intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Chia sẻ: Vũ Phương | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

355
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng cho một thời là lịch sử đau thương vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc. Bài văn cùng là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động..

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

VĂN MẪU LỚP 11 PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC CỦA BÀI VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC BÀI MẪU SỐ 1: Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng thành công được bức tượng đài về những người nông dân yêu nước, những người anh hùng vô danh “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”. Giá trị nghệ thuật hết sức đặc sắc, làm cho bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trở thành bất tử là lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng được bức tượng đài về những người nông dân yêu nước, những người anh hùng vô danh “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”. Bức tượng được đắp xây băng nghệ thuật ngôn từ này có những đường nét về ngoại hình rất nổi, rất đặc thù của người nông dân nghèo mà đầy nghĩa khí không trộn lẫn vào ai khác được: Ngoài cật một manh áo vải. Vũ khí họ mang theo khi ra trận cũng là những công cụ thô sơ, lạc hậu: Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, có khi chỉ là một đoạn gậy gộc: trong tay cầm một ngọn tầm vông. Thế nhưng tinh thần chiến đấu của họ đã tỏa sáng lên bức tượng đài: Đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không. Xô cửa xông vào liều mình như chẳng có. Những đường nét ghi lại hành động chiến đấu của họ thật đẹp, thật khỏe, thật hào hừng. Nét độc đáo tạo nên tinh thần ngoan cường hiếm có kể trên bắt nguồn từ phẩm chất cao cả của người nông dân mặc áo nghĩa quân. Trước khi trở thành nghĩa sĩ, dũng sĩ, họ chỉ là người dân cày chất phác, cần cù, giản dị. Họ có “đôi bàn tay vàng” trong nghề nông: Việc cuốc, việc cày, việc cấy tay vốn quen làm. Họ có đôi mắt hiền lành, ánh lên vẻ đẹp hòa bình của đời sống thường nhật: Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó. Nhưng đối với quân xâm lược lòng căm thù của họ thật sâu sắc: Mùi tinh chiến vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Tinh thần và lòng quyết tâm chiến đấu của họ rực rỡ hào quang của chân lí, chính nghĩa: Hai vầng nhật nguyệt chói lòa đâu dung lũ treo dê bán chó. Những người nông dân anh hùng đã hi sinh trong trận đánh ngày 16-12- 1861 ờ Cần Giuộc sẽ mãi mãi là vô danh như hàng trăm, hàng ngàn người nông dân anh hùng khác đã hi sinh trong các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp cuối thế ki XIX. Nhưng với bức tượng đài hào hùng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã làm cho họ trở thành bất tử. Họ sống mãi trong lâu đài văn chương, văn hóa của nhân dân. Một giá trị nghệ thuật đặc sắc khác của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là nó thực sự trở thành khúc ai ca bi tráng biểu hiện tấm lòng ngưỡng mộ và tiếc thương của cả một dân tộc đốì với những người nông dân yêu nước, những nghĩa sĩ, những anh hùng vô danh này. Nguyễn Đình Chiểu đã viết những câu văn thật xúc động khi khóc thương họ. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo. Ngữ điệu câu văn đọc lên nghe như có tiếng khóc nức nở, tắc nghẹn. Lời khóc tắc nghẹn nên nó mất mát các từ, các tiếng. Đáng ra đầy đủ là phải: Nước mắt khóc người anh hùng lau chẳng hết được có nghĩa là khóc và nước mắt chảy mãi, chảy hoài... Tiếc thương và ngưỡng mộ, Nguyễn Đình Chiểu muốn các nghĩa sĩ không chết. Ông vận dụng cả tiềm thức và tâm linh thể để sáng tạo nên những hình tượng có tính siêu hình, đặng nói cái lẽ vĩnh hằng, bất tử của những người nghĩa sĩ: Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh. Tiếng lòng của Nguyễn Đình Chiểu trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cũng là tiếng lòng của cả một thời đại. Vua Tự Đức đã từng rung động với bài văn tế và cho in phổ biến nó trong các tỉnh ở đồng bào Nam Bộ. Miên Thẩm Tùng Thiện Vương và công chúa Mai Am, những người thuộc hoàng tộc triều Nguyễn cũng có câu thơ biểu hiện sự cộng hưởng, đồng sáng tạo với Nguyên Đình Chiểu: Bồi hồi đọc mãi bản văn ai Phách cứng văn hùng cảm động thay... ... Quốc ngữ một thiên truyền mãi mãi Còn hơn xây cất mộ khô hài. (Thơ của Mai Am công chúa) Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm bất hủ sẽ trường tồn với lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam. BÀI MẪU SỐ 2: I. ĐẶT VẤN ĐỀ – Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà thơ đầu tiên ở Nam Kì sáng tác chủ yếu bằng chữ Nôm. Trong hai gia đoạn sáng tác, ông đều để lại