườn đồi giúp bảo vệ kiểm soát dòng chảy trên mặt đất và giảm xói mòn. Cây xanh đô thị có thể được trồng trong công viên, xen kẽ với các khu vực giải trí và thảm thực vật, trong khi cây ăn quả, cây thức ăn gia súc ở các tầng cao hơn được trồng xen kẽ với các loại cây ngắn ngày trong trang trại nông lâm kết hợp. Cây lâm nghiêp được trồng thành các khối dày đặc hơn để che phủ các khu vực bị suy thoái hoặc bảo vệ các sườn đồi khỏi xói mòn, còn là cung cấp nguồn cung cấp nhiên liệu. Rừng đô thị cũng bao gồm nhiều loại cây được trồng xung quanh nhà và sân riêng lẻ để cung cấp bóng mát, trái cây, giá trị thẩm mỹ và các hoạt động giải trí, thể thao; tương tự, vườn nhà ở vùng nhiệt đới trả lại cho chủ đất rất nhiều thực phẩm và đáp ứng các nhu cầu thiết yếu khác. Như vậy, có nhiều điểm tương đồng về giá trị và chức năng mà cây xanh đóng góp cho cảnh quan đô thị và nông thôn. Các nhà quản lý rừng đô thị, phối hợp với các công dân và tổ chức địa phương, phải quyết định chức năng nào là quan trọng nhất và các loài và cấu trúc thảm thực vật sẽ cung cấp các chức năng này (Nowak 1994). Giống như các chương trình lâm nghiệp xã hội được thực hiện để mang lại lợi ích cho người dân và các gia đình ở nông thôn, các dự án lâm nghiệp đô thị phải được thúc đẩy để mang lại cùng loại lợi ích cho số lượng lớn người dân có thu nhập thấp sống trong và xung quanh các thành phố lớn. Lựa chọn loại cây trồng cẩn thận và thực hiện tuyên truyền giáo dục giúp tăng số lượng cây xanh trong môi trường đô thị cung cấp thức ăn và nguyên liệu gỗ cho dân cư đô thị đang ngày càng gia tăng. Tất nhiên, sự sẵn có của những loại cây và hoa màu như vậy có thể sẽ dẫn đến các vấn đề về sở hữu, quyền sử dụng và bảo vệ khó khăn hơn nhiều so với những gì đã cản trở nhiều chương trình rừng cộng đồng. Lâm nghiệp đô thị được Kuchelmeister (1998b) định nghĩa là “lập kế hoạch, quản lý và bảo tồn cây cối, rừng và thảm thực vật có liên quan để tạo ra hoặc gia tăng giá trị cho cộng đồng địa phương trong khu vực đô thị”. Tuy nhiên, thuật ngữ nông lâm kết hợp đô thị được ưa thích hơn do định hướng của các hệ thống nông lâm kết hợp đô thị đối với sản xuất nông nghiệp, năng suất bền vững và lịch sử lâu dài của thực hành nông lâm kết hợp ở các vùng đô thị hóa. 3.2.2.2 Phương pháp tiếp cận lâm nghiệp đô thị và các vấn đề quản lý Các cách tiếp cận cảnh quan khác nhau được đưa vào tài liệu về lâm nghiệp đô thị ở các nước đang phát triển (Carter 1995; Kuchelmeister 1998b). Chúng bao gồm cây xanh, cây xanh 637
- đường phố, công viên, cây xanh trong nông nghiệp, quản lý lưu vực sông, kiểm soát nước mưa, vùng đất ngập nước được bảo vệ, quản lý chất thải rắn và cải tạo đất (Kuchelmeister 1998b). Tài liệu về lâm nghiệp đô thị cũng tham gia vào các vấn đề quản lý rộng lớn hơn xung quanh việc tích hợp các hệ thống lâm nghiệp vào các khu vực đô thị. Điều này thường không được đề cập một cách toàn diện trong các tài liệu về nông lâm kết hợp đô thị hoặc làm vườn tại nhà. Do đó, tài liệu về lâm nghiệp đô thị thường vượt ra ngoài việc điều tra vai trò của các hệ thống sản xuất nông nghiệp trong bối cảnh vườn nhà và tham gia vào các vấn đề định cư rộng lớn hơn. Bằng cách này, Carter (1995) đề cập đến lâm nghiệp đô thị trên đất thuộc sở hữu tư nhân, công ty, cộng đồng và chính phủ bên cạnh bối cảnh thực hiện đồng thời mô hình vườn nhà. Carter (1995) đã điều tra và kết luận rằng cư dân thành thị sẽ “chỉ chọn trồng những cây có giá trị nhất trên những vùng đất mà họ có quyền kiểm soát tốt”. Do đó, các sáng kiến lâm nghiệp đô thị “phải bắt đầu bằng đánh giá ban đầu về nhu cầu và cơ hội quản lý” của xã hội nơi mô hình sẽ được thực hiện (Kuchelmeister 1998b). Tuy nhiên, ngay cả khi áp dụng cách tiếp cận dựa vào cộng đồng, thường rất khó kích thích “tinh thần cộng đồng”. Điều này thường là do sự đa dạng của các nhóm người gắn liền với các thành phố đô thị hóa nhanh chóng (1995). 