Đề bài: Phân tích đoạn đầu bài thơ “Tiếng hát đi đày” của Tố Hữu<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
“Tiếng hát đi đày” là bài thơ được rút ra từ phần “Xiềng xích” trong tập thơ “Từ ấy” của <br />
Tố Hữu. Đây là tiếng ca, tiếng lòng của người tù cách mạng trên đường đến nhà lao khác. <br />
Tuy nhiên bài thơ lại vang lên với giọng điệu vui tươi, phấn khởi, tạo niềm tin, hứng <br />
khởi cho người đọc.<br />
<br />
“Tiếng hát đi đày” được sáng tác trong hoàn cảnh tác giả đang bị chuyển từ nhà lao Quy <br />
Nhơn sang nhà lao Dayka ở Tây Nguyên. Đọc những vần thơ của Tố Hữu, người đọc cứ <br />
ngỡ tác giả đang phóng bút ra phía xa, đang được thảnh thơi, tự do. Nhưng thực tế Tố <br />
Hữu đang ở tù, nhưng lại có tấm lòng, có khát khao muốn tung cánh bay ra ngoài để giành <br />
tự do và độc lập cho đất nước.<br />
<br />
Khổ thơ đầu của bài thơ “Tiếng hát đi đày” vang lên thật vui tươi, nhộn nhịp, và để lại <br />
trong lòng người nghe nhiều dư âm:<br />
<br />
Đường lên xứ lạ Kontum<br />
<br />
Quanh quanh đèo chật, trùng trùng núi cao<br />
<br />
Thông reo bờ suối rì rào<br />
<br />
Chim kêu chiu chít, ai nào kêu ai?<br />
<br />
Đọc 4 câu thơ này lên, người đọc có thể tưởng tượng được khung cảnh thiên nhiên hoang <br />
sơ, khúc khuỷu, trùng trùng điệp điệp ở nơi đất lạ. Tác giả dùng từ “đất lạ” để nói lên <br />
tâm trạng bơ vơ, lạc lõng của chính bản thân mình khi đang phải chịu cảnh tù đày, giam <br />
hãm.<br />
<br />
Chỉ với bài nét bút chấm phá, Tố Hữu còn vẽ lên trước mắt người đọc một cảnh rừng núi <br />
bát ngát, bao la nhưng heo hút, quạnh hiu, không một bóng người. Tác giả đã dùng hai vế <br />
đối nhau, để làm tăng sự hiểu trở, cô quạnh nơi rừng núi.<br />
Có cảm chừng như chính tác giả đang bị choáng ngợp với thiên nhiên quá hùng vĩ, nhưng <br />
lại lạnh lẽo, vắng bóng người như vậy.<br />
<br />
Tuy nhiên đến hai câu thơ sau, dường như là một tiếng reo vui cất lên, đánh thức cả trái <br />
tim và con người chiến sỹ:<br />
<br />
Thông reo bờ suối rì rào<br />
<br />
Chim kêu chiu chít, ai nào kêu ai?<br />
<br />
Cụm từ “thông reo bờ suối” gợi lên một khung cảnh thật nên thơ, lãng mạn, hiền hòa. Cứ <br />
ngỡ như tác giả lạc vào cõi tiên, có tiếng thông reo lên trong gió, bên bờ suối có nước <br />
chảy rì rào nghe êm tai. Khung cảnh này hoàn toàn đối lập với cảnh tượng núi non hiểm <br />
trở, hiu quạnh ở hai câu thơ trên.<br />
<br />
Câu thơ cuối cùng có một cụm từ rất đặc sắc và gợi tả “chim chiều chiu chít”, sao không <br />
phải là “chim kêu” mà lại là “chim chiều”. Có lẽ thời gian buổi chiều thường khiến con <br />
người thấy da diết, tha thiết và lắng sâu hơn. Nó còn gợi tả nỗi buồn, nỗi sầu nhớ của tác <br />
giả giữa đất lạ quê người.<br />
<br />
Tiếng chim kêu ở đây lại có âm thanh lạ “chiu chít”, tiếng kêu không vội vàng, gấp gáp, <br />
cũng không sôi động nhưng lại khiến người nghe thấy não nề, da diết. Tiếng kêu thất <br />
thanh, tiếng kêu tạo sự trống vắng đến não lòng.<br />
<br />
Nhưng có lẽ về sau mới thật sự khiến cho người nghe cảm thấy xót xa “ai nào kêu ai”. <br />
Giữa núi rừng hoang vắng, quạnh hiu như thế này thì tiếng chim dù có kêu tha thiết, có <br />
kêu thê thảm thì cũng không ai nghe thấy, không ai hiểu thấu. Câu hỏi tu từ ấy cất lên, và <br />
tác giả cũng tự trả lời cho mình.<br />
<br />
Tâm trạng của một người tù đang rơi vào lạc lõng, cô liêu khiến người đọc cảm nhận <br />
được nỗi đau, nỗi cô đơn của ông. Nước mất, nhà tan nhưng bản thân lại bị giam hãm, tù <br />
đày.<br />
<br />
Có lẽ âm vang và giai điệu của 4 câu thơ trên sẽ ám ảnh người đọc về hình ảnh một <br />
người tù cách mạng lẻ bóng, cô đơn giữa cảnh rừng hoang vu. Tố Hữu đã khiến người <br />
đọc phải xót xa và cảm thông.<br />