cho đời những tác phẩm có giá trị lớn. – Ở giai đoạn đầu, với hai truyện thơ ngắn tiêu biểu Truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ – Hà Mậu, Nguyễn Đình Chiểu nhằm mục đích truyền dạy những bài học về đạo làm người chân chính. Ở giai đoạn sau, Nguyễn Đình Chiểu đã có những tác phẩm xuất sắc về cả nội dung tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật. Các tác phẩm này thấm đượm lòng yêu nước, thương dân. – Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm tiêu biểu nhất. Tác phẩm không chỉ có nội dung xuất sắc mà còn có nghệ thuật rất đặc sắc. Tìm hiểu các yếu tố nghệ thuật làm nên sự thành công của tác phẩm, chúng ta càng có cơ sở vững chắc để khẳng định điều đó. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Sự xuất sắc về nghệ thuật của tác phẩm trước hết chính là tác giả đã rất thành công khi khai thác triệt để ưu điểm của thể loại văn tế. Văn tế là loại văn gần với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng tiếc thương của tác giả và của người thân đối với người đã mất. Bố cục của bài Văn tế thường có bốn đoạn: đoạn mở đầu (Lung khởi luận chung về lẽ sống chết, thường khởi xướng bằng từ Thương ôi! Hỡi ôi !; đoạn thứ hai (Thích thực), kể công đức, phẩm hạnh, cuộc đời của người đã khuất, thường bắt đầu bằng cụm từ Nhớ linh xư; đoạn thứ ba (Ai vãn) nói lên niềm thương tiếc đối với người đã chết; đoạn thứ tư (Kết) bày tỏ lòng tiếc thương và lời cầu nguyện của người đứng tế. Cũng với khuôn khổ của một bài văn tế nhưng Nguyễn Đình Chiểu không chỉ thể hiện được niềm tiếc thương vô hạn của gia đình đối với người đã khuất mà còn thể hiện một cách sâu sắc niềm tiếc thương của cả một dân tộc dành cho người đã khuất. Không những vậy, niềm đau đớn tiếc thương còn bao trùm cả không gian, cỏ cây, đất trời. Nghĩa là chỉ với những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, ý nghĩa khái quát của bài văn đã được nâng cao. 2. Những yếu tố làm nên sức gợi cảm mạnh mẽ của bài văn tế chính là cảm xúc chân thành, sâu nặng, mãnh liệt thể hiện trong câu chữ. – Tác giả giới thiệu về người nông dân rất cụ thể, chính xác, chân thành: “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tâp khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Đây chính là một trong những nội dung thể hiện tính hiện thực trong tác phẩm. – Khi thể hiện lòng tiếc thương của những người thân giành cho người đã khuất vì dân, vì nước, tác giả đã sử dụng hiệu quả những thán từ. Những thán từ này có tác dụng biểu đạt cảm xúc mạnh mẽ mà sâu lắng: “Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong Lều; não nung thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Đây chính là một trong những ý tạo nên tính trữ tình trong tác phẩm. 3. Yếu tố nghệ thuật góp phần làm nên thành công của tác phẩm còn bởi giọng văn bi tráng, thống thiết, hình ảnh sống động. “Tấc đất, ngọn rau ơn chúa, Sống làm chi theo quân tả đạo…” “Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ…” 4. Yếu tố ngôn ngữ cũng là một thành công của bài văn tế. Ngôn ngữ trong bài văn tế giản dị, dân dã nhưng được chọn lọc tinh tế, có sức biểu cảm lớn và có giá trị thẩm mĩ cao (cui cút; tấc đất; ngọn rau; bát cơm manh áo; chia rượu lạ; gặm bánh mì; mẹ già ngồi khóc trẻ; vợ yếu chạy tìm chồng…) Nhiều biện pháp tu từ sử dụng rất thành công. 5. Giọng điệu cũng góp phần vào thành công của bài văn tế Giọng điệu thay đổi theo dòng cảm xúc: – Đoạn 2: Giọng sôi nổi hào hứng như reo vui cùng chiến thắng của nghĩa quân: “’Đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không”, “xô cửa xông vào liều mình như chẳng có”. – Đoạn 3: Giọng chuyển sang trầm lắng, thống thiết, có lúc như nức nở xót xa, có lúc như kêu thương, ai oán: “Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đỏ”, “Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đen khuya leo lét trong lều; não nung thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế data dờ trước ngõ”. – Đoạn 4: Giọng khẩn nguyện trang nghiêm như một lời khẩn nguyện thiêng liêng. III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ – Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng cho một thời là lịch sử đau thương vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc. Bài văn cùng là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động.. – Học bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta không chỉ thấy được hình ảnh cao đẹp của những người nông dân anh hùng, thấy được sự ngưỡng mộ, tôn vinh của cả dân tộc giành cho họ, ta còn thấy được nét tài hoa của Nguyễn Đình Chiểu trong việc sử dụng loại văn tế, cách sử dụng từ ngữ và cách sử dụng các biện pháp tu từ… để xây dựng nên tượng đài bất tử về họ.

ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2