3.3 Đề xuất mô hình nông lâm kết hợp đô thị 3.3.1 Mô hình nông lâm kết hợp đô thị trong hệ thống kinh tế tuần hoàn đô thị Khái niệm Kinh tế tuần hoàn (KTTH) được sử dụng chính thức đầu tiên bởi Pearce và Turner (1990). Nó được dùng để chỉ mô hình kinh tế mới dựa trên nguyên lý cơ bản “mọi thứ đều là đầu vào đối với thứ khác”, hoàn toàn không giống với cách nhìn của nền kinh tế tuyến tính truyền thống. Ellen MacArthur Foundation mô tả nền KTTH là một hệ thống công nghiệp phục hồi hoặc tái tạo theo ý định và thiết kế. Nó chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo, loại bỏ việc sử dụng các hóa chất độc hại và chất thải gây suy giảm khả năng tái sử dụng thông qua thiết kế ưu việt của vật liệu, sản phẩm, hệ thống và trong phạm vi này, là các mô hình kinh doanh. Hay nói một cách đơn giản Kinh tế tuần hoàn là biến rác thải đầu ra của ngành này thành nguồn tài nguyên đầu vào của ngành khác hay tuần hoàn trong nội tại bản thân của một doanh nghiệp. Kinh tế tuần hoàn một phần góp phần gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, giảm khai thác tài nguyên, giảm chi phí xử lý chất thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Khi áp dụng hệ thống nông lâm kết hợp trong kinh tế tuần hoàn, việc kết hợp giữa các hoạt động nông nghiệp và lâm nghiệp có thể giúp các thành phần sản xuất hỗ trợ lẫn nhau, giảm thiểu những tác động tiêu cực của các giai đoạn suy thoái và phát triển trong kinh tế. Ví dụ, trong giai đoạn kinh tế suy thoái, dịch bệnh toàn cầu, khi nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp giảm, người nông dân có thể chuyển sang sản xuất các sản phẩm lâm nghiệp như gỗ, hoặc dùng đất trồng lúa để trồng rừng. Tương tự, trong giai đoạn phát triển, người nông dân có thể chuyển sang sản xuất các sản phẩm nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu tăng lên của thị trường. Hơn nữa, việc kết hợp giữa các hoạt động nông nghiệp và lâm nghiệp trong hệ thống nông lâm kết hợp cũng có thể giúp tăng độ bền vững của nền kinh tế. Điều này bởi vì hệ thống nông lâm kết hợp giúp giảm sự phụ thuộc vào một loại sản phẩm nông nghiệp hoặc lâm nghiệp nhất định, giúp giảm rủi ro khi các sản phẩm này bị suy giảm do thời tiết hoặc sự thay đổi của thị trường. 638
- 3.3.2. Thực hành nông lâm kết hợp ở các nước công nghiệp hóa Giống như ở vùng nhiệt đới, ở các nước công nghiệp hóa có một truyền thống lâu đời về việc trồng có mục đích hoặc cố ý giữ lại cây cối cùng với cây trồng và/hoặc vật nuôi để thu được nhiều sản phẩm hoặc lợi ích từ cùng một đơn vị đất đai. Trong khi sự kết hợp giữa lâm nghiệp và nông nghiệp là cần thiết đối với nhiều nông dân và hệ thống sản xuất ở mức tự cung tự cấp ở vùng nhiệt đới, thì nông lâm kết hợp ở vùng ôn đới thường đại diện cho các cơ hội kinh tế để nâng cao khả năng sinh lời của các hoạt động canh tác hoặc lâm nghiệp hiện tại và để đa dạng hóa cây trồng và sản phẩm thu hoạch như một sự bảo hiểm chống lại