Đề bài: Phân tích nhân vật Vũ Như Tô trong tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của <br />
Nguyễn Huy Tưởng <br />
Bài làm 1 <br />
Trong đoạn trích được học, Vũ Như Tô là nhân vật tạo ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng <br />
người đọc với bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài.<br />
Vũ Như Tô là một nhân vật có thật trong lịch sử, nổi tiếng vì đã xây dựng được nhiều <br />
công trình kiến trúc khiến cho vua chúa cũng phải khen ngợi. Trong Vĩnh biệt Cửu Trùng <br />
Đài, Vũ Như Tô là người nghệ sĩ thiên tài có lý tưởng cao đẹp nhưng lâm vào cảnh ngộ <br />
không giải quyết được một cách đúng đắn để sáng tạo nghệ thuật cho ai và để làm gì nên <br />
cuối cùng rơi vào bi kịch đau đớn.<br />
Là một người say mê vẻ đẹp nhân văn, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng Vũ Như Tô và <br />
như hiện thân của tài năng siêu phàm, "vô tiền khoáng hậu". Vũ Như Tô được xây dựng <br />
như một nghệ sĩ có tài năng lỗi lạc, siêu phàm. Đó là một kiến trúc sư có khả năng "tranh <br />
tinh xảo với hóa công". Cái tài ba được nói đến chủ yếu ở các hồi, lớp trước thông qua <br />
hành động và nhất là lời của các nhân vật khác nói về người nghệ sĩ này: thiên tài "ngàn <br />
năm chưa dễ có một". Nghệ sĩ ấy có thể "sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân".<br />
Dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Như Tô là con người có nhân cách trong sáng <br />
khi đối diện với cường quyền.<br />
Vũ Như Tô đã từ chối hợp tác với vua Lê Tương Dực trong việc xây dựng Cửu Trùng <br />
Đài, thậm chí đã từng trốn đi khi bắt xây cung điện cho nhà vua. Ngay trong đoạn trích, dù <br />
đã cận kề cái chết, dù Đan Thiềm khẳng định: "Người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà <br />
nếu có chết cũng phải cho mọi người biết rằng công việc của mình làm chính đại quang <br />
minh". Trong mỗi lời thoại ấy của nhân vật đều ngời sáng lên vẻ đẹp của một con người <br />
cứng cỏi, bất khuất trước cường quyền và cái chết, luôn có ý thức gìn giữ sự trong sáng, <br />
trong từng việc làm, từng hành động của mình. Dù đang cận kề cái chết, Vũ Như Tô cũng <br />
vẫn khẳng khái mắng chửi Ngô Hạch là đồ bỉ ổi: "Mi thực là 1 tên bỉ ổi". Có thể nói, với <br />
Vũ Như Tô, cảm hứng ngợi ca khí phách và nhân cách của con người chính là một cảm <br />
hứng nổi bật của ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng trong đoạn trích này. <br />
Ở hồi cuối cả Vũ Như Tô lâm vào trạng thái khủng hoảng với một nỗi đau: sự "vỡ <br />
mộng" thê thảm. Bi kịch của Vũ Như Tô là ở chỗ: tuy có khát vọng nghệ thuật lớn lao <br />
nhưng lại tách rời khỏi hiện thực cuộc sống, không gắn nghệ thuật quyền lợi, lợi ích của <br />
nhân dân. Cái tài mà Vũ Như Tô có là tài năng siêu đẳng nhưng nó là nghệ thuật thuần túy <br />
chứ chưa hướng đến cuộc sống nhân dân. Cửu Trùng Đài xây cao bao nhiêu thì mồ hôi <br />
xương máu và nước mắt của nhân dân càng lớn bấy nhiêu. Vũ Như Tô muốn mượn tay <br />
Lê Tương Dực để xây dựng một kì quan cho đất nước nhưng thực tế, Đài Cửu Trùng <br />
được xây ra trước mắt là để phục vụ cho nhu cầu ăn chơi sa đọa của hôn quân bạo chúa <br />
