Đề bài: Phân tích đoạn thơ sau đây trích trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan <br />
Viên: Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ… Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn <br />
nuôi<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Chế Lan Viên là nhà thơ có tài năng nảy nở rất sớm. Năm 17 tuổi, tập thơ Điêu tàn của <br />
nhà thơ "đột ngột xuất bản ra giữa làng thơ như một niềm kinh dị”, rồi hồn thơ ấy cũng <br />
sớm bị mai một, khô héo trong sự bế tắc chung của phong trào Thơ mới. Sau Cách mạng <br />
tháng Tám năm 1945, ánh sáng của Đảng và Cách mạng đã soi đường, dẫn lối cho nhà thơ <br />
đến với nhân dân và đất nước mến yêu. Tập thơ Ánh sáng và Phù sa ra đời đánh dấu <br />
bước trưởng thành vững chắc của Chế Lan Viên trên con đường thơ Cách mạng, rất có ý <br />
nghĩa đối với nền văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 1975. Tập thơ thể hiện <br />
hành trình tư tưởng và tâm hồn của người nghệ sĩ đi “từ thung lũng đau thương ra cánh <br />
đồng vui", “từ chân trời của một người đến chân trời của mọi người”. Tập thơ còn thể <br />
hiện lòng biết ơn, sự gắn bó của nhà thơ với Đảng, đất nước, nhân dân và cuộc đời. <br />
Tiếng hát con tàu là bài thơ vượt thời gian năm trong tập thơ ấy. Đây là bốn khổ thơ đặc <br />
sắc của bài thơ:<br />
<br />
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ<br />
<br />
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa<br />
<br />
Như đứa trẻ đói lòng gặp sữa<br />
<br />
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa,<br />
<br />
Con nhớ anh con, người anh du kích<br />
<br />
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn<br />
<br />
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách<br />
<br />
Đêm cuối cùng anh để lại cho con.<br />
Con nhớ em con, thằng em liên lạc.<br />
<br />
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ<br />
<br />
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc<br />
<br />
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư.<br />
<br />
Con nhớ mế Lửa hồng soi tóc bạc.<br />
<br />
Năm con đau, mế thức một mùa dài<br />
<br />
Con với mế không phải hòn máu cắt<br />
<br />
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.<br />
<br />
Trước khi tìm hiểu đoạn thơ trên, chúng ta cần hiểu hoàn cảnh lịch sử của bài thơ. Đó là <br />
giai đoạn 1955 1960, sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cứu nước dân tộc ta <br />
toàn thắng với chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Miền Bắc hòa bình đang <br />
dành nhiều công sức hàn gắn vết thương chiến tranh, hăng hái bắt tay vào công cuộc khôi <br />
phục kinh tế, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cũng ở miền Bắc những năm 1958 <br />
1960, Đảng và nhà nước ta có cuộc vận động nhân dân miền xuôi lên Tây Bắc xây dựng <br />
kinh tế miền núi, hưởng ứng cuộc vận động, có rất nhiều văn nghệ sĩ nhiệt tình lên Tây <br />
Bắc, trong đó có nhà thơ Chế Lan Viên.<br />
<br />
Chủ đề của bài thơ Tiếng hát con tàu cũng là chủ đề của cả tập thơ Ánh sáng và Phù sa. <br />
Ngoại trừ lời đề từ, bài thơ có tất cả 15 khổ thơ, mỗi khổ bốn dòng, chia làm ba đoạn. <br />
