Đề bài: Phân tích giá trị lịch sử của bản “Tuyên ngôn độc lập”<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Ngày 1981945, chính quyền ở thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. Ngày 238 tại Huế, <br />
trước 15 vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Ngày 257, hơn 80 vạn đồng <br />
bào Sài Gòn, Chợ Lớn, quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy mười ngày, <br />
Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ. Chế độ thực dân kéo dài <br />
80 năm cùng với chế độ phong kiến hàng ngàn năm sụp đổ tan tành.<br />
<br />
Ngày 291945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch <br />
Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam Dân <br />
chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên mới Độc lập, Tự do. Hà Nội tưng bừng màu đỏ, cả <br />
một vùng trời bát ngát cờ, đèn và hoa.<br />
<br />
Đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” đến nửa chừng, Hồ Chủ tịch dừng lại và bỗng dưng hỏi: <br />
“Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?“. Tức thì một tiếng “có” của triệu người cùng đáp, <br />
vang dậy như sấm.<br />
<br />
“Việt Nam độc lập muôn năm!” – Một triệu con người, một triệu tiếng hô cùng hòa làm <br />
một, vang dội núi sông, khi Hồ Chủ tịch vừa kết thúc bản Tuyên ngôn:<br />
<br />
“Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự <br />
do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và <br />
của cải để giữ quyền tự do và độc lập ấy”.<br />
<br />
Có thể nói, bản “Tuyên ngôn Độc lập” đã thể hiện một cách hùng hồn khát vọng, ý chí và <br />
sức mạnh Việt Nam. Nó có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Nó phản ánh một cách tập <br />
trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh.<br />
<br />
Nếu như “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt mở đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh <br />
thép: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, “Bình Ngô đại cáo” khẳng định một chân lí lịch sử: <br />
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, thì “Tuyên ngôn Độc <br />
lập” lại mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản “Tuyên ngôn Độc <br />
lập” nổi tiếng trên thế giới.<br />
<br />
Câu thứ nhất trích dẫn từ bản “Tuyên ngôn Độc lập” của nước Mĩ năm 1776: “Tất cả <br />
mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể <br />
xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền <br />
mưu cầu hạnh phúc”.<br />
<br />
Câu thứ hai rút ra từ bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Cách mạng Pháp <br />
năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự <br />
do và bình đẳng về quyền lợi”.<br />
<br />
Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn bình luận, suy rộng ra: “Tất cả các dân tộc trên <br />
thế giới sinh ra đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và <br />
quyền tự do”, và đi tới khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được“. Qua đó, <br />
ta thấy ý tưởng cao cả, sâu sắc của Hồ Chí Minh là từ sự xác nhận và đề cao một lý <br />
tưởng thời đại về tự do, bình đẳng, bác ái, nhân quyền đi đến một yêu cầu, một khát <br />
vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam là lập dân tộc. Và “Độc <br />
lập Tự do – Hạnh phúc” là mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta, của cách mạng Việt Nam <br />
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.<br />
<br />
Ngoài ra, việc trích dẫn ấy còn là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng lớn của dư luận <br />
tiến bộ trên thế giới nhất là đối với các cường quốc năm châu. Như vậy, khi ta nói đến <br />
giá trị lịch sử của “Tuyên ngôn Độc lập” trước hết phải nói đến dụng ý chiến lược và <br />
chiến thuật của việc trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản “Tuyên ngôn Độc lập” của <br />