và nhân dân bị tróc nã, hành hạ, bị tăng sưu nộp thuế rất nhiều. Vì quá ham mê thi thố tài <br />
năng mà người thợ tài năng ấy không nhận ra khát vọng nghệ thuật của mình vô tình đi <br />
ngược lại quyền lợi nhân dân. Điều này càng khiến bi kịch của người nghệ sĩ đó thêm <br />
phần sâu sắc.<br />
Trước vô vàn biến cố dồn dập, Đan Thiềm khẩn thiết thúc giục Vũ Như Tô đi trốn, <br />
những người nghệ sĩ này ngơ ngác không hiểu được: "làm gì mà phải trốn? Bà nói rõ vì <br />
sao?…Nguy hiểm làm sao". Dù Đan Thiềm đã cảnh tỉnh: "Ông gàn quá, ông đừng mơ <br />
mộng nữa", nhưng Vũ Như Tô vẫn một mực khẳng định mình không có tội "Tôi làm gì <br />
nên tội?" Thậm chí đến giờ phút căng thẳng nhất ông vẫn khẳng khái cho mình quang <br />
minh chính đại: "Người quân tử không bao giờ sợ chết, mà vạn nhất có chết, thì cũng <br />
phải chết cho mọi người biết rằng công việc mình làm là chính đại quang minh".<br />
Khi Cửu Trùng Đài bị đốt phá, Vũ Như Tô vẫn ngỡ ngàng không hiểu chỉ một mực thốt <br />
lên "Vô lý". Một loạt các câu thoại của Vũ Như Tô đều mang tính chất phủ định tình hình <br />
thực tại và khẳng định sự vô tội của mình.<br />
Đoạn trích thể hiện một ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao. Các lớp kịch <br />
ngắn, thay đổi liên tục, lời thoại gấp gáp, tạo một không gian sôi sục, căng thẳng. <br />
Nguyễn Huy Tưởng đã khắc họa đặc biệt thành công nhân vật Vũ Như Tô với nhiều đặc <br />
sắc trong diễn biến tư tưởng, tính cách, số phận. Nhân vật Vũ Như Tô là điển hình của <br />
kiểu nhân vật với những mâu thuẫn thời đại không thể giải đáp. Việc đặt nhân vật trong <br />
không gian cung cấm với cách định danh cụ thể tạo cho vở kịch mang màu sắc lịch sử rõ <br />
rệt.<br />
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài là vở kịch được xây dựng dựa trên hai mâu thuẫn: mâu thuẫn <br />
giữa nhân dân khốn khổ lầm than với bọn hôn quân bạo chúa. Mâu thuẫn mà mở vở kịch <br />
nên lên thuộc loại mâu thuẫn không bao giờ và không ai giải quyết cho thật dứt khoát, ổn <br />
thỏa được, nhất là trong thời đại Vũ Như Tô. Thông điệp của nhà văn là: "Xã hội phải <br />
biết tạo điều kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng, quý trọng nâng niu những <br />
giá trị nghệ thuật đích thực".<br />
Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng cũng thể hiện những day dứt trăn <br />
trở của mình: cái Tài của người nghệ sĩ không được đi ngược lại quyền lợi nhân dân, <br />
nhưng "cơm áo không đùa với khách thơ" (Xuân Diệu), nếu cứ vì cuộc sống mưu sinh thì <br />
biết bao giờ nước Nam ta mới có một công trình nghệ thuật đồ sộ sánh ngang tầm thế <br />
giới và trường tồn đến muôn đời? Câu hỏi này ở thời Vũ Như Tô và Nguyễn Huy Tưởng <br />
đều không trả lời được.<br />
Bài làm 2<br />
Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn, nhà biên kịch tài hoa, ông có rất nhiều những tác phẩm <br />
nổi tiếng với đề tài viết về lịch sử, đặc biệt khi viết kịch ông thường viết vào các bi kịch <br />
để xoáy sâu vào những vấn đề nổi bật trong xã hội.<br />
Tác phẩm đã thể hiện được quan điểm dân tộc, giữa cái chung với cái riêng, và với cái <br />