Đoạn đầu (gồm bốn khổ) là sự trăn trở, giục giã lên đường. Đoạn giữa (7 khổ) là hồi <br />
tưởng về những kỉ niệm với nhân dân trong kháng chiến. Đoạn kết (4 khổ thơ cuối) là <br />
khúc hát lên đường say mê háo hức.<br />
<br />
Bốn khổ thơ trích trên thuộc đoạn giữa. Khổ đầu của trích đoạn nói lên khát vọng trở về <br />
như là trở về ngọn nguồn của sự sống:<br />
<br />
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ<br />
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa<br />
<br />
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa<br />
<br />
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.<br />
<br />
Chúng ta cần phải hiểu Chế Lan Viên trước khi đến được, gặp được nhân dân mới cảm <br />
được “con gặp lại nhân dân” là xúc động đến chừng nào. Thật vậy, trước thời điểm ấy, <br />
trong thơ Chế Lan Viên, tập Điêu tàn xuất hiện một thế giới kinh dị đầy sọ người, xương <br />
máu, yêu ma”, những ngọn tháp Chàm huyền bí, gầy mòn, đổ nát, những nấm mồ hiện ra <br />
trong bóng đêm dày đặc hoặc ánh trăng đơn côi, lạnh lẽo:<br />
<br />
Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi<br />
<br />
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian<br />
<br />
Những sông vắng lê mình trong bóng tối<br />
<br />
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than.<br />
<br />
Đồng thời, trong trí tưởng tượng của nhà thơ, còn hiện về những hình ảnh vật vờ của <br />
những hồn ma sờ soạng dắt nhau đi “những khớp xương rợn trắng”, những dòng huyết <br />
đẫm khí tanh hôi”, những bóng dáng thấp thoáng, hư ảo của chiêm nữ:<br />
<br />
Đây những cánh ngàn sâu cây lả ngọn,<br />
<br />
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi<br />
<br />
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn<br />
<br />
(…)<br />
<br />
Rồi lấy ra một khúc xương rợn trắng,<br />
<br />
Nút bao dòng huyết đầm khí tanh hôi,<br />
<br />
Tìm những miếng "trần gian” trong tủy cạn,<br />
Rồi say sưa vang cất tiếng reo cười.<br />
<br />
(Trên đường về)<br />
<br />
Như vậy, khi chưa được gặp nhân dân, nhà thơ hoàn toàn bế tắc vì “chỉ có nhân dân mới <br />
nuôi dưỡng sáng tác của nhà thơ bằng những nguồn nhựa sống”.<br />
<br />
Khổ thơ hàm chứa một tiền giả định. Khi Chế Lan Viên viết: “Con gặp lại nhân dân” <br />
nghĩa là giữa nhân vật trữ tình và nhân dân vốn đã có một mối quan hệ nhất định. Đó là <br />
một mối quan hệ khăng khít, máu thịt. Chính nhân dân đã nuôi nấng, bao bọc, chở che, <br />
đồng cam cộng khổ với nhân vật trữ tình và nhiều bộ đội Cụ Hồ khác. Đại từ xưng hô <br />
“con” vừa xác định được tính chất, mức độ của mối quan hệ ấy vừa biểu lộ nỗi vui <br />
mừng, hạnh phúc vô biên khi nhà thơ tìm gặp được nhân dân nhịp đập của trái tim mình.<br />
<br />
Xét cho cùng, đây là một nghệ thuật thông minh, hội tụ ý nghĩa lớn lao; sự gắn bó không <br />
thể chia tách, sự hòa hợp tuyệt đối giữa nhân vật trữ tình với nhân dân. Vả lại, chúng ta <br />
vẫn có cảm giác nhà thơ chưa bằng lòng với sự biểu hiện tình cảm qua tập hợp hình <br />
chùm ấy. Nhân vật trữ tình dường như muốn bộc bạch nhiều hơn nữa sự gắn bó của <br />
mình đối với nhân dân. Mặt khác, thủ pháp nghệ thuật trên còn biểu hiện một sắc thái <br />
