intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 6 thông qua một số biện pháp nghệ thuật tu từ

Chia sẻ: Khánh Thành | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

32
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là để giúp các em phát huy được năng lực cảm thụ văn học thông qua việc phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật tu từ trong những đoạn văn thơ cụ thể và biết cách vận dụng linh hoạt, thành thạo các biện pháp tu từ trong khi viết bài tập làm văn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát huy năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 6 thông qua một số biện pháp nghệ thuật tu từ

  1.                                        MỤC LỤC   Nội dung Trang Trang bìa Thông tin cá nhân Mục lục    1 1.  PHẦN MỞ ĐẦU     2   1.1 Lý do chọn đề tài     2   1.2. Điểm mới của đề tài.     3   1.3. Phạm vi  đề tài.     3 2. PHẦN NỘI DUNG     4          2.1. Thực trạng dạy và học cảm thụ văn học thông qua việc phân   tích giá trị  biểu cảm của các biện pháp NTTT trong chương trình ngữ      4 văn 6.          2.2. Nguyên nhân của thực trạng      5         2.3. Giải pháp (Nội dung đề tài, SKKN, ...)            6 3. KẾT LUẬN      17   1.Ý nghĩa đề tài      17   2. Những kiến nghị, đề xuất     17 TÀI LIỆU THAM KHẢO     19                                                                                                      1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. 1
  2. Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể  coi mỗi tác phẩm văn học là một viên ngọc sáng trong cuộc sống. Nó bay  bổng tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất  thơ. Vậy làm thế nào cho học sinh mình cảm nhận được chất thơ của cuộc  sống muôn hình vạn trạng đó để các em nói ra, viết ra những điều mà mình  đã học, đã cảm nhận được và tạo nên những tác phẩm nghệ thuật “ bé con  giá trị” ? Tôi nghĩ đó là một việc làm mà mọi thầy cô giáo đang tìm cách đi   nhẹ nhàng và hiệu quả nhất cho riêng mình. Thật vậy qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy việc dạy văn, học văn  đòi hỏi cả người dạy và người học phải nghiên cứu, tiếp thu nó bằng cả trí   óc lẫn tâm hồn. Đặc biệt người thầy giáo phải hướng học sinh đi vào khai  thác, phát hiện những điểm sáng về  nghệ  thuật để  từ  đó cảm nhận được   những cái hay cái đẹp của văn chương, khơi dậy, thắp lên trong các em  ngọn lửa của sự đam mê hứng thú thực sự.  Nhà văn Nguyễn Khải đã viết: “Giá trị  của một tác phẩm nghệ  thuật   trước hết là  ở  giá trị  tư  tưởng của nó. Nhưng phải là tư  tưởng đã được   rung lên  ở  các cung bậc tình cảm chứ  không phải là cái tư  tưởng nằm đơ   trên trang giấy” Có thể  thấy việc khai thác, phân tích giá trị  của các biện pháp nghệ  thuật tu từ  là một trong những phương pháp giúp học sinh cảm thụ  tác  phẩm văn học một cách tốt nhất. Từ  việc nắm bắt lí thuyết đến quá trình  vận dụng trong từng bài tập cụ  thể  sẽ  giúp học sinh phát huy tối đa và có   hiệu quả việc cảm thụ văn học qua những đoạn thơ, đoạn văn cụ thể. Nói đến biện pháp nghệ  thuật tu từ  đó là phạm vi khá rộng rãi và các  em đã được làm quen ở bậc tiểu học như so sánh, nhân hóa…Tuy vậy ở tiểu  học các em chỉ  mới dừng lại  ở  mức độ  phát hiện, nhận diện chúng thông   qua một số ví dụ  cụ  thể chứ chưa biết vận dụng vào phân tích giá trị  biểu   cảm của các biện pháp nghệ  thuật tu từ  để  viết nên những đoạn văn, bài  văn hay. Chính vì vậy hầu hết các em thường lệ thuộc nhiều vào những bài  văn mẫu, bài viết của các em thường mang tính rập khuôn, thiếu tư  duy,   sáng tạo, thiếu dấu ấn cá nhân.  Bước vào lớp 6 là lớp đầu cấp, các em còn nhiều bỡ  ngỡ  với phương  pháp học  ở  THCS đặc biệt là việc tiếp cận phương pháp học tập bộ  môn   Ngữ văn hoàn toàn mới so với tiểu học.  Là một giáo viên nhiều năm liền  được được phân công dạy lớp đầu  cấp tôi nhận thấy: Đa số  các em nắm các biện pháp tu từ  chưa chuẩn xác,   còn bị  nhầm lẫn giữa các phép tu từ  với nhau dẫn đến hiểu sai, vận dụng  sai.  Một số em khả năng vận dụng, phân tích giá trị của các biện pháp nghệ  thuật tu từ trong một số đoạn thơ, đoạn văn còn nhiều hạn chế. Nhiều em  trong quá trình viết bài tập làm văn hầu như các em rất ít khi sử dụng biện   pháp nghệ  thuật tu từ  vào bài viết. Chính vì thế  bài văn thường rất khô  2
  3. khan, các hình ảnh, sự vật được đề cập đến còn đơn điệu tẻ nhạt, thiếu sức   thuyết phục. Để  giúp các em phát huy được năng lực cảm thụ  văn học thông qua  việc phân tích giá trị  của các biện pháp nghệ  thuật tu từ  trong những đoạn   văn thơ cụ thể và biết cách vận dụng linh hoạt, thành thạo các biện pháp tu  từ trong khi viết bài tập làm văn, giúp các em học tốt hơn bộ môn Ngữ văn 6  tôi mạnh dạn xây dựng đề  tài có nội dung: “ Phát huy năng lực cảm thụ   văn học cho học sinh lớp 6 thông qua một số biện pháp nghệ thuật tu từ   ”. 1.2. Điểm mới của đề tài: Trong những năm gần đây, cùng với sự  phát triển mạnh mẽ  của khoa  học công nghệ, sự  bùng nổ  của công nghệ  thông tin trên phạm vi toàn cầu   đang đặt loài người hòa trong xu hướng phát triển của nền kinh tế mới, nền   kinh tế tri thức và một xã hội mới  ở  tầm cao hơn dựa vào nguồn thông tin   và tri thức.Vì lẽ đó mà cải cách giáo dục luôn là đòi hỏi cấp bách nhằm tạo  ra những con người tài năng, trí tuệ. Vấn đề cốt lõi của cải cách giáo dục là  đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy. Trong đó đổi   mới phương pháp dạy học là yếu tố quyết định đến sự thành công của một  giờ học, tạo niềm hứng thú, say mê cho học sinh. Đã có rất nhiều đề  tài nói về  phương pháp giảng dạy các biện pháp  nghệ thuật tu từ trong bộ môn Ngữ văn song chủ yếu thiên về khai thác các  khái niệm tu từ  và các dạng bài tập chung chung chưa đi sâu vào phân tích   giá trị biểu đạt, vận dụng các biện pháp NTTT vào tìm hiểu và tạo lập văn  bản nên học sinh còn mơ hồ, chưa viết được đoạn văn, bài văn cảm thụ. Điểm  mới   của  đề  tài  tôi  đang  nghiên  cứu  là   ở   chổ:  Tôi  vận  dung  phương pháp dạy văn theo quan điểm tích hợp, tức là trong quá trình dạy   học sinh phân tích giá trị  của các biện pháp nghệ  