intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

PHÂN TÍCH DỊCH TỄ BỆNH SÂU RĂNG VÀ NHA CHU Ở VIỆT NAM TÓM TẮT Mục tiêu nghiên

Chia sẻ: Nguyễn Thắng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:19

274
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

PHÂN TÍCH DỊCH TỄ BỆNH SÂU RĂNG VÀ NHA CHU Ở VIỆT NAM TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ hiện mắc, mức độ trầm trọng và xu hướng phát triển bệnh sâu răng và nha chu ở Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: Hệ thống hóa và phân tích các nghiên cứu dịch tễ đã được thực hiện ở Việt Nam trong 40 năm qua bằng phương pháp Meta. Kết quả: 78% - 96% người có độ tuổi 15 – 19 và 97% - 100% lứa tuổi 35 – 44 có vôi răng. Tỷ lệ bệnh...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: PHÂN TÍCH DỊCH TỄ BỆNH SÂU RĂNG VÀ NHA CHU Ở VIỆT NAM TÓM TẮT Mục tiêu nghiên

  1. PHÂN TÍCH DỊCH TỄ BỆNH SÂU RĂNG VÀ NHA CHU Ở VIỆT NAM TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ hiện mắc, mức độ trầm trọng và xu hướng phát triển bệnh sâu răng và nha chu ở Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: Hệ thống hóa và phân tích các nghiên cứu dịch tễ đã được thực hiện ở Việt Nam trong 40 năm qua bằng phương pháp Meta. Kết quả: 78% - 96% người có độ tuổi 15 – 19 và 97% - 100% lứa tuổi 35 – 44 có vôi răng. Tỷ lệ bệnh nha chu ở Việt Nam cao, Việt Nam là 1 trong 20 quốc gia có tỷ lệ vôi răng cao nhất thế giới. Tỷ lệ bệnh sâu răng và số trung bình răng sâu mất trám (SMTR) gia tăng theo tuổi. SMTR ở trẻ 12 tuổi và lứa tuổi 35 – 44 là 1,2 và 1,3 ở các tỉnh thành phía Bắc và 2,9 và 8,2 ở các tỉnh thánh phía Nam. Mức độ trầm trọng sâu răng ở miền Nam cao gấp 2 lần miền Bắc ở các nhóm tuổi. Tỷ lệ hiện mắc và mức độ trầm trọng bệnh sâu răng gia tăng ở vùng nông thôn, miền núi ngoại trừ thành
  2. phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai là 2 địa phương có triển khai chương trình Fluor hóa nước máy. * Khoa Răng Hàm Mặt – Đại Học Y Dược TP. HCM Kết luận: Tỷ lệ bệnh nha chu ở Việt Nam cao, đặc biệt là tỷ lệ vôi răng. Tỷ lệ bệnh sâu răng qua 4 thập kỷ có gia tă ng nhưng không lớn do hiệu quả của một số chương trình nha khoa dự phòng trong cộng đồng như chương trình Fluor hóa nước máy, chương trình nha học đường. Với mô hình hai bệnh răng miệng phổ biến này đòi hỏi các nhà quản lý cần phải có sự điều chỉnh kế hoạch can thiệp trong tương lai. ABSTRACT STATUS OF DENTAL CARIES AND PERIODONTAL DISEASES IN VIETNAM Nguyen Can, Ngo Dong Khanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 - No 3 - 2007: 144 – 149
  3. Objectives: To make an estimate of the prevalence and severity of periodontal diseases and dental caries in Vietnam and to determine possible secular changes. Methods: Epidemiological studies on dental caries of the last four decades and epidemiological studies on periodontal diseases using the CIPTN in Vietnam were retrieved and analysed. Results: Almost all subjects aged 15 to 19 years (78% - 96%) and 35 to 44 years (97 – 100%) had calculus. The median number of sextants with calculus in the 15 to 19 years and 35 to 44 years age groups was 4.2 and 5.0, respectively. Only a s mall part (
