ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ––––––––––––––––––––––––

VŨ MINH PHƯƠNG

PHÂN TÍCH CẤU TRÚC, THÀNH PHẦN CỦA VẬT

LIỆU LAI LDH-ZEOLITE VÀ ĐÁNH GIÁ KHẢ

NĂNG HẤP PHỤ Cr VÀ Pb CỦA VẬT LIỆU NÀY

LUẬN VĂN THẠC SĨ HÓA HỌC

THÁI NGUYÊN - 2020

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC ––––––––––––––––––––––––

VŨ MINH PHƯƠNG

PHÂN TÍCH CẤU TRÚC, THÀNH PHẦN CỦA VẬT

LIỆU LAI LDH-ZEOLITE VÀ ĐÁNH GIÁ KHẢ

NĂNG HẤP PHỤ Cr VÀ Pb CỦA VẬT LIỆU NÀY

Chuyên ngành: Hóa phân tích

Mã số: 8.44.01.18

LUẬN VĂN THẠC SĨ HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ĐÌNH VINH

TS. LƯU TRỌNG LƯ

THÁI NGUYÊN - 2020

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tôi đã

nhận được sự động viên, giúp đỡ quý báu của nhiều đơn vị và cá nhân. Đầu tiên, tôi

xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến quý Thầy Cô tham gia giảng dạy lớp Hóa học

khóa 12, quý Thầy Cô công tác tại Phòng Sau Đại học Trường Đại học Khoa học - Đại

học Thái Nguyên.

Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến TS. Nguyễn Đình Vinh và TS.

Lưu Trọng Lư, đã hết lòng giúp đỡ và hướng dẫn tận tình chỉ bảo tôi trong suốt quá trình

chuẩn bị, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Tôi cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ của các bạn bè đồng nghiệp, gia đình, người thân

đã giúp đỡ tôi rất nhiều khi thực hiện luận văn này.

Dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện, song chắc chắn rằng luận văn

này sẽ không thể tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy

Cô và các bạn đồng nghiệp để luận văn được bổ sung hoàn thiện hơn.

Xin trân trọng cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 7 năm 2020

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Vũ Minh Phương

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

3

1.1. Zeolite tự nhiên

1.1.1. Cấu trúc của zeolite tự nhiên 1.1.2. Ứng dụng của zeolite tự nhiên trong xử lý môi trường

3 3 3

1.2. Vật liệu layered double hydroxide (LDH)

1.2.1. Cấu trúc và tính chất của vật liệu LDH 1.2.2. Các phương pháp tổng hợp vật liệu LDH

4 4 5

1.3. Ô nhiễm kim loại nặng và các phương pháp xử lý

1.3.1. Ô nhiễm Cr(VI) và ảnh hưởng của nó đến sức khỏe con người 1.3.2. Ô nhiễm Pb và ảnh của nó đến sức khỏe con người 1.3.3. Các phương pháp xử lý kim loại nặng

6 6 8 9

1.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước

1.4.1. Những nghiên cứu ngoài nước tiến hành cùng hướng nghiên cứu 1.4.2. Những nghiên cứu trong nước tiến hành cùng hướng nghiên cứu

11 11 12

1.5. Các phương pháp phân tích vật liệu và kim loại nặng

1.5.1. Phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD) 1.5.2. Phương pháp phổ hồng ngoại (FT-IR) 1.5.3. Phương pháp hiển vi điện tử quét (SEM) 1.5.4. Phương pháp tử ngoại – khả kiến (UV-Vis) 1.5.5. Phương pháp tán xạ năng lượng tia X (EDX) 1.5.6. Phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (AAS)

13 13 14 14 15 15 16

CHƯƠNG 2: THỰC NGHIỆM

17

2.1. Hóa chất và thiết bị

2.1.1. Hóa chất 2.1.2. Thiết bị

17 17 17

2.2. Tổng hợp vật liệu

2.2.1. Tổng hợp vật liệu LDH 2.2.2. Tổng vật liệu LDH-zeolite bằng phương pháp in-situ 2.2.3. Tổng vật liệu LDH-zeolite bằng phương pháp ex-situ

17 17 18 18

2.3. Phương pháp phân tích cấu trúc vật liệu

2.3.1. Phương pháp phân tích thành phần pha 2.3.2. Phương pháp phân tích cấu trúc bề mặt 2.3.3. Phương pháp phân tích cấu trúc và thành phần hóa học 2.3.4. Phương pháp phân tích cấu trúc lỗ xốp và diện tích bề mặt