thuật tu từ    tôi kết hợp  chặt chẽ   ở ba phân môn văn­ tập làm văn­ tiếng việt. Trên cơ  sở  vừa cung  cấp cho học sinh một số  tri thức về tiếng việt (các từ  loại, các biện pháp  NTTT..) vừa rèn  cho các em khả  năng tư  duy theo hướng nhận thức,  rèn  năng lực thực hành như: vận dụng các biện pháp tu từ  vào viết đoạn văn,   phát huy khả năng cảm thụ thơ, văn, phân tích, bình giảng văn học qua phân   môn đọc hiểu văn bản. Đồng thời bồi đắp cho các em năng lực viết bài tập   làm văn theo hướng sáng tạo, hiểu và cảm thụ  văn học một cách sâu sắc  hơn. Việc áp dụng phương pháp mới này trong dạy học của bản thân và  đồng nghiệp đã có nhiều sự thay đổi theo chiều hướng tích cực. 1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài . Việc khai thác các biện pháp NTTT trong chương trình Ngữ văn ở bậc  THCS chiếm một vị trí rất quan trọng, nội dung đa dạng, phong phú. Song   trong điều kiện thời gian có hạn, với đề  tài này tôi chỉ  nghiên cứu trong   3
  4. phạm vi kiến thức các biện pháp NTTT (so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ))   ở chương trình Ngữ văn lớp 6. Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng nghiên cứu thực hiện tại lớp  6A,B trường THCS nơi tôi đang trực tiếp giảng dạy.                                                                                              2. NỘI DUNG 2.1. Thực trạng trong việc dạy và học cảm thụ văn học thông qua  các biện pháp nghệ thuật tu từ trong chương trình Ngữ văn lớp 6.          Nhìn một cách bao quát, việc dạy học bộ môn Ngữ văn ở lớp đầu cấp  hiện nay  ở nhà trường chúng tôi đã có một số  chuyển biến khá tích cực so  với những năm trước đây. Chất lượng giờ lên lớp, chất lượng chấm bài đã   có những tiến bộ nhất định. Đặc biệt một bộ phận giáo viên­ nhất là những  người vừa có trình độ, vừa có tâm huyết với nghề đã có ý thức tìm tòi, thể  hiện phương pháp giảng dạy mới và ít nhiều họ  đã gặt hái được những   thành quả bước đầu rất đáng trân trọng. Bên cạnh đó các em học sinh lớp 6 nhìn chung rất ngoan, biết nghe lời,   có ý thức xây dựng nề nếp học tập tốt. Tuy vậy để nhìn nhận một cách thấu đáo việc dạy học và tiếp cận bộ  môn Ngữ văn lớp 6, đặc biệt là phương pháp rèn kĩ năng  cảm thụ văn học  cho học sinh thông qua các biện pháp nghệ thuật tu từ, tôi nhận thấy trong  quá trình dạy học vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Cụ thể là: 2.1.1. Về phía giáo viên: Trong các tiết dạy đọc hiểu văn bản, khi phân tích các tác phẩm văn  học giáo viên chỉ  tập trung phân tích nội dung văn bản một cách khô khan,   cứng nhắc mà  ít chú  trọng  đến mặt hình thức nghệ  thuật nên học sinh   thường hiểu một cách máy móc theo kiểu diễn nôm. Các em chưa tìm ra  được “điểm sáng” mà tác giả  muốn đề  cập đến trong tác phẩm. Và không  hiếm những trường hợp người dạy đã phụ công tìm tòi, sáng tạo của tác giả  bằng cách qui tất cả  cái hay, cái đẹp, muôn hình vạn trạng  ở  nhiều tác   phẩm thành những nhận định chung chung, nhàm chán theo lối “đồng phục   hóa bài giảng” .   Ngược lại khi dạy các tiết về  biện pháp tu từ  giáo viên thường chỉ  quan tâm đến những khái niệm mang tính lí thuyết, chưa phân biệt rõ việc  phân tích tác dụng nghệ  thuật với việc gọi tên các biện pháp nghệ  thuật;   không nhận thức đầy đủ rằng cho dù gọi đúng tên các biện pháp nghệ thuật   thì việc  ấy cũng chẳng có giá trị  đáng kể  một khi chưa phân tích và chỉ  ra   được các biện pháp nghệ thuật đó đã giúp tác giả thể hiện sâu sắc nội dung  như  thế  nào. Đặc biệt nhiều giáo viên ít cho học sinh thực hành bằng cách   vận dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ vào đặt câu, viết đoạn văn. Ngoài   4
  5. ra trong các tiết dạy tập làm văn giáo viên ít khi định hướng cho học sinh   vận dụng các biện pháp NTTT đã được học vào viết bài. Do vậy bài viết   TLV của các  em thường rất khô khan, thiếu sáng tạo chưa phát huy được  năng lực cảm thụ văn học của học sinh. Bên cạnh đó vẫn còn một số  giáo viên dạy học theo lối thuyết trình,   giờ dạy trầm, giáo viên nói nhiều, học sinh làm ít, giáo viên chưa có sự đầu  tư về giờ dạy, bài soạn. Chính vì vậy chưa phát huy được bản chất sáng tạo  của việc giảng dạy theo tinh thần đổi mới. 2.1.2.Về phía học sinh: Khi tìm hiểu cụ thể từng đối tượng học sinh, tôi nhận thấy: Đa số học  sinh chưa yêu thích môn văn, hiểu tác phẩm văn học không sâu sắc. Giờ học  văn luôn trở thành nỗi lo sợ, nặng nề về mặt tâm lí ở một số học sinh. Hầu hết năng lực cảm thụ  văn học của các em còn nhiều hạn chế,   việc nắm bắt, nhận diện các biện pháp nghệ thuật tu từ còn nhầm lẫn dẫn   đến việc hiểu sai hoặc hiểu chưa rõ về  giá trị  nghệ  thuật cũng như  nội   dung của các phép tu từ. Đặc biệt khả năng vận dụng các kiến thức đã học  về biện pháp NTTT vào việc  phân tích ý nghĩa văn bản và tạo lập một số  đoạn văn, bài văn còn gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ. Nhiều em vốn từ  nghèo, kĩ năng diễn đạt vụng về, lười suy nghĩ, lệ  thuộc nhiều vào sách tham khảo, vào các bài văn mẫu. Một số em thiếu ý thức học tập, chưa xác định được động cơ  học tập   rõ ràng, việc học bài và làm bài còn qua loa, đối phó. Một số em do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên điều kiện học tập còn  nhiều thiếu thốn cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giờ dạy. Dẫu biết rằng “có bột mới gột nên hồ” nên ngay từ khi nhận lớp tôi đã  tiến hành phân loại đối tượng học sinh. Kết quả khảo sát chất lượng và yêu  thích môn văn của học sinh vào đầu năm của học sinh như sau: a. Học sinh yêu thích môn học Yêu thích: 25% Bình thường:  32,21% Không   thích:  42,79%            b. Kết quả khảo sát chất lượng : Kết quả TT Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % 1 6a 35 02 5,7 10 28,6 15 42,9 08 22,8 2 6b 36 01 2,8 09 25,0 16 44,4 10 27,8 Tổng 71 03 4,2 19 26,8 31 43,7 18 25,4 5