  4. among the 12 years old children, and then the prevalence of dental caries has decreased from 1990 to 1995. Conclusion: There is a high prevalence of calculus throughout life in Vietnam but the existence of deep periodontal pockets is relatively rare among the Vietnam population. These findings suggest that presence of calculus in itself does not lead to deep pockets. The prevalence of caries in Vietnam has decreased a little over the past two decades. However, there are signs in affluent areas that caries may further increase due to changing dietary habits. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh sâu răng và bệnh nha chu là hai bệnh phổ biến trong các bệnh răng miệng ở Việt Nam. Nghiên cứu này nhằm tổng quan và phân tích các dữ liệu về bệnh sâu răng và nha chu ở Việt Nam để ước lượng tỷ lệ mắc, độ trầm trọng của hai loại bệnh trên cũng như khả năng thay đổi của bệnh qua các giai đoạn. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Các dữ liệu nghiên cứu được truy cập từ hệ thống MEDLINE, ngân hàng dữ liệu của Tổ chức Sức khỏe Thế giới (TCSKTG) và các công trình
  5. nghiên cứu hiện nay ở Việt Nam về bệnh sâu răng và nha chu từ năm 1990 đến 2000. Đối với bệnh sâu răng có 13 nghiên cứu cắt ngang trình bày tỷ lệ mắc và chỉ số Sâu Mất Trám Răng (SMTR)(4,5,,7,6,9,10,15,19,21,23). Một nghiên cứu không thể đưa vào phân tích do c ỡ mẫu ở mỗi nhóm tuổi nhỏ hơn 20. Các nghiên cứu năm 1981, 1984, 1989 ở thành phố Hồ Chí Minh có cùng tác giả. Các công trình nghiên cứu khác được thể hiện bởi nhiều tác giả khác nhau. Trong 13 công trình nghiên c ứu có tám nghiên cứu được thực hiện ở thành thị, bốn nghiên cứu ở vùng nông thôn và một thực hiện ở cả hai vùng địa dư(6,14,19,21,24). Có ba nguồn dữ liệu mang tính đại diện quốc gia(6,14,24 ). Đối với bệnh nha chu, có tám công trình nghiên cứu cắt ngang theo hệ thống chỉ số nhu cầu điều trị nha chu trong cộng đồng (CPITN). Các nghiên cứu này đều có cỡ mẫu tối thiểu ở mỗi nhóm tuổi là 40. Các nghiên cứu về nha chu ở Việt Nam đ ược thực hiện bởi nhiều nhà nghiên cứu khác nhau. Trong đó, bốn nghiên cứu được thực hiện ở vùng thành thị(1,5,9,20) , ba nghiên cứu được thực hiện ở vùng nông thôn(6,14,24) và một nghiên cứu khảo sát ở cả hai vùng địa dư(19). Có ba nguồn dữ liệu mang tính đại diện quốc gia.
  6. Để so sánh các dữ liệu một cách chính xác, phương pháp phân tích Meta được áp dụng để điều chỉnh số liệu theo một khoảng thời gian nhất định. KẾT QUẢ Bệnh sâu răng ở Việt Nam Tỷ lệ bệnh sâu răng ở Việt Nam cao trong khoảng thời gian tr ước năm 1975 và có chiều hướng giảm dần trong những năm gần đây. Trong chỉ số SMTR, chỉ số Mất (M) thấp trong khi đó chỉ số Sâu (S) có giá trị cao ở nhóm người trẻ. Ở nhóm tuổi từ 35 – 44 trở lên, chỉ số M cao, chiếm 50% trong giá trị của chỉ số SMT. Biểu đồ 1 trình bày số trung bình răng SMT của các nghiên cứu qua nhiều thời điểm khác nhau từ 1990 đến 2000. Chỉ số SMTR ở lứa tuổi 12,15, 35 – 44 ở các tỉnh thành phía Nam (Quảng Nam đến Cà Mau) cao hơn các tỉnh thành phía Bắc (p
  7. gần đây . Sâu mất trám răng Thành thị và nông thôn 1990 Thành thị và nông thôn 1991 Nông thôn miền Bắc 1991 Nông thôn miền Nam 1991 Thành thị và nông thôn 2000
  8. Thành thị miền Nam 1999 Biểu đồ 1: Số trung bình răng sâu mất trám qua các nghiên cứu ở Việt Nam từ 1998-2000 Bệnh nha chu ở Việt Nam Sự khởi phát bệnh nha chu ở trẻ em và thanh thiếu niên.