18 18 19 19 19

2.4. Phương pháp phân tích hàm lượng Cr(VI) và Pb(II) trong dung dịch

2.4.1. Phân tích hàm lượng Cr(VI) 2.4.2. Phân tích hàm lượng Pb(II)

19 19 21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

2.5. Đánh giá khả năng hấp phụ Cr(VI) và Pb(II) của vật liệu

23

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

24

3.1. Tổng hợp và phân tích cấu trúc tinh thể của vật liệu LDH-zeolite

24

3.2. Ảnh hưởng của phương pháp tổng hợp đến khả năng hấp phụ Cr(VI) và Pb(II) của vật liệu

28

3.3. Cấu trúc và thành phần hóa học của vật liệu

30

3.4. Kết quả phân tích diện tích bề mặt và kích thước lỗ xốp

32

3.5. Động học của quá trình hấp phụ

34

3.6. Đường đẳng nhiệt hấp phụ

37

3.7. Nghiên cứu khả năng hấp phụ đồng thời hai kim loại

40

KẾT LUẬN

42

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

Hình 3. 1. Giản đồ XRD của LDH, zeolite và LDH-zeolite tổng hợp bằng phương pháp in- stu và ex-situ ........................................................................................................................ 25 Hình 3. 2. Sự phụ thuộc của kích thước tinh thể LDH trong vật liệu LZ vào hàm lượng LDH và phương pháp tổng hợp .................................................................................................... 26 Hình 3. 3. Sơ đồ mô tả cơ chế hình thành LZ trong phương pháp in-situ và ex-situ .......... 27 Hình 3. 4. Ảnh SEM của LDH (A), ZEO (B) và LZ3-EX (C) và LZ3 (D) ......................... 28 Hình 3. 5. Sự hấp phụ Cr(VI) và Pb(II) trên LDH, ZEO và LDH-zeolite với hàm LDH khác nhau ...................................................................................................................................... 30 Hình 3. 6. Phổ FT-IR của LDH, ZEO và LZ3 ..................................................................... 31 Hình 3. 7. Phổ EDX của LDH, ZEO và LZ3 ....................................................................... 32 Hình 3. 8. Các đường đẳng nhiệt hấp phụ/giải hấp phụ nitơ của LDH, ZEO và LZ3 ......... 33 Hình 3. 9. Mô hình động học của quá trình hấp phụ Cr(VI) và Pb(II) trên LZ3 ................. 36 Hình 3. 10. Các đường đẳng nhiệt hấp phụ và dữ liệu thực nghiệm của quá trình hấp phụ Cr(VI) và Pb(II) trên LZ3. ................................................................................................... 39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC CÁC HÌNH

Bảng 2.1. Hóa chất sử dụng trong đề tài .............................................................................. 17 Bảng 2.2. Các thiết bị sử dụng trong đề tài .......................................................................... 17 Bảng 2.3. Điều kiện tổng hợp vật liệu LDH, LZ và LZ-EX ................................................ 18 Bảng 3. 1. Thành phần hóa học của LDH, ZEO và LZ3 ..................................................... 32 Bảng 3. 2. Diện tích bề mặt, diện tích vi mao quản và kích thước lỗ xốp của LDH, zeolite LZ3 ....................................................................................................................................... 34 Bảng 3. 3. Các thông số tính toán từ các mô hình ............................................................... 36 Bảng 3. 4. Các thông số thính toán từ các mô hình đường đẳng nhiệt ................................ 39 Bảng 3. 5. Hiệu quả loại bỏ và khả năng hấp phụ đồng thời Cr(VI) và Pb(II) của LZ3 ..... 41

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

Ký hiệu Tên đầy dủ

ZEO Zeolite

UV-Vis Tử ngoại khả kiển

SEM Hiển vi điện tử quét

XRD Nhiễu xạ tia X

LDH Layered double hydroxide

LZ Layered double hydroxide –zeolite

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn

EDX Tán xạ năng lượng tia X

MỞ ĐẦU

Nước bị ô nhiễm bởi các kim loại nặng đang này càng trở nên nghiêm trọng và

là một vấn đề toàn cầu. Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp như khai

khoáng, luyện kim, dầu mỏ, sơn... lượng phát thải các kim loại nặng vào nước tăng

nhanh. Nước thường bị ô nhiễm bởi các kim loại nặng như chì (Pb), asen (As), crom

(Cr), cadimi (Cd)..., là những kim loại có độc tính cao chúng thường tồn tại trong nước

dưới dạng các hợp chất vô cơ, có độ linh động lớn. Chúng đều không có khả năng phân

hủy bằng hóa học hoặc sinh học và có ảnh hưởng nghiêm trọng và lâu dài đến hệ sinh

thái, chất lượng nguồn nước và sức khỏe của con người.