  6.      Nhìn vào số liệu khảo sát năng lực cảm thụ văn học của học sinh tôi thật   sự  lo lắng bởi vì hầu như  các em còn rất bỡ  ngỡ  với kiểu bài này. Các em   chỉ  quen với việc trả  lời những câu hỏi có tính gợi mở  mà chưa quen với  những câu hỏi có tính khái quát, trừu tượng. Do vậy suy nghĩ còn nông cạn   dẫn đến bài viết tản mạn, khô khan, có khi sai lệch hẳn ý nghĩa của bài. 2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên Qua tìm hiểu học sinh cũng như các đồng nghiệp trên địa bàn huyện tôi  nhận thấy: Sở dĩ có thực trạng trên là do một số nguyên nhân sau: Việc chuyển giao học sinh  ở  bậc tiểu học lên THCS là cả  một quá  trình hết sức khó khăn và phức tạp.  Ở  bậc tiểu học khả  năng tư  duy của  học sinh mới dừng lại ở mức độ đơn giản, trực quan nên năng lực cảm thụ  văn học của các em còn nhiều hạn chế. Bước vào lớp 6, các em được tiếp  xúc với nhiều khái niệm trừu tượng hơn đòi hỏi phải có cách viết, cách nghĩ  “già dặn”, sinh động hơn so với ở tiểu học. Điều này không phải ngày một   ngày hai là làm được. Thực tế, ở tiểu học các em đã quá quen với việc thực  hành viết dạng văn bản mẫu và tái tạo văn bản tương tự mẫu. Cho nên việc  sáng tạo một văn bản nghệ thuật đối với các em học sinh lớp 6 là một việc  làm khó khăn và ít có hứng thú. Hơn nữa việc say mê đọc tư liệu văn học của các em học sinh bây giờ  quả  là ít ỏi. Có em hầu như không hề đọc một tài liệu nào, ngay cả những   văn bản trong SGK. Có lẽ  những thông tin hiện đại như  hoạt hình, truyện  tranh..dịch vụ internet lan tràn (game, chat) đã cuốn hút giới trẻ như một cơn  lốc. Điều đó đương nhiên làm nghèo nàn vốn ngôn từ  nghệ  thuật quý giá   của văn học trong mỗi học sinh. Mặt khác chất lượng đội ngũ giáo viên chưa thực sự đồng bộ, chưa có   phương pháp giảng dạy một cách hiệu quả  nhất cho nên trong các giờ  học  chưa  tạo được hứng thú cho các em. Hơn nữa một số  giáo viên chưa thực   sự  tâm huyết với nghề, thiếu sự  đầu tư  cho bài dạy nên chưa khơi dậy   được mạch nguồn cảm xúc sau mỗi bài học, chưa truyền được ngọn lửa  đam mê văn chương đến trái tim người học.  Một nguyên nhân khách quan khác là do sĩ số lớp học khá đông nên rất  khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp từng đối tượng học sinh trong  một tiết dạy. Bên cạnh đó do trường học nằm trên địa bàn thuộc vùng khó khăn, đa  số các em đều là con gia đình thuần nông nên ngoài giờ học trên lớp các em  còn phải phụ giúp gia đình vì thế phần nào ảnh hưởng đến chất lượng học   tập.          2.3. Giải pháp         2.3.1.Trau dồi hứng thú cho học sinh khi tiếp xúc với văn thơ. Trước hết để  giúp các em cảm thụ tốt văn học người  thầy giáo phải  làm cho học sinh có hứng thú và niềm say mê học văn. Không yêu thích văn   học thì tâm hồn người học sinh không thể  rung động được trước vẻ  đẹp   6
  7. của ngôn từ, vẻ  đẹp tâm hồn nhà văn. Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với   thơ  văn chính là giúp các em tự  rèn luyện mình để  có nhận thức đúng, tình  cảm đẹp, từ đó đến với văn học một cách tự giác và say mê. Khi gặp bất kì   tác phẩm văn học nào tự   bản thân các em sẽ  phải trăn trở, suy tư  và luôn   hướng tâm hồn, tình cảm của mình đến với tác phẩm. Để  làm tốt điều này   đòi hỏi mỗi giáo viên qua từng bài giảng cần có giọng đọc diễn cảm, lời   bình hay và luôn luôn đổi mới phương pháp dạy học để  lôi cuốn học sinh   vào những áng văn thơ, làm cho các em thích được tiếp xúc và gần gũi với  văn thơ.  2.3.2. Bồi dưỡng vốn ngôn ngữ Muốn cảm thụ văn học tốt học sinh phải có vốn ngôn ngữ. Vốn ngôn  ngữ  bao gồm  sự  hiểu biết  giá trị  của  âm, từ  ngữ, hình  ảnh, câu, thanh  điệu…Bởi ngôn ngữ  chính là phương tiện, dụng cụ  để  hiểu, cảm thụ  viết  văn. Học sinh càng giàu vốn ngôn ngữ   càng có khả  năng cảm thụ  sâu sắc  hơn vẻ  đẹp của câu, chữ, càng thấy được cái khéo, cái hay, cái tài của nhà   văn. Muốn phong phú vốn từ giáo viên cần hướng dẫn cho các em phải biết  tích lũy ngôn ngữ từ việc đọc, nghe, nói và có thói quen ghi nhớ để bổ sung   vốn từ. Từ  đó khi cần sẽ  biết sử  dụng, lựa chọn để  hiểu, để  cảm nhận   được ngôn từ mà nhà văn đã dùng.  Ví dụ  trong bài thơ  “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ  Huy Cận có  câu: “ Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Chữ “ em” trong câu thơ quả là thần kì. Ở đây ta có thể hiểu “em” là   từ dùng với phép nhân hóa để chỉ các loài cá: Nhụ, chim,  đé. Cách gọi thân  thương, gần gũi này đã nâng loài cá lên thành con người có tâm hồn và tình  cảm. Phép nhân hóa làm cho câu thơ  có hồn và có sức hấp dẫn kì lạ. Giữa   con người và biển cả trở nên thân thiết và gắn bó biết bao.     Do vậy nếu không có vốn ngôn ngữ  chắc gì chúng ta thấy được cái hay,   cái đặc sắc của thơ văn. 2.3.3. Tích lũy vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học. Cảm thụ văn học là quá trình nhận thức có  ảnh hưởng bởi vốn sống  của mỗi người. Cảm thụ  văn học diễn ra  ở  mỗi người không hoàn toàn  giống nhau do nhiều yếu tố như: Vốn sống, vốn hiểu biết, năng lực và trình  độ  kiến thức, yếu tố  di truyền…Tình cảm và thái độ  khi tiếp xúc với văn  học được thể hiện qua hoạt động và quan sát cuộc sống hằng ngày. Trong các giờ học bộ môn Ngữ văn đòi hỏi người giáo viên phải luôn  luôn chú ý đến việc liên hệ thực tế cuộc sống với văn học giúp các em hình  thành được kĩ năng vận dụng thực tế cuộc sống với văn học, đồng thời qua   đó giúp các em tích lũy được vốn hiểu biết về  thực tế  cuộc sống với văn  học. Nhớ  lại quãng đời học văn tuổi nhỏ, giáo sư  Lê Trí Viễn đã rút ra   nhận xét quí báu: “Trong thơ  văn hay chữ  nghĩa ngoài cái gọi là nội dung   7
