ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ––––––––––––––––––––––– PHẠM THỊ NHUNG
PHÂN TÍCH DẠNG KIM LOẠI CHÌ (Pb) VÀ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ Ô NHIỄM TRONG ĐẤT THUỘC KHU VỰC KHAI THÁC QUẶNG Pb/Zn LÀNG HÍCH, HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ HÓA HỌC
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ––––––––––––––––––––––– PHẠM THỊ NHUNG
PHÂN TÍCH DẠNG KIM LOẠI CHÌ (Pb) VÀ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ Ô NHIỄM TRONG ĐẤT THUỘC KHU VỰC KHAI THÁC QUẶNG Pb/Zn LÀNG HÍCH, HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Hóa Phân tích
Mã số: 8.44.01.18
LUẬN VĂN THẠC SĨ HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vương Trường Xuân
THÁI NGUYÊN - 2019
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn TS. Vương Trường Xuân đã hướng dẫn, giúp
đỡ tận tình và chỉ bảo, động viên em thực hiện thành công luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn trường Đại học Khoa Học - Đại học Thái
Nguyên, Khoa Hóa học và các thầy cô đã động viên, chia sẻ và tạo điều kiện
giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ
Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 104.04- 2018.10
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành những tình cảm quý giá
của người thân và bạn bè, đã luôn bên em động viên khích lệ tinh thần và ủng
hộ cho em hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 11 tháng 12 năm 2019
Học viên
Phạm Thị Nhung
i
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ v
DANH MỤC BẢNG ....................................................................................... vi
DANH MỤC HÌNH ....................................................................................... vii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ........................................................................... 3
1.1. Kim loại nặng và tác hại của chúng ........................................................... 3
1.1.1. Các nguồn gây ô nhiễm kim loại nặng .................................................... 3
1.1.2. Tính chất và tác hại của chì ..................................................................... 4
1.2. Đất và sự tích lũy kim loại chì trong đất .................................................... 5
1.3. Dạng kim loại và các phương pháp chiết dạng kim loại nặng trong
đất ...................................................................................................................... 6
1.3.1. Khái niệm về phân tích dạng ................................................................... 6
1.3.2. Các dạng liên kết của kim loại trong đất ................................................. 7
1.3.3. Phương pháp chiết tuần tự xác định dạng liên kết kim loại .................... 7
1.4. Các phương pháp xác định vết kim loại nặng ............................................ 9
1.4.1. Phương pháp quang phổ ........................................................................ 10
1.4.2. Phương pháp điện hóa ........................................................................... 13
1.4.3. Phương pháp phổ khối plasma cảm ứng (ICP - MS) ............................ 14
1.5. Tình hình nghiên cứu phân tích dạng kim loại nặng trong đất các khu
vực khai thác quặng ở trong và ngoài nước ...................................................... 16
1.5.1. Ở Việt Nam ............................................................................................ 16
1.5.2. Trên thế giới ........................................................................................... 17
1.6. Một số tiêu chuẩn đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại trong đất ............. 19
1.6.1. Tiêu chuẩn đánh giá đất ô nhiễm kim loại nặng của một số nước
trên thế giới ..................................................................................................... 19
1.6.2. Tiêu chuẩn đánh giá đất ô nhiễm kim loại nặng của Việt Nam ............ 20
1.7. Khu vực nghiên cứu ................................................................................. 20
ii
1.7.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội mỏ kẽm chì Làng Hích,
huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên ................................................................. 20
1.7.2. Tình hình ô nhiễm của mỏ kẽm chì Làng Hích, huyện Đồng Hỷ,
tỉnh Thái Nguyên ............................................................................................. 21
CHƯƠNG 2. ĐIỀU KIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM ....... 23
2.1. Hóa chất, thiết bị sử dụng ........................................................................ 23
2.1.1. Hóa chất, dụng cụ .................................................................................. 23
2.1.2. Trang thiết bị ......................................................................................... 24
2.1.3. Đánh giá độ chụm của phép đo, giới hạn phát hiện, giới hạn định
lượng của phương pháp ICP-MS .................................................................... 25
2.2. Thực nghiệm lấy mẫu phân tích ............................................................... 27
2.2.1. Vị trí lấy mẫu, phương pháp lấy mẫu và bảo quản ............................... 27
2.2.2. Quy trình phân tích hàm lượng tổng và các dạng kim loại ................... 30
2.2.3. Phương pháp xác định hàm lượng kim loại Pb trong các mẫu đất ....... 33
2.2.4. Xây dựng đường chuẩn ......................................................................... 33
2.2.5. Đánh giá độ thu hồi của phương pháp phân tích hàm lượng chì tổng .. 34
2.3. Xử lí số liệu thực nghiệm ......................................................................... 34
2.4. Một số tiêu chí đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại nặng trong đất ......... 35
2.4.1. Chỉ số tích lũy địa chất (Geoaccumulation Index: Igeo) ........................ 35 2.4.2. Nhân tố gây ô nhiễm cá nhân (ICF) ...................................................... 36
2.4.3. Chỉ số đánh giá mức độ rủi ro RAC (Risk Assessment Code) ............. 37
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................... 39
3.1. Xây dựng đường chuẩn, xác định LOD và LOQ của chì trong phép
đo ICP-MS ....................................................................................................... 39
3.1.1. Đường chuẩn cho phép đo xác định vết chì bằng phương pháp ICP-MS .. 39
3.1.2. Đánh giá độ thu hồi, xác định LOD và LOQ của chì trong phép đo
ICP-MS ............................................................................................................ 40
3.2. Kết quả phân tích hàm lượng dạng hóa học của kim loại. ....................... 41
3.3. Đánh giá mức độ ô nhiễm của các kim loại nặng .................................... 47
3.3.1. Chỉ số tích lũy địa chất (Geoaccumulation Index : Igeo) ....................... 48 3.3.2. Nhân tố gây ô nhiễm cá nhân (ICF) ...................................................... 49
iii
3.3.3. Chỉ số đánh giá mức độ rủi ro RAC (Risk Assessment Code) ............. 50
3.3.4. Một số tiêu chuẩn đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại trong đất .......... 51
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 55
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu viết tắt Tiếng Việt Tiếng Anh
Nhân tố gây ô nhiễm cá Individual ICF 1 nhân Contamination factor
Inductively coupled Khối phổ plasma ICP-MS plasma - Mass 2 cảm ứng spectrometry
Geoaccumulation Chỉ số tích lũy địa chất 3 Igeo Index
KLN Kim loại nặng 4
LOD Giới hạn phát hiện Limit of Detection 5
LOQ Giới hạn định lượng Limit Of Quantity 6
ppm Một phần triệu Part per million 7
ppb Một phần tỉ Part per billion 8
Risk Assessment Chỉ số đánh giá rủi ro 9 RAC Code
10 SD Độ lệch chuẩn Standard deviation
v
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Quy trình chiết tuần tự của Tessier (1979) ................................... 8
Bảng 1.2. Quy trình chiết tuần tự của BCR .................................................. 9
Bảng 1.3. Mức độ ô nhiễm kim loại Pb ở Anh ........................................... 19
Bảng 1.4. Đánh giá mức ô nhiễm kim loại Pb trong đất ở Hà Lan ............. 19
Bảng 1.5. Hàm lượng tối đa cho phép của kim loại Pb đối với thực vật
trong đất nông nghiệp ................................................................. 20
Bảng 1.6. Giới hạn tối đa cho phép hàm lượng tổng số đối với Pb trong đất ... 20
Bảng 2.1. Vị trí lấy các mẫu đất gần mỏ kẽm-chì làng Hích, Đồng Hỷ,
Thái Nguyên................................................................................ 29
Bảng 2.2. Chế độ lò vi sóng phá mẫu ......................................................... 30
Bảng 2.3. Các điều kiện đo phổ ICP_MS của Pb ....................................... 33
Bảng 2.4. Cách pha các dung dịch chuẩn Pb(II) với các nồng độ khác nhau .. 34
Bảng 2.5. Phân loại mức độ ô nhiễm dựa vào Igeo .......................................... 36
Bảng 2.6. Phân loại mức độ ô nhiễm .......................................................... 37
Bảng 2.7. Tiêu chuẩn đánh giá mức độ rủi ro theo chỉ số RAC ................. 37
Bảng 3.1. Sự phụ thuộc của cường độ pic vào nồng độ chất chuẩn ........... 39
Bảng 3.2. Các giá trị Pb trong 5 lần đo lặp lại mẫu trắng ........................... 40
Bảng 3.3. Độ thu hồi hàm lượng của chì so với mẫu chuẩn MESS_4 ........ 41
Bảng 3.4. Hàm lượng các dạng và tổng của Pb trong mẫu đất khu vực
mỏ kẽm-chì làng Hích, Đồng Hỷ, Thái Nguyên......................... 42
Bảng 3.5. Hàm lượng chì trong các mẫu đất nông nghiệp so với giới
hạn trong đất nông nghiệp theo tiêu chuẩn của các nước ........... 52
Bảng 3.6. Hàm lượng chì trong các mẫu đất bãi thải và trầm tích so với
giới hạn trong đất công nghiệp theo tiêu chuẩn của các nước .... 53
vi
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Thiết bị ICP-MS Nexion 2000 của hãng Perkin Elmer ................ 24
Hình 2.2. Lò vi sóng Milestone Ethos 900 Microwave Labstation ............ 25
Hình 2.3. Các địa điểm lấy mẫu đất gần mỏ kẽm-chì làng Hích, Đồng
Hỷ, Thái Nguyên ......................................................................... 28
Hình 2.4. Sơ đồ chiết các dạng kim loại nặng trong đất của Tessier đã
cải tiến ......................................................................................... 33
Hình 3.1. Đường chuẩn xác định Pb bằng phương pháp ICP-MS ............. 39
Hình 3.2. Sự phân bố hàm lượng % các dạng của Pb trong các mẫu
phân tích ..................................................................................... 45
Hình 3.3. Chỉ số Igeo của các mẫu đất phân tích đối với hàm lượng chì ... 48
Hình 3.4. Giá trị ICF của chì trong các mẫu phân tích ............................... 49
Hình 3.5. Giá trị RAC của chì trong các mẫu phân tích ............................. 50
vii
MỞ ĐẦU
Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề được xã hội hết sức quan tâm, bởi quá
trình ô nhiễm ngày càng phức tạp và nghiêm trọng, từ các vấn đề về ô nhiễm
không khí, ô nhiễm nguồn nước hay ô nhiễm đất. Trong đó ô nhiễm đất ngày
càng diễn biến tiêu cực và đe dọa đến chất lượng cuộc sống và sức khỏe của
người dân. Một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường đất,
chính là sự hoạt động của các khu công nghiệp lớn và nhỏ.
Những năm gần đây, ngành công nghiệp khai khoáng đã phát triển mạnh
mẽ. Nhưng trong quá trình khai thác, các chất thải sinh ra đã phá vỡ cân bằng
sinh thái, làm thay đổi môi trương xung quanh, gây ô nhiễm nặng đối với môi
trường đất, đặc biệt là ô nhiễm kim loại nặng.
Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có rất nhiều khu vực khai thác khoáng
sản. Trong quá trình khai thác, các đơn vị đã thải ra một khối lượng lớn đất đá
thải, làm thu hẹp và suy giảm diện tích đất canh tác, điển hình là các bãi thải
tại mỏ sắt Trại Cau, mỏ than Khánh Hòa, mỏ than Phấn Mễ… Nhiều mẫu đất
tại các khu vực khai khoáng đều có biểu hiện ô nhiễm kim loại nặng, một số
mẫu gần khu sinh sống của dân cư cũng đang bị ô nhiễm. Để đánh giá mức độ
ô nhiễm môi trường của các kim loại, người ta thường đánh giá hàm lượng
tổng sổ của các kim loại nặng. Tuy nhiên, để có được các thông tin đầy đủ và
chính xác hơn để đánh giá mức độ ô nhiễm của các kim loại trong đất cần
phải đi vào phân tích dạng hóa học của các kim loại trong đất.
Đã có nhiều công trình khoa học đánh giá mức độ ô nhiễm của các kim
loại trong đất nói chung và đất ở các khu vực khai thác quặng nói riêng thông
qua phân tích dạng hóa học của các kim loại dựa trên các phương pháp chiết
khác nhau.
Vì vậy, để phân tích đánh giá mức độ ô nhiễm của kim loại Pb trong các
mẫu đất ở khu vực khai thác quặng ở Thái Nguyên, tôi chọn đề tài: “Phân tích
dạng kim loại chì (Pb) và đánh giá mức độ ô nhiễm trong đất thuộc khu vực
khai thác quặng Pb-Zn làng Hích, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”
1
Mục tiêu nghiên cứu:
- Nghiên cứu áp dụng quy trình chiết phù hợp để xác định hàm lượng
tổng và hàm lượng các dạng liên kết Pb trong các mẫu đất thuộc khu vực bãi
thải của mỏ Pb/Zn, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên và các trong các mẫu
đất nông nghiệp gần khu vực bãi thải, để đánh giá mức độ ô nhiễm của kim
loại Pb trong đất cũng như tìm ra các dạng liên kết chủ yếu của chì trong các
mẫu đất nghiên cứu.
- Đánh giá xu hướng phân bố hàm lượng tổng, hàm lượng dạng liên kết của
kim loại Pb theo vị trí lấy mẫu đất ở khu vực bãi thải và các mẫu đất nông nghiệp
ở khu vực gần bãi thải của mỏ Pb/Zn, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
- Đánh giá mức độ ô nhiễm của kim loại Pb trong đất theo một số chỉ số
và tiêu chuẩn chất lượng đất.
Nội dung nghiên cứu:
- Lựa chọn các điều kiện đo phổ ICP-MS của Pb phù hợp. Xây dựng
đường chuẩn, xác định LOD, LOQ để xác định hàm lượng của Pb bằng
phương pháp ICP-MS.
- Nghiên cứu áp dụng quy trình phân tích hàm lượng tổng và dạng liên
kết phù hợp. Khảo sát độ thu hồi của quy trình phân tích hàm lượng tổng bằng
mẫu chuẩn Mess_4
- Áp dụng quy trình xác định hàm lượng tổng và hàm lượng các dạng trao
đổi (F1), dạng liên kết với cacbonat (F2), dạng liên kết với Fe-Mn oxit (F3),
dạng liên kết với hữu cơ (F4), dạng cặn dư (F5) của Pb trong các mẫu đất.
- Đánh giá sự phân bố hàm lượng tổng và hàm lượng các dạng liên kết
của Pb theo vị trí của các mẫu đất.
- Đánh giá mức độ ô nhiễm các kim loại nặng theo các chỉ số ô nhiễm và
các tiêu chuẩn chất lượng đất.
2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Kim loại nặng và tác hại của chúng
Kim loại nặng (KLN) là các kim loại có khối lượng riêng lớn hơn
5g/cm3 như Thủy ngân (15,534 g/cm3), Chì (11,34 g/cm3), Cadimi (8,65
g/cm3), Crom (7,15 g/cm3), Asen (5,73 g/cm3).... Chúng có thể ở trong khí
quyển (dạng hơi), thủy quyển (các muối hòa tan), địa quyển (dạng rắn không
tan, khoáng, quặng...) và sinh quyển (trong cơ thể con người, động thực vật).
Một vài KLN có thể cần thiết cho cơ thể sống, khi ở một hàm lượng nhất định
nào đó. Tuy nhiên khi lớn hơn giới hạn cho phép, nó sẽ trở lên độc hại.
Những nguyên tố như Pb, Cd, Hg, Cr...được sử dụng trong công nghiệp, khoa
học kỹ thuật, nhưng việc phát thải ra môi trường sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe
con người và hệ sinh thái. Những kim loại này khi đi vào cơ thể sống, ngay cả
ở dạng vết cũng có thể gây độc hại. Trong các KLN thì Cd, Pb, Hg, Cr là
những KLN được Cơ quan Bảo vệ Môi trường của Mỹ (US-EPA) xếp vào
nhóm tám KLN phổ biến nhất và có độc tính cao. Người ta cho rằng, sự độc
hại gây nên do các KLN được thải hàng năm vào sinh quyển vượt xa độ độc
hại của tất cả các chất thải hữu cơ và phóng xạ [4].