Các phương pháp phổ biến ứng dụng để xử lý các kim loại nặng trong nước bao

gồm phương hóa học, điện hóa, lọc, và hấp phụ.. Trong đó, phương pháp hấp phụ có

nhiều ưu điểm như thời gian xử lý ngắn, vật liệu sử dụng đa dạng, không gây phát thải

thứ cấp.

Zeolite là khoáng vật alumosilicat và khá phổ biến trong tự nhiên. Cấu trúc của

zeolit được hình thành từ các đơn vị tứ diện SiO4 nối với nhau, trong đó một phần ion

Si4+ được thay thế bởi ion Al3+ dẫn đến sự thiếu hụt điện tích dương. Sự thiếu hụt này

sẽ được bổ sung bằng các ion dương như Na+, Ca2+, K+... trong các khoảng trống của

tinh thể . Với diện tích bề mặt lớn, dung lượng trao đổi cation cao và khả năng sàng lọc

phân tử, zeolite được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như xử lý môi trường,

công nghiệp, y học và trong nông nghiệp. Zeolite được nghiên cứu nhiều trong việc xử

lý các ion kim loại nặng trong nước, trong đất. Đối với ion dương, zeolite tỏ ra rất hiệu

quả, tuy nhiên đối với dạng anion thì cần phải biến tính thì mới tăng hiệu quả xử lý.

Vật liệu LDH thuộc lọai vật liệu cấu trúc nano hai chiều. LHD có cấu trúc giống

với brucite, trong đó các ion 2+ nằm ở các hốc trống bát diện. Một phần ion 2+ được

thay thế bởi ion 3+ tạo nên điện tích dương cho phiến. Các điện tích dương này sẽ được

bù trừ bởi các anion nằm giữa các phiến. Các anion này có khả năng thay thế bởi các

anion khác điều này làm cho LDH có khả năng hất phụ được các kim loại nặng dạng

anion như asenit, asenat, cromat... nên LDH được nghiên cứu nhiều trong xử lý môi

1

trường.

Thông thường, các loại vật liệu hiện nay chỉ hoặc là xử lý được cation hoặc chỉ

xử lý được anion điều này sẽ dẫn đến sự khó khăn trong quá trình xử lý kim loại nặng

như tăng giai đoạn xử lý, khó kiểm soát được quy trình... Do đó việc nghiên cứu chế tạo

vật liệu có khả năng xử lý đồng thời cả hai dạng tồn tại của các kim loại nặng đang là

vấn đề thu hút được nhiều nhà khoa học quan tâm. Với việc kết hợp hai loại vật liệu có

độ bền cao, có khả năng xử lý cả cation và anion, vật liệu lưỡng cực LDH/Zeolite hứa

hẹn sẽ là loại vật liệu đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Từ đó chúng tôi lựa chọn đề

tài “Phân tích cấu trúc, thành phần của vật liệu lai LDH - zeolite và đánh giá khả

năng hấp phụ Cr và Pb của vật liệu này”.

Nội dung của luận văn sẽ tập trung vào một số mục tiêu sau:

- Tổng hợp vật liệu lai LDH-zeolite bằng phương pháp in-situ và ex-situ.

- Phân tích thành phần pha, cấu trúc và thành phần hóa học, hình thái học, cấu trúc xốp

của vật liệu.

2

- Đánh giá khả năng hấp phụ Cr(VI) và Pb(II) của vật liệu LDH-zeolite.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

1.1. Zeolite tự nhiên

1.1.1. Cấu trúc của zeolite tự nhiên

Zeolite là tinh thể, siêu xốp, là dạng khoáng aluminosilicat ngậm nước có chứa

kiềm và kim loại kiềm thổ. Khung của chúng bao gồm các tứ diện của [SiO4] và [AlO4]

liên kết với nhau để tạo thành cấu trúc có các mao quản hở với kích thước xác định,

khoảng từ 0.3 đến 1nm. Sự thay thế một phần các ion Si4+ bằng ion Al3+ gây ra sự dư

thừa điện tích âm trên mạng lưới. Điện tích âm này sẽ được trung hòa bởi các cation như

Na+, K+, Ca2+ nằm trong các lỗ xốp vật liệu. Công thức chung cho zeolite có thể được

viết là: M2/n:Al2O3:xSiO2:yH2O, trong đó M là cation cân bằng điện tích, n – điện tích

của cation, x thường ≥2 và y là nước trong các lỗ rỗng của zeolite. Hơn 50 zeolite tự

nhiên được phát hiện, sáu trong số đó có trữ lượng lớn: analcime, chabazite,

clinicoptilolite, heulandite, natrolite, phillipsite và stilbite [1,2].