  8. giao tiếp thông thường của nó, còn có vốn sống của cuộc đời nghìn năm   bồi đắp lại”. Do vậy bên cạnh vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống, các em còn cần  tích lũy cả  vốn hiểu biết về  văn học thông qua việc đọc sách báo thường   xuyên. Từ đó giúp các em mở rộng tầm nhìn cuộc sống, khơi sâu những suy   nghĩ và cảm xúc, góp phần khơi dậy năng lực cảm thụ văn học.   2.3.4. Rèn kĩ năng nhận biết và phân tích tác dụng của các biện pháp   NTTT trong một số đoạn thơ, văn. Một trong những biện pháp giúp học sinh có năng lực cảm thụ văn học   tốt là giúp các em nhận biết được các biện pháp nghệ  thuật tu từ  và tác   dụng của nó trong các tác phẩm văn học. Các biện pháp NTTT thường gặp   trong các bài văn, bài thơ ở chương trình Ngữ văn lớp 6 đó là : So sánh, nhân   hóa, ẩn dụ, hoán dụ. Để  cảm thụ  văn học thông qua việc khai thác, phân tích giá trị  biểu  cảm của các biện pháp NTTT trong một số bài, đoạn văn, thơ cụ thể đòi hỏi  học sinh thực hiện tốt các yêu cầu sau đây: Hiểu được khái niệm, cấu tạo về  các biện pháp NTTT (So sánh, nhân  hóa, ẩn dụ, hoán dụ). Phát hiện những tín hiệu nghệ  thuật được tác giả  thể  hiện trong bài  văn, bài thơ. (các từ ngữ, hình ảnh tiêu biểu, đặc sắc). Thông qua hệ thống   câu hỏi xoáy vào trọng tâm nội dung cần khai thác giúp học sinh nhận diện   đúng những biện pháp nghệ  thuật tu từ  được sử  dụng.   Để  làm tốt được  điều đó tôi hướng dẫn các em cần:  ­ Đọc kỹ đề bài, nắm chắc yêu cầu của bài tập, biết đặt ra những câu   hỏi như: Bài này yêu cầu gì ? Cần nêu bật được cái gì ?  ­ Hệ  thống câu hỏi phải gợi được cảm xúc, gợi liên tưởng, phát huy  trí tưởng tượng của học sinh. Giáo viên cần thoát khỏi các câu hỏi tìm hiểu  bài trong sách giáo khoa, phải chủ  động sáng tạo, tìm tòi để  đặt ra những   câu hỏi khơi gợi học sinh tìm hiểu về vần điệu, từ ngữ, hình ảnh, nhân vật,   hành động... trong từng bài học.  ­ Đọc và hiểu về câu thơ, câu văn hoặc đoạn trích được nêu trong đề  bài.  (Dựa vào yêu cầu cụ thể của bài tập để tìm hiểu. Ví dụ: Cách dùng từ, đặt  câu; cách dùng hình ảnh chi tiết; cách sử dụng biện pháp tu từ như so sánh,  nhân hoá, ẩn dụ… đã giúp em cảm nhận được nội dung, ý nghĩa gì đẹp đẽ,  sâu sắc.)      a, Phép tu từ so sánh. ­ Trước hết tôi cho các em hiểu thế  nào là nghệ  thuật so sánh rồi  hướng cho các em tìm, nêu những câu văn hoặc thơ có sử  dụng nghệ  thuật   so sánh.  So sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét   tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. 8
  9. Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện phép so sánh thông qua  cấu trúc cụ thể của nó. Mỗi dạng cấu trúc giáo viên hướng dẫn học sinh tìm  nhanh một ví dụ để minh họa. ví dụ 1                         “ Quê hương là chùm khế ngọt                                  Cho con trèo hái mỗi ngày…”  + Học sinh xác định được : Biện pháp nghệ thuật được sử  dụng trong  câu thơ trên là : Nghệ thuật so sánh  Hình ảnh so sánh : Quê hương (là) chùm khế ngọt   + GV định hướng cho sinh cảm nhận được: Quê hương là cái trừu   tượng được so sánh với chùm khế ngọt, là hình ảnh quen thuộc, gần gũi với   làng quê, gắn bó với con người Việt Nam. Đặc biệt là gắn liền với những  kĩ niệm của thời thơ ấu mỗi người. Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã biến cái vô  hình thành cái hữu hình. Một sự  so sánh bề  ngoài thì “ nổi” thì “ ngang  bằng” nhưng thực ra lại là “ chìm”, là “ không ngang bằng”. Quả  thật quê  hương là tất cả, mỗi người có thể cảm nhận về quê hương theo những cảm  xúc, kí  ức riêng. Qua đó cho ta thấy hình  ảnh quê hương trong tâm trí của  người Việt nam nói chung và trong lòng nhà thơ  nói riêng   luôn gần gũi,  thanh bình và không bao giờ quên được.  ví dụ 2:  “ Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp   thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa   ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh, hùng vĩ” + Học sinh xác định được : Biện pháp nghệ thuật được sử  dụng trong  câu thơ trên là : Nghệ thuật so sánh  Hình ảnh so sánh :           Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc… Dượng Hương Thư  giống như  một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh, hùng   vĩ. + GV định hướng viết đoạn văn cảm thụ: Hình  ảnh dùng để  so sánh  này gợi cho người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp thể chất khỏe mạnh, rắn rỏi   và sự dũng mãnh, quả cảm của dượng Hương Thư như một người anh hùng  khi vượt thác. Có thể coi đây là hình ảnh so sánh đẹp nhất, độc đáo nhất góp   phần đề cao sức mạnh của con người lao động trên sông nước miền Trung   đồng thời vừa biểu hiện tình cảm quý trọng của tác giả  đối với người lao   động trên quê hương của mình. Và thông qua hình ảnh dùng để so sánh này   ta cũng thấy được dụng ý của nhà văn : Ở ngoài đời dượng Hương Thư nói   năng nhỏ nhẹ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng, dạ dạ nhưng khi vượt  thác, dượng trở  thành một con người hoàn toàn khác. Phải chăng, khi cần  vượt qua thử  thách, con người Việt Nam vốn bình thường trong cuộc sống  bổng lớn dậy với vẻ đẹp phi thường.  Tiếp đến giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập thực hành:  * Bài tập: Hãy chỉ ra cái đúng, cái hay của sự so sánh trong mỗi câu thơ sau:               1. Trẻ em như búp trên cành  9
  10. Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan    (Hồ Chí Minh)                   2. Bà như quả ngọt chín rồi        Càng thêm tuổi tác, càng tươi lòng vàng.    (Võ Thanh An)                                                                       * Học sinh làm bài  ­ Học sinh đọc kĩ đề bài.    ­ GV đọc và chép đề bài lên  ­ Chỉ ra cái đúng, cái hay của  so  bảng.             sánh.      ­ Bài yêu cầu ta chỉ ra cái gì?  ­ Trẻ em­ búp trên cành.    Trẻ em và búp non đều đang lớn,  ­ Câu 1 tác giả so sánh cái gì với   đang phát triển. Hình ảnh đưa ra  cái  gì?  So sánh như vậy đúng ở  làm chuẩn để so sánh (búp trên  chỗ nào?  hay ở chỗ nào? cành) rất đẹp và ý nghĩa, giúp ta  liên tưởng đến trẻ em chan chứa    hy vọng.      ­ Ở câu 2 tác giả so sánh bà với  ­ Bà ­ quả ngọt chín  gì?    Bà và quả ngọt đều có lâu     ­ So sánh ấy đúng và hay ở chỗ  rồi, già rồi. Hình ảnh đưa ra làm  nào?  chuẩn để so sánh (quả ngọt chín    rồi) giúp ta liên tưởng đến hình  ảnh bà rất đáng quý có ích cho  cuộc sống.       * Giáo viên sửa chữa, uốn nắn cho học sinh:   Ví dụ: Bằng nghệ thuật so sánh giúp ta hiểu kĩ và hiểu sâu hơn đối tượng   đem so sánh. Đối tượng đem so sánh ở hai câu trên là hoàn toàn đúng và hay.  Đúng vì : "trẻ em" và "búp trên cành" đều là những sự vật còn non nớt, đang  phát triển. "Bà" và "quả ngọt chín rồi" đều là những sự vật phát triển đến độ  già dặn, có giá trị cao. Hay vì:  Hình ảnh đưa ra làm chuẩn để so sánh "búp trên cành" là hình ảnh  rất đẹp, còn non nớt, đang phát triển, đáng được nâng niu, giúp ta liên tưởng   tới "trẻ em" đầy sức sống, chứa chan hy vọng.  Hình ảnh đưa ra làm chuẩn so sánh "quả ngọt chín rồi" rất đáng quý, có giá  trị cho cuộc sống, giúp ta có những liên tưởng đẹp và giàu ý nghĩa về "bà" có  tấm lòng thơm thảo, đáng quý,đáng trân trọng.        Từ đó giáo viên định hướng cho các em  khi so sánh, cần biết lựa chọn  những sự vật, hình ảnh quen thuộc, gần gũi, sẽ có tác dụng gợi hình ảnh để  cho lời nói hay câu văn thêm sinh động hơn. Đồng thời giáo dục các em biết   vận dụng biện pháp  so sánh vào viết văn miêu tả làm cho câu văn, bài văn   hay và sáng tạo .    b, Phép tu từ nhân hóa Giúp các em hiểu nghệ thuật nhân hóa là gì? Biết tìm những câu văn, thơ có  sử  dụng nghệ  thuật nhân hóa. Từ  đó hiểu được tác dụng của việc sử  dụng  từ  nhân hóa trong văn, thơ. Nhân hoá là gọi hoặc tả  con vật, cây cối, đồ  10