1.1.1. Các nguồn gây ô nhiễm kim loại nặng
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, KLN có nguồn gốc phát sinh từ
nhiều nguồn khác nhau. Đặc biệt, sự phát thải các KLN vào môi trường do
con người (khai khoáng, công nghiệp, nông nghiệp...) lớn hơn rất nhiều so với
hoạt động của các quá trình tự nhiên (núi lửa, động đất, sạt lở...), đặc biệt là
Pb, Zn, Cu.
1.1.1.1. Ô nhiễm kim loại nặng do hoạt động sản xuất nông nghiệp
Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, con người đã sử dụng các loại
thuốc bảo vệ thực vật có chứa As, Pb, Hg hay các loại phân bón hóa học có
chứa Cd, Pb, nên đã làm tăng đáng kể các nguyên tố KLN trong đất. Các loại
3
bùn, nước thải cũng là nguồn có chứa nhiều các KLN khác như Hg, Zn, As,
Pb. Hàm lượng các KLN này sẽ tăng lên trong đất theo thời gian
1.1.1.2. Ô nhiễm kim loại nặng do công nghiệp
Ngày nay theo xu hướng công nghiệp hóa đất nước, các ngành công
nghiệp phát triển mạnh mẽ, vấn đề ô nhiễm ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Nguồn phát tán các KLN trước hết phải kể đến sản xuất công nghiệp, đặc biệt
là ngành khai khoáng tạo ra nguồn thải là Pb, Hg, Zn...Và chúng là nguyên
nhân của sự tích tụ quá mức hàm lượng KLN trong đất và nước.
Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Nông (2003) [8] cho rằng: hàm
lượng Cd, Pb và As ở trong đất tỉnh Thái Nguyên lần lượt dao động trong
khoảng 0,78 mg/kg- 1,59 mg/kg, 1,97 mg/kg- 4,45mg/kg và 1,88 mg/kg- 5,12
mg/kg. Hàm lượng các nguyên tố này trong đất càng lớn theo thời gian, trong
các khu công nghiệp, khu dân cư tập trung và các vùng khai khoáng
1.1.1.3. Ô nhiễm KLN do chất thải làng nghề
Hiện nay, ở Việt Nam, vấn đề ô nhiễm môi trường đất và nước xảy ra
khá nghiêm trọng ở các làng nghề đặc biệt là các làng nghề tái chế kim loại.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, thì hàm lượng KLN trong nước thải
của các làng nghề tái chế kim loại hầu hết đều cao hơn tiêu chuẩn cho phép
nhiều lần, và đều thải trực tiếp vào môi trường mà không qua xử lý
1.1.2. Tính chất và tác hại của chì
Chì kim loại có tồn tại trong tự nhiên nhưng ít gặp. Chì thường được
tìm thấy trong các quặng như PbS, PbCO3. Chì có tính chống ăn mòn cao và
dễ dát mỏng nên có nhiều ứng dụng. Chì là thành phần chính tạo nên ăc quy
sử dụng cho xe, chì được sử dụng như chất nhuộm trắng trong sơn, chì dùng
làm các tấm ngăn để chống phóng xạ hạt nhân.
Việc sử dụng chì tràn lan đã dẫn đến vấn đề ô nhiễm môi trường. Chì
tiếp xúc với con người dẫn đến các vấn đề về sức khỏe cộng đồng ở nhiều nơi
trên thế giới.
4
Tác hại của chì đối với sức khỏe con người:
Trong cơ thể người, chì không tham gia phản ứng sinh hóa hay vai trò
sinh lý nào, nên ngưỡng an toàn dành cho chì là không hề có. Bất kể một
lượng nhỏ nào của chì cũng sẽ gây hại cho cơ thể.
Trong cơ thể người, Chì có xu hướng thay thế vị trí của tất cả các kim
loại khác. Chì cũng chiếm chỗ của kẽm và canxi trong các protein, mà không
có mặt hai nguyên tố này, protein không thể hoạt động. Chì trong máu liên kết
với hồng cầu, và tích tụ trong xương. Khả năng loại bỏ chì ra khỏi cơ thể rất
chậm chủ yếu qua nước tiểu. Chu kì bán rã của chì trong máu khoảng một
tháng, trong xương từ 20-30 năm [40]. Các hợp chất chì hữu cơ rất bền vững
độc hại đối với con người, có thể dẫn đến chết người [30]. Những biểu hiện
của ngộ độc chì cấp tính như nhức đầu, tính dễ cáu, dễ bị kích thích, và nhiều
biểu hiện khác nhau liên quan đến hệ thần kinh. Con người bị nhiễm độc lâu
dài đối với chì có thể bị giảm trí nhớ, giảm khả năng hiểu, giảm chỉ số IQ, xáo
trộn khả năng tổng hợp hemoglobin có thể dẫn đến bệnh thiếu máu [26]. Chì
cũng được biết là tác nhân gây ung thư phổi, dạ dày và u thần kinh đệm [35].
Nhiễm độc chì có thể gây tác hại đối với khả năng sinh sản, gây sảy thai, làm
suy thoái nòi giống [18].
1.2. Đất và sự tích lũy kim loại chì trong đất
Chì được sử dụng nhiều trong các ngành nghề làm nảy sinh những vấn
đề lớn về môi trường, đó là ô nhiễm độc chất chì trong môi trường sinh thái,
đặc biệt là môi trường đất.
Khi phát sinh vào môi trường đất, chì có thời gian tồn tại lâu dài và khó
phân hủy. Những hợp chất chì trong đất và trầm tích, làm ô nhiễm chuỗi thức
ăn và ảnh hưởng đến trao đổi chất của con người lâu dài trong tương lai.
Trên thế giới, các nước có nền công nghiệp phát triển thì việc gây ô
nhiễm môi trường có xu hướng cao hơn và hàm lượng Pb trong đất cũng
nhiều hơn.
5
Trong tự nhiên, quá trình phong hóa đá cũng gây nên lượng Pb nhỏ
xâm nhập vào đất, đặc biệt là các loại đá trầm tích có chứa lưu huỳnh, đá
phiến sét (chẳng hạn như các sunfua kim loại) [16]. Tuy nhiên, nguồn tự
nhiên gây ô nhiễm Pb trong đất không đáng kể so với nguồn nhân tạo.
Hàm lượng Pb nếu ở mức cao tồn đọng trong đất, rất dễ theo chu trình
đất - cây trồng - động vật - con người gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người
và động vật. Khi chì tích tụ trong môi trường đất, thì việc làm giảm hàm
lượng chì trở nên rất khó khăn. Bởi lẽ Pb là nguyên tố kim loại nặng tồn tại ở
nhiều dạng khác nhau và được các heo đất giữ chặt. Và cách thông dụng nhất
để giảm hàm lượng chì là hạn chế hàm lượng Pb ngay từ khâu đầu vào để
tránh khả năng xâm nhập của Pb vào đất
1.3. Dạng kim loại và các phương pháp chiết dạng kim loại nặng trong đất
1.3.1. Khái niệm về phân tích dạng
Trong đất có chứa nhiều thành phần, nguyên tố có hại, trong số đó
có các kim loại nặng. Các kim loại có thể tồn tại dưới các dạng hóa học
khác nhau, nhưng các dạng có khả năng tích lũy sinh học được quan tâm
nhiều hơn.
Trong thực tế, độ linh động và hoạt tính sinh học cũng như khả năng
tích lũy sinh học của kim loại phụ thuộc vào dạng tồn tại bao gồm dạng hóa
học (trạng thái oxi hóa, điện tích, trạng thái hóa trị và liên kết) và dạng vật lí
(trạng thái vật lí, kích thước hạt...) [4].
Nếu các kim loại tồn tại trong các dạng linh động và có khả năng tích
lũy sinh học được giải phóng từ đất sẽ làm tăng hàm lượng các kim loại có
độc tính trong nước, dẫn đến nguy cơ gia tăng sự hấp thu các kim loại này đối
với thực vật, động vật và con người [10, 37].
Việc xác định cụ thể hàm lượng của các KLN ở từng dạng liên kết cũng
như nghiên cứu sự phân bố các KLN giữa các dạng liên kết khác nhau trong
đất được xem là phân tích dạng.
6
1.3.2. Các dạng liên kết của kim loại trong đất
Kim loại trong đất và trầm tích được chia thành 5 dạng chính: Dạng
trao đổi, dạng liên kết với cacbonat, dạng hấp phụ trên bề mặt oxit sắt -
mangan, dạng liên kết với các hợp chất hữu cơ và dạng cặn dư.
- Dạng trao đổi: Kim loại trong dạng này liên kết với trầm tích bằng lực
hấp phụ yếu trên các hạt. Sự thay đổi lực ion của nước sẽ ảnh hưởng đến khả
năng hấp phụ hoặc giải hấp các kim loại này dẫn đến sự giải phóng hoặc tích
lũy kim loại tại bề mặt tiếp xúc của nước và trầm tích hoặc đất [1, 38]
- Dạng liên kết với cacbonat: các kim loại liên kết với cacbonat rất
nhạy cảm với sự thay đổi của pH, khi pH giảm thì kim loại tồn tại ở dạng này
sẽ được giải phóng [1, 38]
- Dạng liên kết với Fe-Mn oxit: Ở dạng liên kết này kim loại được hấp
phụ trên bề mặt của Fe-Mn oxi hydroxit và không bền trong điều kiện khử,
bởi vì trong điều kiện khử trạng thái khử của sắt và mangan sẽ bị thay đổi,
dẫn đến các kim loại trong đất sẽ được giải phóng vào pha nước [1, 38]
- Dạng liên kết với hữu cơ: Các kim loại ở dạng liên kết với hữu cơ sẽ
không bền trong điều kiện oxi hóa, khi bị oxi hóa các chất hữu cơ sẽ phân hủy
và các kim loại sẽ được giải phóng vào pha nước [1, 38]
- Dạng cặn dư: Phần này chứa các muối khoáng tồn tại trong tự nhiên
có thể giữ các vết kim loại trong nền cấu trúc của chúng, do vậy khi kim loại
tồn tại trong phân đoạn này sẽ không thể hòa tan vào nước trong các điều kiện
như trên [1, 38]
1.3.3. Phương pháp chiết tuần tự xác định dạng liên kết kim loại
Trong nghiên cứu các dạng của KLN có trong đất thì các quy trình
chiết liên tục (chiết tuần tự) được sử dụng rất rộng rãi để xác định hàm lượng
của các KLN có trong các dạng. Về mặt lý thuyết, các quy trình chiết liên tục
thì các dạng trao đổi sẽ được chiết ra bằng cách thay đổi các thành phần ion
của nước khiến cho kim loại được hấp phụ vào bề mặt tiếp xúc của đất được
giải phóng một cách dễ dàng. Dung dịch muối thường được sử dụng cho việc
chiết các dạng trao đổi. Ở dạng liên kết với cacbonat, thì các muối cacbonat
7
thường rất nhạy cảm với sự thay đổi của pH nên dung dịch axit được sử dụng
cho bước chiết thứ hai. Dạng liên kết với Fe-Mn oxit thì nhạy cảm với các
điều kiện khử nên các chất khử sẽ được sử dụng cho bước chiết thứ ba. Dạng
liên kết với hợp chất hữu cơ thì các chất hữu cơ sẽ bị oxi hóa trong bước thứ
tư. Cuối cùng là dạng cặn dư, sẽ dùng axit mạnh để giải phóng kim loại ra
khỏi các cấu trúc bền.
Có nhiều quy trình chiết tuần tự đã được đưa ra và sử dụng trong các
công trình nghiên cứu về KLN có trong đất. Sau đây là hai quy trình được sử
dụng phổ biến nhất là quy trình Tessier và quy trình BCR:
a, Quy trình của Tessier
Quy trình chiết liên tục của Tessier là quy trình được sử dụng nhiều
trong các công trình nghiên cứu xác định hàm lượng kim loại trong đất và
trầm tích. Trong quy trình chiết bởi Tessier [38] 1,0000 gam mẫu được cho
vào một ống 50 mL và tiến hành chiết tuần tự theo các bước như được trình
bày ở bảng 1.1.
Bảng 1.1. Quy trình chiết tuần tự của Tessier (1979) [38]
Dạng kim loại
Điều kiện chiết (1 gam mẫu)
Trao đổi (F1)
với
kết
Liên cacbonat (F2) Liên kết với Fe- Mn oxit (F3)
Liên kết với hữu cơ (F4)
Cặn dư (F5)
8 mL MgCl2 1M (pH = 7), khuấy liên tục trong 1 giờ, to phòng hoặc 8 mL NaOAc 1M (pH = 8,2), khuấy liên tục trong 1 giờ, to phòng 8 mL NaOAc 1M (pH = 5 với HOAc), khuấy liên tục trong 5 giờ ở nhiệt độ phòng 20 mL Na2S2O4 0,3M + Natri-citrat 0,175M + axit citric 0,025M hoặc 20 mL NH2OH.HCl 0,04M trong CH3COOH 25%, 96 30C, thỉnh thoảng khuấy trong 6 giờ (1) 3mL HNO3 0,02M + 5mL H2O2 30% (pH = 2 với HNO3), 85 20C, khuấy 2 giờ (2) thêm 3 mL H2O2 30% (pH = 2 với HNO3) 85 20C, khuấy 3 giờ (3) sau khi làm nguội thêm 5 mL NH4OAc 3,2 M trong HNO3 20% và pha loãng thành 20 mL, khuấy liên tục trong 30 phút (1) HClO4 (2 mL) + HF (10 mL) đun đến gần cạn (2) HClO4 (1 mL) + HF (10 mL) đun đến gần cạn (3) HClO4 (1 mL) (4) hòa tan bằng HCl 12N sau đó định mức thành 25 mL
8
b) Quy trình của BCR
Đây là quy trình chiết liên tục do Ủy ban tham chiếu cộng đồng Châu
Âu (BCR - The Commission of the European Communities Bureau of
Reference) đưa ra và đã được phát triển thành chương trình tiêu chuẩn, đo
lường và kiểm tra của hội đồng Châu Âu dùng để nghiên cứu, đánh giá hàm
lượng kim loại có trong đất hoặc trầm tích [31, 33]
Quy trình chiết tuần tự BCR giống như quy trình chiết tuần tự của Tessier
nhưng dạng trao đổi và dạng cacbonat được gộp chung lại thành một dạng
Quy trình chiết tuần tự BCR gồm các bước sau:
Bảng 1.2. Quy trình chiết tuần tự của BCR [33, 39]
Điều kiện chiết (1 gam mẫu) Dạng kim
Trao đổi và
liên kết với
40 mL HOAc 0,11 M, 22±50C, khuấy liên tục 16 giờ
cacbonat
Liên kết với
40 mL NH2OH.HCl 0,1M (pH = 2 với HNO3), 22±50C,
40 mL NH2OH.HCl 0,5M (pH = 1,5 với HNO3), 22±50C,
Fe-Mn oxit
khuấy liên tục 16 giờ
khuấy liên tục 16 giờ
(1) 10 mL H2O2 8,8 M (pH = 2-3), t0 phòng, khuấy liên tục trong 1
Liên kết với
hữu cơ
giờ (2) 10 mL H2O2 (pH = 2-3), 850C, đun 1 giờ đến thể tích 3 mL (3) 10 mL H2O2 (pH = 2-3),850C, đun 1 giờ đến thể tích 1 mL (4) 50 mL NH4OAc1M (pH = 2 với HNO3) 22±50C, khuấy liên tục
16 giờ
Cặn dư
HF, HNO3, HClO4 (5 mL HF, HClO4 3 mL, HNO3 2 mL)
loại BCR (1993) BCR (1999)
1.4. Các phương pháp xác định vết kim loại nặng
Các kim loại nặng trong đất hoặc trầm tích thường tồn tại ở hàm lượng
vết hoặc siêu vết. Do đó để phân tích và định lượng KLN có trong đất và trầm
9
tích cần đến các phương pháp đo có độ nhạy và tính chọn lọc cao. Sau đây là
một số phương pháp phân tích định lượng các vết và siêu vết của KLN.