tình cảm tiềm ẩn: lòng biết ơn vô bờ bến; sự trân trọng, kính yêu vô hạn của nhân vật trữ <br />
tình đối với nhân dân.<br />
<br />
Nhìn chung, ở khổ thơ đầu của trích đoạn, Chế Lan Viên đã phát huy được sức mạnh cổ <br />
điển của phép so sánh tu từ mà Paul, nhà ngôn ngữ học người Đức, thế kỉ XIX đã từng <br />
nhận xét rằng: Sức mạnh của so sánh là nhận thức”. Tuy nhiên, đối với Chế Lan Viên, nó <br />
không chỉ đơn thuần là một thủ pháp, mà còn nằm trong đặc điểm tư duy của nhà thơ. Vì <br />
thế, qua tài năng sáng tạo của nhà thơ, tính trí tuệ của nhà thơ trở nên dồi dào. Từ đó, tính <br />
hình tượng, tính truyền cảm lan tỏa khắp tứ thơ, làm rung động tâm hồn những độc giả <br />
yêu thơ, say thơ. Vậy nên, hai tiếng “nhân dân” cất lên thiêng liêng, ấm áp, gần gũi lạ <br />
thường.<br />
<br />
Nếu như ở khổ thơ trên, lòng biết ơn của nhân vật trữ tình còn chất chứa trong một sắc <br />
thái tình cảm tiềm ẩn thì ở các khổ thơ sau, tấm lòng ấy bày tỏ cụ thể, chi tiết:<br />
<br />
Con nhớ anh con, người anh du kích<br />
<br />
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn<br />
<br />
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách<br />
<br />
Đêm cuối cùng anh để lại cho con.<br />
<br />
Con nhớ em con, thằng em liên lạc.<br />
<br />
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ<br />
<br />
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc<br />
<br />
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư.<br />
<br />
Con nhớ mế Lửa hồng soi tóc bạc.<br />
<br />
Năm con đau, mế thức một mùa dài<br />
<br />
Con với mế không phải hòn máu cắt<br />
<br />
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.<br />
<br />
Đối với nhà thơ, nhân dân chính là anh du kích hình ảnh “chiếc áo nâu” mộc mạc, dung dị, <br />
không chủ yếu gợi sự nghèo khó mà gợi nỗi vất vả, nhọc nhằn của đời lính trong quá <br />
trình đi theo tiếng gọi của quê hương, của hồn thiêng sông núi. Nhưng cao cả làm sao cái <br />
tấm lòng dũng cảm, sự hy sinh thầm lặng, vì nước quên mình của anh bộ đội.<br />
<br />
Hai câu thơ:<br />
<br />
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách<br />
<br />
Đêm cuối cùng anh để lại cho con.<br />
<br />
Dấy lên trong lòng độc giả nỗi xúc động nghẹn ngào, từng giọt lệ thấm dần qua trang <br />
sách, thổn thức canh khuya bởi cái nghĩa cử cao đẹp, cái tình thủy chung tuyệt đối của anh <br />
bộ đội Cụ Hồ với đồng chí, đồng đội trước khi trở về hơi ấm của lòng đất mẹ. Ở đây, <br />
nghệ thuật điệp ngữ: “chiếc áo nâu” và điệp cấu trúc cú pháp đã khắc họa sâu sắc tình <br />
cảm cao thượng, đẹp đẽ của người chiến sĩ cách mạng bất khuất, kiên cường.<br />
<br />
Đối với nhà thơ, nhân dân chính là em liên lạc. Em đã dũng cảm, linh hoạt, nhanh nhẹn, <br />
băng rừng, lội suối, trèo đèo để đến từng bản làng giao thư, phục vụ đắc lực cho sự <br />
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân. Em làm tròn trách nhiệm không phải chỉ một <br />
ngày, một bữa, mà trong quãng thời gian dài: "Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư”, <br />
ở đây, nghệ thuật liệt kê: "rừng thưa”, "rừng rậm”, "băng”, "chờ”, “sáng”, “chiều”, “bản <br />
Na”, “bản Bắc”, “mười năm tròn” kết hợp với nghệ thuật đối ngữ tương hỗ (Rừng thưa <br />
em băng >