Mĩ và Pháp.<br />
<br />
Giọng văn từ trang nghiêm, trang trọng chuyển thành hùng hồn, căm giận khi Hồ Chủ tịch <br />
vạch trần và lên án tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong gần một thế kỉ qua. <br />
Bộ mặt của chúng vô cùng xảo quyệt và dã man “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái <br />
để cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”. Tác giả đã điểm qua một cách khái quát và <br />
điển hình tội ác của thực dân Pháp trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế và những tội ác <br />
khác chồng chất như núi. Đó là 5 tội ác ghê tởm về chính trị và 5 tội ác cực kì dã man về <br />
kinh tế của chúng.<br />
<br />
Năm tội ác lớn về chính trị là tước đoạt quyền tự do dân chủ; luật pháp dã man, chia để <br />
trị; đàn áp và khủng bố, thi hành chính sách ngu dân; đầu độc bằng rượu cồn và thuốc <br />
phiện “để làm cho nòi giống ta suy nhược”. Trong “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi đã nói <br />
về tội ác của quân “cuồng Minh”: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn – Vùi con đỏ <br />
xuống dưới hầm tai vạ“. Hơn 500 năm sau, trong “Tuyên ngôn Độc lập”, người anh hùng <br />
giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh cũng viết: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. <br />
Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc <br />
khởi nghĩa của ta trong những bể máu”.<br />
<br />
Đó là những bằng chứng không ai chối cãi được. Câu văn ngắn, đanh thép, hùng hồn. Chữ <br />
“chúng” được nhắc lại nhiều lần đầy ám ảnh. Cách so sánh cụ thể, mỉa mai (lập ra nhà tù <br />
nhiều hơn trường học). Cách dùng vị ngữ, trạng ngữ xác đáng (thẳng tay chém giết), cách <br />
dùng hình ảnh (bể máu) – tất cả tạo nên phong cách chính luận Hồ Chí Minh: súc tích, lập <br />
luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục.<br />
<br />
Năm tội ác về kinh tế của thực dân Pháp là bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho <br />
“dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”; cướp không ruộng đất, hầm <br />
mỏ, nguyên liệu; độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng… Lên án chính sách <br />
sưu thuế vô nhân đạo của chúng, tác giả căm giận viết: “Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế <br />
vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng“. Hàng trăm thứ thuế <br />
vô lý ấy của thực dân Pháp đã bóc lột dân ta đến tận xương tủy.<br />
<br />
… “Các hạng thuế, các làng tăng mãi,<br />
<br />
Hết đinh điền rồi lại trâu bò,<br />
<br />
(…) Làm cho thập thất cửu không,<br />
<br />
Làm cho đau đớn khôn cùng không thôi!…”<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của thực dân Pháp. Mùa <br />
thu năm 1940, thực dân Pháp “quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta, rước Nhật”. Pháp và <br />
Nhật đã cấu kết với nhau, bóc lột dân ta thậm tệ, gây ra thảm họa năm Ất Dậu, 1945: “Từ <br />
đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích Pháp và Nhật. Từ đó, dân ta sống cực khổ, nghèo nàn. <br />
Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu <br />
đồng bào ta bị chết đói”.<br />
<br />
Sự hèn hạ, tàn ác của thực dân Pháp không thể nào kể xiết! Ngày 931945 Nhật đảo <br />
chính Pháp “quân Pháp bỏ chạy hoặc đầu hàng”. Tác giả châm biếm lên án: “Chúng <br />
chẳng những không “bảo hộ” được ta, trái lại trong 5 năm chúng bán nước ta hai lần cho <br />
Nhật!”. Thậm tệ và tàn nhẫn hơn nữa là trước khi rút chạy “chúng còn nhẫn tâm giết nốt <br />
số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.<br />
<br />
Bằng cách lập luận chặt chẽ, đanh thép, hùng hồn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định <br />