1.4.1. Phương pháp quang phổ
1.4.1.1. Quang phổ hấp thụ phân tử (UV-VIS)
Nguyên tắc: phương pháp xác định dựa trên việc đo độ hấp thụ ánh
sáng (hay độ truyền qua T) của một dung dịch phức tạo thành giữa ion cần
xác định với một thuốc thử vô cơ hay hữu cơ trong môi trường thích hợp khi
được chiếu bởi chùm sáng. Phương trình định lượng của phép đo là:
A = K.C
A: độ hấp thụ quang
K: hằng số thực nghiệm
C: Nồng độ nguyên tố phân tích
Phương pháp này cho phép xác định nồng độ chất ở khoảng 10-5 – 10-7
M và là một trong những phương pháp được sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên
phương pháp này chịu nhiều yếu tố ảnh hưởng như: pH, thuốc thử, các ion có
mặt trong dung dịch… [27]. Đối với việc phân tích các KLN trong mẫu đất
hoặc trầm tích, do thành phần mẫu phức tạp và đặc biệt nhiều kim loại ở cỡ
nồng độ ppb, phương pháp này không đủ độ nhạy và độ chọn lọc do đó rất ít
được sử dụng. [4]
1.4.1.2. Quang phổ phát xạ nguyên tử (AES)
Khi ở điều kiện thường, nguyên tử không phát và không thu năng
lượng, nhưng nếu bị kích thích thì các điện tử hóa trị sẽ nhận năng lượng
chuyển lên trạng thái có năng lượng cao hơn (trạng thái kích thích). Trạng
thái này không bền, chúng có xu hướng giải phóng năng lượng để trở về trạng
thái ban đầu bền vững dưới dạng các bức xạ. Chính các bức xạ này gọi là phổ
phát xạ của nguyên tử.
Phương pháp phổ AES dựa trên sự xuất hiện phổ phát xạ của nguyên tử
tự do của nguyên tố phân tích ở trạng thái khí khi có sự tương tác với nguồn
năng lượng phù hợp, các bước để đo phổ AES của mẫu phân tích như sau:
10
Bước 1: Thực hiện quá trình hóa hơi và nguyên tử hóa mẫu phân tích
bằng một nguồn năng lượng phù hợp.
Bước 2: Kích thích tiếp cho đám hơi nguyên tử phát xạ
Bước 3: Thu, phân li và ghi lại phổ của mẫu nhờ hệ thống máy quang
phổ [4]
Hiện nay, người ta dùng một số nguồn năng lượng để kích thích phổ
AES: ngọn lửa đèn khí, hồ quang, tia lửa điện, tia laze, plasma cao tần cảm
ứng (ICP), tia X...trong đó ngọn lửa đèn khí, hồ quang, tia lửa điện đã được
dùng từ lâu nhưng độ nhạy không cao. Còn ICP, tia laze, plasma cao tần là
những nguồn mới được đưa vào sử dụng khoảng hơn chục năm trở lại đây cho
độ nhạy rất cao nên được sử dụng rất phổ biến để xác định hàm lượng vết các
kim loại [20].
1.4.1.3. Quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS)
Ở điều kiện thường, nguyên tử không thu hay phát năng lượng và gọi là
trạng thái cơ bản (nghèo năng lượng, bền vững). Nhưng khi ở trạng thái hơi tự
do, nếu ta kích thích chúng bằng một năng lượng dưới dạng chùm tia sáng có
bước sóng xác định thì các nguyên tử đó sẽ hấp thụ bức xạ có bước sóng nhất
định ứng đúng với tia bức xạ mà chúng có thể phát ra được trong quá trình
phát xạ của nó. Khi đó, nguyên tử chuyển lên trạng thái có năng lượng cao
hơn trạng thái cơ bản. Quá trình đó được gọi là quá trình hấp thụ năng lượng
của nguyên tử tự do ở trạng thái hơi và tạo ra phổ nguyên tử của nguyên tố
đó. Phổ sinh ra trong quá trình này được gọi là phổ hấp thụ nguyên tử AAS.
Do đó các bước đo phổ AAS cũng gồm ba bước như phổ phát xạ, nhưng
ngược nhau ở quá trình thực hiện bước thứ hai.
Bước 1: Thực hiện quá trình hóa hơi và nguyên tử hóa mẫu phân tích
bằng một nguồn năng lượng phù hợp.
Bước 2: Chiếu vào đám hơi nguyên tử tự do một chùm tia đơn sắc có bước
sóng phù hợp
Bước 3: Thu, phân li và ghi lại phổ của mẫu nhờ hệ thống máy quang phổ
11
Thực tế cho thấy phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử có nhiều ưu việt
như: Độ nhạy, độ chính xác cao, lượng mẫu tiêu thụ ít, tốc độ phân tích nhanh.
Với ưu điểm này, AAS được thế giới dùng làm phương pháp tiêu chuẩn để xác
định lượng nhỏ và lượng vết các kim loại trong nhiều đối tượng khác nhau. Với
hai kỹ thuật nguyên tử hóa, nên chúng ta cũng có hai phép đo tương ứng. Đó là
phép đo phổ hấp thụ nguyên tử trong ngọn lửa (F-AAS có độ nhạy cỡ 0,1μg/mL)
và phép đo phổ hấp thụ nguyên tử không ngọn lửa (GF-AAS có độ nhạy cao hơn
kỹ thuật ngọn lửa 50-1000 lần, cỡ 0,1-10ng/mL).
a, Kĩ thuật đo F - AAS
Đây là kĩ thuật, người ta dùng năng lượng nhiệt của ngọn lửa đèn khí
để hóa hơi và nguyên tử hóa mẫu phân tích. Mọi quá trình xảy ra khi nguyên
tử hóa mẫu phụ thuộc vào các đặc trưng và tính chất của ngọn lửa đèn khí,
nhưng chủ yếu là nhiệt độ của ngọn lửa. Đó là yếu tố quyết định hiệu suất
nguyên tử hóa mẫu phân tích, và mọi yếu tố ảnh hưởng đến nhiệt độ của ngọn
lửa đèn khí đều ảnh hưởng đến kết quả của phương pháp phân tích. Tuy nhiên
với ưu điểm là chi phí thấp hơn phép đo ICP-AES, GF-AAS nên kĩ thuật đo
F-AAS được sử dụng rất rộng rãi trong việc xác định hàm lượng vết các kim
loại trong các đối tượng mẫu khác nhau [15].
b) Kĩ thuật GF - AAS
Kĩ thuật nguyên tử hóa không ngọn lửa ra đời sau kĩ thuật nguyên tử
hóa trong ngọn lửa. Nhưng kĩ thuật này được phát triển rất nhanh và hiện nay
đang được ứng dụng rất phổ biến vì kĩ thuật này có độ nhạy rất cao hay giới
hạn phát hiện rất nhỏ chỉ từ 0,02 – 0,06 ppb [14]. Do đó, khi phân tích lượng
vết kim loại trong trường hợp không cần thiết phải làm giàu sơ bộ các nguyên
tố cần phân tích.
Về nguyên tắc, kĩ thuật nguyên tử hóa không ngọn lửa là quá trình
nguyên tử hóa tức khắc trong thời gian rất ngắn nhờ năng lượng nhiệt của
dòng điện có công suất lớn và trong môi trường khí trơ. Quá trình nguyên tử
hóa xảy ra theo ba giai đoạn kế tiếp nhau: sấy khô, tro hóa luyện mẫu, nguyên
12
tử hóa để đo phổ hấp thụ và cuối cùng là làm sạch cuvet. Nhiệt độ trong cuvet
graphit là yếu tố chính quyết định mọi sự diễn biến của quá trình nguyên tử
hóa mẫu. [4]
1.4.2. Phương pháp điện hóa
Ngày nay đã có tới 30 phương pháp phân tích điện hóa khác nhau.
Song nguyên tắc và sơ đồ chung của tất cả các phương pháp này là: chất phân
tích được hòa tan thành dung dịch (thường là trong môi trường nước) rồi cho
vào bình đo có cấu tạo phù hợp với từng phương pháp cụ thể. Trong bình điện
phân có 2 hay 3 điện cực là:
- Điện cực chỉ thị
- Điện cực so sánh
- Điện cực phù trợ (có thể không có)
Các điện cực này được nối với máy đo để đo một đại lượng điện hóa
đặc trưng cho bản chất của quá trình điện hóa của chất nghiên cứu. Đại lượng
đo đó tỉ lệ tuyến tính với nồng độ chất nghiên cứu.
Tất cả các phương pháp phân tích điện hóa đều có cơ sở lý thuyết
chung về điện hóa học như cân bằng điện hóa, điện cực và thế điện cực...
Trong các phương pháp phân tích điện hóa thì nhóm các phương pháp
cực phổ và von-ampe là những phương pháp quan trọng nhất, vì đây là
phương pháp cơ sở cho các phương pháp khác.
1.4.2.1. Phương pháp cực phổ
Phương pháp này sử dụng điện cực giọt thủy ngân. Người ta tiến hành
điện phân và đo cường độ dòng với một dãy dung dịch chuẩn biết trước nồng
độ,, trong đó được quét thế tuyến tính rất chậm theo thời gian đồng thời ghi
dòng là hàm của thế trên điện cực giọt thủy ngân rơi. Cường độ dòng phụ
thuộc thế điện phân trong dung dịch và thế điện cực. Phương pháp cực phổ
nói chung cho độ nhạy chỉ đạt cỡ 10-4 – 10-5M.
Đối với việc xác định hàm lượng vết các KLN trong đất và trầm tích,
thì phương pháp cực phổ rất ít được sử dụng do phép đo có độ nhạy không
cao và có nhiều yếu tố ảnh hưởng.
13
1.4.2.2. Phương pháp von-ampe hòa tan
Danh từ Von- Ampe được sử dụng để chỉ một nhóm các phương pháp
phân tích điện hóa sử dụng điện cực làm việc không phải chỉ là điện cực giọt
rơi thủy ngân như trong phương pháp cực phổ.
Ưu điểm nổi bật của phương pháp này là có độ nhạy cao từ 10-6 – 10-8M và
xác định được nhiều kim loại.
Nguyên tắc chung của phương pháp Von- Ampe hòa tan gồm hai
giai đoạn:
Giai đoạn 1: Điện phân làm giàu chất cần phân tích trên bề mặt điện
cực làm việc, trong khoảng thời gian xác định, tại thế điện cực xác định.
Giai đoạn 2: Hoà tan kết tủa đã được làm giàu bằng cách phân cực
ngược điện cực làm việc, đo và ghi dòng hoà tan. Trên đường Von-Ampe hoà
tan xuất hiện pic của nguyên tố cần phân tích. Chiều cao pic tỉ lệ thuận với
nồng độ.
Với kĩ thuật ghi đo hiện đại cộng với việc vi tính hóa, phương pháp
Von- Ampe hòa tan xung vi phân đang là một trong những phương pháp phân
tích vết kim loại nặng nhạy nhất hiện nay [32]. Tuy nhiên, phương pháp này
cũng có nhược điểm: độ nhạy bị hạn chế bởi dòng dư, nhiều yếu tố ảnh hưởng
(điện cực chỉ thị, chất nền, tốc độ quét, thế ghi sóng cực phổ...).
1.4.3. Phương pháp phổ khối plasma cảm ứng (ICP - MS)
1.4.3.1. Nguyên tắc của phương pháp
ICP-MS là một phương pháp phân tích các chất vô cơ dựa trên sự ghi
đo phổ theo số khối (m/z) của các nguyên tử nguyên tố cần phân tích. ICP là
ngọn lửa plasma tạo thành bằng dòng điện có tần số cao (cỡ MHz) được cung
cấp bằng một máy phát cao tần. Ngọn lửa plasma với nhiệt độ cao có tác dụng
chuyển các nguyên tử nguyên tố trong mẫu phân tích thành dạng ion. MS là
phép ghi đo phổ theo số khối (m/z). ICP-MS là sự kết hợp thành công và hoàn
hảo của hai thiết bị phân tích là ICP và MS [27]
14
Nguyên tắc chủ yếu của ICP-MS là tạo ra ion điện tích dương sử dụng
nguồn plasma nhiệt độ cao. Mẫu lỏng được bơm vào trong hệ thống đưa mẫu
của thiết bị gồm: hệ thống tạo sol khí (nebulizer) và buồng phun (spray
chamber). Mẫu chuyển sang thể sương (aerosol) và đưa đến plasma qua hệ
thống bơm mẫu. Sau đó, mẫu được làm khô, bay hơi, nguyên tử hóa và ion
hóa trong các khu vực có nhiệt độ khác nhau của plasma. Ở vùng 6000K -
7000K nguyên tử bị kích thích, tồn tại dạng ion và các thành phần cơ bản
khác của mẫu [26]
Các ion dương được tạo thành sau đó được vận chuyển và phát hiện.
Mặc dù các ion âm cũng được tạo thành trong plasma cùng với các ion dương
nhưng các ion âm được chuyển khỏi các ion dương và do đó chúng không
được đo. Khi nguyên tố có hơn một đồng vị, ion dương của từng đồng vị
được tạo ra trong plasma, điều đó tạo ra phổ khối khác nhau. Do đó có thể
phân tích thành phần đồng vị của các nguyên tố bằng ICP-MS.
1.4.3.2. Ưu điểm - nhược điểm của phương pháp
So với các phương pháp phân tích vết khác, phương pháp phổ khối
plasma (ICP-MS) có nhiều ưu điểm nổi trội:
- ICP-MS là sự kết hợp thành công và hoàn hảo của hai thiết bị phân
tích là ICP và MS.
- Do nguyên tắc của phương pháp này là tạo các ion dương nên mặc dù,
các ion âm cũng được tạo thành trong plasma cùng với các ion dương nhưng
các ion âm được chuyển khỏi các ion dương và do đó chúng không được đo.
Khi nguyên tố có hơn một đồng vị, ion dương của từng đồng vị được tạo ra
trong plasma, điều đó tạo ra phổ khối khác nhau. Do đó có thể phân tích thành
phần đồng vị của các nguyên tố bằng phương pháp này.
- Phương pháp khối phổ plasma cảm ứng (ICP-MS) có điểm khác biệt với
các phương pháp khác về độ phổ biến, độ lặp lại cao, độ nhạy cao và xác định
đồng thời được hàng loạt các kim loại trong thời gian phân tích ngắn. ICP-MS
15
cho phép xác định đồng thời hầu hết các nguyên tố trong vùng nồng độ rộng với
độ chính xác cao bằng cách làm bay hơi và ion hóa các mẫu rắn, lỏng.
- Phương pháp ICP-MS cho phép phân tích lượng vết đồng thời hơn 70
nguyên tố từ Li đến U với độ nhạy rất cao cũng như phân tích các đồng vị,
tỷ số đồng vị các nguyên tố. Mặt khác, phổ ICP-MS ít vạch hơn phổ ICP-
OES nên có độ chọn lọc cao hơn, ảnh hưởng của các thành phần trong nền
mẫu ít hơn và có thể loại trừ được.
Tuy phương pháp khối phổ plasma cảm ứng (ICP-MS) có độ chính xác
và độ nhạy cao nhưng nếu trong dung dịch mẫu nồng độ của chất nền quá lớn
thì kết quả xác định hàm lượng các nguyên tố bằng phương pháp này sẽ
không đảm bảo độ chính xác. Vì khi hàm lượng của nguyên tố nền quá lớn,
nó sẽ ảnh hưởng làm thay đổi hiệu suất ion hóa các nguyên tố cần phân tích,
dẫn đến thay đổi kết quả phân tích. Để đảm bảo kết quả phân tích bằng phương
pháp ICP-MS, nhất thiết phải nghiên cứu ảnh hưởng của nền và phương pháp
loại trừ ảnh hưởng hoặc tách các tạp chất ra khỏi nền; dùng nước cất hai lần,
dụng cụ và các hóa chất loại tinh khiết hóa học và siêu tinh khiết. Các dung dịch
gốc phải đựng trong các chai có chất lượng tốt, có nắp đậy kín, khi sử dụng phải
tuân theo tất cả các thao tác của phân tích lượng vết [20, 27, 35].
Như vậy, có rất nhiều phương pháp định lượng các vết kim loại trong
đất cho kết quả chính xác, nhưng với điều kiện trang thiết bị hiện có của
phòng thí nghiệm thực hiện luận văn này thì phương pháp ICP_MS là phương
pháp định lượng phù hợp hơn cả.
