Đề bài: Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống: Bên kia sông Đuống... <br />
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Trong dòng cảm xúc của Hoàng Cầm về Bên kia sông Đuống, người mẹ là vùng nhớ <br />
thương, đau đáu nhất:<br />
<br />
Bên kia sông Đuống<br />
<br />
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ<br />
<br />
Nói đến quê hương, phải bắt đầu bằng người Mẹ<br />
<br />
Theo lời kể của chính tác giả, thì sau khi nghe kể về tình hình quê hương ở vùng bị địch <br />
chiếm đóng, đêm ấy, ông trằn trọc, vật vã mãi: Trong người tôi lúc bấy giờ thật y hệt <br />
một cuốn phim của một người đạo diễn rối loạn tâm thần, các hình bóng quấn lộn vào <br />
nhau, các âm thanh màu sắc chen chèn lấn rối bốn bề, và trên bức vách, các hình thù ngả <br />
nghiêng theo ánh đèn dầu sở lắt lay. Một lúc lâu thi những hình ảnh rõ nét hiện lên bức <br />
vách, cứ như quay tròn nhường chỗ cho nhau. Quanh khuôn mặt dầu dãi của mẹ tôi, các <br />
bộ mặt khác như đậu chênh vểnh vào đấy... (Hoàng Cầm, thơ văn và cuộc đời, Nxb. Vãn <br />
hóa Thông tin, 1997, tr.218).<br />
<br />
Sau này, nhìn lại đời thơ và đời mình, nhà thơ Hoàng Cầm còn viết: Nói đến quê hương, <br />
phải bắt đầu bằng người Mẹ. Mẹ là incarnation (Incarnation (tiếng Pháp): Sự hóa thân, <br />
sự hiện thân, tượng trưng (BQH)), là hiện thân trọn vẹn nhất, sinh động nhất của quê <br />
hương (Sđd, tr.186). Vì thế, mỗi dòng, mỗi chữ thơ của Hoàng Cầm khi viết về người <br />
mẹ như chạm khắc vào thời gian để đến nay vẫn còn biết bao xúc động đối với người <br />
đọc.<br />
<br />
Từ nơi xa xôi, người con hướng về quê hương bên kia sông Đuống, nơi có người mẹ <br />
nghèo khổ:<br />
Bên kia sông Đuống<br />
<br />
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong<br />
<br />
Dăm miếng cau khô<br />
<br />
Mấy lọ phẩm hồng<br />
<br />
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm<br />
<br />
Đó là hình ảnh,về người mẹ tảo tần, vất vả, đúng là người mẹ quê Việt Nam ngày xưa. <br />
Chỉ có 4 câu thơ nhưng hình ảnh mẹ lại rất gợi nhờ hàng loạt hình dung từ: già nua, còm <br />
cõi, hàng rong, cau khô, hoen sương sớm. Không nói rõ nhưng người đọc vẫn biết sự lam <br />
lũ của mẹ. Đặc biệt, câu thơ Vài thiếp giấy đầm hoen sương sớm thể hiện sự đồng cảm <br />
sâu sắc của người con đối với nỗi cực nhọc của mẹ. Bao nhiêu sương sớm làm hoen <br />
những thiếp giấy là bấy nhiêu sương gió thấm đẫm vào người mẹ, Những từ chỉ số <br />
lượng: đám, mấy, vài càng cho thấy gánh hàng ít ỏi và sự vất vả kiếm sống của bà mẹ <br />
quê.<br />
<br />
Cái vốn liếng ít ỏi ấy dù đủ để đau lòng người rồi, nhưng dẫu sao đó cũng là những ngày <br />
thanh bình. Đỉnh điểm của hoàn cảnh là khi lũ giặc tàn bạo xuất hiện:<br />
<br />
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn<br />
<br />
Khua giày đinh đạp gãy quán gầy teo<br />
<br />
Xì xồ cướp bóc<br />
<br />
Tan phiên chợ nghèo<br />
<br />
Từ chợt diễn tả là sự đột ngột, bất ngờ. Quân giặc đến thật bất ngờ, nhanh chóng gây <br />
nỗi hốt hoảng cho người dân nghèo. Câu thơ đồng thời diễn tả sự thảng thốt của chính <br />
tác giả.<br />
<br />
Kẻ thù không được tả nhiều, chỉ với 3 chi tiết, nhưng đã lột tả được bản chất tàn ác của <br />
chúng: mắt xanh trừng trợn, giày đinh đạp gãy quán, xì xồ cướp bóc. Nhà thơ gọi giặc <br />
Pháp theo cách dân gian, của người dân quê: lũ quỷ. Chúng không phải là con người nữa. <br />
Giặc đến đồng nghĩa với sự chết chóc, ảm đạm:<br />
<br />
Lá đa lác đác trước lều<br />
<br />
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông<br />
<br />
Câu thơ chuyển sang thể lục bát như để diễn tả nỗi đau xót xa đến nghẹn ngào, không <br />
cùng của tác giả. Đôi mắt nhà thơ như nương theo ánh nắng chiều trong nỗi nhớ về quê <br />
hương xa xăm. Cảnh ở đây vẫn là bức tranh làng quê quen thuộc với cây đa, quán nước, <br />
những vắng lặng, buồn thảm. Trước mắt là cảnh tượng tan hoang khi giặc đến. Sự vắng <br />
lặng đến kinh hoàng bởi người ta cảm nhận được từng chiếc lá đa đang bay lác đác dưới <br />