một sự thật lịch sử: Từ năm 1940 trở đi, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ <br />
không phải thuộc địa của Pháp nữa. Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành chính <br />
quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để đập tan luận điệu của Đờ Gồn và <br />
bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu “tái chiếm” Đông Dương, Hồ Chí Minh hùng <br />
hồn tuyên bố: “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ <br />
tay Pháp”.<br />
<br />
“Tuyên ngôn Độc lập” có giá trị lịch sử to lớn. Tác giả chỉ rõ một cục diện chính trị mới: <br />
“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Từ nô lệ, dân ta đã giành được độc lập: <br />
“Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt <br />
Nam độc lập”. Một chế độ mới, một Nhà nước mới ra đời: “Dân ta lại đánh đổ chế độ <br />
quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập chế độ Dân chủ Cộng hòa”.<br />
<br />
Phần tiếp theo là lời tuyên bố sáng ngời chính nghĩa, thể hiện một quyết tâm sắt thép, <br />
không một thế lực thù địch nào có thể lay chuyển nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trên <br />
lập trường dân tộc kêu gọi các nước Đồng minh “công nhận quyền độc lập của nhân dân <br />
Việt Nam”. Đồng thời mạnh mẽ tuyên bố: “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết <br />
những hiệp ước mà Pháp kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp <br />
trên đất nước Việt Nam”. Tác giả tự hào nêu cao truyền thống anh hùng bất khuất chống <br />
thực dân, chống phát xít của dân tộc ta và khẳng định: “Dân tộc đó phải được tự do! Dân <br />
tộc đó phải được độc lập!”.<br />
<br />
Kết thúc bản “Tuyên ngôn Độc lập” là một lời tuyên bố mang ý nghĩa lịch sử như một lời <br />
thề thiêng liêng, thể hiện sâu sắc khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta, biểu thị quyết <br />
tâm và sức mạnh Việt Nam:<br />
<br />
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước do độc <br />
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và <br />
của cải, để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy“.<br />
<br />
Bài số 2:<br />
<br />
Ra đời trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc, các nước Đồng minh <br />
đang tranh giành ảnh hưởng, đòi chia quyền kiểm soát những vùng bọn phát xít từng <br />
chiếm đóng, bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nói với nhân <br />
dân Việt Nam mà còn nói với tất cả thế giới, không chỉ tuyên bố độc lập mà còn mở đầu <br />
cho một cuộc đấu tranh, không chỉ đấu tranh với thực dân Pháp mà còn đấu tranh với bọn <br />
đế quốc, thực dân, phát xít.<br />
<br />
Sau khi khéo léo và kiên quyết xác lập cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế với lập luận chặt <br />
chẽ đầy thuyết phục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời tuyên bố về quyền độc lập dân tộc <br />
và bày tỏ quyết tâm bảo vệ quyền độc lập ấy.<br />
<br />
Ngay trong những ngày Cách mạng tháng Tám sôi nổi, hào hùng, toàn dân náo nức trong <br />
chiến thắng, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã nhận thấy vận mệnh nước ta đang <br />
“ngàn cân treo sợi tóc”. Trong nước, bọn phản động tìm cách ngóc đầu dậy đòi lật đổ <br />
chính quyền cách mạng còn non trẻ. Trên thế giới, bọn đế quốc đang lăm le tiến vào Việt <br />
Nam. Hội nghị Pốtxđam (71945) quyết định: Anh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 <br />
trở vào, Tưởng Giới Thạch từ vĩ tuyến 16 trở ra. Để chuẩn bị cho âm mưu tái chiếm Việt <br />
Nam, thực dân Pháp tung ra trước dư luận thế giới luận điệu xảo trá: Đông Dương là <br />
thuộc địa của Pháp, Pháp có công khai hóa xứ này đương nhiên có quyền trở lại. Chính <br />
tướng Đờgôn đã tuyên bố sẽ tổ chức Đông Dương thành liên bang gồm “5 nước tự trị” <br />