1.1.2. Ứng dụng của zeolite tự nhiên

Zeolite tự nhiên đã được ứng dụng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Các ứng

dụng chính của vật liệu này bao gồm làm mềm và làm sạch nước, tách và loại bỏ khí và

dung môi, hấp phụ chất phóng xạ, cải tạo đất, thực phẩm chức năng và phụ gia, ứng

dụng trong y sinh [3–5].

Trong xử lý nước và nước thải: Hầu hết các công nghệ sử dụng zeolite để lọc

nước đều dựa trên khả năng trao đổi cation độc đáo của chúng. Trong đó, các cation hòa

tan có thể được loại bỏ khỏi nước bằng cách trao đổi với các cation như Na+, K+, Ca2+

trong cấu trúc của zeolite. Zeolite tự nhiên đã được nghiên cứu và ứng dụng nhiều trong

việc xử lý các cation kim loại Pb(II), Cd(II) và amoni. Ngoài ra, để xử lý các anion và

các chất hữu cơ, zeolite thường được biến tính với nhiều các tác nhân khác nhau [5].

Trong công nghệ xác tác hấp phụ: Zeolite có thể giữ nước tới 60% trọng lượng

của chúng do độ xốp cao của cấu trúc tinh thể. Các phân tử nước trong mao quản có thể

dễ dàng bay hơi hoặc tái hấp phụ mà không ảnh hưởng đến cấu trúc của zeolite. Do đó,

chúng được sử dụng rộng rãi trong việc giữa ẩm cho đất. Các zeolite tự nhiên có thể hấp

phụ CO, CO2, SO2, H2S, NH3, HCHO, Ar, O2, N2, H2O, He, H2, Kr, Xe, CH3OH và

3

nhiều loại khí khác vì thế đã được ứng dụng nhiều trong việc xử lý các khí và kiểm soát

mùi. Hiệu quả của các zeolite được nghiên cứu trong quá trình hấp phụ các sản phẩm

dầu mỏ từ môi trường khí và nước đã được nghiên cứu [6].

Ứng dụng trong nông nghiệp: Trong những năm gần đây, zeolite tự nhiên được

ứng dụng nhiều trong nông nghiệp, đặc biệt là trong việc cải tạo đất. Khi thêm zeolite

vào đất nông nghiệp, nhiều tính chất hóa lý của đất được cải thiện đáng kể. Zeolite làm

tang khả năng giữ nước của đất cũng như cung cấp nước cho cây tốt hơn trong gia đoạn

tang trưởng. Zeolite tự nhiên có khả năng lưu giữ các chất dinh dưỡng cần thiết như,

kali, phốt pho, canxi và magiê có trong đất, qua đó hạn chế được khả năng rửa trôi do

nước mưa. Trong những năm gần đây, zeolite được sử dụng nhiều trong nông nghiệp

công nghệ cao như làm giá thể để trồng các loại thực vật trong nhà kính hay trong hệ

thống thủy canh[3,7].

Ứng dụng làm phụ gia thức ăn chăn nuôi: Thức ăn cho gia súc là một trong

những lĩnh vực ứng dụng đang phát triển của zeolite. Zeolite khi được bổ sung vào thức

ăn giúp cải thiện hệ tiêu hóa, kích thích sự thèm ăn và thúc đẩy sự tang trọng lượng của

động vật. Chúng hoạt động như một chất kết dính độc tố mycotoxin, hấp thụ độc tố gây

nguy hiểm cho động vật. Nó cũng giúp kiểm soát độc tố trong thức ăn chăn nuôi, do đó

làm giảm tỷ lệ tử vong do căng thẳng tiêu hóa và giảm nhu cầu kháng sinh. Nó cũng hấp

thụ các độc tố khác được tạo ra trong thức ăn như nấm mốc và ký sinh trùng siêu nhỏ

và tăng cường sự hấp thụ thức ăn của động vật [3].

1.2. Vật liệu layered double hydroxide (LDH)

1.2.1. Cấu trúc và tính chất của vật liệu LDH

LDH là họ khoáng sét anion có cấu trúc nano hai chiều. Cấu trúc của LDH có thể

được mô tả như cấu trúc hydroxit phân lớp (ví dụ: brucite, Mg(OH)2), trong đó một phần

các cation hóa trị II nằm trong các hốc bát diện bao quanh bởi các nhóm hydroxyl đã

được thay thế bằng các cation hóa trị III, dẫn đến sự dư thừa điện tích dương. Các điện

tích dương này sẽ được trung hòa bởi các anion nằm giữa các lớp. Ngoài ra, một số phân

tử nước cũng tồn tại trong khoảng trống giữa các lớp.