  9. Trong tất cả các nghiên cứu, tỷ lệ chảy máu nướu, túi nha chu ở lứa tuổi 15 – 19 rất thấp (0 – 4%). Tỷ lệ vôi răng rất cao (78% - 96%). Đa số các nghiên cứu đều cho thấy số trung b ình sextants có vôi răng từ 2,4 – 4,6 (giá trị trung vị: 4,2). Với kết quả này, có thể xếp loại Việt Nam nằm trong 10 quốc gia trên thế giới có tỷ lệ vôi răng cao nhất ở thanh thiếu niên(26). Tình trạng bệnh nha chu ở người trưởng thành Kết quả về CPITN ở lứa tuổi 35 – 44 của bảy nghiên cứu ở Việt Nam được trình bày ở bảng 1. Các công trình nghiên cứu này đủ đại diện cho quần thể. Tỷ lệ vôi răng ở người trưởng thành Việt Nam cũng rất cao (97% - 100%), tỷ lệ phần trăm người có vôi răng trong bảng 1 đ ược cộng dồn t ừ tỷ lệ phần trăm mã số 2,3,4. Bảng 1. Tình hình nha chu ở lứa tuổi 35-44 qua các nghiên cứu ở Việt Nam
  10. Tỷ lệ (%) người Vùng có mã số N Năm nghiê n cứu 0 1 2 3 4 TP.H (5 1985 1 1 6 2 1 50 ồ Chí ) 2 1 6 2 2 Minh** 1986(1 26 Hà 5 1 0 0 7 ) Nội ** 9 8 2 1988(9 13 TP.H 4 4 1 1 9 ) ồ Chí Minh 8 2 9 1990(1 30 Nông 6 3 1 2 2 4) 0 thôn 7 0 1 1 2 1990(2 30 Nông 7 2
  11. 4) miền 0 thôn 4 0 Bắc Việt Nam Nông 1991(6 30 thôn 7 2 miền 0 0 2 ) Việt 0 Nam 2 2 Nam 1992- 46 Thành 1 6 2 0 0 (20) thị *** 3 3 3 1 5 * Mã số O: Lành mạnh, mã số 1: Chảy máu nướu, mã số 2: Vôi răng, mã số 3: Túi nông, mã số 4: Túi sâu. ** Tuổi từ 30 – 44. *** Mã số được ghi toàn miệng (không ghi theo răng chỉ số). Số trung bình sextants có vôi răng ở thành thị rất cao từ 2,9 – 5,7 (trung vị: 5,0) và số trung bình sextants có vôi răng ở nông thôn là 5,0.
  12. Như vậy, có thể xếp loại Việt Nam trong danh sách 20 các quốc gia trên thế giới có tỷ lệ vôi răng cao nhất ở người trưởng thành (26). Bàng 2 trình bày mức độ trầm trọng của bệnh nha chu phân bổ theo vùng Sextants Số trung bình Sextants có mã s ố Vùn 1+ 2 Ng nghiên Năm 2+ + 3 4 0 cứu +4 excl 3+ 3 4 +4 TP, ( 1985 5 0 4, 0, 0 Hồ Chí 4,8 5) 0 ,6 5 7 ,2 Minh** 1986( 2 Hà 0 2, 0, 0 4,7 1) Nội ** 69 ,7 9 7 ,1
  13. TP, ( 1988 1 0 5, 1, 0 Hồ Chí 5,7 9) 38 ,1 7 5 ,2 Minh 1990( 3 Nôn 0 5, 0, 0 5,4 14) 00 g thôn ,4 0 8 ,1 Nôn 1990( 3g thôn 0 4, 0, 0 5,4 24) miền Bắc ,6 00 9 7 ,1 Việt Nam Nôn 1991( 3g thôn 0 4, 0, 0 5,2 6) miền Nam ,2 00 9 8 ,1 Việt Nam 1992- 4 Thà 0 5, 3, 0 5,8 (20) nh thị *** ,2 3 63 5 1 ,5