  11. vật,..bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người; làm cho  thế  giới loài vật, cây cối, đồ  vật,..trở  nên gần gũi với con người, biểu thị  được những suy nghĩ, tình cảm của con người. Ví dụ :    Cho đoạn thơ :                  “ Rừng mơ ôm lấy núi                    Mây trắng đọng thành hoa                    Gió chiều đông gờn gợn                    Hương bay gần bay xa.”                                                   ( Rừng mơ­ Trần Lê Văn.) Hãy nêu những cảm nhận của em về vẻ đẹp của rừng mơ Hương Sơn được   gợi tả trong đoạn thơ trên.  + Học sinh xác định được :  Nghệ thuật được sử dụng : Nghệ thuật nhân hóa  Hình ảnh nhân hóa : ôm lấy núi. + GV định hướng học sinh cảm nhận được :  Rừng mơ bao quanh núi được nhân hóa (ôm lấy núi) cho thấy sự  gắn  bó gần gũi, thân mật và thắm đượm tình cảm của cảnh thiên nhiên. Hoa mơ  nở trắng như mây trên trời đọng (kết) lại. Gió chiều đông nhè nhẹ (gờn gợn)  đưa hương hoa mơ lan tỏa đi khắp nơi.  Có thể nói, đoạn thơ  trên đã vẽ  ra bức tranh thiên nhiên mang vẽ đẹp  của   đất   trời   hòa  quyện   trong  rừng   mơ   Hương   Sơn   mà   thắm   đượm   tình  người.  Bài tập: GV hướng dẫn học sinh cảm thụ nâng cao bằng những đoạn  văn, bài văn có sử dụng nghệ thuật nhân hóa. Đề  bài : Tìm và phân tích giá trị  biểu cảm của biện pháp tu từ  trong đoạn   thơ:      “Vươn mình trong gió tre đu Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm Bão bùng thân bọc lấy thân Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm Thương nhau tre chẳng ở riêng Lũy thành từ đó mà nên hỡi người”                                                         (Tre Việt Nam – Nguyễn Duy) Yêu cầu trả  lời: Phát hiện được biện pháp nghệ  thuật tu từ  nhân hóa,  chỉ  ra được các từ  ngữ, hình  ảnh nhân hóa đặc sắc sau đó phân tích giá trị  biểu cảm của các hình ảnh được nhân hóa và hình thành một đoạn văn hoặc   bài văn cảm thụ.     * Học sinh làm bài: Đoạn thơ trên hình ảnh cây tre được nhân hóa. Tác giả  dùng những từ  ngữ  vốn chỉ hoạt động, tính cách của con người để  gán cho  loài tre (vươn mình, kham khổ, hát,yêu,ôm, níu, thương…) do vậy tre hiện lên  11
  12. trong đoạn thơ thật sinh động, mang những nét tính cách, hành động và phẩm   chất đáng quý của con người Việt Nam.     * GV sửa chữa, uốn nắn cho học sinh:  Cả   đoạn   thơ   được   sử   dụng   biện   pháp   nghệ   thuật   nhân   hóa   sinh   động.Tre là loài vật vô tri, vô giác vậy mà có nghị  lực rất lớn trong cuộc   sống, rất mạnh mẽ, lạc quan, yêu đời như  con người Việt Nam. Tre biết “  vươn mình” trong gió, vươn cao để  đón nhận ánh sáng bầu trời. Nó không   chịu khuất phục trước bất cứ  sức mạnh nào. “Tre xanh không đứng khuất  mình bóng râm”. Nó yêu bầu trời biết bao nhiêu, bầu trời trong xanh, hiền  hòa sắc nắng, nó vươn lên đầy ý chí và tạo cho mình một ý chí hiên ngang,  bất khuất.   Cuộc sống còn kham khổ, đạm bạc nhưng không thể  át được  niềm vui, niềm lạc quan trong cuộc sống “cây kham khổ vẫn hát ru lá cành”.  Tiếng gió vi vu, tiếng sáo diều rộn rã hay đó chính là tiếng hát ngợi ca cuộc   sống thanh bình. Tre vẫn đứng đấy hiên ngang và bất khuất, dù cho gió táp,  mưa sa, dù cho gió giật bão bùng, tre vẫn đoàn kết, gắn bó bên nhau “tay ôm  tay níu tre gần nhau thêm”.  Từ tình yêu thương gắn bó đoàn kết tre trở thành bức tường thành vững  chắc bảo vệ quê hương.  Như vậy chỉ bằng một đoạn thơ ngắn Nguyễn Duy đã thổi linh hồn con  người vào cây tre, làm cho nó hiện lên như  những con người thực thụ mang   những nét phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam.   Dù cuộc sống  nghèo nàn, lạc hậu, bị  chiến tranh tàn phá nhưng người Việt Nam vẫn lạc   quan, yêu đời, kiên trung, dũng cảm, đoàn kết, sát cánh bên nhau chống lại kẻ  thù, bảo vệ  Tổ  quốc. Bài thơ  được viết trong những ngày chống Mỹ  sôi   động như  một tiếng nói bình tĩnh, lạc quan, khẳng định tư   thế  chiến thắng   của con người Việt Nam trước mọi thử thách của kẻ thù.   Từ ví dụ  đó, giáo viên định hướng cho các em  khi  sử dụng nghệ thuật  nhân hóa hợp lý sẽ tạo cho sự vật vô tri trở nên sinh động, gợi hình ảnh biểu  cảm . Qua đó giáo dục các em biết  vận dụng biện pháp  nhân hóa vào viết  văn miêu tả làm cho câu văn, bài văn  hay và sáng tạo hơn.      c, Phép tu từ ẩn dụ  Giúp các em hiểu thế nào là nghệ thuật ẩn dụ. Biết tìm những câu văn, thơ  có sử dụng nghệ thuật  ẩn dụ. Từ đó hiểu được tác dụng của việc sử  dụng   phép tu từ ẩn dụ  trong văn, thơ. ­  Ẩn dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác  có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.      Ví dụ :                  “Thuyền về có nhớ bến chăng                       Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”  + Học sinh xác định được :  Nghệ thuật được sử dụng : Nghệ thuật ẩn dụ  Hình ảnh ẩn dụ : Thuyền và bến  (Thuyền: Tượng trưng cho người con trai luôn đi xa.  12
