Đề bài: Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống: Bên kia sông Đuống... <br />
Bây giờ tan tác về đâu<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Đây là đoạn thơ nói về nỗi mất mát của quê hương, tập trung ở những giá trị về văn hóa <br />
cổ truyền của dân tộc cần đảm bảo những ý chính sau:<br />
<br />
Hồn thơ Hoàng Cầm gắn liền với quê hương Kinh Bắc, nơi ông sinh ra và lớn lên. Đây là <br />
vùng đất cổ của người Việt, có truyền thống văn hóa lâu đời, với biết bao di tích lịch sử, <br />
đền đài, chùa chiền được dựng trên các ngọn đồi, sườn núi, bên bờ sông Đuống. Gắn với <br />
di tích lịch sử là những lễ hội dân gian như: Hội Gióng, hội Lim, hội Chùa Dâu... và <br />
những làn điệu dân ca như: quan họ, hát ví, hát trống quân... Đặc biệt, những người con <br />
gái Kinh Bắc không chỉ hát hay mà còn đẹp nổi tiếng. Đây là quê hương của nhân vật lịch <br />
sử: Ngọc Hân, Ỷ Lan và nhiều cung nữ yêu kiều. Riêng tranh dân gian làng Hồ là kết tinh <br />
nghệ thuật hội họa dân gian cổ truyền như tranh gà lợn, tranh đánh ghen, hứng dừa...<br />
<br />
Hoàng Cầm rất tự hào và gắn bó với quê hương mình. Ông từng tâm sự: Đất Kinh Bắc <br />
thu hút hết tâm hồn tôi và cả đời tôi, thơ tôi. Hiếm có nhà thơ nào gắn bó trọn vẹn với <br />
quê hương mình đến vậy. Cho nên khi nghe quê hương bị giặc giày xéo tâm trạng nhà thơ <br />
đau đớn và bài thơ đã ra đời chỉ trong một đêm.<br />
<br />
Vẻ đẹp quê hương trong hồi ức của tác giả<br />
<br />
Sau đoạn thơ mở đầu nói chung về quê hương bên bờ sông Đuống, nỗi nhớ thương của <br />
tác giả đã khơi dậy một vùng văn học đặc sắc, với bao kỉ niệm xưa:<br />
<br />
Bên kia sông Đuống<br />
<br />
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng<br />
<br />
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong<br />
<br />
Màu dân tộc sáng hừng trên giấy điệp<br />
Với một hồn thơ giàu yêu thương, lãng mạn như Hoàng Cầm, quê hương hiện lên không <br />
chỉ là sự giàu có. Lúa nếp thơm nồng vừa gợi lên sự trù phú, lẫn hấp dẫn, tươi đẹp. <br />
Hương thơm lúa nếp gắn liền với những ngày thanh bình ấm no. Chính mùi thơm nồng <br />
nàn ấy đã hóa thành một phần tâm hồn của người xa quê. Rồi cả màu tươi sáng của <br />
những bức tranh Đông Hồ nữa. Tất cả biến thành một sinh thể trong hồn người, chứ <br />
không còn là những thứ riêng lẻ. Bởi vậy, dù xa quê, nhưng cái phần sinh thể ấy vẫn <br />
sống trong hoài niệm.<br />
<br />
Tranh làng Hồ xưa thường được nghệ nhân dân gian sử dụng gam màu sáng như màu <br />
cánh sen, màu thiên lý, màu đỏ son... Hoàng Cầm dùng từ tươi trong, sáng bừng vì lẽ đó. <br />
Đồng thời, màu sắc ấy còn gắn liền với tinh thần lạc quan yêu đời của người dân xưa. <br />
Tranh thường vẽ cảnh sinh hoạt trong đời sống của dân quê như gà vịt, đàn lợn, âm <br />
dương, kẻ chơi đánh đu, bịt mắt bắt dê... Các bức tranh này phản ánh cuộc sống hồn <br />
nhiên, bằng nét vẽ hóm hỉnh và cho thấy ước mơ giản dị của người dân quê là được sống <br />
ấm no, thanh bình. Do đó, nhà thơ nhớ về sắc màu của tranh Đông Hồ cũng là nhớ về đời <br />
sống của quê hương xưa, gắn với những tháng năm thanh bình, yên ả.<br />
<br />
Từ màu tranh Đông Hồ, màu sắc cụ thể, có thật, tác giả liên tưởng và khái quát thành màu <br />
dân tộc. Sự dẫn dắt ấy tự nhiên và hợp lý, bởi tranh Đông Hồ làm bằng chất liệu được <br />
chế biến từ thảo mộc của quê hương và ngay cả khi người dân chọn lựa chất liệu, màu <br />
sắc ấy không là phải ngẫu nhiên. Đó là sự chọn lựa mang quan niệm, nếp nghĩ, tâm hồn <br />
của nhân dân từ bao đời nay: Màu sắc ấy trở thành màu dân tộc, gắn bó với đời sống tình <br />