2+Mx

3+(OH)2]x+(An-)x/n∙

LDH có thể được biểu diễn bằng công thức chung [M1-x

mH2O, trong đó M2+ và M3+ là các cation hóa trị hai và hóa trị ba tương ứng; giá trị của

4

x bằng tỷ lệ mol của M3+/(M2++ M3+); A là anion xen kẽ có điện tích n-. Do các ion M2+,

M3+, và An- và giá trị x có thể thay đổi, nên cấu trúc và tính chất của loại vật liệu này rất

đa dạng [8].

1.2.2. Các phương pháp tổng hợp vật liệu LDH

Ngoài việc tồn tại phổ biến trong tự nhiên, LDH có thể được tổng hợp một cách

dễ dàng trong phòng thí nghiệm. Tùy theo phương pháp và điều kiện tổng hợp mà vật

liệu thu được có thành phần và tính chất khác nhau.

Phương pháp đơn giản nhất và được sử dụng phổ biến nhất là đồng kết tủa. Trong

phương pháp này, dung dịch chứa M2+ và M3+ và anion được sử dụng làm tiền chất,

trong đó Mg2+ và Al3+ là tiền chất kim loại được sử dụng phổ biến nhất nhất. Để đảm

bảo sự kết tủa đồng thời của hai hoặc nhiều cation, cần phải tiến hành tổng hợp trong

điều kiện siêu bão hòa. Nhìn chung, có hai kiểu của đồng kết tủa, đó là đồng kết tủa ở

mức siêu bão hòa thấp và đồng kết tủa ở mức siêu bão hòa cao. Đồng kết tủa ở mức siêu

bão hòa thấp được thực hiện bằng cách thêm chậm hỗn hợp dung dịch muối kim loại

-. Sau đó, dung dịch kiềm được

hóa trị hai và hóa trị ba theo tỷ lệ đã chọn vào bình phản ứng chứa dung dịch nước của

2-, NO3

anion mong muốn đưa vào LDH như OH-, CO3

thêm vào bình phản ứng để điều chỉnh pH đến giá trị mong mong muốn. Ngược lại, phản

ứng đồng kết tủa ở mức siêu bão hòa cao đòi hỏi phải bổ sung dung dịch muối hỗn hợp

vào dung dịch kiềm có chứa anion xen kẽ mong muốn. Phản ứng đồng kết tủa ở mức

siêu bão hòa cao thường tạo ra các vật liệu có độ tinh thể thấp hơn so với các vật liệu có

mức siêu bão hòa thấp, do sự hình thành của một số lượng lớn các hạt nhân kết tinh. Sau

khi kết tủa ở mức siêu bão hòa thấp và cao, hệ phản ứng được gia nhiệt để tăng năng

suất và độ kết tinh của vật liệu. Quá trình già hóa được tiến hành trong một khoảng thời

gian từ vài giờ đến vài ngày [9].

LDH cũng có thể được điều chế bằng phương pháp trao đổi ion. Phương pháp

này hữu ích khi phương pháp đồng kết tủa không thể áp dụng, ví dụ như khi các cation

kim loại hóa trị hai hoặc hóa trị ba hoặc các anion không bền trong dung dịch kiềm hoặc

khi phản ứng trực tiếp giữa các ion kim loại và các anion khác thuận lợi hơn. Trong

phương pháp này, các anion mong muốn đưa vào cấu trúc của LDH sẽ được trao đổi với

các anion có mặt trong khoảng trống giữa các lớp của LDH để tạo ra các LDH anion cụ

5

thể như OH-LDH, NO3-LDH, CO3-LDH [8,9].

Một phương pháp phổ biến khác để tổng hợp LDH là bù nước/tái cấu trúc bằng

cách sử dụng hiệu ứng bộ nhớ cấu trúc. Phương pháp này liên quan đến việc nung LDH

để loại bỏ nước xen kẽ, các anion xen kẽ và các nhóm hydroxyl và tạo thành hỗn hợp

các oxit kim loại. Khi cho hỗn hợp này tiếp xúc với dung dịch chứa anion cần đưa vào

cấu trúc, vật liệu LDH sẽ được hình thành. Đây là một phương pháp quan trọng để tổng

hợp LDH với các anion vô cơ hoặc hữu cơ mong muốn để đáp ứng các yêu cầu của các

ứng dụng thực tế [10].

Phương pháp thủy nhiệt thường được sử dụng khi các anion hữu cơ mong muốn

đưa vào cấu trúc có ái lực nhỏ với LDH và khi các phương pháp trao đổi và đồng kết

tủa không thể thực hiện được. Phương pháp này đã được chứng minh là có hiệu quả vì

chỉ các anion hữu cơ mong muốn mới có thể chiếm không gian giữa các lớp trong điều

kiện thủy nhiệt vì các hydroxit được sử dụng làm tiền chất và không có mặt của các

anion khác. Vật liệu tổng hợp theo phương pháp này thường có kích thước nhỏ và diện

tích bề mặt lớn [8].