mang tính chất của cường quyền, với thế lực và lợi ích của nhân dân, tác phẩm đã để lại <br />
cho người đọc nhiều cảm xúc bởi tài năng trong việc xây dựng nên những bi kịch mâu <br />
thuẫn để làm nổi bật lên tính bi kịch trong tác phẩm. Tác phẩm đã thể hiện những mối <br />
mâu thuẫn cơ bản giữa dân chúng với triều đình, ở đây triều đình được miêu tả với <br />
những hiện thực rất đáng phê phán, triều đình chỉ chứa đựng những tên tham quan, hay ăn <br />
chơi sa đọa, thích đàn áp, và ăn chơi khi mà dựa vào xương máu của dân tộc để hưởng <br />
lạc. Mâu thuẫn đó đều bắt nguồn từ cả lợi ích đối với những thành phần dân tộc, họ có <br />
những hành động xâm hại đến các mối quan hệ xã hội.<br />
Tiếp theo tác giả cũng đã xây dựng lên hàng vạn những chi tiết nhằm thể hiện những mâu <br />
thuẫn trong các tình huống trong câu chuyện đó là mâu thuẫn về ý tưởng của người nghệ <br />
sĩ đối với triều đình và cụ thể đó là ông vua Lê Tương Dực với Vũ như Tô trong việc xây <br />
dựng cửu trùng đài. Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ tài hoa, chính vì vậy ông luôn muốn <br />
làm nên những tác phẩm kiệt tác, nhưng không phải theo cách của vua, mà dẫm đạp lên <br />
xương máu của dân tộc để có thể hoàn thành mục đích, mục đích chính của ông vua Lê <br />
Tương Dực khi muốn xây dựng cửu trùng đài để có nơi ăn chơi hưởng lạc.<br />
Trong tình hình nhân dân thì đói khổ, mà triều đình thì ra sức đàn áp, bóc lột để lấy tiền ăn <br />
chơi sa đọa. Tất cả các chi tiết và tình huống kịch đã tạo nên những mâu thuẫn kịch sâu <br />
sắc, sự đối lập trong các mối quan hệ thể hiện một cái nhìn mới mẻ trong các quan hệ, <br />
giữa vua tôi, và nhân dân. Trong tình hình đó dân tộc ta đã phải luôn đấu tranh để có thể <br />
dành được những lợi ích riêng, và đúng như Vũ Như Tô, ông cũng cương quyết trước <br />
hành động của triều đình. Mâu thuẫn đang chằng chéo lấy nhau, nó gần tạo nên những <br />
xung đột kịch một cách sâu sắc. Hệ quả cuối cùng của những mâu thuẫn đó là cửu trùng <br />
đài cũng bị thiêu trụi và người nghệ sĩ tài hoa như Vũ Như Tô cũng chết cùng với Cửu <br />
trùng đài.<br />
Trong câu chuyện các đối thoại giữa các nhân vật diễn ra cũng vô cùng phức tạp, nhân <br />
vật nữ Đan Thiềm cũng có rất nhiều những cuộc đối thoại giữa nhân vật chính trong câu <br />
chuyện đó là Vũ Như Tô. Một người nghệ sĩ cả đời luôn mong muốn làm được điều gì đó <br />
để lại những công trình cho cuộc đời, và như Vũ Như Tô cũng vậy, ông luôn mong muốn <br />
đóng góp và dành sức lực của mình để xây dựng lên một kiệt tác như cửu trùng đài, <br />
nhưng ông không biết rằng để đạt được những điều đấy, ông đang xây dựng trên xương <br />
máu của rất nhiều con người. Người nông dân đang phải chịu đựng rất nhiều những cực <br />
khổ, sự áp bức bóc lột tới tận xương tủy. Khi trên con đường thực hiện nghệ thuật, ông <br />
đã quên đi quyền lợi của nhân dân, người nghệ sĩ đã không ngờ đến mục đích cao đẹp <br />
của mình đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhân dân như vậy. Trong câu chuyện mối quan hệ <br />