cảm của con người Việt Nam. Câu thơ còn thể hiện niềm tự hào của tác giả về một sản <br />
vật mang bản sắc dân tộc của quê hương.<br />
<br />
Những câu thơ còn lại diễn tả cảnh hoang tàn của quê hương từ ngày giặc Pháp đến:<br />
<br />
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp<br />
<br />
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn<br />
<br />
Ruộng ta khô<br />
Nhà ta cháy<br />
<br />
Chó ngộ một đàn<br />
<br />
Lưỡi dài lê sắc máu<br />
<br />
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang<br />
<br />
Sự hủy diệt của chiến tranh đối với quê hương<br />
<br />
Những câu thơ diễn tả cảnh “khủng khiếp” của chiến tranh với hàng loạt hình dung từ: <br />
ngùn ngụt, khô, cháy... Hình ảnh đập vào mắt con người đầu tiên về chiến tranh là “lửa <br />
cháy”, bởi chiến tranh luôn đồng nghĩa với sự hủy diệt. Những bài thơ cùng thời hoặc sau <br />
Bên kia sông Đuống, khi miêu tả về thảm họa chiến tranh luôn ám ảnh với cái màu đỏ <br />
thảm khốc đó:<br />
<br />
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới<br />
<br />
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau...<br />
<br />
(Vũ Cao Núi Đôi)<br />
<br />
Lâu quá không về thăm xóm đạo<br />
<br />
Từ ngày binh lửa cháy quê hương<br />
<br />
Khói bom che lấp chân trời cũ<br />
<br />
Che cả người thương nóc giáo đường.<br />
<br />
Hình ảnh Chó ngộ một đàn / Lưỡi dài lê sắc máu vẽ nên một cảnh khủng khiếp nữa: một <br />
đàn chó dại (có thể vì ăn phải thây người) đang rong ruổi. Đoạn thơ miêu tả cảnh tượng <br />
quê hương khi giặc đến không có một bóng người. Người dân quê, hoặc đã bỏ đi, hoặc đã <br />
chết. Khắp chốn chỉ còn lại lũ giặc và những con chó điên! Cả một vùng quê hương trù <br />
phú giờ thành vùng đất chết: Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang!<br />
Sự tàn phá quê hương của quân giặc không chỉ có thế. Hoàng Cầm đột ngột kể:<br />
<br />
Mẹ con đàn lợn âm dương<br />
<br />
Chia lìa đôi ngả<br />
<br />
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã<br />
<br />
Bây giờ tan tác về đâu<br />
<br />
Bên cạnh sự chia lìa của con người là sự tan tác của mẹ con đàn lợn âm dương, sự tan vỡ <br />
của đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã. Đó là cảnh trong tranh hay cảnh thực ngoài <br />
đời? Câu thơ với những hình ảnh cụ thể, sinh động nhưng lại mang ý nghĩa tượng trung <br />
về sự hủy diệt của chiến tranh đối với những giá trị văn hóa. Mà những giá trị ấy, từ lâu <br />
đã là một phần của tâm hồn quê hương, dân tộc. Quân giặc không những đốt phá xóm <br />
làng, nhà cửa, giết hại người dân lành mà tội ác hơn khi chúng tàn phá, xúc phạm đến <br />
những giá trị đã trở thành thiêng liêng của con người.<br />
<br />
Đoạn thơ ngắn nhưng chứa đựng nhiều cung bậc tình cảm của tác giả: có yêu thương, tự <br />
hào và cũng có đau đớn, xót xa, nuối tiếc, căm giận. Nhịp điệu của thơ theo dòng cảm xúc <br />
của tác giả. Khi khoan thai, tự hào: Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong / Màu dân tộc <br />
sáng bừng trên giấy điệp. Khi dồn dập, gãy khúc, mỗi câu như một sự kiện: Ruộng ta khô <br />
/ Nhà ta cháy / Chó ngộ một đàn... Và cuối cùng là ngẩn ngơ, hụt hẫng: Bây giờ tan tác về <br />
đâu!<br />
<br />
Đoạn thơ thể hiện tình cảm yêu thương, quý trọng của Hoàng Cầm đối với vùng đất quê <br />
hương mình. Trong hoàn cảnh chiến tranh, càng yêu thương, tự hào về quê hương bao <br />
nhiêu, tác giả càng đau xót, căm thù quân giặc bấy nhiêu. Dù chỉ là tình cảm của nhà thơ <br />
đối với quê hương mình nhưng điều đáng nói là tình cảm, qua thơ, đã truyền sang người <br />
đọc một sự cộng hưởng to lớn.<br />