1.5. Tình hình nghiên cứu phân tích dạng kim loại nặng trong đất các khu
vực khai thác quặng ở trong và ngoài nước
1.5.1. Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, đã có một số nghiên cứu của các nhà khoa học về phân tích
dạng hóa học bằng các quy trình chiết liên tục theo quy trình Tessier cải tiến để
đánh giá hàm lượng của một số kim loại nặng trong các mẫu trầm tích. Một số
kết quả nghiên cứu cụ thể như sau:
16
Khi nghiên cứu “Xác định dạng một số kim loại nặng trong trầm tích
thuộc lưu vực sông Cầu” bằng phương pháp Von Ampe hòa tan, tác giả Dương
Thị Tú Anh đã nhận thấy các kim loại nặng Zn, Cd, Pb và Cu phân bố chủ yếu ở
dạng liên kết bền và sự phân bố của các kim loại trong trầm tích không có sự
khác nhau nhiều giữa các điểm lấy mẫu. Dạng trao đổi là dạng có thành phần
nhỏ nhất trong năm dạng chiết, sau đó là dạng liên kết với cacbonat, dạng liên
kết với hữu cơ. Sự tồn tại của các kim loại trong các dạng không bền của trầm
tích cảnh báo nguy cơ lan truyền ô nhiễm của chúng trong lưu vực sông, do vậy
cần có biện pháp hợp lý để quán triệt và quy vùng ô nhiễm [ 2 ]
Cũng tiến hành nghiên cứu về “Phân tích dạng một số KLN trong cột trầm
tích thuộc lưu vực sông Cầu trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên”, tác giả Phạm Thị
Thu Hà đã sử dụng phương pháp AAS, và rút ra kết luận chì tồn tại chủ yếu ở 3
dạng, đó là dạng liên kết với cacbonat (F2), dạng liên kết với sắt-mangan oxi-
hydroxit (F3) và dạng cặn dư (F5) giống như trong một số trầm tích sông, hồ ở
Việt Nam và một số nước trên thế giới. Hàm lượng F2 của chì trong trầm tích
sông Cầu- Thái Nguyên khá cao, đây là dạng kém bền vững, dễ giải phóng vào
nước khi pH của nước giảm cũng như dễ dàng bị hấp thu bởi hệ sinh vật [4].
Trong nghiên cứu về “Phân tích dạng kim loại chì (Pb) và cadimi (Cd)
trong đất và trầm tích bằng phương pháp hấp thụ nguyên tử”, nhóm tác giả Vũ
Đức Lợi, Trần Thị Lệ Chi và các cộng sự sử dụng phương pháp AAS, đã rút ra
kết luận rằng: trong các mẫu trầm tích và đất ở lưu vực sông Nhuệ và sông Đáy
đều tách ra được năm dạng của chì và cadimi bằng quy trình chiết liên tục và
đánh giá được mức độ ô nhiễm, khả năng đáp ứng sinh học của Pb và Cd tại
những điểm nghiên cứu [6]
1.5.2. Trên thế giới
Trên thế giới, đã có rất nhiều quốc gia, tổ chức, các viện nghiên cứu, các
trường đại học lớn, đã tiến hành nghiên cứu về các dạng tồn tại và hàm lượng
17
KLN trong đất, đặc biệt là sự ảnh hưởng của chất thải trong ngành khai khoáng
đến môi trường cũng như sức khỏe của con người.
Trong nghiên cứu “Ô nhiễm KLN trong đất và rau quả và đánh giá rủi ro
sức khỏe cư dân ở Đại Dã, Trung Quốc” bằng phương pháp phổ khối plasma
cảm ứng (ICP-MS), nhóm tác giả đã đưa ra kết luận nồng độ các KLN như Cu,
Pb, Cd, As trong đất và rau ở khu khai thác mỏ cao hơn so với khu xa khai thác
mỏ, cho thấy đất trong khu vực ô nhiễm bị ảnh hưởng lớn bởi hoạt động khai
thác và luyện kim [25]
Tác giả Chun Ling Luo và các cộng sự khi nghiên cứu “Ô nhiễm KLN
trong đất và rau gần một địa điểm xử lý chất thải điện tử, phía Nam Trung
Quốc” bằng phương pháp quang phổ phát xạ nguyên tử plasma cảm ứng (ICP-
AES), đã kết luận đất ở những nơi rác thải điện tử được đốt ngoài trời bị nhiễm
Cd, Cu, Pb, Zn. Trong các mô ăn được của rau, nồng độ Cd và Pb trong hầu hết
các mẫu đều vượt quá mức cho phép đối với thực phẩm ở Trung Quốc [29].
Trong nghiên cứu “Đánh giá những nguy hiểm đến sức khỏe của các
KLN trong đất tại thung lũng khai thác vàng Witwatersrand, Nam Phi”, tác giả
Caspah Kamunda, và các cộng sự đã rút ra kết quả nồng độ trung bình của KLN
trong đất từ khu vực khai thác vàng thay đổi đáng kể và giảm theo thứ tự Cr > Ni
> As > Zn > Cu > Co > Pb > Hg > Cd. Trên cơ sở kết quả của nghiên cứu này,
có thể kết luận rằng các loại đất xung quanh khu vực khai thác vàng bị ô nhiễm
nghiêm trọng bởi KLN và cần đưa ra các quy định khai thác để bảo vệ người
dân, đặc biệt là trẻ em do ô nhiễm KLN trong môi trường [12].
Như vậy, không chỉ ở Việt Nam mà ở tất cả các nước trên Thế giới (đặc
biệt là các nước đang phát triển và kém phát triển), hoạt động khai thác và chế
biến khoáng sản cũng đã để lại nhiều hậu quả môi trường, gây suy thoái môi
trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân.
18
1.6. Một số tiêu chuẩn đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại nặng trong đất
1.6.1. Tiêu chuẩn đánh giá đất ô nhiễm kim loại nặng của một số nước trên
thế giới
Tùy theo mục đích sử dụng đất, ngưỡng độc hại đối với các KLN trên
từng loại đất là khác nhau. Tùy theo từng quốc gia, công việc kiểm soát đánh
giá đất ô nhiễm cũng khác nhau.
Ở Anh, trích theo tác giả Lê văn Khoa và cộng sự, mức độ đánh giá
kim loại Pb được xác định ở bảng sau:
Bảng 1.3. Mức độ ô nhiễm kim loại Pb ở Anh [5]
Kim loại Ô nhiễm Ô nhiễm Ô nhiễm Ô nhiễm nặng (tổng số) nhẹ trung bình rất nặng
Đơn vị: mg/Kg
Pb 500 – 1.000 1.000 – 2.000 2.000 – 10.000 > 10.000
Ở Hà Lan, theo nghiên cứu của tác giả Võ Văn Minh [7], chính phủ đã
xây dựng hệ thống gồm 3 mức: giá trị chấp nhận được hay giá trị nền, giá trị
chứng tỏ quá trình nhiễm bẩn đang xảy ra và giá trị cần thiết phải làm sạch.
Bảng 1.4. Đánh giá mức ô nhiễm kim loại Pb trong đất ở Hà Lan
Hàm lượng trong đất (mg/kg) Nguyên tố
Pb A 50 B 150 C 600
Chú thích:
A – Nhẹ và trung bình, pH < 5,5;
B – Trung bình và nặng, pH < 5,5;
C – Nặng và giàu chất hữu cơ, pH = 5,5 – 6,5.
Đối với đất nông nghiệp, mỗi quốc gia có giới hạn cho phép riêng cho
nồng độ của các KLN. Mục tiêu của giới hạn này là bảo vệ tính năng sản xuất
của đất, môi trường và sức khỏe con người.
19
Bảng 1.5. Hàm lượng tối đa cho phép của kim loại Pb đối với thực vật
trong đất nông nghiệp
Anh Đức
Nguyên tố Áo Canađa Ba Lan Nhật 400 200 100 100 Pb 50 (100) 500 (1000)
Đơn vị: mg/Kg. Nguồn: Trích theo Lê Văn Khoa và nnk, 2008 [5]
1.6.2. Tiêu chuẩn đánh giá đất ô nhiễm kim loại nặng của Việt Nam
Ở Việt Nam, tại khu vực các khu công nghiệp, các nơi khai thác quặng
và các làng nghề tái chế, đặc biệt là tái chế kim loại, thì môi trường đất đã có
nguy cơ bị ô nhiễm và ngày càng được quan tâm nghiên cứu.
Tiêu chuẩn Việt Nam QCVN 03-MT:2015/BTNMT[9] đưa ra giới hạn
tối đa cho phép hàm lượng tổng số của Pb trong đất dùng cho mục đích khác
nhau ở Việt Nam được trình bày trong bảng sau.
Bảng 1.6. Giới hạn tối đa cho phép hàm lượng tổng số
đối với Pb trong đất
Đất thương Đất nông Đất lâm Đất dân Đất công Thông số mại, dịch nghiệp nghiệp sinh nghiệp vụ
Đơn vị: mg/Kg khô
Chì (Pb) 70 100 70 300 200
1.7. Khu vực nghiên cứu
1.7.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội mỏ kẽm chì Làng Hích, huyện
Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
1.7.1.1. Điều kiện tự nhiên
Khu mỏ làng Hích được người Pháp phát hiện vào năm 1905, và đưa
vào khai thác từ năm 1913 đến năm 1928. Khu mỏ kẽm-chì Làng Hích nằm
trên địa bàn xã Tân Long, cách trung tâm huyện Đồng Hỷ chừng 25km. Tại
đây phát triển các thành tạo carbonat, lục nguyên, lục nguyên xen carbonat
20
tuổi Paleozoi thuộc nếp nồi Thần Sa. Các tụ khoáng và điểm quặng hóa
thường phân bố theo các đới dập vỡ của đá vôi thuộc hệ tầng Mia Lé và hệ
tầng Bắc Sơn tạo thành các thân quặng dạng mạch, dạng trao đổi thay thế.
Mỗi tụ khoáng thường có hai đến nhiều thân quặng, kéo dài 25-300m, dày 1-
4m, duy trì xuống sâu có khi đến 100m. Sáu điểm khai thác khu mỏ Làng
Hích tập trung vào ba khu vực chính là: Mỏ Ba, Metis và Bắc Lâu. Ba khu
vực này nằm kề nhau, có cấu tạo địa chất khá giống nhau. Tuy nhiên tại Mỏ
Ba và Metis quặng chủ yếu là sunfua, còn tại Bắc Lâu chủ yếu là quặng thứ
sinh. Nhìn chung, quặng hóa chì kẽm trong khu vực Làng Hích thường tập
trung dọc theo các đứt gãy phương Đông Bắc – Tây Nam. Thành phần chủ
yếu của quặng là galenit, sphalerit, pyrit. Ở một số tụ khoáng, quặng bị oxy
hóa tạo thành các thân quặng thứ sinh gồm chủ yếu là cerusit, anglesit,
smithsonit, calamin. Hàm lượng kẽm thường đạt trên dưới 10 %. Ngoài chì,
kẽm, trong quặng còn có lượng cadmi khá cao [3].
1.7.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
Tại khu vực mỏ Pb/Zn trên địa bàn xã Tân Long, huyện Đồng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên có một nhóm dân cư sinh sống, chủ yếu dựa vào trồng trọt và
chăn nuôi. Dân cư canh tác, trồng hoa màu trên các sườn đồi và vùng đất
trũng bằng phẳng, cây hoa màu chủ đạo tại thời điểm khảo sát là lạc, ngô.
Chăn thả chủ yếu là nuôi trâu. Kinh tế của người dân vẫn chủ yếu dựa vào
nông nghiệp
Bên cạnh đó, các hoạt động khai thác khoáng sản tại các mỏ kẽm-chì,
phần nào đã có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn đất, nước, không khí, ảnh hưởng
trực tiếp đến môi trường, kinh tế và đặc biệt là sức khỏe của người dân.
1.7.2. Tình hình ô nhiễm của mỏ kẽm chì Làng Hích, huyện Đồng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên
Đối với việc khai thác kẽm chì, ô nhiễm môi trường không khí xảy ra
do các hoạt động: khoan, nổ mìn, bốc xúc, vận chuyển quặng, chất thải, hoạt
21
động tại xưởng tuyển. Nếu như trong quá trình mở rộng quy mô công suất và
mỏ không có các biện pháp giảm thiểu thì nguy cơ ô nhiễm môi trường không
khí là không nhỏ.
Bên cạnh đó, môi trường nước cũng có nguy cơ bị ô nhiễm do tuyển và
chế biến kẽm chì:
- Nước thải phát sinh trong quá trình tuyển quặng
- Nước làm mát máy biến áp của trạm cung cấp năng lượng
- Nước thải của phòng hóa nghiệm có chứa một lượng nhỏ hóa chất
dùng trong phòng hóa nghiệm
- Nước thải của trạm xử lý nước trong chu trình tuần hoàn bị dư thừa
hoặc bị sự cố chảy tràn
- Nước vệ sinh công nghiệp
Về cơ bản nước thải tuyển nói chung ô nhiễm chính vẫn là pH, độ màu,
các hóa chất tuyển nổi và một số KLN có trong quặng
Mặc dù có tính đệm và có khả năng tự làm sạch và ít bị ảnh hưởng
mạnh mẽ bởi các chất gây ô nhiễm, song sự tích lũy các chất bẩn theo thời
gian sẽ làm tăng nguy cơ gây ô nhiễm môi trường đất
Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường đất bao gồm:
- Chất thải sinh hoạt, chất thải sản xuất
- Ô nhiễm môi trường không khí và nước thải. Các chất ô nhiễm trong
không khí theo nước mưa chảy tràn, chất ô nhiễm trong nước thải ngấm
xuống đất làm ảnh hưởng đến chất lượng đất gây suy thoái đất
Như vậy, các hoạt động khai thác tại mỏ kẽm chì cũng đã gây ra một số
ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh tế xã hội và sức khỏe của người dân
trong vùng
Vì vậy, việc nghiên cứu để đánh giá tình trạng ô nhiễm KLN trong khu
vực mỏ kẽm- chì thuộc Làng Hích, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên là rất
cần thiết.
22
CHƯƠNG 2. ĐIỀU KIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM
2.1. Hóa chất, thiết bị sử dụng
2.1.1. Hóa chất, dụng cụ
- Do yêu cầu nghiêm ngặt, đảm bảo tính chính xác của phép đo, các hóa
chất sử dụng đều là loại tinh khiết phân tích của Merck.
1. Axit HNO3 đặc 65%
2. Axit HClO4
3. Axit CH3COOH (HOAc)
4. Axit HCl đặc 37%
5. CH3COONH4 (NH4OAc) tinh thể
6. NH2OH.HCl tinh thể
7. Dung dịch chuẩn Pb2+ 1000 ppm
8. Cốc thủy tinh, bình định mức, phễu thủy tinh, pipet, giấy lọc
9. Ống ly tâm polyme 50 mL
- Dụng cụ được ngâm trong dung dịch HNO3 trong 24 giờ, sau đó rửa
sạch bằng nước cất.
- Các dung dịch pha chế:
1. Dung dịch HNO3 20%: lấy 61,42 mL dung dịch HNO3 65% vào bình
định mức 250 mL, rồi định mức với nước cất đến vạch
2. Dung dịch NH4OAc 3,2M trong dung dịch HNO3 20%: Hòa tan
246,656g NH4OAc bằng dung dịch HNO3 20% vào bình 1000 mL và định
mức bằng dung dịch HNO3 20% đến vạch.
3. Dung dịch NH4OAc 1M: Hòa tan 77,08 gam NH4OAc bằng nước cất
trong bình 1000ml rồi định mức bằng nước cất đến vạch
4. Dung dịch NH4OAc 1M axit hóa đến pH = 5,0 với axit axetic HOAc:
Dùng máy đo pH điều chỉnh đến pH = 5,0 bằng axit axetic
5. Dung dịch HOAc 25% (v/v): Lấy 250 mL axit HOAc nguyên chất
vào bình định mức 1000 mL rồi định mức bằng nước cất đến vạch
23
6. Dung dịch NH2OH.HCl 0,04M trong dung dịch HOAc 25% (v/v):
Hòa tan 0,695 g NH2OH.HCl bằng dung dịch HOAc 25% rồi định mức bằng
dung dịch HOAc 25% đến thể tích 250 mL trong bình định mức 250 mL
2.1.2. Trang thiết bị
Các phép đo được thực hiện trên hệ thiết bị phân tích khối phổ cảm ứng
plasma ICP-MS Nexion 2000 của hãng Perkin Elmer, phòng phân tích, viện
Hóa học, viện Hàn lâm khoa học Việt Nam.