Bên cạnh các phương pháp đã nói ở trên, các phương pháp tổng hợp LDH được

báo cáo khác bao gồm phương pháp xen kẽ thứ cấp (phương pháp xen kẽ liên quan đến

hòa tan và phương pháp tái hấp thu), phương pháp oxit muối, tổng hợp bề mặt, tổng hợp

khuôn mẫu [9].

1.3. Ô nhiễm kim loại nặng và các phương pháp xử lý

1.3.1. Ô nhiễm Cr(VI) và ảnh hưởng của nó đến sức khỏe con người

Ô nhiễm môi trường bởi các kim loại nặng là một vấn đề lớn trong nhiều ngành

sản xuất công nghiệp ở Việt Nam. Nước thải của các ngành công nghiệp khai khoáng,

mạ điện, pin, acqui chứa nhiều ion kim loại nặng như Pb, Cd, Cr… với nồng độ cao từ

vài mg đến vài trăm mg/l. Bên cạnh đó, nước thải từ các hoạt động tái chế kim loại ở

các làng nghề cũng chứa nhiều ion kim loại. Tuy nhiên, các dòng thải này hầu như đều

thải trực tiếp ra môi trường mà không qua quy trình xử lí nào gây nguy hại cho môi

trường.

Trong nước thải crom có thể tồn tại ở dạng Cr(III) và Cr(VI) trong đó dạng Cr(VI)

có độ linh động cao hơn và khó xử lý hơn. Crom chủ yếu tồn tại trong nước thải của

nhiều ngành công nghiệp, trong đó nước thải của các ngành như thuộc da, phẩm màu có

hàm lượng crom rất cao. Đặc biệt, nồng độ Cr(VI) trong nước thải của ngành mạ kim 6

loại có nồng độ rất lớn trên 30 mg/l. Do đó việc xử lý nước thải của các ngành này là

một vấn đề cấp bách đối với nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.

Trong nước, crom tồn tại hai dạng Cr(III) và Cr(IV). Nhìn chung, sự hấp thụ của

crom vào cơ thể con người tuỳ thuộc vào trạng thái oxi hoá của nó. Cr(VI) hấp thụ qua

dạ dày, ruột nhiều hơn Cr(III) (mức độ hấp thụ qua đường ruột tuỳ thuộc vào dạng hợp

chất mà nó sẽ hấp thu) và còn có thể thấm qua màng tế bào. Nếu Cr(III) chỉ hấp thu 1%

thì lượng hấp thu của Cr(VI) lên tới 50%. Tỷ lệ hấp thu qua phổi không xác định được,

mặc dù một lượng đáng kể đọng lại trong phổi và phổi là một trong những bộ phận chứa

nhiều crom nhất. Crom xâm nhập vào cơ thể theo ba con đường: hô hấp, tiêu hoá và khi

tiếp xúc trực tiếp với da. Con đường xâm nhập, đào thải crom ở cơ thể người chủ yếu

qua con đường thức ăn, Cr(VI) đi vào cơ thể dễ gây biến chứng, tác động lên tế bào, lên

mô tạo ra sự phát triển tế bào không nhân, gây ung thư, tuy nhiên với hàm lượng cao

crom làm kết tủa các protein, các axit nucleic và ức chế hệ thống men cơ bản. Dù xâm

nhập vào cơ thể theo bất kỳ con đường nào crom cũng được hoà tan vào trong máu ở

nồng độ 0,001mg/l; sau đó chúng chuyển vào hồng cầu và hoà tan nhanh trong hồng cầu

nhanh 10 ÷ 20 lần, từ hồng cầu crom chuyển vào các tổ chức phủ tạng, được giữ lại ở phổi,

xương, thận, gan, phần còn lại chuyển qua nước tiểu. Từ các cơ quan phủ tạng crom hoà

tan dần vào máu, rồi đào thải qua nước tiểu từ vài tháng đến vài năm. Các nghiên cứu cho

thấy con người hấp thụ Cr(VI) nhiều hơn Cr(III) nhưng độc tính của Cr(VI) lại cao hơn

Cr(III) gấp khoảng 100 lần [11].

Nước thải sinh hoạt có thể chứa lượng crom tới 0,7 µg/ml mà chủ yếu ở dạng

Cr(VI) có độc tính với nhiều loại động vật có vú. Cr(VI) dù chỉ một lượng nhỏ cũng có

thể gây độc đối với con người. Nếu crom có nồng độ lớn hơn giá trị 0,1 mg/l gây rối

loạn sức khoẻ như nôn mửa…Khi thâm nhập vào cơ thể nó liên kết với các nhóm –SH

trong enzim và làm mất hoạt tính của enzim gây ra rất nhiều bệnh đối với con người

[12].