ánh nắng chiều. Trên cái nền ấy là những vết máu loang trông ghê sợ. Còn đâu con sông <br />
Đuông lấp lánh trôi đi còn đâu bờ cát trắng phẳng lì, cùng những hội hè đình đám tưng <br />
bừng rộn rã?<br />
<br />
Nếu như ở các câu thơ trên, nhà thơ đã sử dụng nhiều hình dung từ và những từ chỉ số <br />
lượng để diễn tả nỗi nghèo khó của bà mẹ quê, thì ở đây cũng với những loại từ ấy <br />
nhưng hàm ý khác hẳn, nhất là khi chúng được đặt trong thế đối lập. Chẳng hạn: Khua <br />
giày đinh đạp gãy quán gầy teo là sự đối lập một đằng là sức mạnh cường bạo với sự <br />
yếu đuối, không có gì chống đỡ. Hoặc Xì xồ cướp hóc diễn tả hành động ngang ngược, <br />
trái với lẽ thường. Thông thường, vài ba không phải là nhiều nhưng vài ha vết máu hiện <br />
lên trên cảnh hoang tàn của phiên chợ nghèo đang vắng lặng thì có sức ám ảnh tâm trí con <br />
người rất lớn.<br />
<br />
Trên cái nền của cảnh chợ chiều tưởng như hoang vắng, không còn ai là hình ảnh người <br />
mẹ yếu ớt và cô đơn:<br />
<br />
Chưa bán được một đồng<br />
<br />
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong<br />
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút<br />
<br />
Có con cò trắng bay vùn vụt<br />
<br />
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu<br />
<br />
Mẹ ta lòng đói dạ sầu<br />
<br />
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ<br />
<br />
Đây là những câu thơ giàu chất tạo hình của cả đoạn, gây ấn tượng cho người đọc.<br />
<br />
Đầu tiên là hình ảnh bà mẹ già nua quẩy gánh trở về khi chưa bán được một đồng. Xung <br />
quanh mẹ không có ai mà con đường như mỗi lúc một dài thêm: Bước cao thấp bên bờ tre <br />
hun hút.<br />
<br />
Bỗng nhiên xuất hiện hình ảnh con cò:<br />
<br />
Có con cò trắng bay vùn vụt<br />
<br />
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu<br />
<br />
Nhưng đây lại là hình ảnh con cò lạ lùng nhất xưa nay. Đó không là con cò trắng quen <br />
thuộc biểu tượng về người phụ nữ Việt Nam tảo tần, khuya sớm:<br />
<br />
Con cò đi đón cơn mưa,<br />
<br />
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về?<br />
<br />
Con cò lặn lội bờ sông<br />
<br />
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non<br />
<br />
Đó càng không phải con cò thanh thoát, nhẹ nhàng, thong thả trong cảnh yên bình:<br />
<br />
Con cò bay lả bay la<br />
<br />
Bay từ cửa phủ, bay ra cánh đồng<br />
Lần đầu tiên con cò đi vào văn chương với dáng vẻ hoảng hốt, sợ hãi:<br />
<br />
Có con cò trắng bay vùn vụt<br />
<br />
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu<br />
<br />
Đến con cò bé nhỏ kia cũng là nạn nhân của quân giặc. Những bãi mía nương dâu có ngô <br />
khoai biêng biếc giờ không còn là đất sông của nó nữa. Hình ảnh con cò bay vùn vụt càng <br />
khắc sâu nỗi cô đơn, lẻ loi của người mẹ quê:<br />
<br />
Mẹ ta lòng đói rách dạ sầu<br />
<br />
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ<br />
<br />
Nỗi khổ vật chât (lòng đói) đi liền với là nỗi khổ tinh thần (dạ sầu). Nhịp thơ lục bát 2/2 <br />
gợi gánh nặng chất chồng lên vai mẹ. Buổi chiều ảm đạm đọng mãi hình ảnh mái đầu <br />
bạc phơ của người mẹ già. Câu thơ chỉ tả mà cảm xúc lại nghẹn ngào, đau đớn.<br />
<br />
Những câu thơ trên với hình ảnh trung tâm là người mẹ, được đặt trong bối cảnh bên kia <br />
sông Đuống, lại trải dài trong một ngày không yên tĩnh. Đó là thời gian của chiến tranh. Vì <br />
thế, một ngày nhưng cũng là một đời, đời người trong chiến tranh. Lẽ thường, khi chiến <br />
tranh xảy ra, em thơ và người mẹ là những người đáng thương nhất. Hình ảnh người mẹ <br />
vừa thể hiện một mặt đáng nói nhất của chiến tranh, vừa chất chứa biết bao tình cảm <br />
của người viết.<br />
<br />
Hình ảnh bà mẹ trong đoạn thơ trên có thể là người mẹ ruột của tác giả, nhưng cũng là <br />
hình ảnh của biết bao bà mẹ trong chiến tranh. Khái quát hơn, đấy còn là hình ảnh đất <br />
nước Việt Nam trong thời kỳ cháy bỏng đau thương và căm hờn. Bởi vậy, đến những <br />
dòng thơ ấy gây xúc động sâu sắc cho người đọc.<br />