(Lào – Campuchia – Nam Kì – Trung Kì – Bắc Kì). Tất cả được đặt dưới sự chỉ đạo của <br />
quan toàn quyền.<br />
<br />
Bản tuyên ngôn ra đời trong hoàn cảnh đó. Cho nên Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định <br />
quyền độc lập của nước Việt Nam mới mà còn viết một bản luận chiến sắc sảo bác bỏ <br />
và đập tan luận điệu của thực dân Pháp, đánh đòn phủ đầu vào âm mưu tái chiếm Việt <br />
Nam của Pháp và âm mưu can thiệp vào Việt Nam của các nước đế quốc khác, tranh thủ <br />
sự đồng tình rộng rãi của dư luận quốc tế.<br />
<br />
Phần đầu của bản tuyên ngôn, bằng những lí lẽ, lập luận chặt chẽ, sắc sảo, vừa khéo léo <br />
vừa kiên quyết, Hồ Chí Minh đã triệt để phủ nhận quyền dính líu tới Việt Nam của Pháp. <br />
Đó chính là cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế của lời tuyên ngôn. Chủ tịch Hồ Chí Minh <br />
khẳng định nền độc lập của dân tộc Việt Nam bằng ba câu văn hết sức ngắn gọn nhưng <br />
ý nghĩa vô cùng sâu sắc:<br />
<br />
“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.<br />
<br />
Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt <br />
Nam độc lập.<br />
<br />
Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng <br />
hòa.”<br />
<br />
Câu thứ nhất xác nhận sự hết thời của thực dân, phát xít và phong kiến. Câu thứ hai <br />
khẳng định nền độc lập dân tộc. Câu thứ ba khẳng định chính thể mới. Ba câu văn ngắn <br />
gọn, cô đọng, hàm súc gợi mở nhiều lớp nghĩa. Đặc biệt câu thứ nhất, câu văn chỉ có 7 từ <br />
mà gần như gói trọn lịch sử 100 năm chống Pháp của dân tộc, khái quát những sự kiện <br />
lịch sử trọng yếu, gợi được tầm cỡ vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Sự thật lịch <br />
sử được gợi lên với không khí sử thi hoành tráng, không khí vùng lên quật khởi của dân <br />
tộc và sự thảm bại của bọn xâm lược cùng bọn tay sai bán nước. Cùng một lúc, Cách <br />
mạng tháng Tám đã giải quyết cả hai nhiệm vụ: độc lập dân tộc và dân chủ, đưa nước <br />
Việt Nam bước vào kỉ nguyên mới.<br />
<br />
Từ thực tế lịch sử đó, bản tuyên ngôn đi đến tuyên bố lập trường của nước Việt Nam <br />
mới: “Chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu của toàn dân <br />
Việt Nam...”. Lời tuyên bố vang lên dõng dạc, tự hào, xác định tư thế độc lập, tự chủ, xác <br />
định chủ quyền đất nước.<br />
<br />
Tiếp đó là lời tuyên bố với thực dân Pháp. Lời tuyên bố vừa đầy đủ, toàn diện vừa chặt <br />
chẽ, dứt khoát: “tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết các hiệp ước mà <br />
Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt <br />
Nam”. Lời tuyên bố kiên quyết và dứt khoát, âm hưởng câu văn dõng dạc, hùng hồn. Hồ <br />
Chí Minh đã bác bỏ toàn bộ luận điệu xảo quyệt của Pháp trước dư luận thế giới. Hoàn <br />
cảnh lịch sử lúc đó có thể có người nghĩ rằng Việt Nam là thuộc địa của Pháp bị phát xít <br />
Nhật chiếm, nay Nhật hàng, Pháp có quyền trở lại. Điều tuyên bố quan trọng nhất là <br />
tuyên bố về quan hệ với Pháp, xóa bỏ mọi hiệp ước mà Pháp đã kí về Việt Nam. Người <br />
viết dùng chữ “về” chứ không phải chữ “với”. Kí “về” Việt Nam là kí có tính chất áp đặt, <br />
ép buộc, còn kí “với” Việt Nam là kí trên tinh thần hợp tác. Pháp kí “về” Việt Nam là kí <br />
trong tình trạng “ép cung” triều đình nhà Nguyễn. Những từ: “thoát ly hẳn”, “xóa bỏ hết”, <br />
“xóa bỏ tất cả” đã nhấn mạnh một cách kiên quyết, dứt khoát việc cắt đứt mọi sự dính <br />
líu của Pháp tối Việt Nam.<br />
<br />
Tiếp theo là sự ràng buộc các nước Đồng minh vào việc công nhận quyền độc lập của <br />
dân tộc Việt Nam: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận các nguyên tắc <br />
dân tộc bình đẳng ở hội nghị Têhêrăng và Cửu Kim Sơn, quyết không thể không công <br />
nhận quyền độc lập dân tộc Việt Nam”. Những câu văn khẳng định hoặc phủ định của <br />