  13. Bến : Tượng trưng cho người con gái luôn thủy chung đợi chờ.) + GV định hướng học sinh cảm nhận được: Tình yêu vốn rất đẹp, thủy   chung, rất đáng được ngợi ca.Từ thực tế  cuộc sống thuyền luôn xuất phát từ  bến rồi đi khắp mọi nơi, còn bến luôn là vật cố định, không thể chuyển dời  và luôn “khăng khăng đợi thuyền”. Bằng tâm hồn phong phú và sự liên tưởng   độc đáo nhân dân ta đã xây dựng nên một hình tượng nghệ  thuật thật tuyệt  vời và giàu ý nghĩa. Thuyền và bến là sự so sánh ngầm với tình cảm của con  người để miêu tả nỗi nhớ nhung tha thiết và lời hứa hẹn chân thành về mối  tình chung thủy rất nên thơ của người con gái đợi chờ người thương.  Bài tập:  GV hướng dẫn học sinh cảm thụ  nâng cao bằng những đoạn văn, bài   văn có sử dụng nghệ thuật ẩn dụ. Đề  bài : Tìm và phân tích giá trị  biểu cảm của biện pháp tu từ  trong đoạn   thơ:                    “ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng                           Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”.  Yêu cầu trả  lời: Phát hiện được biện pháp nghệ  thuật tu từ   ẩn dụ, chỉ  ra   được các từ  ngữ, hình  ảnh  ẩn dụ  đặc sắc sau đó phân tích giá trị  biểu cảm  của các hình ảnh được ẩn dụ và hình thành một đoạn văn hoặc bài văn cảm  thụ.  * Học sinh làm bài, giáo viên kết hợp uốn nắn, sửa chữa: Câu thơ trên nhà thơ sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ rất hiệu quả. Thông qua  hình ảnh mặt trời là vầng thái dương ( nghĩa đen) tác giả đã tạo ra một hình   ảnh so sánh ngầm sâu sắc, tế nhị giúp người đọc hình dung ra hình ảnh Bác  Hồ  (nghĩa bóng) là một con người rực rỡ,  ấm áp như  ánh mặt trời xua tan  màn đêm nô lệ, soi sáng và dẫn dắt dân tộc Việt Nam ta suốt những năm   tháng chống Pháp, chống Mỹ  và tiến lên chủ  nghĩa xã hội.Thông qua hình  ảnh ẩn dụ này tác giả bộc lộ một tình cảm yêu mến, khâm phục vị lãnh tụ vĩ   đại của dân tộc Việt Nam. Từ ví dụ  đó, giáo viên định hướng cho các em  khi  sử dụng nghệ thuật ẩn  dụ hợp  lý sẽ tạo cho sự vật trở nên sinh động, gợi hình ảnh biểu cảm. Qua  đó giáo dục các em biết  vận dụng biện pháp  ẩn dụ vào viết văn miêu tả  làm cho câu văn, bài văn  hay và sáng tạo hơn.         d, Phép tu từ hoán dụ Giúp các em hiểu thế  nào là nghệ  thuật hoán dụ. Biết tìm những câu   văn, thơ có sử dụng nghệ thuật hoán dụ . Từ đó hiểu được tác dụng của việc  sử  dụng phép tu từ  hoán dụ  trong văn, thơ. Hoán dụ  là gọi tên sự  vật, hiện  tượng, khái niệm bằng tên của một sự  vật, hiện tượng, khái niệm khác có  quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.  Ví dụ :                  “Bàn tay ta làm nên tất cả                       Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”  + Học sinh xác định được :  13
  14.  Nghệ thuật được sử dụng : Nghệ thuật hoán dụ   Hình ảnh ẩn dụ :  + Bàn tay: chỉ sức lao động của con người + Sỏi đá: chỉ những gian khổ, khó khăn + Cơm: chỉ những thành quả đạt được. + GV định hướng học sinh cảm nhận được : Hai câu thơ nêu lên mối quan   hệ nhân quả, đúng quy luật. Bằng nghệ thuật hoán dụ đặc sắc tác giả đã lấy   cái bộ phận “ bàn tay” để  nói  đến “sức lao động của con người” . Chính con  người và sức lao động của họ  chứ  không phải cái gì khác đã góp phần cải  tạo thiên nhiên, vượt qua mọi vất vả, gian khó biến “sỏi đá” thành “cơm”   mang lại cuộc sống  ấm no và hạnh phúc . Đây là một lời khẳng định, hơn   thế  nữa là một lời ca ngợi vai trò, tác dụng to lớn về  sức lao động của con  người trong việc chinh phục thiên nhiên tạo ra những thành quả  có giá trị  phục vụ cho cuộc sống. Bài tập:  Giáo viên hướng dẫn học sinh cảm thụ  nâng cao bằng những đoạn văn,  bài văn có sử dụng nghệ thuật hoán dụ. Đề  bài : Tìm và phân tích giá trị  biểu cảm của biện pháp tu từ  trong đoạn   thơ:                                           “ Áo chàm đưa buổi phân li                               Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.  Yêu cầu trả  lời: Phát hiện được biện pháp nghệ  thuật tu từ hoán dụ, chỉ  ra   được các từ ngữ, hình ảnh hoán dụ đặc sắc sau đó phân tích giá trị biểu cảm   của các hình  ảnh được hoán dụ  và hình thành một đoạn văn hoặc bài văn  cảm thụ. * Học sinh làm bài, giáo viên kết hợp uốn nắn, sửa chữa: Những câu thơ như những âm thanh đồng vọng đã tái hiện được hình ảnh  lưu luyến, bịn rịn trong cuộc chia li giữa người ở lại và người ra đi. Chỉ với  hai dòng thơ mà nhà thơ Tố Hữu đã diễn tả được trạng thái của tâm hồn con  người một cách cụ thể, sâu sắc. Hình ảnh “ áo chàm” là một hình ảnh để lại  nhiều ấn tượng về sự độc đáo, đó là hình ảnh tả thực vừa là hình ảnh hoán  dụ, tượng trưng. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc thường mặc áo nâu chàm,  một thứ màu giản dị của những con người vốn hiền lành, chất phác nhưng  son sắt thủy chung, nặng ân tình. Màu chàm rất bền, ít phai, do đó Tố Hữu đã  mượn ý nghĩa của màu chàm bền chặt để chỉ tình cảm của con người cũng  bền chặt thủy chung. Cảm xúc như vỡ òa cùng những giọt nước mắt nghẹ  ngào. Cuộc chia tay giữa người ra đi và người ở lại trong câu thơ của Tố  Hữu cho ta hình dung một tình cảm lặng lẽ nhưng bình dị, tha thiết.   Từ ví dụ  đó, giáo viên định hướng cho các em  khi  sử dụng nghệ thuật  nhân hóa hợp lý sẽ tạo cho sự vật trở nên sinh động, gợi hình, gợi cảm, nêu  bật được những đặc điểm của người, sự vật được nói đến. Qua đó giáo dục  các em biết  vận dụng biện pháp hoán dụ vào viết văn miêu tả làm cho câu  văn, bài văn hay và sáng tạo hơn. 14
  15. 2.3.4. Rèn luyện kỹ năng đặt câu, viết đoạn văn, bài văn có sử  dụng các   biện pháp nghệ thuật tu từ. Đây là một trong những yếu tố cần thiết đối với mỗi học sinh khi viết   bài tập làm văn, đặc biệt là văn miêu tả. Việc vận dụng linh hoạt các biên  pháp nghệ thuật đã được học vào các bài viết tập làm văn sẽ góp phần giúp   các em phát huy tối đa năng lực cảm thụ văn học, đồng thời làm cho bài viết  trở nên sinh động và sáng tạo hơn. Mỗi một câu văn, đoạn văn giáo viên cần  định hướng, kích thích các em tìm, viết những lời văn hay, cho các em luyện  tập diễn đạt bằng hình thức giáo viên đưa ra một loạt hình ảnh, yêu cầu học  sinh dùng lời văn kết hợp biện pháp nghệ  thuật so sánh, nhân hoá...sử  dụng  những từ láy gợi hình gợi cảm để diễn đạt .  Câu văn, đoạn văn cần được diễn đạt một cách hồn nhiên, trong sáng và bộc  lộ cảm xúc chân thành; biết vận dụng linh hoạt, khéo léo các biện pháp nghệ  thuật tu từ, cần tránh mắc các lỗi về  chính tả, dùng từ, đặt câu; tránh diễn   giải dài dòng hoặc sa vào phân tích quá kĩ.  * Rèn kĩ năng viết những câu văn sinh động, gợi cảm, giàu hình ảnh và nhạc  điệu: Muốn viết được câu văn hay, ngoài việc dùng từ chính xác, câu văn cần phải  có hình ảnh. Có hình ảnh, câu văn sẽ có màu sắc, đường nét, hình khối,...Để  câu văn có hình ảnh, cần lưu ý hướng dẫn HS sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi  cảm và các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hoá, ẩn dụ ...Các hình  thức nghệ thuật này sẽ làm cho câu văn trở nên sinh động hơn rất nhiều.   Việc rèn kĩ năng diễn đạt trong bài miêu tả cảnh cần đặc biệt chú ý đến  việc sử dụng phép so sánh trong mỗi câu văn. Có thể coi so sánh là việc tạo  những nốt luyến cho bản nhạc ngôn từ, những nét đậm cho bức tranh ngôn  ngữ. Giáo viên cần hướng cho học sinh luyện tập cách dùng nhiều từ so sánh  khác nhau sao cho thật đa dạng, phong phú, gợi cảm.  Ví dụ:  ­ Những lá sen già khum khum chẳng khác những chiếc thúng con đựng đầy  ắp nắng chiều thu. ­ Cây bàng già sừng sững uy nghiêm như một người lính gác canh giữ cho  khu vườn được bình yên. ­ Cây bưởi như một người mẹ cần mẫn cõng trên mình lũ con đầu tròn trọc  lóc. ­ Trăng về khuya cứ ngỡ là con thuyền trôi trên sông ngân. ­ Dòng sông quê dưới đêm trăng mềm mại như một áng tóc trữ tình. ­ Vầng trăng non giữa bầu trời đầy sao hệt như một cái liềm vàng ai bỏ  quên giữa cánh đồng lúa chín. ( Theo Vích­to Huy­gô) Ngoài ra cũng cần cho học sinh rèn kĩ năng sử dụng phép nhân hóa, ẩn dụ  trong diễn đạt để tạo sự sinh động, hấp dẫn cho cảnh được tả. Ví dụ: Giáo viên đưa ra một số câu văn miêu tả, yêu cầu học sinh viết lại có  phép nhân hóa. 15
  16.   ­ Về mùa hè nước sông trong xanh màu ngọc bích ­> Về mùa hè dòng sông  khoác lên mình một chiếc áo màu xanh ngọc bích.  ­Bông hoa hồng xinh đẹp. ­>Bông hoa hồng xinh đẹp đang tươi cười và thì  thầm toả hương thơm. ­ Với cùng một nội dung thông báo, cùng sử dụng biện pháp nghệ thuật   nhân hóa song với mỗi cách viết lại có một cách hiểu khác nhau. Ví dụ:  Với nội dung: Con sông chảy qua một cánh đồng, ta có thể diễn tả  bằng nhiều cách như sau : ­ Con sông nằm uốn khúc giữa cánh đồng xanh mướt lúa khoai. (Vẻ đẹp  thuần tuý). ­ Con sông khoan thai nằm phơi mình trên cánh đồng xanh mướt lúa khoai.  (Vẻ đẹp khoẻ khoắn). ­ Con sông hiền hoà chảy qua cánh đồng xanh mướt lúa khoai. ( Vẻ đẹp hiền   hoà). ­ Con sông lặng lẽ dấu mình giữa cánh đồng xanh mướt lúa khoai. (Vẻ đẹp  trầm tư). Như vậy, ý của câu văn hoàn toàn phụ thuộc vào ngụ ý của người viết.Với  mỗi một cách diễn đạt khác nhau lại cho một giá trị biểu cảm khác nhau.  *Rèn kĩ năng viết đoạn văn  Cái hay của một đoạn văn thể hiện rõ nét nhất ở ý. Ý càng mới mẻ, càng sâu   sắc, độc đáo thì đoạn văn càng có sức thuyết phục. Ý phải diễn đạt thành  lời. Ý hay mà không biết cách diễn đạt thì lời văn trở  nên sáo rỗng. Lời văn   hay là lời văn chân thành, trong sáng, giản dị, có hình  ảnh, có âm thanh, có  nhạc điệu,...và có cách sắp xếp (bố cục) chặt chẽ. Đặc biệt là phải biết vận  dụng linh hoạt các biện pháp tu từ vào bài làm. Trên cơ sở  rèn luyện kĩ năng   đặt câu, giáo viên định hướng cho học sinh viết đoạn văn miêu tả có sử dụng   các biện pháp nghệ thuật tu từ thông qua một số bài tập  * Bài tập thực hành (Tập trung vào thể loại miêu tả): Bài 1: Hãy viết một đoạn văn (từ 5­7 câu) tả cảnh hoặc tả cây cối có sử  dụng các biện pháp tu từ đã học, có câu mở đầu là: a) Mỗi khi mùa xuân về... b) Mùa hè sang... c) Thu đến... d) Khi trời chuyển mình sang đông... Đáp án : a) Mỗi khi mùa xuân về, những búp bàng cựa mình chui ra khỏi những nhánh  khô gầy, khẳng khiu sau cả mùa đông dài ấp ủ dòng nhựa nóng. Chỉ qua một  đêm thôi, những chồi xanh li ti đã điểm tím hết cành to, cành nhỏ. Và rồi  từng ngày những chồi xanh ấy lớn nhanh như thổi, mỗi lúc mỗi khác. Cái  màu xanh mượt mà, cái sức sống quyết liệt ấy đã gợi mở rất nhiều điều mới  lạ trong tôi. (Sử dụng biện pháp nhân hoá) b) Mùa hè sang, cành trên cành dưới chi chít lá. Tán bàng xoè ra như một  chiếc ô khổng lồ, nhiếu tầng nhiều bậc chiếm lĩnh không gian. Dưới cái ô  16
  17. khổng lồ màu ngọc bích ấy, không biết bao nhiêu người khách qua đường đã  dừng lại nghỉ chân. Hiền lành và trầm tư, ngày qua ngày, cây bàng vẫn bền  bỉ dang rộng vòng tay giúp ích cho đời. ( Sử dụng biện pháp so sánh, nhân  hoá) c) Thu đến, những chiếc lá bàng cứ đỏ dần lên theo từng nhịp bước heo may.  Cây bàng lại trang điểm cho mình một bộ cánh mới. Bộ cánh đó cứ đậm dần  lên sau từng đêm thao thức. Đến cuối thu thì nó chuyển hẳn sang màu đỏ tía.  Cái màu đỏ ấy không thể thấy ở bất cứ loài cây nào.  ( Sử dụng biện pháp  nhân hoá, ẩn dụ. ) d) Khi trời chuyển mình sang đông, cây bàng bắt đầu trút lá. Những chiếc lá  bàng lay động như những ngọn lửa đỏ bập bùng cháy. Rồi chỉ một cơn gió  nhẹ, những ngọn lửa đỏ ấy chao liệng rồi đua nhau rớt xuống. Chỉ qua một  đêm thôi, mặt đất đã được trang điểm một tấm thảm đỏ được dệt bằng  những chiếc lá bàng. Kì diệu thay những chiếc lá! Đã rụng rồi mà vẫn toát  lên vẻ đẹp đến mê say. ( Sử dụng biện pháp so sánh, ẩn dụ) Bài 2: Có một nhà văn đã viết: “ Trăng là cái liềm vàng giữa đống sao.  Trăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da trời. Trăng tỏa mộng xuống  trần gian. Trăng tuôn suối mát để những tâm hồn khao khát ngụp lặn”.  Dựa vào hiểu biết về bầu trời, ánh trăng em hãy viết một đoạn văn tả cảnh  đẹp của bầu trời  đêm trung thu có sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ so  sánh, nhân hóa. Đáp án : Vầng trăng vàng thẳm đang từ từ nhô lên sau lũy tre làng xanh thẫm. Trăng  tuôn chảy những ánh vàng trên khắp làng quê, trăng dào dạt cùng sóng lúa,  trăng tắm đẫm rặng tre rì rào trong gió. Trăng lẫn trốn trong tán lá xanh rì rào  của cây đa đầu thôn. Trăng lai láng trong vườn chuối dõi theo mấy cô cậu tí  hon đang chơi trận giả. Trăng đi đến đâu nơi ấy bừng lên tiếng cười rộn rã.  Trăng tinh nghịch đậu vào ánh mắt của các anh chị thanh niên. Trăng vờn lên  má các em thiếu nhi. Trăng ôm ấp mái tóc bạc phơ của các cụ già. Trăng đẹp  xiết bao! Trăng ùa vào lòng người khơi dậy tình yêu , cuộc sống. * Rèn kĩ năng viết bài văn:  Trên cơ sở rèn kĩ năng đặt câu, viết đoạn văn có sử dụng các biện pháp  nghệ thuật tu từ đã học, tôi hướng dẫn cho các em vận dụng vào viết hoàn  chỉnh một bài làm văn. Kĩ năng này được  vận dung  thực hiện trong nhiều  tiết viết bài TLV ở nhà và ở lớp. Ngoài ra  có thể lồng ghép vào các tiết thực  hành luyện  đề cụ thể... * Sau khi đề ra một số biện pháp thực hiện như vậy, và để kiểm nghiệm  hiệu quả của các giải pháp trên, tôi đã tiến hành kiểm tra kết quả học tập  của học sinh. Các em làm khá tốt, số lượng học sinh khá giỏi tăng. Sau đây là  bảng đối chứng về kết quả học tập của các em.     a. Học sinh yêu thích môn học Yêu thích: 46% Bình thường:  48,7% Không thích: 5,3 % 17