Crom và các hợp chất của crom chủ yếu gây các bệnh ngoài da. Bề mặt da là bộ

phận dễ bị ảnh hưởng. Niêm mạc mũi dễ bị loét. Phần sụn của vách mũi dễ bị thủng.

Khi da tiếp xúc trực tiếp vào dung dịch Cr(VI), chỗ tiếp xúc dễ bị nổi phồng và loét sâu,

7

có thể bị loét đến xương. Khi Cr(VI) xâm nhập vào cơ thể qua da, nó kết hợp với protein

tạo thành phản ứng kháng nguyên. Kháng thể gây hiện tượng dị ứng, bệnh tái phát. Khi

tiếp xúc trở lại, bệnh sẽ tiến triển nếu không được cách ly và sẽ trở thành tràm hoá [13].

Khi crom xâm nhập theo đường hô hấp dễ dẫn tới bệnh viêm yết hầu, viêm phế

quản, viêm thanh quản do niêm mạc bị kích thích (sinh ngứa mũi, hắt hơi, chảy nước

mũi. Hơi CrO3 gây bỏng nghiêm trọng cho hệ thống hô hấp của người bị thấm nhiễm

[11,12].

Nhiễm độc crom có thể bị ung thư phổi, ung thư gan, loét da, viêm da tiếp xúc, xuất

hiện mụn cơm, viêm gan, thủng vách ngăn giữa hai lá mía, ung thư phổi, viêm thận, đau

răng, tiêu hoá kém, gây độc cho hệ thần kinh và tim [12,13]

Người ta thấy rằng các công nhân làm việc trong các nhà máy sản xuất màu crom

có nồng độ Cr(VI) là 0,05 mg/m3 có khả năng liên quan đến ung thư phổi cao hơn người

bình thường 44 lần. Nghiên cứu những người công nhân làm việc ở nhà máy sản xuất

chất màu cũng cho thấy những người công nhân làm việc 2 năm thì khả năng mắc bệnh

cao hơn 1,6 lần và nếu 10 năm thì khả năng này là 1,9 lần so với người bình thường

[13].

1.3.2. Ô nhiễm Pb và ảnh của nó đến sức khỏe con người

Chì là một kim loại nặng phổ trên trái đất, hiếm khi tồn ở dạng tinh khiết trong tự

nhiên. Chì thường được tìm thấy trong quặng, chủ yếu là đồng, kẽm và bạc. Chì thường

được sản xuất từ PbS bằng cách đun nóng và xử lý. Các nguồn ô nhiễm chì chủ yếu từ

các hoạt động của các ngành công nghiệp như sản xuất sơn, ắc quy, thiết bị điện tử và

các hoạt động giao thông vận tải.

Vai trò tích cực của chì đối với cơ thể con người là rất ít, ngược lại, nó là nguyên

tố có độc tính cao đối với con người và động vật. Chì gây độc cho hệ thần kinh trung

ương và hệ thần kinh ngoại biên. Chì có tác động lên hệ enzim,nhất là các enzim có

nhóm hoạt động chứ hydro. Người bị nhễm độc chì sẽ bị rối loạn một số bộ phận chức

năng của cơ thể, thường là rối loạn bộ phận tạo huyết. tùy theo mức độ nhiễm độc, có

thể gây những triệu chứng như đau bụng, đau khớp, viêm thận, cao huyết áp vĩnh viễn,

tai biến não. Nếu nhiễm độc chì nặng có thể dẫn đến tử vong.

Chì có thể xâm nhập vào cơ thể theo đường nước uống, thức ăn, hô hấp. Đặc tính

8

của chì là nó ít bị đào thải, khi đi vào cơ thể sẽ tích tụ lại theo thời gian đến một mức độ

nào đó mới gây độc hại. Xương chính là nơi tích lũy chì trong cơ thể. Nó kìm hãm quá

trình chuyển hóa canxi bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua quá trình kìm hãm

sự chuyển hóa vitamin D. Nồng độ chì tối đa cho phép trong nước uống là 5mg/l [14].

1.3.3. Các phương pháp xử lý kim loại nặng

Hiện nay đã có nhiều phương pháp nghiên cứu và xử lí kim loại nặng trong nước

được nghiên cứu và áp dụng trong thực tế như phương pháp kết tủa hóa học, phương

pháp trao đổi ion, phương pháp hấp phụ, phương pháp điện hóa, phương pháp sinh học.