phủ định có tác dụng mạnh mẽ trong việc buộc các nước Đồng minh phải công nhận và <br />
tôn trọng quyền độc lập dân tộc của Việt Nam. Đó là một lẽ tất yếu không thể khác.<br />
<br />
Không những thế, để tăng sức thuyết phục, bẻ gãy hoàn toàn luận điệu của Pháp, bản <br />
tuyên ngôn nêu lên một thực tế: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn <br />
80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, <br />
dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập. Những câu văn với kết cấu <br />
song hành tạo nên một điệp khúc âm vang vừa hào hùng vừa đanh thép thể hiện thế đứng <br />
và quyền của dân tộc Việt Nam. Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh, hai lần <br />
bán rẻ Đông Dương cho Nhật thì dân tộc Việt Nam đại diện Đồng minh đứng lên chống <br />
Nhật cứu nước và cuối cùng đã giành được chủ quyền từ tay Nhật. Nếu thực dân Pháp <br />
bộc lộ tính cách đê hèn, tàn bạo ở hành động thẳng tay “khủng bố” Việt Minh” thậm chí <br />
đến khi thua chạy chúng còn “tàn nhẫn giết chết số đông tù ở Yên Bái và Cao Bằng” thì <br />
nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo “giúp cho nhiều người Pháp chạy <br />
qua biên giới”, “cứu cho nhiều người Pháp khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tải sản, tính <br />
mạng cho họ”. Đó là truyền thống mà dân tộc ta đã có từ ngày lập nước và Nguyễn Trãi <br />
cũng đã từng nói đến trong Bình Ngô đại cáo.<br />
<br />
Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo. Một dân tộc đã anh <br />
dũng chiến đấu cho độc lập, tự do. Một dân tộc luôn nêu cao lá cờ bác ái, nhân đạo, “Dân <br />
tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” Lời khẳng định hùng hồn như <br />
một chân lý bất di bất dịch. Theo Chế Lan Viên: “Hai lần nhấn mạnh chữ “gan góc”, bốn <br />
lần nhấn mạnh chữ “dân tộc” và hai câu gần như lặp lại theo mẫu “dân tộc đó phải <br />
được…” mang sức nặng như những nhát dao chém đá”.<br />
<br />
Tất cả những lời tuyên bố trên là tiền đề về lí luận cũng như tạo không khí để đưa đến <br />
cao trào, đó là lời tuyên bố cuối cùng, lời tuyên bố trịnh trọng trước thế giới về ba <br />
phương diện của một nước Việt Nam tự do, độc lập:<br />
<br />
– “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập”.<br />
<br />
– “Và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”.<br />
<br />
– “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của <br />
cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.<br />
Hưởng tự do, độc lập không phải chỉ là một cái quyền phải có, không phải chỉ là một tư <br />
cách cần có mà đó là một hiện thực. Lời tuyên bố có ý vị như một lời thề bộc lộ ý chí và <br />
quyết tâm cao độ của dân tộc việt Nam. Câu văn kết lại bản tuyên ngôn cũng chính là mở <br />
ra một thời kì mới, thời kì đấu tranh “toàn dân, toàn diện, trường kì và tự lực cánh sinh” <br />
(Hồ Chí Minh – Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến) để đánh đuổi thực dân Pháp, bảo vệ <br />
chủ quyền đất nước.<br />
<br />
Tóm lại, phần tuyên ngôn cũng như toàn bộ văn bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch <br />
Hồ Chí Minh có giá trị nhiều mặt, có ý nghĩa lịch sử sâu sắc, tiến bộ: chấm dứt chế độ <br />
phong kiến, đánh đổ xiềng xích thực dân, xây dựng một nước Việt Nam mới, mở ra kỉ <br />
nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.<br />
<br />
Nội dung tuyên ngôn đầy đủ, toàn diện, chặt chẽ, dứt khoát. Sức thuyết phục mạnh mẽ <br />
chính là ở tài nghệ chính luận của tác giả, nhưng nguồn gốc sâu xa chính là ở tấm lòng <br />
yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập dân tộc cao cả và khát vọng hòa bình cháy bỏng. Tất cả <br />
những điều đó đã trở thành máu thịt, thành lẽ sống trong tâm hồn, tình cảm, suy nghĩ của <br />
người viết.<br />
<br />