Hình 2.1. Thiết bị ICP-MS Nexion 2000 của hãng Perkin Elmer
Thiết bị phá mẫu là lò vi sóng Milestone Ethos 900 Microwave
Labstation của hãng HiTechTrader của Khoa Hóa học – Trường ĐH Sư phạm
- ĐH Thái Nguyên.
24
Hình 2.2. Lò vi sóng Milestone Ethos 900 Microwave Labstation
Có thể điều khiển quá trình ghi đo trên máy bằng các chương trình đo
cụ thể do người đo thực hiện dưới dạng các câu lệnh.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng các dụng cụ thủy tinh
như: bình định mức, pipet, cốc thủy tinh, bình tam giác, lọ nhựa PE, chai lọ
đựng hóa chất đều được rửa sạch, sau đó tráng lại bằng nước cất một lần, cuối
cùng là tráng bằng nước cất hai lần và làm khô trước khi dùng.
2.1.3. Đánh giá độ chụm của phép đo, giới hạn phát hiện, giới hạn định
lượng của phương pháp ICP-MS
2.1.3.1. Đánh giá độ chụm của phép đo
Độ chụm phản ánh sự phù hợp giữa các kết quả thu được trong các lần
thí nghiệm lặp lại ở trong cùng một điều kiện thực nghiệm quy định của phép
đo. Kết quả đo có thể có độ chụm cao nhưng không đúng hoặc ngược lại. Độ
chụm phản ánh qua phương sai của phép đo.
* Phương sai : Phương sai được tính theo công thức (2.1) khi số giá trị
thực nghiệm khi n 30 (một số tài liệu tính khi n 20):
(2.1)
25
Trong đó: S2 là phương sai của đại lượng ngẫu nhiên X
là giá trị trung bình cộng của đại lượng ngẫu nhiên X
xi là giá trị của X ở lần đo thứ i (i = 1 n).
n là số giá trị của đại lượng ngẫu nhiên X.
k là số bậc tự do. Khi n 30 (một số tài liệu tính khi n 20) k= n-1
* Độ lệch chuẩn: Độ lệch chuẩn của một tập số liệu là giá trị căn bậc
hai trị số phương sai của nó theo công thức (2.2): S = (2.2)
Trong đó: S là độ lệch chuẩn của đại lượng ngẫu nhiên X.
Để đánh giá độ chụm của phép đo chúng tôi tiến hành 5 lần đo lặp lại
với dung dịch mẫu chuẩn.
2.1.3.2. Giới hạn phát hiện (Limit of Detection - LOD)
Có 2 cách tính LOD, cụ thể là:
+ Cách 1: Tiến hành thí nghiệm để lập phương trình đường chuẩn, từ
đó xác định Sy (độ lệch chuẩn của tín hiệu y trên đường chuẩn) và chấp nhận
Sy = Sb. Như vậy LOD là nồng độ của chất phân tích cho tín hiệu bằng 3Sy.
Từ phương trình đường chuẩn tính được nồng độ của chất phân tích. Cách
này có thể tiến hành nhanh nhưng không thật chính xác vì đã chấp nhận sự
phụ thuộc của tín hiệu vào nồng độ mà thông thường các đường chuẩn lập ra
thường có khoảng nồng độ cách xa LOD.
+ Cách 2: Tiến hành n thí nghiệm xác định nồng độ mẫu trắng, thu
được các giá trị ybi ( i=1, 2,....., n), từ đó tính toán các đại lượng yb, Sb và LOD
(2.3)
(2.4)
theo các công thức:
Trong đó: n là số lần đo
n-1 là số bậc tự do.
26
Nếu nồng độ mẫu trắng xác định được là yb thì LOD được tính theo
công thức:
LOD = yb + 3.Sb
(2.5) 2.1.3.3. Giới hạn định lượng (Limit Of Quantification - LOQ)
Giới hạn định lượng được xem là nồng độ thấp nhất của chất phân tích
mà hệ thống định lượng được với tín hiệu phân tích khác có ý nghĩa định
lượng với tín hiệu mẫu trắng (hay tín hiệu nền) và đạt độ tin cậy 95%.
Thường người ta chấp nhận tính giới hạn định lượng theo công thức (2.5):
(2.6) LOQ = yb + 10 Sb 3 LOD
S là độ lệch chuẩn của tín hiệu y trên đường chuẩn
Giới hạn định lượng bằng 3 lần giới hạn phát hiện hoặc bằng 9 lần độ
chênh lệch chuẩn của mẫu trắng.
2.2. Thực nghiệm lấy mẫu phân tích
2.2.1. Vị trí lấy mẫu, phương pháp lấy mẫu và bảo quản
2.2.1.1. Vị trí lấy mẫu
Để xác định hàm lượng tổng và hàm lượng các dạng liên kết Pb trong
các mẫu đất thuộc khu vực bãi thải của mỏ Pb/Zn, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái
Nguyên và trong các mẫu đất nông nghiệp gần khu vực bãi thải, để đánh giá
mức độ ô nhiễm của kim loại Pb trong đất cũng như tìm ra các dạng liên kết
chủ yếu của chì trong các mẫu đất nghiên cứu.
Chúng tôi tiến hành lấy các mẫu đất phân tích vào tháng 11/ 2018 ở các
điểm khác nhau ở khu vực bãi thải mỏ kẽm-chì làng Hích, mẫu trầm tích ở
suối gần mỏ khai thác kẽm- chì và các mẫu đất nông nghiệp gần khu vực bãi
thải, gần khu vực suối có độ sâu là từ: 0 - 20 cm; Địa điểm cụ thể được trình
bày cụ thể hình 2.3 và bảng 2.1:
27
Hình 2.3. Các địa điểm lấy mẫu đất gần mỏ kẽm-chì làng Hích,
Đồng Hỷ, Thái Nguyên
28
Bảng 2.1. Vị trí lấy các mẫu đất gần mỏ kẽm-chì làng Hích,
Đồng Hỷ, Thái Nguyên
Địa điểm lấy mẫu
Độ sâu (cm) 0 - 20
Kí hiệu BT1
0 - 20
BT2
0 - 20
BT3
Bãi thải của mỏ Pb/Zn
0 - 20
BT4
0 - 20
BT5
0 - 20
BT6
0 - 20
RN1
0 - 20
RN2
Ruộng ngô gần bãi thải
0 - 20
RN3
0 - 20
R_BT1
0 - 20
R_BT2
0 - 20
R_BT3
Ruộng lúa gần bãi thải
0 - 20
R_BT4
0 - 20
R_BT5
0 - 20
TTS1
0 - 20
TTS2
0 - 20
TTS3
Mẫu trầm tích ở suối gần mỏ khai thác quặng Pb/Zn
0 - 20
TTS4
0 - 20
TTS5
0 - 20
TTS6
0 - 20
R_S1
Ruộng ở gần suối gần mỏ khải thác
0 - 20
R_S2
Tọa độ 21°43'32.81"N 105°51'21.32"E 21°43'34.88"N 105°51'21.96"E 21°43'33.35"N 105°51'22.91"E 21°43'31.00"N 105°51'21.13"E 21°43'32.25"N 105°51'20.07"E 21°43'35.03"N 105°51'21.27"E 21°43'31.71"N 105°51'16.81"E 21°43'28.60"N 105°51'19.18"E 21°43'29.69"N 105°51'15.56"E 21°43'27.33"N 105°51'17.08"E 21°43'26.07"N 105°51'15.38"E 21°43'24.38"N 105°51'12.81"E 21°43'21.99"N 105°51'8.93"E 21°43'13.41"N 105°50'58.30"E 21°43'46.04"N 105°51'11.51"E 21°43'46.84"N 105°51'9.87"E 21°43'47.17"N 105°51'7.55"E 21°43'48.50"N 105°51'3.87"E 21°43'47.13"N 105°51'0.52"E 21°43'45.13"N 105°50'55.14"E 21°43'45.56"N 105°51'2.51"E 21°43'40.49"N 105°50'51.43"E
29
2.2.1.2. Lấy mẫu và bảo quản mẫu
Mẫu phân tích là một lượng mẫu nhất định (tính theo khối lượng hay
thể tích), tối thiểu cần thiết được lấy để phân tích xác định các chỉ tiêu mong
muốn của đối tượng cần nghiên cứu, quan sát. Do vậy mẫu phân tích được lấy
từ các đối tượng cần nghiên cứu và phải đại diện được cho đúng đối tượng đó.
Mẫu đất được lấy tại hiện trường trên tầng đất mặt (từ 0 – 20 cm). Tại
mỗi vị trí lấy mẫu, lấy khoảng 4-5 mẫu trong bán kính 5 m, mỗi mẫu lấy
khoảng 500 gam mẫu đưa vào túi polyetylen sạch và được bảo quản cẩn thận
trong khi vận chuyển. Sau đó mẫu được tiền xử lý bằng cách phơi khô rồi
nghiền nhỏ và sàng qua rây có đường kính lỗ 2 mm để loại bỏ đá, sạn, rễ
cây.
2.2.2. Quy trình phân tích hàm lượng tổng và các dạng kim loại
2.2.2.1. Quy trình phân tích hàm lượng tổng kim loại
Xử lý mẫu bằng lò vi sóng
- Cân 1,0000 gam mẫu đất khô, thêm lần lượt 5 mL HNO3 đặc và 15
mL HCl đặc chuyển vào ống teflon. Đóng lại theo quy định của nhà sản xuất.
- Đặt chế độ lò vi sóng theo bảng dưới đây:
Bảng 2.2. Chế độ lò vi sóng phá mẫu
Chế độ lò vi sóng phá mẫu
TT 1 2 3 4 5 Công suất Nâng nhiệt độ Thời gian giữ nhiệt Nhiệt độ Làm mát (~ 1200 W) 10 phút 10 phút 170 °C 20 phút
Để nguội rồi định mức bằng HNO3 1% đến 25 mL rồi tiến hành lọc lấy
dung dịch chứa ion kim loại. Tiến hành tương tự với mẫu trắng. Hàm lượng
tổng kim loại được xác định bằng phương pháp ICP-MS.
2.2.2.2. Quy trình chiết dạng kim loại
30
Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu [2, 4, 6], chúng tôi đã áp dụng quy
trình chiết tuần tự đã cải tiến của Tessier.
* Cách tiến hành các giai đoạn cụ thể:
- Giai đoạn 1: chiết dạng trao đổi
Cân 1g mẫu đã sấy khô vào ống li tâm 50 mL, thêm 10,00 mL NH4OAc
1M, lắc đều với tốc độ 300 vòng/phút trong 1 giờ bằng máy lắc, ở nhiệt độ
phòng. Sau đó, li tâm với tốc độ 3000 vòng/phút trong 15 phút để thu dịch
chiết F1.
- Giai đoạn 2: dạng liên kết với cacbonat
Cặn còn lại sau khi chiết F1 được thêm vào 20,00 mLNH4OAc 1M đã
axít hóa bằng HOAc đến pH = 5, lắc đều trong 5 giờ với tốc độ 300 vòng/phút
bằng máy lắc, ở nhiệt độ phòng. Sau đó, li tâm với tốc độ 3000 vòng/phút
trong 15 phút để thu dịch chiết F2.
- Giai đoạn 3: dạng liên kết với Fe- Mn oxit
Phần cặn sau khi chiết F2 được thêm vào 20,00 mL NH2OH.HCl 0,04
M trong HOAc 25% (v/v), lắc đều trong 5 giờ với tốc độ 300 vòng/phút bằng
máy lắc, ở nhiệt độ phòng. Sau đó, li tâm với tốc độ 3000 vòng/phút trong 15
phút để thu dịch chiết F3.
- Giai đoạn 4: dạng liên kết với hữu cơ
Cặn còn lại sau khi chiết F3 được thêm vào 10,00 mL NH4OAc 3,2M
trong HNO3 20%, lắc đều trong 0,5 giờ với tốc độ 300 vòng/phút bằng máy
lắc, ở nhiệt độ phòng. Sau đó, li tâm với tốc độ 3000 vòng/phút trong 15 phút
để thu dịch chiết F4.
- Dạng cặn dư
Cặn sau khi chiết F4 được chuyển sang bình tam giác chịu nhiệt 50 mL,
và cũng được phân hủy bằng hỗn hợp cường thủy (9 mL axit HCl và 3 mL
axit HNO3) như phân tích hàm lượng tổng kim loại. Hàm lượng các kim loại
trong các dịch chiết được xác định bằng phương pháp ICP-MS.
31
Mẫu đất (1g)
10mL CH3COONH4 1M
to phòng
Lắc liên tục 1 giờ
Dịch chiết
Phần cặn 1
20 mL CH3COONH4 1 M
Dạng trao đổi
(F1)
chỉnh pH=5 với HOAc Lắc 5 h, to phòng
Dịch chiết
Phần cặn 2
20 mL NH2OH.HCl 0,04M
trong 25% (v/v) HOAc
ở 95oC trong 5 h
Dạng liên kết với
cacbonat (F2)
Dịch chiết
Phần cặn 3
10 mL CH3COONH4 3,2 M
trong HNO3 20% Lắc 0,5 h, to phòng
Dạng liên kết với săt- mangan oxi-hydroxit (F3)
Phần cặn 4
Dịch chiết
40 mL hỗn hợp 3:1
HCl-HNO3
Dạng liên kết với hữu
cơ (F4)
Dạng cặn dư (F5)
32
Hình 2.4. Sơ đồ chiết các dạng kim loại nặng trong đất của Tessier
đã cải tiến [6]
2.2.3. Phương pháp xác định hàm lượng kim loại Pb trong các mẫu đất
Để xác định hàm lượng kim loại Pb, chúng tôi sử dụng kỹ thuật ICP-MS,
các thông số đo và hoạt động của máy được thể hiện chi tiết ở bảng 2.3.
Bảng 2.3. Các điều kiện đo phổ ICP_MS của Pb
Các điều kiện đo phổ ICP_MS của Pb
Công suất cao tần, w ~1600
Độ sâu lấy mẫu, mm ~10
Khí mang, L/min ~0,7
Khí phụ trợ, L/min ~0,3
Đầu phun sương nhu động (thủy tinh đồng tâm) MicroMist
Nhiệt độ khoang phun, °C 2
Tốc độ dòng khí heli, mL/min ~4,3
Tốc độ dòng khí hydro, mL/min ~4,2
Tốc độ bơm nhu động, r/s 0,1 (0,5 mL/min)
Đồng vị phân tích Pb 208
2.2.4. Xây dựng đường chuẩn
Đường chuẩn của các nguyên tố kim loại được thiết lập theo bảng dưới
bằng cách pha loãng chất chuẩn gốc các kim loại bằng HNO3 1%.
Trước hết pha dung dịch chuẩn Pb(II) có nồng độ 100 ppm từ dung
dịch Pb(NO3)2 1000 (± 2) ppm, rồi pha dung dịch Pb(II) có nồng độ 10 ppm
từ dung dịch Pb(II) 100 ppm và tiếp tục pha dung dịch Pb(II) 500 ppb từ dung
dịch Pb(II) 10 ppm bằng dung dịch HNO3 1%. Sau đó pha các dung dịch có
nồng độ nhỏ hơn lần lượt là 100 ppb, 70 ppb, 50 ppb, 25 ppb, 10 ppb, 5 ppb
và 1 ppb từ dung dịch Pb(II) có nồng độ 500 ppb.
33
Cách pha các dung dịch để xây dựng đường chuẩn được trình bày chi
tiết ở bảng 2.3:
Bảng 2.4. Cách pha các dung dịch chuẩn Pb(II) với các nồng độ khác nhau
0 0 1 0,02 5 0,1 10 0,2 25 0,5 50 1 70 1,4 100 2
Định mức bằng dung dịch HNO3 1%
10 10 10 10 10 10 10 10 Nồng độ (ppb) V hút (mL) V định mức (mL)
Để xây dựng đường chuẩn, chúng tôi tiến hành đo cường độ pic của chì
ở các nồng độ khác nhau và xây dựng được đường chuẩn xác định hàm lượng
của chì bằng phương pháp ICP-MS.