các thị trường khó khăn, chi phí trồng cây và nhiên liệu cao, hoặc sản xuất dư thừa các loại cây lương thực chính. Một lợi ích lớn khác từ nông lâm kết hợp ở các nước công nghiệp hóa phát sinh từ việc kết hợp nó vào các kế hoạch sử dụng đất nhấn mạnh các hoạt động canh tác hoặc lâm nghiệp bền vững lâu dài. Trên đất canh tác gần ranh giới hoặc sườn dốc dễ bị xói mòn, nhiều nông dân kết hợp cây và hoa màu vì lợi ích bảo tồn đất đồng thời thu nhập được hoa màu hoặc gỗ. Những lợi ích này sẽ ngày càng tăng khi các hệ thống nông lâm kết hợp được tích hợp vào các vùng đất giao thoa giữa đô thị và nông thôn, các kế hoạch quản lý rừng và các vùng đệm xung quanh các khu đất công cộng (Long và Nair 1991). Không giống như sự đa dạng lớn của các hệ thống nông lâm kết hợp ở vùng nhiệt đới, ở các vùng ôn đới bề rộng của các tổ hợp cây rừng - cây trồng - chăn nuôi ít khác biệt nhau. Số lượng loại cây trồng, vật nuôi được sử dụng cũng ít hơn nhiều so với vùng nhiệt đới. Các hệ thống canh tác ở các vùng ôn đới cũng thường ít sử dụng nguồn lao động hơn nhiều so với ở vùng nhiệt đới, với cơ giới hóa và diện tích đất lớn là một đặc điểm quan trọng của các hoạt động nông lâm kết hợp ở nhiều nước công nghiệp hóa. Hầu hết các chiến lược nông lâm kết hợp ở các nước công nghiệp hóa được nhóm lại theo ba phương pháp chính, mỗi phương pháp có các hình thức khác nhau trong các tình huống khác nhau. Những mô hình nông nghiệp được trồng xen ở dưới tàng các loài cây gỗ lớn, rừng chắn gió và đai chắn gió hoặc vành đai bảo vệ ở các vùng đệm hoặc ven sông; chăn thả gia súc, gia cầm trong các khu trang trại được quản lý. Tuy nhiên, sự mở rộng đáng kể trong phạm vi của nông lâm kết hợp ở vùng ôn đới đang diễn ra, với những mong muốn kết hợp xen kẽ nông nghiệp và lâm nghiệp này sẽ tạo ra các giải pháp mới cho các vấn đề sử dụng đất hiện nay. 3.4 Đề xuất một số mô hình nông lâm kết hợp đô thị trong điều kiện đô thị ở Việt Nam 3.4.1 Đặc trưng đô thị Việt Nam Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995) định nghĩa “Đô thị là một không gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp”. Tuy nhiên do lịch sử phát triển của Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp, trước đây 90% dân sống ở nông thôn và hoạt động nghề nông, nay cùng với quá trình hòa nhập với thế giới nói chung, công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng, quá trình đô thị hóa đang diễn ra rộng khắp và mạnh mẽ đã hình thành nên nét đặc trưng đô thị Việt Nam có sự đan xen, hòa trộn giữa nông thôn và thành thị ở hầu như tất cả các mặt về không gian địa lý, cơ sở hạ tầng, dân cư, tôn giáo, văn hóa và các hoạt động kinh tế. Với tập quán sản xuất nông nghiệp lâu đời, cộng với điều kiện khí hậu ở Việt Nam rất thuận lợi cho sự phát triển nông, lâm nghiệp, vì vậy khi quá trình đô thị hóa diễn ra, người nông 639
- dân khi trở thành dân đô thị (đặc biệt, nguồn lao động nhàn rỗi ở đô thị) vẫn có tập quán thực hành nông nghiệp ở xung quanh nơi ở. Người dân tận dụng tối đa diện tích đất còn lại sau khi đô thị hóa, tận dụng những khoảng trống ở các hành lang, ban công, sân thượng để trồng rau xanh, hoa quả, nuôi cá, nuôi chim - cá cảnh, chăn nuôi một số loài động vật nhỏ có giá trị cao, trồng nấm, hoa kiểng…. Những khu vực có khoảng trống lớn ở hàng rào thì tận dụng trồng cây lâm nghiệp, vừa mang lại hiệu quả kinh tế, vừa tạo cảnh quan đô thị cho khu nhà ở. 3.4.2 Đề xuất