Tuyên ngôn độc lập nói chung, phần tuyên ngôn nói riêng chính là một bản anh hùng ca <br />
của thời đại Hồ Chí Minh. Đó là khát vọng của cả dân tộc. Đó là thành quả đấu tranh <br />
trong gần một thế kỉ của cả dân tộc. Tuyên ngôn Độc lập được viết bằng máu của hàng <br />
triệu người Việt Nam yêu nước đã hi sinh trong cuộc đấu tranh bền bỉ, kiên cường ấy. <br />
Tuyên ngôn còn là sự hun đúc của hồn thiêng sông núi, tiếp nối truyền thống Việt Nam, <br />
bản lĩnh Việt Nam, ý chí và sức mạnh Việt Nam để từ đây mở ra một kỉ nguyên mới <br />
trong lịch sử dân tộc. Thực tế 30 năm chiến tranh gian khổ, bền bỉ, kiên cường, đau <br />
thương mà anh dũng của dân tộc ta chống Pháp, chống Mỹ chính là câu trả lời cho ý chí <br />
sắt đá mà tuyên ngôn của Bác đã vang lên như một lời thề trong giờ phút thiêng liêng, <br />
trọng đại của đất nước.<br />
<br />
Bài số 3:<br />
<br />
Một áng văn nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc – Bác Hồ – vị cha già kính yêu của dân tộc <br />
Việt Nam chính là bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. <br />
Tác phẩm này vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn chương sâu sắc.<br />
<br />
Bản tuyên ngôn có giá trị lịch sử to lớn bởi trước hết nó là một văn kiện lịch sử quan <br />
trọng. Nó là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, là sự khẳng định quyền tự <br />
chủ và vị thế bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son lịch sử mở ra kỉ <br />
nguyên độc lập, tự do trên đất nước ta. Văn kiện lịch sử này không chỉ được đọc trước <br />
quốc dân, đồng bào, mà còn để công bố với thế giới, đặc biệt là những lực lượng thù địch <br />
và cơ hội quốc tế đang mang dã tâm muốn nô dịch nước ta thêm lần nữa. Thời kỳ mà <br />
chúng ta xóa bỏ được những xiềng xích của bọn thực dân phát xít phong kiến, đưa nước <br />
ta sang một trang sử mới, một thời kỳ mới. Thời kỳ chính quyền thuộc về tay nhân dân. <br />
Đó chẳng phải là một sự kiện trọng đại mang tính lịch sử hay sao? Chính vì là một văn <br />
kiện có tầm quan trọng trong một hoàn cảnh đặc biệt như thế mà bản Tuyên ngôn độc <br />
lập đã trở thành áng văn bất hủ và mang tính lịch sử đến thế.<br />
<br />
Vậy còn tính văn chương? Bản Tuyên ngôn độc lập được đánh giá là một áng văn chính <br />
luận đặc sắc, ngắn gọn, súc tích, đầy sức thuyết phục. Với việc trích dẫn hai bản tuyên <br />
ngôn của hai cường quốc Mĩ và Pháp đã giáng đòn cao tay, gậy ông đập lưng ông về phía <br />
chúng. Tất cả những từ ngữ, cách chuyển đoạn cùng với nghệ thuật đặc sắc của bản <br />
Tuyên ngôn đều cho thấy điều đó. Việc lặp cấu trúc cú pháp, sử dụng phương pháp liệt <br />
kê cùng lời lẽ đanh thép đã tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân. Lời lẽ của Người <br />
còn có khả năng tác động mạnh mẽ đến người đọc người nghe. Người có thể khiến <br />
người đọc người nghe dấy lên lòng căm thù chỉ bằng lời văn của mình. Chính phong cách <br />
viết văn chính luận của Bác đã để lại nhiều bài học cho thế hệ cầm bút sau này. Bởi vậy <br />
mà tác phẩm càng có giá trị văn chương hơn.<br />
<br />
Bản Tuyên ngôn độc lập còn là áng văn tâm huyết tràn đầy lòng yêu nước của Người. <br />
Người viết bản Tuyên ngôn mà không chỉ viết bằng lí trí mà còn bằng cả trái tim mình. <br />
Bác đã để lại nhiều bài học văn chương cho nhiều thế hệ cầm bút Việt Nam. Khi cầm <br />
bút phải xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung hình thức để <br />
tác phẩm sâu sắc về tư tưởng, thiết thực về nội dung và phong phú đa dạng về hình thức.<br />
Tóm lại, với “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh, tác phẩm là một áng văn bất hủ, là <br />
một văn kiện lịch sử trọng đại, một áng văn chính luận mẫu mực, thể hiện một tư tưởng <br />
lớn, tình cảm lớn, quyết tâm lớn.<br />
<br />
<br />