2.2.5. Đánh giá độ thu hồi của phương pháp phân tích hàm lượng chì tổng
Để đánh giá độ thu hồi của phương pháp phân tích, chúng tôi dùng mẫu
trầm tích chuẩn MESS_4 tiến hành phân tích hàm lượng tổng của chì trong
mẫu MESS_4 đã biết trước giá trị để đánh giá độ thu hồi của quy trình phân
tích. Kết quả phân tích lặp lại 3 lần và các giá trị phân tích được so sánh với
giá trị chuẩn để đánh giá mức độ thu hồi của qui trình phân tích bằng phương
pháp ICP_MS.
2.3. Xử lí số liệu thực nghiệm
Xử lý kết quả thực nghiệm bằng phần mềm Microsoft Office Excel 2010
Các công thức được sử dụng gồm có:
* Công thức tính hàm lượng kim loại trong các mẫu đất:
m = C*V
m: hàm lượng kim loại (mg/kg)
C: Nồng độ kim loại cần xác định của dung dịch thu được sau phá mẫu
(đã trừ mẫu trắng) hoặc của dung dịch sau khi chiết quy về ppm.
V: Thể tích định mức sau khi phá mẫu hoặc thể tích dung dịch thuốc
thử dùng để chiết (ml).
34
* Công thức giá trị trung bình, phương sai, độ lệch chuẩn và biên giới
tin cậy:
- Giá trị trung bình:
- Phương sai S2:
- Độ lệch chuẩn S:
- Biên giới tin cậy
- Hàm lượng thực:
n: số lần đo (thí nghiệm), n=3
xi: giá trị đo được ở thí nghiệm thứ i
t: chuẩn student ứng với độ tin cậy P và bậc tự do K=n-1
Trong đó:
(t=4,3 với P=95%, bậc tự do K=2)
2.4. Một số tiêu chí đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại nặng trong đất
Để đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại trong đất, chúng tôi dựa trên một
số chỉ số và tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đất sau đây.
Dựa trên hàm lượng tổng và hàm lượng của dạng kim loại, mười chỉ số
để đánh giá mức độ rủi ro đối với môi trường và bốn chỉ số về nồng độ theo
nồng độ dạng kim loại, được dùng để đánh giá cho các kim loại nặng như Pb,
Cd, Zn…
2.4.1. Chỉ số tích lũy địa chất (Geoaccumulation Index: Igeo)
Igeo là chỉ số để đánh giá mức độ ô nhiễm bằng cách so sánh hàm lượng
tổng kim loại có trong mẫu với giá trị nền của kim loại đó [31]. Chỉ số này có
công thức tính như sau: Igeo = Log2 (Cn/1,5xBn)
Trong đó: Cn: hàm lượng kim loại trong mẫu
35
Bn: giá trị hàm lượng của kim loại trong vỏ Trái đất [22].
1,5: hệ số được đưa ra để giảm thiểu tác động của những thay đổi có
thể xảy ra đối với giá trị nền do những biến đổi về thạch học trong trầm tích.
Hàm lượng nền là giá trị hàm lượng trung bình của các kim loại trong
vỏ trái đất. Nhưng ở các địa điểm khác nhau hàm lượng kim loại trong đất, đá
là khác nhau. Nên, việc đánh giá ô nhiễm đất theo chỉ số này chỉ là một chỉ số
tham khảo thêm. Mức độ ô nhiễm trầm tích dựa theo chỉ số Igeo được chỉ ra
theo bảng:
Bảng 2.5. Phân loại mức độ ô nhiễm dựa vào Igeo
Mức độ ô nhiễm
Phân loại 0 1 2 3 4 5 6 Không Nhẹ Trung bình Trung bình nặng Nặng Nặng rất nghiêm trọng Rất nghiêm trọng Giá trị Igeo Igeo≤ 0 0 ≤ Igeo ≤ 1 1 ≤ Igeo ≤ 2 2 ≤ Igeo ≤ 3 3 ≤ Igeo ≤ 4 4 ≤ Igeo ≤ 5 5 ≤ Igeo
2.4.2. Nhân tố gây ô nhiễm cá nhân (ICF)
Nhân tố gây ô nhiễm cá nhân (ICF - Individual contamination factor)
cho các mẫu đất khác nhau được tính bằng tổng các dạng không phải cặn dư
trên dạng cặn dư:
ICF =
Trong đó: F1: là dạo trao đổi; F2: là dạng liên kết với cacbonat; F3: là
dạng liên kết với sắt-mangan oxi hydroxit; F4: Dạng liên kết với hữu cơ; F5:
Dạng cặn dư.
Nhân tố gây ô nhiễm cá nhân cho các mẫu đất được đánh giá theo bảng:
36
Bảng 2.6. Phân loại mức độ ô nhiễm [31]
STT
Mức độ ảnh hưởng
ICF
1
Thấp (low)
< 1
2
Trung bình (Moderate)
1 - 3
3
Lớn (Considerable)
3 - 6
4
Rất lớn (High)
> 6
2.4.3. Chỉ số đánh giá mức độ rủi ro RAC (Risk Assessment Code)
Chỉ số đánh giá mức độ rủi ro RAC (Risk Assessment Code) là tỉ số
tổng hàm lượng 2 dạng: dạng trao đổi (F1) và dạng cacbonat (F2) và tổng các
dạng dưới dạng tỉ lệ phần trăm
Tiêu chuẩn đánh giá mức độ ô nhiễm dựa vào chỉ số RAC được trình
bày trong bảng 2.7.
Bảng 2.7. Tiêu chuẩn đánh giá mức độ rủi ro theo chỉ số RAC
STT
Mức độ rủi ro
RAC (%)
1
Thấp
<10
2
Trung bình
10-30
3
Cao
30-50
4
Rất cao
>50
RAC là chỉ số quan trọng trong việc đánh giá các hoạt động ô nhiễm
nhân tạo, thể hiện rõ khả năng gây ảnh hưởng thực tế đến hệ sinh vật của các
kim loại nặng trong đất hay trầm tích [36].
37
38
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Xây dựng đường chuẩn, xác định LOD và LOQ của chì trong phép
đo ICP-MS
3.1.1. Đường chuẩn cho phép đo xác định vết chì bằng phương pháp ICP-MS
Các bước tiến hành xây dựng đường chuẩn được nêu ở mục 2.3. Kết
quả đo được thể hiện ở bảng 3.1 như sau:
1
5
10
25
50
70
100
8762,8 35979,8 71625,8 190862,8 357790,0 495273,8 717247,8
Bảng 3.1. Sự phụ thuộc của cường độ pic vào nồng độ chất chuẩn
Nồng độ (ppb) Cường độ (Cps)
Từ bảng 3.1, chúng tôi đã tiến hành xây dựng đường chuẩn xác định Pb
và kết quả được thể hiện ở hình 3.1:
Hình 3.1. Đường chuẩn xác định Pb bằng phương pháp ICP-MS
Như vậy, là khoảng tuyến tính xác định chì bằng phương pháp ICP_MS
là rất rộng và có phương trình đường chuẩn là y = 7121.x + 2710,3 với giá trị
R2 là 0.9996 rất gần với 1 chứng tỏ là đường chuẩn có độ tuyến tính rất tốt.
Đảm bảo kết quả đo có độ chính xác và tin cậy.
39
3.1.2. Đánh giá độ thu hồi, xác định LOD và LOQ của chì trong phép đo
ICP-MS
3.1.2.1. Giới hạn phát hiện (Limit of detection – LOD) và giới hạn định lượng
(Limit of quantification – LOQ)
Để đánh giá giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng của phép đo,
chúng tôi tiến hành 5 lần đo lặp lại với dung dịch mẫu trắng. Kết quả được thể
hiện trên bảng 3.2:
Bảng 3.2. Các giá trị Pb trong 5 lần đo lặp lại mẫu trắng
0,0133
Lần đo Hàm lượng Pb (ppb)
0,0131
1
0,0132
2
0,0129
3
0,0128
4
0,0130
5
Giá trị trung bình
Từ các số liệu trên, chúng tôi tính được các giá trị LOD và LOQ theo
cách 2 trình bày trong mục 2.1.3.2 và 2.1.3.3 như sau:
LOD = 0.0137 (ppb)
Giới hạn định lượng được tính theo công thức (2.6):
LOQ = 0.0415 (ppb)
Như vậy, giới hạn phát hiện và giới hạn định lượng xác định chì bằng
phương pháp ICP-MS là rất nhỏ. Vì vậy, phép đo có thể xác định hàm lượng
rất nhỏ của chì trong các mẫu phân tích bằng phương pháp ICP_MS.
3.1.2.2. Độ thu hồi của phương pháp phân tích
Để đánh giá độ thu hồi của phép đo đối với hàm lượng chì, chúng tôi
tiến hành phân tích 3 lần đo lặp lại với mẫu chuẩn MESS_4. Kết quả được thể
hiện trên bảng 3.3.
40
Bảng 3.3. Độ thu hồi hàm lượng của chì so với mẫu chuẩn MESS_4
Giá trị Hiệu suất Hàm lượng Pb Giá trị trung bình Lần đo chứng chỉ thu hồi (ppm) (ppm) (ppm) (%)
1 20,78
23,49 ± 2,90 21,50 ± 1,20 109,27 2 23,15
3 26,55
Như vậy là hàm lượng chì xác định được bằng phương pháp ICP_MS
cho kết quả tốt so với giá trị chứng chỉ trong mẫu MESS_4. Độ thu hồi là
109,27% nằm trong giới hạn cho phép khi phân tích hàm lượng ppm là từ 90-
110%. Điều đó chứng tỏ phương pháp phân tích cho độ thu hồi tốt.
3.2. Kết quả phân tích hàm lượng dạng hóa học của kim loại chì.
Các mẫu trầm tích được xử lý lặp lại 3 lần theo quy trình đã được trình
bày ở mục 2.2.2.2. Các dung dịch sau khi chiết được đo trên máy ICP_MS để
xác định hàm lượng các kim loại theo phương pháp đường chuẩn. Kết quả
phân tích hàm lượng các dạng của chì trong 22 mẫu đất và trầm tích nghiên
cứu được thể hiện trong bảng 3.4.
41
Bảng 3.4. Hàm lượng các dạng và tổng của Pb trong mẫu đất khu vực mỏ kẽm-chì làng Hích, Đồng Hỷ, Thái Nguyên
F1
F2
F3
F4
F5
Mẫu tổng
STT Mẫu
mg/Kg 184,130 167,842 87,766 4,027 177,058 44,721 1,429 3,100 1,499 5,863 1,566 1,497 1,778 1,000
SD 5,679 8,790 0,829 0,207 6,410 4,172 0,013 0,159 0,054 0,273 0,015 0,077 0,064 0,047
mg/Kg mg/Kg SD 2609,874 80,49606 255,105 802,590 24,102 2552,904 19,761 92,999 480,339 43,455 2568,769 23,132 6122,749 1,881 56,141 1,522 83,683 6,007 112,718 5,785 96,018 1,816 54,185 0,804 44,210 4,082 76,601 4,730 78,506
Tổng 5 dạng mg/Kg mg/Kg SD 1014,744 31,298 4090,208 8,131 225,943 1638,789 5,303 561,729 3520,968 185,237 9,516 979,914 559,531 20,257 3482,247 778,970 36,236 7598,815 0,101 5,568 89,709 0,338 9,077 117,257 0,252 26,088 207,266 0,322 10,326 130,305 0,084 4,596 80,839 0,140 3,760 69,420 0,108 4,371 94,163 0,282 9,045 114,679
1305,855 40,276 9405,660 189,649 30,651 4350,962 107,031 585,272 319,240 5282,729 177,024 3,014 1496,189 76,863 5774,719 105,040 8,608 237,770 4456,878 237,503 12,151 5227,509 172,1679 303,098 261,215 55,072 12,318 1923,803 399,388 68,758 32,438 2028,132 619,396
38,790 49,891
SD mg/Kg 26,355 7,868 409,543 21,447 32,871 297,365 21,204 2,807 284,003 14,589 26,308 10,067 6,039 166,822 612,401 28,488 39,975 1,958 1,264 24,613 1,938 0,184 19,459 8,586 3,057 58,375 5,276 0,395 12,821 2,560 0,921 17,932 1,671 0,173 18,282 3,483 0,415 7,931 21,156 4,972 0,653 968,850 45,069 152,884 709,211 25,676 195,796 418,283 21,488 113,157 5,362 107,299 567,914 415,344 21,751 141,740 83,270 9,348 55,072 1,346 68,758 3,434
SD 0,813 1,721 0,200 1,352 0,364 1,860 0,087 0,072 0,545 0,037 0,113 0,062 0,221 0,035 3,735 9,778 5,011 4,003 9,002 1,954 1,346 3,434
Độ thu hồi % 101,31 99,87 99,06 105,51 102,47 95,25 113,23 114,94 117,63 95,88 98,41 88,39 85,94 105,11 125,30 92,55 94,83 94,69 95,13 98,94 105,79 93,67
1 BT1 2 BT2 3 BT3 4 BT4 5 BT5 6 BT6 7 RN1 8 RN2 9 RN3 10 R_BT1 11 R_BT2 12 R_BT3 13 R_BT4 14 R_BT5 15 TTS1 16 TTS2 17 TTS3 18 TTS4 19 TTS5 20 TTS6 21 R_S1 22 R_S2
mg/Kg 4037,267 1640,959 3554,314 928,764 3398,434 7977,514 79,229 102,017 176,198 135,898 82,144 78,533 109,572 109,100 1278,428 77,025 13111,677 10464,554 6878,000 524,082 16,600 6365,323 6967,301 473,435 8,612 6606,844 8781,499 369,084 19,353 8315,205 5816,159 281,083 6,914 5532,815 6670,021 724,519 38,522 6599,610 2408,051 6,877 114,141 2547,474 3230,321 240,924 12,839 3025,967
42
So sánh giữa tổng hàm lượng của 5 dạng chì với tổng của chì trong các
mẫu đất và trầm tích nghiên cứu, kết quả cho thấy sự sai khác giữa hai giá trị
không quá 20%. Độ thu hồi từ 85,94% đến 117,8 %, riêng mẫu TTS1 có hàm
lượng chì cao nhất là 10464,554 mg/Kg có độ thu hồi là 125% so với tổng 5
dạng. Như vậy phương pháp phân tích cho kết quả chính xác.
Từ bảng kết quả 3.4 cho thấy, hàm lượng tổng số của chì trong các mẫu
đất thải là 928,764 mg/Kg đến 7977,514 mg/Kg, trong các mẫu trầm tích ở
suối gần mỏ khai thác chính là 5816,159 mg/Kg đến 10464,554 mg/Kg và
trong các mẫu ruộng là từ 78,533 mg/Kg đến 3230,321 mg/Kg. Các kết quả
này cũng phù hợp với kết quả phân tích hàm lượng tổng số của một số mẫu
đất bãi thải ở mỏ chì-kẽm được công bố bởi tác giả Chu Thị Thu Hà [13] và
nhóm tác giả Bùi Thị Kim Anh và các cộng sự [11]. Theo như nghiên cứu của
tác giả Chu Thị Thu Hà thì hàm lượng chì trong các mẫu đất bãi thải ở mỏ
chì-kẽm nằm trong khoảng từ 1100 mg/Kg- 13000 mg/Kg. Còn theo nhóm tác
giả Bùi Thị Kim Anh và các cộng sự thì hàm lượng chì ở khu vực đất bãi thải
chì-kẽm có nồng độ là từ 1559,2 mg/Kg đến 4316,9 mg/Kg. Sự chênh lệch
giữa các kết quả có thể được giải thích là khác nhau do vị trí lấy mẫu khác
nhau, thời gian lấy mẫu khác nhau.