  14. Kết quả từ bảng 1 ghi nhận có 7 % - 25% (trung vị 10%) nhân dân thành thị tuổi từ 35 – 44 có túi sâu vào khoảng 2% nhân dân nông thôn tuổi từ 35 – 44 có túi sâu. Kết quả từ bảng 2 cho thấy số trung b ình sextants có túi sâu ở thành thị và nông thôn là 0,5 và 0,1. Với kết quả này, có thể xếp loại Việt Nam nằm trong danh sách 50 quốc gia trên thế giới có tỷ lệ phần trăm túi sâu ở người trưởng thành cao nhất thế giới(26). BÀN LUẬN Bệnh sâu răng ở Việt Nam Các công trình nghiên c ứu về bệnh sâu răng ở Việt Nam cho thấy chỉ số SMTR gia tăng theo tuổi. Ghi nhận này hoàn toàn phù hợp với sự tích lũy mức độ trầm trọng và không hoàn nguyên c ủa bệnh sâu răng trong suốt đời người. Tuy nhiên, có một công trình nghiên cứu ở thành phố Hồ Chí Minh năm 1984, chỉ số SMTR ở các nhóm tuổi từ 15 – 24 lại cao hơn nhóm tuổi 25 – 34. Kết quả này có thể do sự tích lũy số người trẻ bị sâu răng ở thành phố trước 1984, nhưng cũng có thể từ sự sai lệch kết quả giữa các điều tra viên (tỷ lệ nhất trí giữa các điều tra viên).
  15. Kết quả nghiên cứu quốc gia năm 1990 và kết quả nghiên cứu ở hai miền Bắc, Nam năm 1991 cho thấy tỷ lệ sâu răng ở miền Nam cao hơn miền Bắc, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Điều đó có thể xuất phát từ nguồn Fluor trong nước uống, sự tiêu thụ đường, tập quán ăn uống… So với những nghiên cứu trước năm 1975 ở Sài gòn, tỷ lệ sâu răng và chỉ số SMTR đã giảm rõ rệt có thể do hiệu quả tác động của chương trình fluor hóa nước máy, chương trình nha học đường, sự cải thiện về tình trạng dinh dưỡng và vệ sinh răng miệng. Ở Việt Nam, tỷ lệ sâu răng ở vùng thành thị như thành phố Hồ Chí Minh cao hơn vùng nông thôn giống như mô hình bệnh sâu răng ở các nước (13,17) đang phát triển Tuy vậy, một vài kết quả cho thấy ở vùng nông thôn thiếu sự can thiệp của các chương trình phòng bệnh thì tỷ lệ sâu răng cao hơn vùng thành thị. Phần lớn các vùng địa dư ở Việt Nam đều thiếu fluor trong nước uống. Tuy nhiên, có một số vùng có tình trạng nhiễm fluor trên răng(14). Đối với những vùng này, cần có những biện pháp cộng đồng thích hợp, đặc biệt là việc giải quyết nguy cơ quần thể (PAR) sẽ còn tiếp diễn trong tương lai.