giữa các nhân vật đã diễn ra với những tình huống vô cùng chặt chẽ, nó thể hiện một tình <br />
huống và các diễn biến của câu chuyện đặc sắc và vô cùng có ý nghĩa.<br />
Trong mối quan hệ giữa Vũ Như Tô và Đan Thiềm, một người nghệ sĩ chân chính như Vũ <br />
NHư Tô, mục đích chỉ là làm nên những công trình có danh tiếng cho đất nước, ông đã <br />
dùng hết những tài năng và công sức của mình trong việc xây dựng cửu trùng đài, ông <br />
chưa lường trước được hậu quả mà để thực hiện được một công trình gây ra cho nhân <br />
dân biết bao nhiêu hiểm họa, con đường và người nghệ sĩ đã day dứt trước những hành <br />
động của mình, mặc dù đó không sai khi áp dụng đối với người nghệ sĩ, nhưng khi xét <br />
trong mối quan hệ với cộng đồng nhân dân thì đó lại là những điều gây khó khăn cho dân <br />
tộc. Trước cuộc đối với thoại với Đan Thiềm, Đan Thiềm được tác giả xây dựng là một <br />
nhân vật có tâm, và luôn biết trân trọng nghệ thuật và người tài. Chính những lý do luôn <br />
muốn cái đẹp phát huy được khả năng và phục sự cho đất nước mà tác giả đã thể hiện <br />
quan điểm của mình với Vũ Như Tô trong việc xây dựng cửu trùng đài để có một nghệ <br />
thuật xuất chúng cho đất nước, nhưng cuối cùng bà đã phải chịu một tấn bi kịch khi nhận <br />
ra những lời khuyên đó đang ảnh hưởng và nó nguy hại đến toàn bộ đất nước, câu <br />
chuyện đã mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc bởi những lối suy tư và tình huống <br />
truyện hấp dẫn.<br />
Bi kịch của các nhân vật trong câu chuyện cũng được thể hiện vô cùng mạnh mẽ, nó thể <br />
hiện một quan điểm nghệ thuật trong xây dựng kịch của Nguyễn Huy Tưởng, bi kịch của <br />
các nhân vật đều rơi vào con đường tuyệt vọng, và rồi họ đều tìm đến cái chết, chính <br />
những cái vô tình đó đã đẩy các nhân vật đến những bờ vực sâu sắc của sự sống và cái <br />
chết, cái chết đó đã mang lại nhiều ý nghĩa sâu sắc trong mâu thuẫn giữa người nghệ sĩ <br />
với nhân dân, và với quyền lợi của dân tộc. Khi Vũ Như Tô chết, Cửu trùng đài bị thiêu <br />
cháy, Đan Thiềm cũng cùng người tiễn biệt, bà đã từng thốt lên: “ Đài lớn tan tành. Ông <br />
cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt” những lời ra đi chua xót và để lại nhiều cảm xúc trong <br />
lòng người đọc.<br />
Hai nhân vật này đều là những con người yêu cái đẹp, luôn mong muốn giữ lại cái đẹp, <br />
và quý trọng nó, nhưng rồi để thực hiện mục đích của cái đẹp họ lại quên đi nhân dân, để <br />
nhân dân phải chịu những cực khổ, hai người này đã được người đọc cảm thông, bởi họ <br />
đều phải chịu những tấn bi kịch nghiệt ngã, họ phải chịu đựng những đau đớn, và nghiệt <br />
ngã từ cuộc sống, phải chịu những bi kịch.<br />
Chính tài năng và cách xây dựng tình huống kịch độc đáo đã để lại cho tác phẩm nhiều <br />
tiếng vang lớn cho cuộc sống và trên thi đàn văn học của dân tộc.<br />
Bài làm 3<br />
Trong hồi kịch này, Vũ Như Tô – Đan Thiềm, cũng là cặp hình tượng bi kịch mang tính <br />
biểu tượng nghệ thuật cao. Vũ Như Tô hiện lên như một tính cách bi kịch, vừa bướng <br />
bỉnh vừa mềm yếu, vừa kiên định, vừa dễ hoang mang.<br />
Nhân vật bi kịch thường mang trong mình không chỉ những say mê khát vọng lớn lao mà <br />
còn mang cả những lầm lạc trong hành động và tư duy của chính nó. Nhưng, không bao <br />
giờ khuất phục hoàn cảnh, nhân vật bi kịch bướng bỉnh vùng lên chống lại và thách thức <br />
số phận.<br />
Tính cách nổi bật nhất của Vũ Như Tô: là tính cách của người nghệ sĩ tài ba, hiện thân <br />
cho niềm khát khao và đam mê sáng tạo cái đẹp. Nhưng trong một hoàn cảnh cụ thể, cái <br />
đẹp ấy thành ra phù phiếm, nó sang trọng, siêu đẳng, thậm chí, “cao cả và đẫm máu” như <br />
một “bông hoa ác”. Vì thế, đi tận cùng niềm đam. mê khao khát ấy Vũ Như Tô tất phải <br />
đối mặt với bi kịch đau đớn của đời mình. Chàng trở thành kẻ thù của dân chúng, thợ <br />
thuyền mà không hay biết.<br />
Cái tài ba được nói đến chủ yếu ở các hồi, lớp trước thông qua hành động của anh và <br />
nhất là lời của các nhân vật khác nói về anh: thiên tài “ngàn năm chưa dễ có một”. Nghệ <br />
sĩ ấy có thể “sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây dựng những lâu đài <br />
cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ”. Anh “chỉ cần vẩy bút là <br />
chim hoa đã hiện trên mảnh lụa thần tình biến hóa như cảnh hóa công”. Nhưng chính vì <br />
quá đam mê khao khát đắm chìm trong sáng tạo mà Vũ càng dễ xa rời thực tế đời sống; <br />
càng sáng suốt trong sáng tạo nghệ thuật thì càng mê muội trong những toan tính âu lo đời <br />
thường. Hồi thứ V không nói nhiều đến tài năng của nhân vật (chì duy nhất có Đan <br />
Thiềm nhắc đến), mà đặt Vũ vào việc tìm kiếm một câu trả lời: xảy Đài Cửu Trùng là <br />
đúng hay sai? Có công hay có tội? Nhưng Vũ không trả lời được thỏa đáng câu hỏi đó bởi <br />
chàng chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của <br />
nhân dân, trên lập trường cái đẹp mà không đứng trên lập trường cái thiện. Hành động <br />
của chàng không hướng đến sự hòa giải mà thách thức và chấp nhận sự hủy diệt. Vũ đã <br />
từng tranh tinh xảo với hóa công, giờ lại bướng bỉnh tranh phải – trái với số phận và với <br />
cuộc đời. Hành động kịch hướng vào cuộc đua tranh này thể hiện qua diễn biến tâm trạng <br />
của Vũ Như Tô. […]<br />
Vũ Như Tô, […], vẫn không thể thoát ra khỏi trạng thái mơ màng, ảo vọng của chính <br />
mình. Chàng không thể tin rằng cái việc cao cả mình làm lại có thể bị xem là tội ác, cũng <br />
như không thể tin sự quang minh chính đại của mình lại bị rẻ rúng, nghi ngờ. Sự “vỡ <br />
mộng” của Vũ Như Tô vì thế đau đớn, kinh hoàng gấp bội so với Đan Thiềm. Nỗi đau ấy <br />
bộc lộ thành tiếng kêu bi thiết mà âm điệu não nùng, khắc khoải của nó thành âm hưởng <br />
chủ đạo bao trùm đoạn kết đã đành mà còn thành một thứ chủ âm dội ngược lên toàn bộ <br />
những phần trước của vở kịch, “ôi mộng lớn! ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!”. Đó <br />
cũng là những tiếng kêu cuối cùng của Vũ Như Tô khi ngọn lửa oan nghiệp đang bùng <br />
bùng thiêu trụi Cửu Trùng Đài, trước khi tác giả của nó bị dẫn ra pháp trường. Trong <br />
tiếng kêu ấy “mộng lớn”, “Đan Thiềm”, “Cửu Trùng Đài’ đã được Vũ đặt liên kết với <br />
nhau, nỗi đau mất mát như nhập hòa làm một, thành một nỗi đau bi tráng tột cùng.<br />
<br />