một số mô hình nhà vườn đô thị phù hợp điều kiện đô thị Việt Nam Mô hình cây ăn quả + chăn nuôi sân vườn đô thị. Mô hình cây ăn quả + cây hoa, kiểng + chăn nuôi sân vườn đô thị. Mô hình cây dược liệu + hoa, kiểng + rau xanh (ăn lá, củ, quả) sân vườn/sân thượng/ban công. Mô hình hoa kiểng + rau ăn lá, ăn quả + chăn nuôi nhỏ sân thượng/ban công. Mô hình cây ăn quả + rau xanh + nấm ăn trong nhà. Mô hình nấm ăn + rau xanh sân vườn/sân thượng/ban công. 3.4.3 Mô hình lâm nghiệp đô thị Cây lâm nghiệp (cảnh quan/gỗ) + hoa kiểng sân vườn/ hàng rào. Cây lâm nghiệp (cảnh quan/gỗ) + cây ăn quả sân vườn/hàng rào. Cây lâm nghiệp (cảnh quan/gỗ) + cây dược liệu sân vườn/hàng rào. Cây lâm nghiệp (cảnh quan/gỗ) + cây ăn quả + hoa kiểng sân + cây dược liệu vườn/hàng rào. Cây lâm nghiệp (cảnh quan/gỗ) các tầng dọc các tuyến đường giao thông, vùng đệm, công viên đô thị. 4. KẾT LUẬN Nông lâm kết hợp là một thuật ngữ rộng và tổng thể được sử dụng để giải thích các hệ thống nông nghiệp đã tồn tại hàng ngàn năm. Các hệ thống nông lâm kết hợp ở đô thị đã và đang tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm, nguyên liệu và dược phẩm cho các khu dân dư trong thời kỳ đô thị hóa. Ngày nay, nhu cầu và kỳ vọng ngày càng tăng của dân số thế giới đòi hỏi phải thích ứng các hệ thống nông lâm kết hợp truyền thống với bối cảnh đô thị hóa mạnh mẽ. Sự xuất hiện gần đây của các hệ thống nông lâm kết hợp đô thị như vườn nhà là một ví dụ về cách tiếp cận nông lâm kết hợp truyền thống đã được sửa đổi để đáp ứng nhu cầu thay đổi. Đặc biệt, những nguyên tắc và cách tiếp cận nông lâm kết hợp này cung cấp mô hình hiệu quả để giải quyết thách thức phát triển bền vững trên thế giới. Nông lâm kết hợp đô thị cho phép cư dân đô thị đáp ứng phần lớn các nhu cầu cơ bản nhất của họ theo cách tiết kiệm chi phí, phù hợp về mặt văn hóa và khả thi về mặt sinh thái. Tuy nhiên, trong trường hợp các sáng kiến vườn nhà được sử dụng làm chiến lược phát triển, cho thấy tầm quan trọng của việc đầu tư kỹ thuật canh tác hiện đại trong sản xuất lương thực, thực phẩm, dược liệu, cây gỗ, hoa kiểng, nấm ăn của các hệ thống nông lâm kết hợp đô thị đó. 640
- Nông lâm kết hợp đô thị chỉ là một trong nhiều thuật ngữ đã được sử dụng để mô tả các hệ thống sản xuất dựa trên cây trong bối cảnh đô thị. Trong đó thể hiện rõ nhất là mô hình vườn nhà và lâm nghiệp đô thị, hướng tới sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, dược liệu với năng suất bền vững và hiệu quả lâu dài của việc áp dụng mô hình nông lâm kết hợp. Đặc biệt, các mô hình này được sản xuất theo định hướng kinh tế tuần hoàn, các nghiên cứu cần tập trung vào sự đóng góp nguồn nguyên liệu đầu vào và đầu ra của một hệ thống sản xuất dựa trên cây trồng và chăn nuôi trong một khu dân cư đô thị được quy hoạch trong tương lai, vừa giúp cung cấp lương thực, thực phẩm thiết yếu, vừa giúp tiết kiệm nguồn tài nguyên, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái đô thị. Với đặc trưng đô thị tại Việt Nam, việc đề xuất các mô hình nông lâm kết hợp đô thị phù hợp là cần thiết vừa đem lại hiệu quả kinh tế, tạo cảnh quan đô thị, vừa giúp cho một nguồn lớn lao động nhàn rỗi tại đô thị có thêm việc làm và thu nhập. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Andrew John East (2008). A future in the past: urban agroforestry systems in future planned urban settlements in Kiribati, a Pacific case study. Queensland University of Technology. 