  16. Một báo cáo ở Việt Nam trình bày tỷ lệ người dân dùng kem đánh răng ngày càng gia tăng và chất lượng kem đánh răng có fluor ngày càng cải thiện. Vấn đề này đòi hỏi các nhà quản lý y tế răng miệng ở Việt Nam phải có sự thay đổi về chiến lược và biện pháp phòng và điều trị bệnh nha chu và sâu răng cho nhân dân trong tương lai. Một số các công trình nghiên cứu từ năm 1980 đến năm 1990 cho thấy mức tiêu thụ đường trên 1 đầu người trong 1 năm là 5kg. Đây là một công bố gây ngạc nhiên và “khá an toàn” cho bệnh sâu răng. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam là vùng “đất nóng” về các thức uống và thức ăn có nhiều đường. Dưới sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhiều công ty thực phẩm, bánh ngọt, nước giải khát có đường ra đời thể hiện nền kinh tế năng động nhưng cũng đồng thời dự báo số lượng đường tiêu thụ cho 1 người không thể là 5kg. Một kế sách “uyển chuyển” của các nhà quản lý là rất cần thiết khi các thực phẩm này chắc chắn sẽ “gõ cửa” các trường học. Có nên chăng c ần nghĩ đến những dự luật về kiểm soát thực phẩm cũng như thay thế các loại đường gây sâu răng bằng các loại đường không gây sâu răng ? Hiện nay, phần lớn các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước có kinh nghiệm về chương trình phòng bệnh đều công nhận c hải răng với kem
  17. fluor là một biện pháp hiệu quả nhất đối với cộng đồng và cá nhân. Có lẽ các nhà quản lý răng miệng ở Việt Nam nên nghĩ đến việc thúc đẩy sản xuất và sử dụng các loại kem fluor chuẩn cũng như cần có những dự luật về nhập xuất các sản phẩm có fluor ở thị trường Việt Nam. Bệnh nha chu ở Việt Nam Những dữ liệu từ các nghiên cứu khác nhau cho thấy tỷ lệ vôi răng cao ở thanh thiếu niên và người lớn. Ở lứa tuổi 15 – 19, trung bình có 4,2 sextants có vôi răng và ở lứa tuổi 35 – 44, trung bình có 5 sextants có vôi răng. Nhu cầu cạo vôi răng rất lớn và phần lớn chưa được đáp ứng một cách đúng mức, điều này chứng minh vì sao có sự lan rộng của tình trạng viêm nhiễm mãn ở mô nha chu. Tỷ lệ phần trăn túi nông ở lứa tuổi 35 – 44 thấp (2%) theo 3 báo cáo(6,14,24). Tỷ lệ phần trăm túi sâu là 10%. Tình trạng mất bám dính, một tiêu chuẩn đánh giá mức độ trầm trọng và phát triển của bệnh nha chu đã không được đánh giá trong tất cả các nghiên cứu ở Việt Nam. Tuy nhiên, nếu so sánh các dữ liệu CPITN ở Việt Nam với Nepal và Bangladesh thì tình trạng bệnh nha chu có vẻ khả quan hơn(8,25). Hậu quả trầm trọng của bệnh nha chu ở 2 nước Châu Á kể trên có nguyên nhân từ tỷ lệ người hút thuốc, đặc biệt là vừa hút thuốc và ăn trầu rất cao. Những ghi nhận này cho thấy cần thiết nên
  18. có những công trình nghiên cứu tiếp theo về mối liên quan giữa bệnh nha chu và các yếu tố nguy cơ ở Việt Nam. Mặc dù tỷ lệ túi sâu ở các nghiên cứu có khác nhau, nhưng rõ ràng t ỷ lệ này chỉ có ở nhóm tuổi từ 35 – 44 trở lên. Tỷ lệ và phân bố tình trạng vôi răng cao ở người trẻ chưa đủ chứng cứ giải thích vì sao tỷ lệ túi sâu ở người lớn thấp. Điều này càng khẳng định quan điểm mới về cơ chế sinh bệnh của bệnh nha chu: “Chưa hẳn đã có sự tương quan thuận của vôi răng và túi nha chu”. Đây cũng là vấn đề cần đặt ra với TCSKTG về việc bổ sung khả năng đánh giá bệnh nha chu trong cộng đồng bằng hệ thống CPITN. Những dữ liệu dịch tễ về bệnh nha chu ở Việt Nam cũng như ở các quốc gia khác trên thế giới đã đặt ra một đối thuyết “nóng hổi”: Liệu cạo vôi răng có phải là một biện pháp có hiệu quả nhất trong việc ngăn chận sự phát triển của túi nha chu ở người bệnh trong tương lai? Tóm lại, cần phải có nhiều nghiên cứu dịch tễ khác nữa bao gồm những nghiên cứu dịch tễ phân tích trong cộng đồng cũng như các nghiên cứu dịch tễ lâm sàng ở Việt Nam để góp phần làm rõ cơ cấu bệnh tật và mạng lưới nguyên nhân. Có như vậy, các chương trình can thiệp để kiểm soát và phòng ngừa bệnh sâu răng và nha chu ở Việt Nam mới có hiệu quả cao.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1