  18. b. Kết quả khảo sát chất lượng: Sĩ  Kết quả TT Lớp Giỏi Khá TB Yếu số SL % SL % SL % SL % 1 6a 35 05 14,3 13 37,1 12 34,3 05 14,3 2 6B 36 04 11,1 12 33,3 14 38,9 06 16,7 Tổng 71 09 12,7 25 35,2 26 36,6 11 15,5         Có thể thấy rằng để  giúp học sinh yêu thích môn học, rèn luyện tốt kĩ   năng cảm thụ văn học là một việc làm đòi hỏi tất cả  giáo viên dạy lớp đầu  cấp phải có lòng kiên trì không được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến  bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh sự tiến bộ diễn ra rất  chậm, không phải vài tuần mà có khi vài tháng, thậm chí cả học kì. Nếu giáo  viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì khó thành công.                                                                         3. KẾT LUẬN     3.1. Ý nghĩa đề tài Trong suốt quá trình vận dụng, khai thác các biện pháp nghệ thuật tu từ  vào việc cảm thụ văn học tôi nhận thấy các em chăm chú theo dõi, hào hứng  phát biểu bài, khi viết bài đạt được kết quả cao. Hầu hết các em đã biết vận  dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ đã được học vào bài viết, khả năng cảm   thụ văn học được nâng lên, câu văn thể hiện được cảm xúc, trình bày lô gíc  khoa học.  Các bài tập ứng dụng các em đều làm tốt, có sự sáng tạo theo cách  cảm nhận của riêng mình. Ban đầu các em rất ngại tiếp xúc với văn thơ  nhưng giờ  đây các em rất có hứng thú tiếp xúc với văn thơ  để  được cảm  nhận cái hay, cái đẹp trong văn thơ, từ đó các em tích luỹ được vốn hiểu biết   về văn thơ giúp các em thêm yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước. Quả thật học văn, làm văn là một năng lực tổng hợp, là quá trình bền bỉ  dày công học tập, trau dồi lâu ngày, đó là chưa nói đến năng khiếu. Song dù  có năng khiếu ít hay nhiều thì sự  nhẫn nại, kiên trì rèn luyện trong học tập  vẫn là con đường dẫn đến sự thành công lớn nhất. Với phương pháp phân tích giá trị  biểu cảm của các biện pháp nghệ  thuật tu từ trong văn thơ  cũng chỉ  là một cách trong rất nhiều cách để  khám   phá ra vẻ  đẹp muôn màu muôn sắc và giá trị  cao đẹp đầy tính nhân văn mà  các tác giả muốn gửi gắm qua từng trang viết, giúp các em có hứng thú hơn   với môn văn và trong cả quá trình học văn. 18
  19. Tôi hy vọng với một số  giải pháp nêu trên sẽ  góp phần nâng cao chất   lượng cảm thụ  văn học cho học sinh lớp 6 nói riêng và các lớp tiếp nối  ở  THCS nói chung. 3.2. Những kiến nghị, đề xuất. Nâng cao trình độ, năng lực cảm thụ  văn học cho học sinh là một   việc làm khó, đòi hỏi người giáo viên ngoài lòng kiên trì, chịu khó thì phải   có trình độ, năng lực tốt. Phải thường xuyên kích thích hứng thú cho học  sinh tiếp xúc với thơ  văn. Đồng thời kiểm tra, đánh giá kết quả  học tập   của học sinh thường xuyên hơn để  có biện pháp khắc phục và uốn nắn   kịp thời. Cụ thể:  Khi dạy các phép tu từ  giáo viên cần tăng cường luyện tập, thực hành  cho học sinh nhiều hơn,  rèn cho các em kĩ năng nhận biết, phân tích giá trị  biểu cảm của các biện pháp NTTT góp phần làm nổi bật giá trị nội dung và   tư tưởng mà tác giả muốn thể hiện. Bên cạnh đó, trong các giờ đọc hiểu văn   bản giáo viên cần chú trọng phát hiện và khai thác tốt các ngữ  liệu có sử  dụng các biện pháp NTTT, từ đó hướng học sinh cảm nhận được cái hay, cái   đẹp về  giá trị  nội dung, nghệ  thuật mà tác phẩm mang lại. Từ  những hiểu  biết về cách nhận biết, cách tìm giá trị nghệ thuật, giáo viên hướng dẫn học   sinh vận dụng thường xuyên vào việc tạo lập văn bản trong các tiết viết bài  TLV, đặc biệt là văn miêu tả.. hoặc có thể  vận dụng trong giao tiếp hàng  ngày để lời văn, lời nói giàu hình ảnh và tính biểu cảm cao. Ngoài ra về  phía nhà trường cần trang bị  thêm các tài liệu và đồ  dùng  phục vụ tốt nhất cho việc dạy học bộ môn Ngữ văn trong nhà trường. Đối với các đồng chí phụ trách chuyên môn cần tạo điều kiện mở thêm  những lớp chuyên đề  hoặc phổ  biến những kinh nghiệm giảng dạy, những  sáng kiến kinh nghiệm hay để anh chị  em giáo viên có cơ  hội học tập, nâng   cao tay nghề. Tóm lại với nhận thức của mình trong thời gian ngắn, tôi đã nổ lực, tìm  tòi, suy nghĩ và đúc rút kinh nghiệm qua quá trình dạy học của mình. Có thể  những quan điểm dạy học đã nêu ra chưa hẳn là giải pháp tối ưu và không   tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý  kiến xây dựng của bạn bè, đồng nghiệp và hội đồng chuyên môn đánh giá bổ  sung để  đề  tài của tôi hoàn thiện hơn, có giá trị  hơn trong thực tiễn, góp  phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn ở THCS. Xin chân thành cảm ơn !                                                 19
  20.                                    TÀI LIỆU THAM KHẢO   [1] Bộ sách Ngữ văn 6 NXB Giáo dục   [2] Nguyễn Thị Mai Hoa – Đinh Chí Sáng : Một số câu hỏi và bài tập nâng  cao Ngữ văn 6 NXB Giáo dục.  [3] Tạ Đức Hiền – Nguyễn Việt Nga –Phạm Minh Tú : Yêu văn và học văn  –NXB Hà Nội   [4] PGS.TS.Lê Huy Bắc (chủ  biên) –Lê Quang Đức – Nguyễn Thị  Minh   Tuyết       Hỏi đáp kiến thức Ngữ văn 6 NXB Giáo dục.  [5] Đoàn Thị Thu Hà – Phùng Thị Thanh Lâm : Ngân hàng bài tập tiếng việt   lớp 6 NXB Giáo dục   [6] Vũ Nho (chủ biên) –Nguyễn Thúy Hồng –Trần Thị Thành : Bài tập rèn kĩ  năng tích hợp Ngư văn 6 NXB Giáo dục.                                                                                                                                                         20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2