Trong các mẫu đất thải thì hàm lượng chì trong mẫu BT6 là cao nhất, vì đây
là vị trí đất lấy ở miệng ống thải. Vì vậy, hàm lượng chì tập trung ở mẫu này
là cao nhất. Còn các mẫu đất bãi thải BT1-BT5 có hàm lượng thấp hơn và có
hàm lượng khác nhau là do địa hình, vị trí của chúng ở bãi thải khác nhau vì
vậy hàm lượng chì trong các mẫu tập trung cũng khác nhau. Nhưng nhìn
chúng hàm lượng chì trong các mẫu bãi thải đều rất cao, cao hơn nhiều so với
tiêu chuẩn Việt Nam về đất công nghiệp là 300 mg/Kg. Đối với các mẫu đất
trầm tích ở suối. Các mẫu trầm tích có hàm lượng chì đều rất cao, thậm chí có
nhiều mẫu cao hơn cả ở mẫu đất bãi thải. Điều này được giải thích là do nhà
máy khai thác quặng và xả thẳng nguồn nước ra suối, do sự tích tụ lâu ngày
43
nên hàm lượng kim loại chì trong các mẫu trầm tích rất cao. Mẫu trầm tích
TT-S1 có hàm lượng cao nhất vì vị trí của mẫu này gần mỏ khai thác nhất và
địa hình vị trí đó cũng trũng nên trầm tích và chất thải ra suối được tích tụ ở
đây nhiều hơn so với các vị trí khác. Còn trong các mẫu đất ruộng ở khu vực
gần bãi thải, hàm lượng kim loại chì trong các mẫu đất ruộng ngô và ruộng
lúa đều thấp hơn nhiều so với trong đất bãi thải là cũng gần với nhau trong
khoảng từ 78,533 mg/KG đến 176,198 mg/Kg. Như vậy, nếu so với tiêu
chuẩn Việt Nam về hàm lượng chì trong đất nông nghiệp thì các mẫu ruộng
này đều cao hơn so với tiêu chuẩn cho phép là 70 mg/Kg. Như vậy, các mẫu
đất ruộng này có thể đều chịu ảnh hưởng của bãi thải quặng ở gần đó nên hàm
lượng chì cao hơn tiêu chuẩn cho phép. Riêng đối với hai mẫu ruộng ở dọc bờ
suối là R_S1 và R_S2 thì hàm lượng chì cao hơn rất nhiều so với các mẫu
ruộng ở khu vực gần bãi thải. Hàm lượng chì trong hai ruộng này là 2408,051
mg/Kg và 3230,321 mg/Kg. Điều này có thể được giải thích là do việc lấy
nước trực tiếp từ suối vào ruộng để canh tác diễn ra lâu năm dẫn đến sự tích
tụ hàm lượng chì cao trong đất ruộng nên hàm lượng chì ở hai ruộng này cao
hơn hẵn so với ruộng ở gần bãi thải. Ngoài ra, hai ruộng này lại nằm ngay bên
đường đi lại, có các xe chở quặng đi qua. Quá trình chở quặng rơi vãi lâu
ngày cũng có thể là một nguyên nhân làm cho ruộng bị ô nhiễm chì trong đất
ngoài lý do lấy nguồn nước canh tác trực tiếp từ suối.
Sự phân bố hàm lượng các dạng của kim loại chì trong các dạng liên
kết được thể hiện ở đồ thị hình 3.2
44
Hình 3.2. Sự phân bố hàm lượng % các dạng của Pb trong các mẫu
phân tích
Trong các mẫu phân tích thì chì tồn tại trong các mẫu đất và trầm tích
được phân tích có hàm lượng ở các dạng theo thứ tự là F2 > F5> F3 > F1 >
F4. Có một số trường hợp thì F2 > F3 > F5 > F1 > F4. Hàm lượng chì chủ yếu
ở 3 dạng, đó là dạng liên kết với cacbonat (F2), dạng liên kết với Fe-Mn oxit
(F3) và dạng cặn dư (F5). Trong đó dạng liên kết với cacbonat của chì là chủ
yếu và chiếm khoảng 49,98% -81,35% so với hàm lượng tổng đây là dạng có
tiềm năng gây ô nhiễm môi trường nước rất lớn và sẽ có thể phát tán vào nước
ngầm và hệ sinh thái khi pH thấp. Kết quả phân tích này phù hợp với kết quả
nghiên cứu của tác giả Phạm Ngọc Cẩn và các cộng sự [3]. Theo nghiên cứu
của tác giả Phạm Ngọc Cẩn và các cộng sự thì chì trong quặng ở mỏ chì/kẽm
tồn tại chủ yếu ở dạng quặng cacbonat. Chính vì vậy, phần trăm dạng liên kết
của chì với cacbonat là rất cao và chiếm chủ yếu. Dạng cặn dư chiếm từ
4,44% - 24,81% so với hàm lượng tổng, dạng liên kết với sắt mangan oxi
hydroxit (F3) chiếm từ 2,16% - 28,98%, còn lại dạng trao đổi (F1) chiếm
0,41% - 20,47%, và dạng liên kết hữu cơ (F4) chiếm từ 0,29% – 4,34%.
45
Riêng có một số trường hợp thì hàm lượng ở dạng F3 lại cao hơn so với
dạng F5. Những trường hợp này tập trung chủ yếu là ở các mẫu ruộng gần bãi
thải. Điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của một số công trình đã
phân tích dạng hóa học của chì trong đất nông nghiệp. Ví dụ như trong nghiên
cứu phân tích dạng của chì ở khu vực mỏ chì/kẽm ở tỉnh Shianxi ở Trung
quốc của tác giả Haixia Tian và các cộng sự cho thấy hàm lượng chì ở dạng
liên kết với oxit Fe/Mn cao hơn cả so với hàm lượng ở dạng F5, chiếm hơn
50% của hàm lượng tổng số [19]. Thường thì trong đất nông nghiệp dạng liên
kết Fe-Mn oxit (F3) của chì sẽ cao hơn so với trong các mẫu trầm tích.
Kết quả này cho thấy Pb trong các mẫu phân tích có xu hướng tích lũy
khá lớn ở dạng kém bền vững hay dạng liên kết với cacbonat. Dạng liên kết
này rất nhạy cảm với pH của nước, vì vậy đây là dạng không ổn định, dễ bị
hòa tan vào nước cũng như dễ bị hấp thu bởi sinh vật. Do vậy, khi hàm lượng
Pb trong các mẫu đất và trầm tích cao thì nguy cơ gây ra ô nhiễm môi trường
nước và ảnh hưởng đến môi trường xung quanh là rất lớn.
Trong tất cả các mẫu đất đã phân tích đều có chứa Pb. Tại cùng một độ
sâu lấy mẫu đất phân tích, hàm lượng Pb cũng khác nhau. Cụ thể hàm lượng
Pb của các mẫu TTS1- TTS6 tại vị trí suối gần mỏ quặng cao hơn mẫu tại bãi
thải (BT1-BT6), cao hơn mẫu đất ruộng R-S1 và R-S2 tại các ruộng gần
suối, cao hơn các mẫu đất nông nghiệp tại khu vực gần bãi thải (RBT1-RBT5
và RN1-RN3).
Theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về giới hạn cho phép của một số kim
loại nặng trong đất (QCVN 03-MT: 2015/BTNMT) thì ngưỡng tối đa cho
phép đối với hàm lượng tổng số của Pb là 70mg/kg đất khô đối với đất nông
nghiệp và 300mg/kg đất khô đối với đất công nghiệp.
Đối chiếu với kết quả phân tích các mẫu đất, chúng tôi thấy hàm lượng
Pb đo được tại các mẫu đều vượt quá giới hạn cho phép đối với hàm lượng
KLN trong đất.
46
Bên cạnh đó, các dạng tồn tại của Pb trong các mẫu đất có sự phân bố
không đồng đều ở những vị trí lấy mẫu khác nhau. Trong đó, Pb tồn tại trong
đất chủ yếu ở dạng liên kết với cacbonat và sự phân bố các dạng theo thứ tự
sau: dạng liên kết với hữu cơ (F4) < dạng trao đổi (F1) < dạng liên kết với Fe-
Mn oxit (F3) < dạng cặn dư (F5) < dạng liên kết với cacbonat (F2) hoặc có
một số trường hợp như đất nông nghiệp thì dạng liên kết với hữu cơ (F4) <
dạng trao đổi (F1) < dạng cặn dư (F5) < dạng liên kết với Fe-Mn oxit (F3) <
dạng liên kết với cacbonat (F2)
Trong năm dạng tồn tại thì dạng trao đổi và dạng liên kết với cacbonat
là hai dạng có khả năng tích lũy sinh học cao hơn cả mà trong các mẫu phân
tích thì cả 2 dạng này đều có hàm lượng chì lớn nên chì dễ giải phóng vào
trong nước, tích lũy trong đất và nguồn nước đi vào cây trồng.
Hàm lượng Pb trong các dạng tồn tại khác nhau ở cùng một mẫu là
khác nhau. Trong đó, dạng liên kết với cacbonat là cao nhất với tất cả các
mẫu, nhưng với mẫu tại khu vực bãi thải thì dạng liên kết với hữu cơ là thấp
nhất, với mẫu tại khu vực gần bãi thải thì dạng trao đổi là thấp nhất, với mẫu
tại khu vực suối gần mỏ quặng và ruộng gần suối thì dạng liên kết với hữu cơ
là thấp nhất.
Cùng một dạng tồn tại nhưng ở các vị trí lấy mẫu khác nhau thì hàm
lượng Pb cũng khác nhau. Trong đó, với mỗi dạng tồn tại trong mẫu tại khu
vực suối gần mỏ quặng đều là cao nhất
Nguồn nước thải gần khu khai thác mỏ quặng chì-kẽm đã ảnh hưởng
đến hàm lượng cũng như khả năng tích lũy sinh học của Pb trong đất, nước và
cây trồng. Từ đó, sẽ dẫn đến nguy cơ tích lũy kim loại Pb trong cơ thể con
người và gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
3.3. Đánh giá mức độ ô nhiễm của các kim loại nặng
Đánh giá mức độ ô nhiễm các kim loại nặng trong đất khu vực mỏ
kẽm-chì làng Hích, Đồng Hỷ, Thái Nguyên theo các kết quả đã nghiên cứu,
47
dựa vào chỉ số tích lũy địa chất Igeo (Geoaccumulation index), chỉ số ô
nhiễm cá nhân (ICF), chỉ số đánh giá rủi ro RAC đối với hệ sinh thái (Risk
Asessment Code) và tiêu chuẩn của một số nước trên thế giới.
3.3.1. Chỉ số tích lũy địa chất (Geoaccumulation Index : Igeo)
Chỉ số tích lũy địa chất là chỉ số đánh giá các mức độ ô nhiễm dựa trên
hàm lượng tổng của các kim loại. Từ các kết quả phân tích hàm lượng tổng
các kim loại trong bảng 3.4, giá trị Igeo của các kim loại được tính theo công
thức đã trình bày ở mục 2.4.1.1. Giá trị Bn của chì theo Hamilton [22] là 15.
Kết quả tính Igeo của các kim loại nghiên cứu được thể hiện trong đồ thị
từ hình 3.3 như sau:
Hình 3.3. Chỉ số Igeo của các mẫu đất phân tích đối với hàm lượng chì
Dựa vào bảng phân loại các mức độ ô nhiễm (bảng 2.5) và theo đồ thị
hình 3.3 cho thấy các giá trị Igeo của chì ở tất cả các vị trí lấy mẫu đều nằm
trong khoảng từ 1,80 đến 8,86 nên đều có biểu hiện ô nhiễm chì ở trong khu
vực nghiên cứu với các mức độ khác nhau, từ trung bình (Igeo >1) đến mức
rất nghiêm trọng (Igeo > 5). Các giá trị Igeo của chì ở trong các mẫu ruộng ngô
và ruộng lúa gần bãi thải (RN và R_BT) lấy phân tích đều nhỏ hơn 3 (1< Igeo
<3) hay mức ô nhiễm của chì ở các vị trí này là mức độ trung bình. Còn đối
với các mẫu đất phân tích lấy ở bãi thải và các mẫu trầm tích và ruộng lấy ở
48
suối gần mỏ khai thác thì chỉ số Igeo đều lớn hơn 5. Tức là mức độ ô nhiễm
chì ở các vị trí này ở mức độ rất nghiêm trọng.
Tóm lại, qua đánh giá mức độ ô nhiễm của kim loại chì theo chỉ số Igeo,
tất các các mẫu đất phân tích đều bị ô nhiễm ở mức trung bình đến rất nghiêm
trọng ở tất cả các vị trí nghiên cứu, điều này chứng tỏ khu vực đất (bãi thải,
suối và đất nông nghiệp) đều bị ảnh hưởng bởi hoạt động khai thác và thải ra
chì ra xung quanh địa bàn đó.
3.3.2. Nhân tố gây ô nhiễm cá nhân (ICF)
Nhân tố gây ô nhiễm cá nhân là một trong các chỉ số đánh giá các mức
độ ô nhiễm dựa trên hàm lượng các dạng của kim loại, Từ các kết quả phân
tích hàm lượng dạng của các kim loại trong trầm tích nghiên cứu, giá trị ICF
của các kim loại được tính theo công thức đã trình bày ở mục 2.4.1.2. Kết quả
được thể hiện trong các hình 3.4.
Hình 3.4. Giá trị ICF của chì trong các mẫu phân tích
Dựa theo bảng phân loại các mức độ ô nhiễm (bảng 2.6) và các đồ thị
3.4, cho thấy đối với chì ở tất cả các vị trí lấy mẫu đều có chỉ số ICF lớn hơn
3, do đó ở mức độ ô nhiễm lớn trong các mẫu đất và trầm tích của khu vực
nghiên cứu. Riêng các mẫu ở khu vực bãi thãi BT1-BT5 có chỉ số ICF < 6
nằm ở mức ô nhiễm thứ 2, còn các mẫu phân tích khác đều có chỉ số ICF cao
49
hơn 6 nằm ở mức ô nhiễm thứ 3. Đặc biệt là các mẫu ruộng ở khu vực gần bãi
thải mặc dù hàm lượng tổng số của chì không cao, nhưng lại có chỉ số ICF rất
cao. Điều này là do hàm lượng chì ở các dạng F1, F2, F3, F4 cao còn dạng F5
lại không cao bằng, dẫn đến chỉ số ICF cao. Trong khi đó các mẫu đất bãi thải
có hàm lượng tổng số của chì cao nhưng lại có chỉ số ICF nhỏ hơn nhiều là do
% hàm lượng chì ở dạng F5 của các mẫu này lớn hơn so với % hàm lượng chì
ở dạng F5 của các mẫu ruộng gần bãi thải.
Tóm lại, so sánh với việc đánh giá mức độ ô nhiễm của các kim loại
trong các mẫu đất bãi thải, trầm tích và đất nông nghiệp ở khu vực mỏ chì-
kẽm theo chỉ số Igeovà ICF cho thấy các mẫu phân tích đều bị ô nhiễm chì ở
các mức độ khác nhau từ trung bình cho đến mức độ rất lớn.
3.3.3. Chỉ số đánh giá mức độ rủi ro RAC (Risk Assessment Code)
Chỉ số RAC là chỉ số đánh giá mức độ rủi ro đối với hệ sinh thái dựa
theo hàm lượng phần trăm của hai dạng trao đổi và liên kết với cacbonat
(dạng F1 và F2). Dựa vào các bảng kết quả phân tích hàm lượng dạng của các
kim loại trong trầm tích, giá trị RAC được thể hiện trong các đồ thị 3.5.
Hình 3.5. Giá trị RAC của chì trong các mẫu phân tích
Dựa theo bảng phân loại các mức độ ô nhiễm (bảng 2.9) và các đồ thị từ
3.5, đối với kim loại chì, thì tất cả các mẫu phân tích đều có mức độ rủi ro đối
với hệ sinh thái là ở mức rất cao (RAC ≥ 50%).
50
Căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá mức độ rủi ro theo chỉ số RAC tại bảng
2.7, ta thấy giá trị trung bình chỉ số RAC của chì tại các mẫu đất đều nằm
trong ngưỡng rất cao. Như vậy mức độ rủi ro về sự ô nhiễm của Pb là rất cao
ở các khu vực lấy mẫu phân tích. Do đó, tiềm năng lan truyền ô nhiễm và tích
lũy sinh học của chì là rất cao. Từ đó cho thấy các hoạt động của con người
đang gây ô nhiễm Pb ở mức rất nghiêm trọng đối với khu vực này.