2. A.J. Long and P.K.R Nair (1999). Trees outside forests: agro-, community, and urban forestry. New Forests 17: 145–174, 1999. 3. Ellen MacArthur Foundation, 2013. Towards the Circular Economy: Opportunities for the Consumers Goods Sector. EMF (Accessed: 06-30-2020). www.ellenmacarthurfoundation.org/publications. 4. Nair, PKR (1993). An Introduction to agroforestry. Kluwer Academic Publishers, Dordrecht, Netherlands. 5. Nair, PKR and Kumar, BM (2006). Introduction', in BM Kumar and PKR Nair (eds). Tropical homegardens: a time-tested example of sustainable agroforestry. Springer, Netherlands, vol. 3, pp. 1-10. 6. Pearce, D.W. and R.K. Turner (1990), Economics of Natural Resources and the Environment, Hemel Hempstead: Harvester Wheatsheaf. 7. S. Krishnal, J. Weerahewa and L. H. P. Gunaratne (2012). Role of Homegardens In Achieving Food Security In Batticaloa District, Sri Lanka. International Conference on Economics and Finance Research, IPEDR Vol.32 (2012) © (2012) IACSIT Press, Singapore. 8. Thaman, RR, Elevitch, CR and Kennedy, J (2006). 'Urban and homegarden agroforestry in the Pacific islands: current status and future prospects',in BM Kumar and PKR Nair (eds). Tropical homegardens: a time-tested example of sustainable agroforestry, Springer, Netherlands, vol. 3, pp. 25-41. 9. Tim Motis (2007). Agroforestry principles. ECHO Technical Note 2007. 10. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995). Nhà xuất bản Hà Nội. 11. Zhu Zunling and Liu Yaliang (2010). Application of agroforestry model in urban green land. Journal of Chinese Urban Forestry 2010.08(1). 641
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phân Tích Chi Phí và Lợi Ích - CHƯƠNG 3: Phân Tích các Thay Đổi Phúc Lợi
20 p | 397 | 93
-
Phân tích lợi ích và chi phí kinh tế trong các thị trường bị biến dạng
11 p | 291 | 65
-
Phân Tích Chi Phí và Lợi Ích - Chương 3 : Phân Tích các Thay Đổi Phúc Lợi ( tiếp theo )
22 p | 304 | 64
-
Phân tích lợi ích chi phí - Chương 7
25 p | 102 | 16
-
Kinh tế môi trường (Field & Olewiler) - Chương 3: Lợi ích và chi phí, cung và cầu
16 p | 107 | 12
-
Bài giảng Bài 14: Phân tích lợi ích và chi phí kinh tế trong các thị trường bị biến dạng (hàng phi ngoại thương) - TS. Cao Hào Thi
22 p | 100 | 11
-
Kinh tế môi trường (Field & Olewiler) - Chương 6: Khung phân tích
22 p | 76 | 11
-
Bài giảng Lập và phân tích dự án - Chương 5: Phân tích phương án theo tỷ số chi phí lợi ích và các phương pháp phân tích khác
30 p | 76 | 10
-
Chương 5 : Phân tích phương án theo tỷ số lợi ích/ chi phí & các phương pháp phân tích khác
23 p | 139 | 8
-
Bài giảng Bài 07: Phân tích lợi ích và chi phí kinh tế tại thị trường không biến dạng (Học kỳ Hè 2015) - Huỳnh Thế Du
32 p | 81 | 4
-
Bài giảng Phân tích chi phí lợi ích: Bài 4 - ThS. Nguyễn Thanh Sơn
4 p | 48 | 4
-
Bài giảng Phân tích chi phí lợi ích: Bài 3 - ThS. Nguyễn Thanh Sơn
4 p | 62 | 3
-
Bài giảng Phân tích chi phí lợi ích: Bài 5 - ThS. Nguyễn Thanh Sơn
8 p | 27 | 3
-
Bài giảng Phân tích chi phí lợi ích: Chương 4 - Trần Võ Hùng Sơn & Võ Đức Hoàng Vũ
18 p | 30 | 3
-
Bài giảng Phân tích chi phí lợi ích: Chương 7 - Trần Võ Hùng Sơn & Võ Đức Hoàng Vũ
16 p | 38 | 3
-
Bài giảng Phân tích chi phí lợi ích: Bài 2 - ThS. Nguyễn Thanh Sơn
4 p | 47 | 2
-
Bài giảng Phân tích chi phí lợi ích (Phần 2): Chương 2 - ThS. Ngô Minh Nam
32 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn