Đề bài: Phân tích những phát hiện của nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa liên hệ <br />
với cái chết hình tượng của Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài<br />
<br />
Dàn ý phân tích nhân vật Phùng liên hệ với cái chết của Vũ Như Tô<br />
<br />
I. Mở bài:<br />
<br />
Giới thiệu chung về Nguyễn Minh Châu, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa” và nhân vật <br />
Phùng.<br />
<br />
II. Thân bài: <br />
<br />
Phân tích những phát hiện và sự tỉnh ngộ của nhân vật Phùng.<br />
<br />
1. Những phát hiện của Phùng.<br />
<br />
Phùng là một nghệ sỹ nhiếp ảnh. Theo đề nghị của trưởng phòng, anh cần chụp một bức <br />
ảnh cảnh biển cho bộ lịch tháng bảy năm sau. Nơi anh tìm kiếm cảm hứng sáng tạo là một <br />
vùng quê ven biển, cũng là nơi từng là chiến trường và ở đó còn có Đẩu người đồng đội cũ <br />
của anh giờ là Chánh án Tòa án huyện.<br />
Anh dày công tìm kiếm “mai phục” hàng tháng mới bất ngờ bắt gặp “một cảnh đắt trời <br />
cho” trên hành trình “săn ảnh” cảnh chiếc thuyền trên mặt biển trong sương mù của buổi <br />
bình minh. Chứng kiến và thu vào ống kính khung cảnh đó, trong lòng Phùng trào lên niềm <br />
xúc động, hạnh phúc, cảm giác “tâm hồn như được thanh lọc”.<br />
Nhưng cũng chính trong khoảnh khắc đó, anh lại tận mắt thấy cảnh một người đàn ông <br />
hàng chài đánh vợ một cách tàn nhẫn, thô bạo. Sự thực trần trụi, tàn nhẫn phơi bày trước <br />
mắt và xảy đến quá nhanh khiến Phùng kinh ngạc tột độ, thoạt đầu chỉ biết “đứng há hốc <br />
mồm ra mà nhìn”. Điều này cho thấy, Phùng hoàn toàn chưa có ý thức chuẩn bị cho mình <br />
một tâm thế sẵn sàng đối diện với muôn vàn nghịch lý của cuộc đời. Tiếp sau, Phùng còn <br />
phải trải qua nhiều “kinh ngạc” nữa: cậu bé Phác, vốn thân với anh, bỗng xa lánh và dường <br />
như thù ghét anh; người đàn bà được anh “cứu” xem ra không mấy biết ơn ân nhân bất đắc <br />
dĩ, thậm chí còn không muốn anh can dự vào chuyện của chị ta; kẻ bị hành hạ dứt khoát <br />
không bỏ người chồng đã nện mình như cơm bữa,..<br />
<br />
2. Phùng với hành trình từ ngạc nhiên đến “vỡ lẽ” và “bừng ngộ”.<br />
<br />
Cuộc nói chuyện với người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện đã khiến Phùng “vỡ lở” <br />
nhiều điều.<br />
+ Anh ngỡ rằng, mình đang giúp người phụ nữ này thoát khỏi bất hạnh nhưng lại không hề <br />
biết rằng chính sự giúp đỡ đầy thiện chí đó lại đẩy người phục nữ cùng đàn con của mình <br />
vào tình thế sống còn bi thảm hơn. Bỏ chồng, người phụ nữ có thể không phải chịu đòn “ba <br />
ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng sẽ cơ cực bội phần khi phải đơn độc <br />
vật lộn mưu sinh, đàn con sẽ tan đàn sẻ nghé khi gia đình tan vỡ, không chỉ là thất học mà <br />
còn đối mặt với bao nguy cơ: đói cơm, rách áo; sông tha phương, vất vưởng tự mưu sinh.<br />
<br />
+ Anh đầy tự tin mình là một người trí thức nghệ sĩ đủ nhạy cảm, mình là người đã trải <br />
nghiệm sâu sắc những năm chiến đấu để thuyết giáo một người đàn bà lao động nghèo khó, <br />
thất học mà không ngờ rằng, những gì anh có quá nghèo nàn, hời hợt, nông cạn, thậm chí <br />
ngây thơ. Chính người đàn bà lam lũ, thất học kia mới dạy cho anh những bài học đời thấm <br />
thía, sâu sắc, giúp anh nhận ra và hiểu rằng còn có bao nhiêu những ẩn ức của cuộc đời, <br />
những góc khuất tối của đời sống con người mà không phải ai cũng nhìn thấy và thấu hiểu.<br />
<br />
3. Liên hệ với cái chết của hình tượng nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích "Vĩnh <br />
biệt Cửu Trùng đài” để làm sáng tỏ nhận thức chung của mỗi nhà văn về mối quan <br />
hệ giữa nghệ thuật và đời sống.<br />
<br />
Những phát hiện và sự tỉnh ngộ, “vỡ lẽ” của phóng viên nhiếp ảnh Phùng gợi người đọc <br />
liên tưởng đến cái chết của hình tượng nhân vật Vũ Như Tô trong trích đoạn “Vĩnh biệt <br />
Cửu Trùng đài” (trích vở kịch Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng.<br />
<br />
+ Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài, có khát vọng nghệ thuật cao đẹp là xây dựng <br />
được một công trình “bền như trăng sao” có thể “tranh tinh xảo với Hóa công”, làm vinh dự <br />
cho cả một dân tộc. Nhưng tòa lâu đài tráng lệ có tên Cửu Trùng Đài mà ông dốc toàn bộ tâm <br />
sức, tài năng xây dựng, bất chấp cả những cơ cực, khổ nạn của thợ thuyền và nhân dân khi <br />
bị bóc lột tận xương tủy đó lại là công trình kiến trúc chỉ phục vụ nhu cầu hưởng lạc sa đọa <br />
của Lê Tương Dực một hôn quân với các cung nữ.<br />
<br />
+ Xung đột không thể hòa giải giữa khát vọng nghệ thuật thuần túy của Vũ Như Tô và <br />
những người dân đói khổ bị bắt phải đi xây dựng Cửu Trùng Đài đã dẫn đến hậu quả tất <br />
yếu: Cửu Trùng Đài bị đốt, Vũ Như Tô bị đưa ra pháp trường, chấp nhận cái chết mà vẫn <br />
chưa thể tỉnh ngộ việc vì sao mình phải chết, cớ gì Cửu Trùng Đài bị đốt.<br />
<br />
+ Cái chết của Vũ Như Tô là khó và không thể tránh khỏi khi người nghệ sĩ này tuyệt đối <br />
hóa cái đẹp, đặt cái đẹp của nghệ thuật bên ngoài những mối quan hệ xã hội, đặt cái đẹp <br />
trên cái thiện, thậm chí chà đạp lên cái thiện. Chỉ chạy theo đam mê nghệ sĩ cá nhân dù đó là <br />
khát vọng cao đẹp nhưng bỏ rơi, lãng quên nỗi khổ cực, đói nghèo của nhân dân, nghệ sĩ và <br />
sản phẩm anh tạo ra sẽ không thể có chỗ đứng trong đời sống, tất yếu sẽ bị hủy diệt.<br />
<br />
Từ đây có thể thấy cả Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Minh Châu đều thể hiện nhận thức <br />
chung sâu sắc, thấm thía về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.<br />
<br />
+ Nghệ thuật, người nghệ sỹ luôn phải gắn bó với đời sống con người và phải luôn vì con <br />
người bởi một nguyên lý muôn đời: nghệ thuật là cuộc đời, nghệ thuật sẽ chẳng là gì nếu <br />
không vì cuộc đời, con người mà có. “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn <br />
học” (nói riêng), nghệ thuật (nói chung).<br />
<br />
+ Cuộc đời, con người mà nghệ thuật chân chính cần hướng tới, cần quan tâm hơn cả phải <br />
là cuộc đời của quần chúng nhân dân lao động những con người đáng thương, thường phải <br />
chịu nhiều thua thiệt; những con người đau khổ, bất hạnh nhất trong mọi xã hội.<br />
<br />
Bài văn mẫu tham khảo liên hệ quan niệm về nghệ thuật và cuộc <br />
sống qua Chiếc thuyền ngoài xa và Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài<br />
Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự <br />
cống hiến, hy sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện chủ <br />
yếu trong mối quan hệ với đồng chí, đồng bào, với kẻ thù. Sau năm 1975, văn chương trở <br />
về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời <br />
kỳ đổi mới đã đi sâu khám phá đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi làm cho người đọc <br />
ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội <br />
phức tạp, chằng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được nhu cầu nhìn nhận và hoàn <br />
thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh <br />
Châu là phát hiện về đời sống và con người theo hướng đó.<br />
<br />
Phát hiện thứ nhất của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh là một vùng biển từng là chiến trường <br />
cũ của anh, nơi anh đã dự tính bố cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng để “chộp” được một <br />
cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra vẻ <br />
đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm <br />
phúc bắt gặp được một lần: “trước mặt tôi là bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. <br />
Mũi thuyền in một nét loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu <br />
hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc <br />
như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn <br />
qua những cái mắt lưới… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và <br />
đẹp… Tôi tưởng thấy chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám <br />
phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ <br />
chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. <br />
Dường như trong hình ảnh về chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, anh đã bắt <br />
gặp cái tận Thiện, tận Mỹ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, <br />
tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời.<br />
<br />
Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lý, nó bất ngờ và trớ trêu <br />
như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã từng có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập <br />
tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, anh đã từng chiêm <br />
nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, vậy mà hoá ra đằng sau cái đẹp “toàn bích… <br />
toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lý <br />
của sự toàn thiện”. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước <br />
ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn và độc <br />
ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải toả những uất ức, khổ đau. Phùng đã <br />
từng là người lính cầm súng chiến đấu để có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển mênh <br />
mông, anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lý và <br />
thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con lão đàn ông đã kịp tới để che chở <br />
cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng <br />
mới thể hiện được bản chất người lính không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. <br />
Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện, ở đó <br />
có chánh án Đẩu, bạn chiến đấu cũ của anh. Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang <br />
trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm <br />
những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng <br />
khiếp, ghê sợ.<br />
<br />
Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời, <br />
nó giúp những người như Phùng và Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô <br />
lý. Bề ngoài đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành <br />
hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, vậy mà vẫn <br />
nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình của người <br />
mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hy sinh của bà là tình thương vô <br />
bờ với những đứa con: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có những người <br />
đàn ông ở thuyền để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con <br />
nhà nào cũng trên dưới chục đứa… phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”. <br />
Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. <br />
Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể <br />
khác được. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh <br />
phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no… trên thuyền <br />
cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”; “Ông trời sinh ra người đàn <br />
bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn…”. Qua câu chuyện của người đàn bà <br />
càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của <br />
cuộc sống.<br />
<br />
Tư tưởng nghệ thuật đó của Nguyễn Minh Châu thấm sâu trong hầu hết các nhân vật của <br />
truyện ngắn: người đàn bà vùng biển, lão đàn ông độc ác, chị em thằng Phác, người nghệ sĩ <br />
nhiếp ảnh.<br />
Tác giả chỉ gọi là “người đàn bà” một cách phiếm định. Tuy không có tên tuổi cụ thể, chỉ là <br />
một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy <br />
lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này. <br />
Trạc ngoài bốn mươi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, <br />
người đàn bà ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Bà thầm lặng chịu đựng <br />
mọi đớn đau, khi bị chồng đánh “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách <br />
trốn chạy”, bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên <br />
chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khoẻ mạnh và biết nghề, <br />
chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. “Tình thương con cũng như nỗi đau, <br />
cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ <br />
rõ rệt ra bề ngoài” – một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng để chia sẻ, cảm thông. <br />
Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt <br />
Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hy sinh.<br />
<br />
Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến “anh con <br />
trai cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc <br />
ác. Cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ, đánh như để giải toả uất ức, để trút cho sạch <br />
nỗi tức tối, buồn phiền: “lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng <br />
quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong đời vẫn có những kẻ như thế, nói như Nam Cao <br />
trước kia, chỉ để thoả mãn lòng ích kỷ, chúng tự cho mình cái quyền được hành hạ mọi <br />
người. Lão đàn ông “chân chữ bát”, “mái tóc tổ quạ”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ”, vừa là <br />
nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những <br />
người thân của mình.<br />
Trong một gia đình mà bố mẹ có chuyện lục đục, đáng thương nhất là những đứa trẻ. <br />
Chúng bị đẩy vào tình thế thật khó xử: biết đứng về phía ai, biết làm thế nào để trọn đạo <br />
làm con? Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao <br />
trên tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lý. Chắc trong <br />
lòng cô bé tan nát vì đau đớn: bố điên cuồng hành hạ mẹ; chỉ vì thương mẹ mà thằng em <br />
định cầm dao ngăn bố… Cô bé lúc ấy là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô <br />
đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi <br />
mẹ phải đến toà án huyện. Còn thằng Phác lại thương mẹ theo kiểu một đứa con còn nhỏ, <br />
theo cái cách một đứa con trai vùng biển: nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn <br />
mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng <br />
chịt”, nó “tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì <br />
mẹ nó không bị đánh”. Mặc dù thật khó chấp nhận kiểu bảo vệ mẹ của nó, nhưng hình ảnh <br />
thằng Phác vẫn khiến người ta cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.<br />
<br />
Vốn là người lính chiến từng vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn <br />
sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp <br />
tinh khôi của thuyền biển bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức <br />
giận khi phát hiện ra ngay sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, <br />
cái ác. Mới đầu, chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ và người vợ nhẫn nhục chịu đựng, <br />
Phùng hết sức “kinh ngạc”, anh “há mồm ra mà nhìn”, rồi sau như một phản xạ tự nhiên, <br />
anh “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Hành động ấy nói được nhiều điều. <br />
Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, <br />
nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ <br />
thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động <br />
trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, <br />
biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.<br />
<br />
Ở tác phẩm này, nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu là cách tạo <br />
tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Nếu coi tình huống là sự kiện có <br />
ý nghĩa bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, <br />
đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người, thì với <br />
Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự kiện như thế. Trước đó, Phùng nhìn <br />
đời bằng con mắt của một nghệ sĩ, anh rung động, say mê trước vẻ đẹp “trời cho” của <br />
thuyền biển sớm mai. Chính trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn <br />
nhất, anh bất ngờ chứng kiến đôi vợ chồng từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão <br />
đàn ông đánh vợ một cách dã man và vô lý. Tình huống đó được lặp lại một lần nữa, Phùng <br />
không chỉ chứng kiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng mà còn thấy được thái độ, hành <br />
động của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha với mẹ. Từ đó đến cuối truyện, <br />
Phùng đã có cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền <br />
chài ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất <br />
người đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình. Tình huống truyện đã được <br />
Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn nữa để phát hiện tính cách <br />
con người, phát hiện sự thật cuộc đời.<br />
<br />
Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn này cũng rất đáng chú <br />
ý. Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hoá thân của tác giả <br />
vào nhân vật Phùng. Việc chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần <br />
thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể <br />
chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp <br />
với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông thật thô bỉ, tàn nhẫn với <br />
những từ ngữ đầy vẻ tục tằn, hung bạo; những lời của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa <br />
khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; những lời <br />
của Đẩu ở toà án huyện rõ là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt thành… Việc sử <br />
dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề tư tưởng <br />
của truyện ngắn.<br />
Có thể thấy cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 là cảm <br />
hứng anh hùng cách mạng, còn sau năm 1975 là cảm hứng về nhân cách con người, là hành <br />
trình “khám phá con người bên trong con người” (Bakhtin). Theo mạch cảm hứng ấy, năm <br />
1982 Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn Bức tranh; trong ý nghĩ tự phán xét, nhân vật hoạ <br />
sĩ đã vẽ một bức chân dung tự hoạ nhằm thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”. <br />
Đáng lưu ý là, nếu trong truyện Bức tranh, Nguyễn Minh Châu hướng cái nhìn nghệ thuật <br />
vào thế giới nội tâm thì trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu lại hướng <br />
cái nhìn nghệ thuật ra thế giới bên ngoài, ra cuộc sống đời thường. Nếu truyện Bức tranh là <br />
sự tự nhận thức, tự phê phán của con người dưới ánh sáng của lương tâm, đạo đức, thì <br />
truyện Chiếc thuyền ngoài xa là sự nhận thức và phê phán cái xấu, cái ác trong cuộc sống <br />
thường ngày. Cả hai tác phẩm đều được viết dưới sự chỉ đạo của quan điểm nghệ thuật: <br />
chỉ ra mặt xấu, mặt tối để góp phần hoàn thiện nhân cách con người, làm cho cuộc sống <br />
ngày càng tốt đẹp hơn. Đặc biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng <br />
đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát <br />
hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn Minh <br />
Châu từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn <br />
cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.<br />
Cái đẹp là một phạm trù mĩ học cơ bản giữ vị trí trung tâm trong quan hệ thẩm mĩ giữa con <br />
người và hiện thực, bao chứa các quan hệ chân – thiện – mĩ. Trong văn học nghệ thuật, cái <br />
đẹp luôn là đề tài, là nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ sáng tạo nghệ thuật. Tuy <br />
nhiên từ nguồn cảm hứng về cái đẹp, mỗi thời đại, mỗi người nghệ sĩ lại có những quan <br />
niệm khác nhau về cái đẹp. Từ quan niệm của Socrate, Platon, Kant, Leptonxtoi… cái đẹp đã <br />
có cả một quá trình vận động của nó. Tiếp cận tác phẩm từ quan niệm về cái đẹp qua trích <br />
đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng ta sẽ thấy được điều <br />
đó.<br />
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, cái đẹp là “phạm trù mĩ học xác định các hiện tượng theo <br />
quan điểm về sự hoàn thiện, xem các hiện tượng đó như là có giá trị thẩm mĩ cao nhất”. Cái <br />
đẹp là một phạm trù của mĩ học. Tuy nhiên khác với cái đẹp tồn tại khách quan ngoài cuộc <br />
sống, trong văn học nghệ thuật, cái đẹp là một sản phẩm nghệ thuật đặc biệt do người <br />
nghệ sỹ sáng tạo nên và là một phương diện không thể thiếu được của nghệ thuật.<br />
<br />
Nhưng tác phẩm nghệ thuật chỉ đẹp, tức là có giá trị nghệ thuật khi nó thể hiện chân thực <br />
đời sống trong mọi biểu hiện thẩm mĩ của nó thông qua lăng kính lý tưởng nhân đạo, thể <br />
hiện sự phong phú về tinh thần của con người, dưới một hình thức hoàn thiện bậc thầy.<br />
Cái đẹp đi vào mọi lĩnh vực của đời sống làm cho cái ác, cái xấu bị đẩy lùi xa hơn. Trong tác <br />
phẩm nghệ thuật, cái đẹp không chỉ thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của người đọc, bồi dưỡng <br />
năng lực thẩm mĩ cho người đọc mà còn nâng đỡ tâm hồn người đọc, hướng người đọc đến <br />
Chân – thiện – mĩ, đúng như Đôxtôiepxki nói: “Cái đẹp cứu rỗi nhân loại”. Cái đẹp còn <br />
phản ánh quan niệm mĩ học của nhà văn, xu hướng, tình cảm thẩm mĩ của xã hội ở thời <br />
điểm đó. Vì vậy, hiểu được cái đẹp trong tác phẩm nghệ thuật, sẽ hiểu được cội nguồn các <br />
phương thức nghệ thuật được nhà văn sử dụng để xây dựng hình tượng nghệ thuật và cách <br />
nhìn, sự đánh giá của nhà văn đối với cuộc đời, con người trong tác phẩm.<br />
Là nhà văn giàu tâm huyết với nghề và có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học mới, <br />
Nguyễn Huy Tưởng đã đem đến cho người đọc những trang viết đôn hậu, tin yêu đối với <br />
con người từ quan niệm mĩ học của nhà văn. Quan niệm này thể hiện đậm nét trong vở kịch <br />
Vũ Như Tô.<br />
Vũ Như Tô là một vở kịch gồm V hồi. Tác phẩm viết về một sự kiện xảy ra ở kinh thành <br />
Thăng Long thế kỷ XVI. Lê Tương Dực, một hôn quân bạo chúa muốn mượn bàn tay của <br />
Vũ Như Tô, một kiến trúc sư thiên tài xây cho hắn một Cửu Trùng Đài làm nơi vui chơi với <br />
các cung nữ. Là một người nghệ sĩ chân chính, Vũ Như Tô đã từ chối xây Cửu Trùng Đài <br />
cho Lê Tương Dực. Đan Thiềm, một cung nữ đã khuyên Vũ Như Tô lợi dụng công khố của <br />
hắn xây một Cửu Trùng Đài hoa lệ. Cửu Trùng Đài càng lên cao, càng tốn kém tiền của nhân <br />
dân. Vô tình, Vũ Như Tô trở thành kẻ thù của dân chúng. Lợi dụng sự rối ren, Trịnh Duy <br />
Sản cầm đầu quân khởi loạn giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm, đốt Cửu Trùng <br />
Đài. Trích đoạn Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài thuộc hồi V của tác phẩm.<br />
<br />
Trải dài trên trang văn của Nguyễn Huy Tưởng trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (trích Vũ <br />
Như Tô) là quan niệm nghệ thuật về cái đẹp của nhà văn. Đó là cái đẹp siêu phàm, thậm chí <br />
là một bông hoa ác đẫm máu.<br />
Với quan niệm, cái đẹp của nghệ thuật phải là cái đẹp siêu phàm, nhà văn đã xây dựng <br />
thành công nhân vật Vũ Như Tô, một người nghệ sĩ tài hoa, có niềm đam mê sáng tạo nghệ <br />
thuật. Khát vọng của Vũ Như Tô là xây dựng một Cửu Trùng Đài hoa lệ, thách những công <br />
trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công và để lại niềm vinh dự tự hào cho hậu thế. Đó là <br />
khát vọng cao đẹp của một người nghệ sĩ chân chính. Thế nhưng, Cửu Trùng Đài càng lên <br />
cao, càng tốn kém tiền của, công sức của nhân dân. Lại thêm, đại dịch, hạn hán, mất mùa <br />
liên miên khiến đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Vô tình, Vũ Như Tô trở thành kẻ thù <br />
của dân chúng lúc nào mà ông không hay!<br />
Biết rằng, khát vọng của Vũ Như Tô là khát vọng của một người nghệ sĩ chân chính, mong <br />
muốn đem tài năng của mình để tô điểm cho đất nước. Nhưng trong hoàn cảnh đất nước lúc <br />
bấy giờ, niềm say mê sáng tạo cái đẹp của Vũ Như Tô trở nên phù phiếm. Tiếc rằng người <br />
nghệ sĩ chân chính ấy vẫn mơ màng, ảo tưởng về những việc mình đã làm. Trích đoạn đã <br />
phản ánh chân thực trạng thái mơ màng, ảo tưởng của người nghệ sĩ.<br />
<br />
Biết có biến, Đan Thiềm, một cung nữ thông minh, tỉnh táo, nhạy cảm với thời cuộc đã <br />
khuyên Vũ Như Tô trốn đi, nhưng Vũ Như Tô vẫn không hiểu vì sao lại phải trốn đi: “Sao <br />
trước đây bà bảo tôi ở lại, bây giờ lại bảo tôi trốn đi?”. Đến khi quân khởi loạn vào cung <br />
đốt phá, Vũ Như Tô vẫn mơ màng. Ông không tin việc mình làm lại có thể gây nên tội ác mà <br />
cho rằng: việc mình làm là quang minh, chính đại. Cho nên đi đến tận cùng của ước mơ, <br />
khát vọng, Vũ Như Tô đau đớn nhận ra giấc mộng lớn của mình bị tan vỡ: Cửu Trùng Đài bị <br />
đốt, Vũ Như Tô bị bắt. Ông kêu lên đau đớn:“Ôi đảng ác! Ôi căm giận muôn phần! Trời ơi! <br />
Phú cho ta cái tài để làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!”. Đó là tiếng <br />
kêu đầy máu và nước mắt của một người nghệ sĩ khao khát đem tài năng sáng tạo cái đẹp, <br />
nhưng lại bị vùi dập.<br />
<br />
Nếu Vũ Như Tô mơ màng, ảo tưởng thì Đan Thiềm – một cung nữ lại rất thông minh, tỉnh <br />
táo, nhạy cảm trước những biến cố xảy ra trong kinh thành. Trước đây, Vũ Như Tô từ chối <br />
xây Cửu Trùng Đài cho hôn quân bạo chúa Lê Tương Dực, Đan Thiềm khuyên ông lợi dụng <br />
quyền thế, tiền bạc của Lê Tương Dực để xây dựng cho đất nước một tòa lâu đài “bền như <br />
trăng sao”. Nhưng khi biết có biến xảy ra, quân khởi loạn nổi dậy, giết Lê Tương Dực, đốt <br />
phá kinh thành, bắt Vũ Như Tô, Đan Thiềm đã khuyên Vũ Như Tô bỏ trốn, thậm chí xin đổi <br />
cả tính mạng để Vũ Như Tô được sống, với một lí do hết sức cao đẹp: “Tài kia không nên <br />
uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không có ai tô điểm nữa”. Đan Thiềm tuy không <br />
sáng tạo nên cái đẹp nhưng lại là người biết yêu cái tài, trân trọng cái tài sáng tạo nên cái <br />
đẹp. Vì thế đặt nhân vật Đan Thiềm bên cạnh Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng đã khắc sâu <br />
bi kịch vỡ mộng của một người nghệ sĩ tài ba, chân chính nhưng không gặp thời.<br />
Phản ánh bi kịch vỡ mộng của Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng muốn khẳng định cái đẹp là <br />
nghệ thuật, nhưng cái đẹp chỉ là nghệ thuật khi nó bắt rễ từ hiện thực cuộc sống của nhân <br />
dân. Nếu xa rời cuộc sống, cái đẹp chỉ còn là một bông hoa ác đẫm máu. Mặt khác, nhà văn <br />
còn đặt ra một yêu cầu đối với người nghệ sĩ, người nghệ sĩ phải có niềm đam mê sáng tạo <br />
nghệ thuật, nhưng cũng phải hết sức tỉnh táo, nhạy cảm trước cuộc đời. Có như thế mới <br />
đến được cái chân – thiện – mĩ. Nếu không, cái đẹp ấy vẫn chỉ là niềm mơ ước, là cái đẹp <br />
siêu phàm.<br />
<br />
Quan niệm nghệ thuật về cái đẹp của nhà văn đã chi phối cách cảm, cách nghĩ của nhà văn <br />
về cuộc đời, con người được phản ánh trong tác phẩm, chi phối bút pháp nghệ thuật. Từ <br />
quan niệm cái đẹp trong nghệ thuật phải bắt rễ từ đời sống, Nguyễn Huy Tưởng chọn bút <br />
pháp hiện thực để xây dựng nhân vật Vũ Như Tô. Do vậy, tìm hiểu quan niệm về cái đẹp <br />
của mỗi nhà văn, ta có thể hiểu được quan niệm mĩ học của người cầm bút, rộng hơn là <br />
nhân cách, tài năng, là bản lĩnh của nhà văn trong việc phản ánh hiện thực đời sống.<br />
<br />
“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, sáng tạo”, nhưng không phải người cầm bút nào <br />
cũng có thể đem đến cho văn chương những điều mới lạ, mà chỉ có những người nghệ sĩ <br />
chân chính, có tài năng thực sự và giàu tâm huyết đối với nghệ thuật mới có thể đem đến <br />
cho văn chương sự sáng tạo, độc đáo. Quan niệm nghệ thuật về cái đẹp của Nguyễn Huy <br />
Tưởng là một trong những sự sáng tạo độc đáo ấy! Song để hiểu một cách sâu sắc và toàn <br />
diện quan niệm nghệ thuật về cái đẹp của nhà văn. Đó vẫn là điều bí ẩn trước cuộc đời. <br />
Nói như Leptoxtoi “Sách viết về cái đẹp đã chất lên thành núi, cái đẹp vẫn còn là câu đố <br />
giữa cuộc đời”.<br />
<br />
Cái đẹp là một hiện tượng thẩm mĩ vô cùng đa dạng, phong phú, là thước đo, là chuẩn mực <br />
đời sống của con người. Trong văn học, cái đẹp mang tính khái quát, sống động, tập trung. <br />
Lí giải quan niệm nghệ thuật về cái đẹp của Nguyễn Huy Tưởng trong Vĩnh biệt Cửu <br />
Trùng Đài, ta thấy nhà văn trân trọng khát vọng sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ, <br />
nhưng cũng rất tỉnh táo. Nguyễn Huy Tưởng không ca ngợi Vũ Như Tô mà chỉ cảm thông <br />
với bi kịch vỡ mộng của Vũ Như Tô. Và nhà văn cầm bút chẳng qua “cùng một bệnh với <br />
Đan Thiềm” bệnh yêu cái tài sáng tạo nên cái đẹp! Đó cũng là ý nghĩa cuộc hành trình tìm <br />
kiếm cái đẹp của người nghệ sĩ. Do vậy, tiếp cận một tác phẩm văn học không thể không <br />
tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về cái đẹp của nhà văn – thước đo tinh thần, tài năng nghệ <br />
thuật của người nghệ sĩ.<br />
<br />
Nghệ thuật luôn đi lên từ cái nhìn chân chính. Đúng như thế, nói đến nghệ thuật ta không <br />
thể không nhắc đến cuộc sống vì hai thứ ấy luôn gắn liền với nhau. Hai nhà văn Nguyễn <br />
Huy Tưởng và Nguyễn Minh Châu tuy viết hai tác phẩm ở hai giai đoạn khác nhau nhưng họ <br />
cùng hướng đến quan niệm về nghệ thuật. Quan niệm đó được thể hiện qua hình tượng hai <br />
nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa và Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng <br />
Đài. Hai nhà văn đã xây dựng lên hai nhân vật có nhiều nét tương đồng một cách trùng hợp <br />
và tài tình. Cũng nhờ như thế mà hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người đều <br />
được họ tìm thấy và nâng tầm giá trị.<br />
<br />
Đầu tiên là Nguyễn Minh Châu, ông được xem là một trong những nhà văn tiên phong trong <br />
công cuộc đổi mới văn học, văn của ông giản dị mà sâu sắc, thấm thía nhiều dư vị về cuộc <br />
đời, thấm đẫm nghệ thuật, cái mà ông luôn xem là bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống. Cũng <br />
nhờ như thế mà nhân vật Phùng đã ra đời qua chính ngòi bút của ông.<br />
<br />
Phùng là một nhiếp ảnh gia, theo lời đề nghị của trưởng phòng, ông phải chụp một bức ảnh <br />
để đăng cho bộ lịch cuối năm, sau nhiều ngày lao lực tìm kiếm, anh bắt gặp một hình ảnh <br />
chiếc thuyền đang từ từ ghé vào bờ trong một buổi sáng sương mù trắng như sữa có pha đôi <br />
chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Quá thăng hoa trong cảm xúc khi khám phá ra <br />
được một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, anh nhanh chóng bấm máy liên thanh <br />
và có những bức ảnh ăn ý không dễ gì có được trong một đời làm nghệ thuật.<br />
Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu, một người đồng đội cũ nay là chánh án toà án huyện, <br />
với người phụ nữ khốn khổ kia, Phùng mới vỡ lẽ ra rằng, người phụ nữ phải cam chịu một <br />
bề, không chống trả những trận đòn của chồng và không chịu giải phóng là vì tình yêu vô bờ <br />
bến đối với những đứa con. Phùng cay đắng nhận ra rằng, đằng sau cảnh đẹp như mơ kia là <br />
bao ngang trái, éo le của đời thường mà anh chưa hiểu hết. Trưởng phòng rất hài lòng về <br />
tấm ảnh. Mãi về sau, nó vẫn được treo ở nhiều nơi, nhất và những gia đình sành nghệ <br />
thuật. Nhưng mỗi khi nhìn kỹ bức ảnh, cảm xúc của anh luôn lẫn lộn trào dâng.<br />
Tình huống được tạo nên từ ngòi bút của ông là sự tương phản giữa nghệ thuật và cuộc <br />
sống, nghệ thuật thì ở ngoài xa còn cuộc đời thì lại thật gần, nghệ thuật thì đẹp nhưng cuộc <br />
đời sao đầy rẫy bao ngang trái. Ông cho người đọc thấy được cái nhìn đa diện, nhiều chiều <br />
về cuộc sống, chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng đã hiểu ra nhiều điều về con người, về cuộc <br />
sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp xúc với người đàn bà hàng chài, từ đó ông gợi mở <br />
những vấn đề mới vô cùng triết lý cho sáng tạo và nghệ thuật.<br />
Tiếp đến là Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử, ông có rất <br />
nhiều đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch, một trong những vở kịch để lại ấn <br />
tượng sâu sắc nhất cho người đọc là Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài mà thông qua nhân vật Vũ <br />
Như Tô ta càng thấy được mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật và cuộc sống.<br />
Vũ Như Tô được biết đến qua tác phẩm của ông là một kiến trúc sư thiên tài và đam mê <br />
nghệ thuật, bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, <br />
vui chơi với các cung nữ. Nhưng ông là một nghệ sĩ có nhân cách và có lý tưởng nghệ thuật <br />
hết sức cao đẹp, không phải là người ham sống sợ chết hay chỉ vì chút công danh mà phải <br />
bán thân mình cho nghệ thuật. Lúc đầu, ông nhất định thà chết chứ không xây dựng Cửu <br />
Trùng Đài cho tên vua bạo ngược, nhưng khi nhận ra giá trị nghệ thuật để lại cho đời thì ông <br />
lại quên mất một thực tế là dân chúng đang đói khổ.<br />
<br />
Cửu Trùng Đài càng xây cao bao nhiêu thì mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của nhân dân <br />
ngày càng tăng lên bấy nhiêu. Vũ Như Tô càng quyết tâm xây dựng Cửu Trùng Đài thì các <br />
mâu thuẫn ngày càng theo đó mà khó giải quyết và Đan Thiềm càng khuyến khích Vũ Như <br />
Tô xây Cửu Trùng Đài thì xung đột giữa người nông dân và con người nghệ thuật ngày càng <br />
tăng cao. Có thể nói đó là một khát vọng hết sức chân chính nhưng nó được đặt không đúng <br />
chỗ , không kịp thời, không tính đến giá trị cuộc sống thì nghiễm nhiên chính nó sẽ tự trở <br />
thành tai họa. Trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vừa là phạm nhân và cũng <br />
vừa là nạn nhân. Diễn biến mâu thuẫn trong con người Vũ Như Tô và Đan Thiềm mặc dù <br />
được giải quyết nhưng không được thõa đáng. Vũ Như Tô bị giết mặc dù trong thâm tâm <br />
ông không hề có ý định hại dân, khi chết ông vẫn chưa nhận ra được sai lầm của mình.<br />
<br />
Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn đề sâu sắc và có ý nghĩa muôn <br />
thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lý tưởng nghệ thuật cao siêu <br />
thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thực và trực tiếp của nhân dân.<br />
Cả hai tác phẩm này đều xây dựng lên một nhân vật hết lòng đam mê nghệ thuật nhưng chỉ <br />
vì chưa thấy rõ sự đối lập mà dẫn đến những kết cục đáng buồn. Nghệ sĩ Phùng đã thấy <br />
được mặt trái của sự việc và đã kịp thời sửa sai nhưng Vũ Như Tô phải lấy cả cái giá của <br />
nghệ thuật để đổi bằng chính mạng sống của mình. Tuy được viết vào hai bối cảnh xã hội <br />
khác nhau, văn hóa mà đối tượng tồn tại khác nhau và phong cách của hai nhà văn cũng hoàn <br />
toàn khác nhau, nhưng họ đều có một điểm chung đã lật ra lá bài của nghệ thuật. Nghệ <br />
thuật phải gắn liền với cuộc sống, phục vụ cuộc sống, nếu nghệ thuật xa r ời cu ộc s ống, xa <br />
rời quần chúng thì chỉ đem lại bi kịch thảm khốc như của Vũ Như Tô hay cái nhìn phiến <br />
diện về cuộc sống của nghệ sĩ Phùng. Tuy rằng nghệ thuật là cái đẹp của cuộc sống nhưng <br />
không phải lúc nào nó cũng đẹp. Đằng sau của tấm huy chương rạng rỡ luôn gồ gề và nhiều <br />
khuyết điểm. Ngoài ra, nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống, phục vụ cho cuộc <br />
sống, nghệ thuật xa rời cuộc sống chỉ là nghệ thuật suông, không xứng đáng là nghệ thuật <br />
chân chính, đều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết tìm tòi, khám phá cuộc sống, hiểu nó trên <br />
nhiều phương diện. Nghệ sĩ chân chính cũng giống như nghệ thuật chân chính và nghệ <br />
thuật luôn phải vì nhân sinh không chỉ bó hẹp nghệ thuật vì nghệ thuật. Như Tố Hữu đã <br />
từng tâm sự:<br />
Nhân dân là bể<br />
<br />
Văn nghệ là thuyền<br />
Thuyền xô dóng dậy<br />
<br />
Sóng đẩy thuyền lên.<br />
Cả hai nhà văn đã cho ta nhận thức được cái đẹp của nghệ thuật như thế nào, con đường <br />
tìm kiếm, đi đến và chinh phục nghệ thuật sẽ ra sao. Tuy không đem lại kết cục như mong <br />
đợi nhưng hai nhà văn dường như đã bộc lộ hết vẻ tài tình qua những lời văn của mình. <br />
Ngôn ngữ điêu luyện, có tính tổng hợp cao, dùng ngôn từ và hành động của nhân vật để <br />
khắc họa tính cách, đó chính là cái tài mà không dễ ai có được. Và cũng nhờ nghệ thuật chân <br />
chính mà cái tài đó càng thêm sâu sắc hơn, thấm đẫm với chúng ta hơn.<br />
VnDoc xin giới thiệu tới các em bài văn mẫu phân tích những phát hiện của nhân vật Phùng <br />
liên hệ với cái chết hình tượng của Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Hi vọng đây <br />
sẽ là tài liệu hữu ích hỗ trợ các em ôn luyện và đạt kết quả cao. Mời các em tham khảo <br />
thêm các tài liệu khác tại mục Tài liệu học tập lớp 12 <br />