3.3.4. Một số tiêu chuẩn đánh giá mức độ ô nhiễm kim loại trong đất
Theo tiêu chuẩn một số nước trên thế giới về chất lượng của đất nông
nghiệp và công đã được trình bày trong các bảng từ 1.3 đến 1.6. Để thuận
tiện, chúng tôi phân ra thành hai loại mẫu đất là đất nông nghiệp và đất công
nghiệp (đất bãi thải và trầm tích) để so sánh với các tiêu chuẩn giới hạn. Dựa
trên hàm lượng tổng của các kim loại đã thu được ở trên, và các tiêu chuẩn
giới hạn của một số nước, chúng tôi có bảng so sánh các giá trị phân tích được
với các tiêu chuẩn của các nước như ở bảng 3.5 và 3.6.
Theo như số liệu ở bảng 3.5 thì hàm lượng chì trong các mẫu đất nông
nghiệp phân tích đều cao hơn tiêu chuẩn giới hạn của Việt Nam là 70 mg/Kg.
So với tiêu chuẩn của Canada, Nhật và Đức thì chỉ có mẫu R-S1 và R-S2 là
có hàm lượng cao hơn nhiều so với các tiêu chuẩn giới hạn. Còn các mẫu đất
nông nghiệp khác đều thấp hơn so với tiêu chuẩn của Canada, Đức và Nhật.
Điều này chứng tỏ là 2 mẫu đất nông nghiệp R-S1 và R-S2 có hàm lượng chì
rất cao, và nằm ở mức độ ô nhiễm thứ 3 là ô nhiễm nặng theo tiêu chuẩn về
đất của Anh trong bảng 1.3 (nồng độ từ 2000 -10000 mg/Kg). Như vậy, là so
sánh với các tiêu chuẩn giới hạn của các nước thì hàm lượng chì trong các
mẫu đất nông nghiệp được phân tích đều có nguy cơ ô nhiễm ở các mức độ
khác nhau, trong đó đặc biệt là có 2 mẫu đất ruộng R-S1 và R-S2 là nằm ở
mức độ ô nhiễm nặng.
51
Bảng 3.5. Hàm lượng chì trong các mẫu đất nông nghiệp so với giới hạn
trong đất nông nghiệp theo tiêu chuẩn của các nước
Tiêu chuẩn Pb trong đất nông nghiệp
Mẫu
Áo Canađa Việt Nam Nhật
Anh
Đức
RN1
RN2
Hàm lượng Pb 79,229
102,017
RN3
176,198
R_BT1
135,898
R_BT2
82,144
100
200
70
400
R_BT3
50 (100)
500 (1000)
78,533
R_BT4
109,572
R_BT5
109,100
R_S1
2408,051
R_S2
3230,321
Đơn vị: mg/Kg
Tương tự, đối với các mẫu đất bãi thải và trầm tích ở suối, chúng tôi so
sánh với các tiêu chuẩn đất công nghiệp và đất hạng C của các nước được
trình bày ở bảng 3.6.
Ở bảng 3.6 thì tất cả các mẫu đất bãi thải và trầm tích đều cao hơn so
với tiêu chuẩn đất công nghiệp của Việt Nam, Hà Lan và Anh. Điều này
chứng tỏ nguy cơ ô nhiễm chì rất cao trong các mẫu đất bãi thải và trầm tích
so với các tiêu chuẩn giới hạn.
52
Bảng 3.6. Hàm lượng chì trong các mẫu đất bãi thải và trầm tích so với giới hạn trong đất công nghiệp theo tiêu chuẩn của các nước
Mẫu
Hàm lượng Pb Tiêu chuẩnPb trong đất công nghiệp Hà lan Việt Nam
Anh
300 600 500-1000
BT1 BT2 BT3 BT4 BT5 BT6 TTS1 TTS2 TTS3 TTS4 TTS5 TTS6 4037,267 1640,959 3554,314 928,764 3398,434 7977,514 10464,554 6878,000 6967,301 8781,499 5816,159 6670,021
(Đơn vị: mg/Kg)
Tóm lại, qua việc đánh giá mức độ ô nhiễm của Pb theo các chỉ số ô
nhiễm và các tiêu chuẩn ô nhiễm cho thấy, nếu chỉ dựa vào việc đánh giá qua
hàm lượng tổng (chỉ số Igeo và các tiêu chuẩn chất lượng trầm tích) thì chưa đủ
và chưa chính xác, mà cần phải kết hợp với việc đánh giá thông qua hàm
lượng các dạng liên kết của chúng (chỉ số ICF và RAC) để xác định rõ mức
độ ảnh hưởng đối với hệ sinh thái.
53
KẾT LUẬN CHUNG
Qua quá trình khảo sát, thực nghiệm và phân tích, chúng tôi rút ra một
số kết luận sau:
1. Đã xây dựng đường chuẩn cho phép phân tích xác định lượng vết Pb
bằng phương pháp ICP-MS. Phương trình đường chuẩn là y = 7121.x + 2710,3.
Các giá trị LOD và LOQ để xác định chì lần lượt là 0,0137 (ppb) và 0,0415 (ppb)
2. Đã phân tích và xác định được các dạng tồn tại và hàm lượng Pb
trong 22 mẫu đất ở gần mỏ kẽm-chì làng Hích, Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Kết
quả phân tích cho thấy các mẫu đất bị ô nhiễm bởi Pb đặc biệt là các mẫu đất
bãi thải, mẫu trầm tích của suối và hai mẫu ruộng gần suối. Hàm lượng Pb
trong các mẫu này từ 928,764 mg/Kg đến 10464,554 mg/Kg. Còn đối với các
mẫu đất ruộng gần bãi thải thì hàm lượng chì thấp hơn nhiều, tuy nhiên vẫn
cao hơn tiêu chuẩn Việt Nam. Trong các mẫu đất và trầm tích phân tích thì
chì tồn tại chủ yếu ở dạng liên kết với cacbonat (F2), dạng cặn dư (F5), dạng
trao đổi (F1) dạng liên kết với Fe- Mn oxit (F3) và tồn tại ít nhất ở dạng liên
kết với các chất hữu cơ (F4).
3. Đã đánh giá được mức độ rủi ro của kim loại Pb trong 22 mẫu đất
phân tích ở khu vực mỏ kẽm- chì, làng Hích, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái
Nguyên theo một số chỉ tiêu Igeo, ICF và RAC
4. Đã so sánh được hàm lượng chì trong các mẫu đất và trầm tích với
các tiêu chuẩn giới hạn cho phép của Việt Nam và quốc tế. Và nhận thấy rằng
hàm lượng chì trong các mẫu phân tích đều có nguy cơ gây ô nhiễm với môi
trường ở mức thấp (nhẹ), trung bình và cao (nặng).
54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
[1]. Dương Thị Tú Anh (2016), Phân tích xác định dạng các kim loại nặng Zn,
Cd, Pb và cu trong trầm tích thuộc lưu vực sông Cầu, Đề tài khoa học và
công nghệ cấp Đại học, Trường Đại học Sư phạm- Đại học Thái Nguyên.
[2]. Dương Thị Tú Anh (2014), “Xác định dạng một số KLN trong trầm tích
thuộc lưu vực sông Cầu”, Tạp chí phân tích Hóa, Lý và Sinh học, 19(4),
44-50
[3]. Phạm Ngọc Cẩn và cộng sự (2011), “Đặc điểm quặng hóa và khoáng vật
các mỏ kẽm chì khu vực làng Hích”, tạp chí các khoa học về trái đất số,
33(1), 85-93
[4]. Phạm Thị Thu Hà (2016), “Nghiên cứu phân tích dạng một số KLN trong
cột trầm tích thuộc lưu vực sông Cầu trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên”,
Luận án tiến sĩ, Học viện khoa học và công nghệ Việt Nam, 91-97.
[5]. Lê Văn Khoa, Hoàng Xuân Cơ, Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Xuân Cự, Lê
Đức, Lưu Đức Hải, Thân Đức Hiền, Trần Khắc Hiệp, Nguyễn Đình Hòe,
Phạm Ngọc Hồ, Trịnh Thị Thanh (2008), Khoa học Môi trường, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
[6]. Vũ Đức Lợi, Trần Thị Lệ Chi với các cộng sự (2010), “ Phân tích dạng
một số KLN trong trầm tích thuộc lưu vực sông Nhuệ và sông Đáy”, Tạp
chí phân tích Hóa, Lý và Sinh học, 15(4), 26-32.
[7]. Võ Văn Minh (2009), Nghiên cứu khả năng hấp thụ một số kim loại nặng
của cỏ vetiver và đánh giá hiệu quả cải tạo đất ô nhiễm, Luận án tiến sĩ
Khoa học môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[8]. Nguyễn Ngọc Nông (2003),“Hàm lượng các nguyên tố vi lượng và KLN
trong một số loại đất chính ở vùng Đông Bắc Việt Nam”,Tạp chí khoa
học đất số 18/2003. Tr 15 – 17.
[9]. QCVN 03-MT: 2015/BTNMT, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về giới hạn
cho phép của một số kim loại nặng trong đất.
55
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
[10]. Amanda J. Z, David C. W. (2010), Review article, Heavy metal and trace
metal analysis in soil by sequential extraction: a review of procedures,
International Journal of Enviromental Analytical Chemistry, volume 2010.
[11]. B. T. K. Anh, D. D. Kim, T. Van Tua, N. T. Kien, and D. T. Anh, (2011)
“Phytoremediation potential of indigenous plants from Thai Nguyen
province, Vietnam,” J. Environ. Biol., vol. 32, no. 2, pp. 257–262
[12]. Caspah Kamunda, Manny Mathuthu and Morgan Madhuku (2016),
“Health Risk Assessment of Heavy Metals in Soils from Witwatersrand
Gold Mining Basin, South Africa”, Int J Environ Res Public Health,
13(7):663.
[13]. Chu Thi Thu Hà (2011), Survey on heavy metals contaminated soils in
Thai Nguyen and Hung Yen provinces in Northern Vietnam. Journal of
Vietnamese Environment, Vol. 1, No. 1, pp. 34-39
[14]. Davidson C. M, Delevoye G. (2001), Effect of ultrasonic agitation on
the release of copper, iron, manganese and zinc from soil and sediment
using the BCR three stage sequential extraction, J. Environ. Monit. 3,
398–403.
[15]. Davidson M. C., Thomas P. R., McVey E. S., Perala R., Littlejohn D.,
Ure M. A. (1994), Evaluation of a sequential extraction procedure for
the speciation of heavy metals in sediments. Analytica Chimica Acta
291, 277-286.
[16]. Du Laing G, Rinklebe J, Vandecasteele B, Meers E, Tack FM (2009),
Trace metal behaviour in estuarine and riverinefloodplain soils and
sediments: a review. Sci Total Environ; 407:3972–3985.
[17]. Elijah Ohimain, 2017, “Geo-accumulation Index, Enrichment Factor and
Quantification of Contamination of heavy metals in soil receiving
cassava mill effluents in a rural community in the niger delta region of
nigeria”. Department of biological sciences, 92-94.
56
[18]. Ernest Hodgson, Patricia E. Levi (2000), Modern Toxicology, 2 nd
Edition, McGraw Hill.
[19]. Haixia Tian, L. Fang, C. Duan, Y. Wang, and H. Wu (2018), “Dominant
factor affecting Pb speciation and the leaching risk among land-use types
around Pb-Zn mine,” Geoderma, vol. 326, pp. 123–132.
[20]. Haiyang Chen, Yanguo Teng, Jiao Li, Jin Wu, Jinsheng Wang (2016),
Source apportionment of trace metals in river sediments: A
comparisonof three methods, Environmental Pollution 211, 28-37.
[21]. Hakanson L (1980), An ecological risk index for aquatic pollution
control, A sedimen -tological approach, Water Res, 14, 975–1001.
[22]. Hamilton E. I (2000), Environmental variables in a holistic evaluation of
land contaminated by historic mine wastes: a study of multi-element
mine wastes in West Devon, England using arsenic as an element of
potential concern to human health. The Science of the Total
Environment 249, 171-221.
[23]. Ikem A., Egiebor N.O., Nyavor K., (2003).Trace elements in water
fish and sediment from Tuskegee Lake, southeastern USA. Water Air
Soil Pollut. 149, 51–75.
[24]. Iqbal J., Shah M. H. (2011).Distribution, correlation and risk
assessment of selected metals in urban soils from Islamabad,
Pakistan. J. Hazard, Mater, 192, 887–898.
[25]. Jun yang, Silu Ma, Jingcheng Zhou, Yongwei Song and fei li (2018),
“Heavy metal contamination in soils and vegetables and health risk
assessment of inhabitants in Daye, China”, Journal of International
Medical Research, 0(0),pp. 1-14.
[26]. Lars Jarup (2003).Hazards of heavy metal contamination. British
Medical Bulletin 68, pp 167-182.
[27]. Li Y., Han Y., et al (2011).Simultaneous determination of Cu2+, Zn2+,
Cd2+, Hg2+, and Pb2+ by using second derivative spectrophotometry
method, Spectrochimica. Acta, Part A, 79, 1546-1551.
57
[28]. Lide D. R. (2005).CRC Handbook of Chemistry and Physics, 85th
edn.CRC Press, Boca Raton, Florida, Section 14, Geophysics,
Astronomy, and Acoustics Abundance of Elements in the Earth’s Crust
and in the Sea.
[29]. Luo C, Liu c, Wang Y, Liu X, Li F, Zhang G (2011), “Heavy metal
contamination in soils and vegetables near an e-waste processing site,
south China”, J Hazard Mater, 186 (1), pp.481-90.
[30]. Peter Castro and Michael E. Huber (2003). Marine Biology, 4th Edition,
McGraw-Hill.
[31]. Pueyo M, Mateu J, Rigol A, Vidal M, Lopez-Sanchez JF, Rauret G
(2008).Use of the modified BCR three-step sequential extraction
procedure for the study of trace element dynamics in contaminated soils.
Environ Pollut; 152: 330–341.
[32]. Rafael Pardo, Enrique Barrado, Lourdes Pẽrez and marisol vega
(1990).Determination and speciation of heavy metals in sediments of
the pisuerga river. WaL Res, Vol, 24, No, 3, pp, 373-379.
[33]. Rauret G, Lopez Sanchez J. F, Sahuquillo A, et al (1999).“Improvement
of the BCR three step sequential extraction procedure prior to the
certification of new sediment and soil reference materials”. Journal of
Environmental Monitoring, vol 1, no 1, pp 57–61.
[34]. Shou Zhao, Chenghong Feng, Yiru Yang, Junfeng Niu, Zhenyao
Shen (2012).Risk assessment of sedimentary metals in the Yangtze
Estuary: New evidence of the relationships between two typical
index methods. Journal of Hazardous Materials 241– 242, 164– 172.
[35]. Steenland K, Boffetta P (2000).Lead and cancer in humans: where are
we now? Am J Ind Med 38, pp, 295-299.
[36]. Sundaray S. K., Nayak B. B., Lin S., Bhatta D. (2011).Geochemical
speciation and risk assessment of heavy metals in the river
estuarine sediments – A case study: Mahanadi basin, India. J.
Hazard Matter, 186, 1837–1846
58
[37]. Tack F. M. G and Verloo M. G (1995), Chemical speciation and
fractionation in soil and sediment heavy metal analysis: a
review.International Journal of Environmental Analytical Chemistry, vol,
59, pp, 225–238.
[38]. Tessier A, Campbell P. G. C. and Blsson M (1979), Sequential
extraction procedure for the speciation of particulate trace metals.
Analytical Chemistry, vol, 51, no, 7, pp, 844–851.
[39]. Ure A. M., Quevauviller P. H., Muntau H. and Griepink B (1993),
Speciation of heavy metals in soils and sediment, An account of the
improvement and harmonization of extraction techniques undertaken
under the auspices of the BCR of the commission of the European
communities.International Journal of Environmental Analytical
Chemistry, vol 51, pp 135- 151.
[40]. WHO (1985), Environmental Health Criteria 85: Lead. Environmental
Aspects, World Health Organization, Geneva.
59