Mỗi phương pháp có ưu nhược điểm và phạm vi ứng dụng riêng. Vì vậy, để có thể sử

dụng phương pháp áp dụng được trong thực tế, phù hợp với điều kiện sản xuất cần lưu

ý tới nhiều vấn đề như mức độ ô nhiễm, tiêu chuẩn cần đạt được cho nước sau xử lí, tính

chất lí hóa, nhiệt động học của chất ô nhiễm cần loại bỏ trong nước.

Phương pháp kết tủa hóa học

Phương pháp kết tủa hóa học dựa vào phản ứng hóa học với chất đưa vào nước và

chất cần tách khỏi nước.Nguyên tắc của phương pháp là độ hòa tan của kim loại trong

dung dịch phụ thuộc vào pH. Ở giá trị pH nhất định nồng độ kim loại vượt quá nồng độ

bão hòa thì các ion kim loại này sẽ bị kết tủa và kết tủa này được tách ra khỏi dung dịch

bằng phương pháp lắng. Phương pháp thường được dùng là kết tủa các kim loại dưới

dạng hydroxit bằng cách trung hòa đơn giản các chất thải axit. Độ pH kết tủa cực đại

của các kim loại không bằng nhau, ta cần lựa chọn khoảng pH tối ưu để loại bỏ kim loại

mà không gây độc hại. Nếu trong nước thải có nhiều kim loại nặng thì càng thuận tiện

cho quá trình kết tủa vài ở giá trị pH nhất định, độ hòa tan của kim loại trong dung dịch

các kim loại khác sẽ giảm. Phương pháp kết tủa hóa học được áp dụng phổ biến trong

xử lí nước giai đoạn I cho ngành công nghiệp mạ, gia công kim loại trước khi dòng thải

được đưa vào trạm xử lí chung.

Phương pháp này đạt hiệu quả cao đới với dòng nước có lưu lượng lớn, có độ ô

nhiễm kim loại cao, chi phí thấp và vận hành đơn giản, nhưng lại có hiệu quả không cao,

phụ thuộc và nhiều yếu tố như nhiệt độ, pH, bản chất kim loại, tạo ra lượng bùn thải có

nồng độ kim loại cao, nếu như không có biện pháp xử lí đúng kĩ thuật thì sẽ là nguồn ô

nhiễm thứ cấp [15].

9

Phương pháp trao đổi ion

Quá trình trao đổi ion được tiến hành trong cột cationit và anionit. Các vật liệu

nhựa này có thể thay thế được mà không làm thay đổi tính chất vật lí của các chất trong

dung dịch, cũng không làm biến mất hoặc hòa tan.

Phương pháp này có hiệu suất xử lí cao, vận hành đơn giản và có thể thu hồi các

kim loại có giá trị và tái sử dụng vật liệu trao đổi ion, không tạo ra chất thải thứ cấp, tiết

kiệm không gian chứa thiết bị. Tuy nhiên, phương pháp này có giá thành cao, và không

thích hợp sử dụng với lượng nước lớn [16].

Phương pháp điện hóa

Phương pháp sủ dụng các quá trình oxi hóa của anot, khử cực catot, đông tụ điện

để làm sạch nước thải khỏi các tạp chất hòa tan và phân tán, có thể tiến hành gián đoạn

hoặc liên tục. Tất cả các quá trình này đều xảy ra trên các điện cực, khi cho dòng điện

một chiều đi qua, ứng dụng sự chênh lệch điện thế giữa hai điện cực kéo dài để tạo ra

một điện trường định hướng và các ion chuyển động trong điện trường này.

Sử dụng phương pháp này có thể thu hồi được các sản phẩm trong nước thải đơn

giản, dễ cơ giới hóa và tự động hóa mà không cần sử dụng các tác nhân hóa học. Tuy

nhiên, phương pháp này lại tiêu tốn chi phí điện năng lớn [17].

Phương pháp sinh học

Nguyên tắc của phương pháp là dựa vào khả năng hấp thụ kim loại của một số thực

vật thủy sinh như rong, tảo, bèo, hoặc một số vi sinh vật sử dụng kim loại như chất vi

lượng trong quá trình tạo sinh khối. Phương pháp sinh học yêu cầu thực vật đáp ứng một

số điều kiện như dễ trồng, cho sinh khối nhah trong điều kiện oxi hóa cao. Tuy nhiên,

phần lớn các thực vật có khả năng tích lũy kim loại nặng thường phát triển chậm, sinh

khối thấp trong khi thực vật cho sinh khối nhanh thương rất nhạy cảm với môi trường

có nồng độ kim loại nặng cao. Một hạn chế lớn của phương pháp đó là yêu cầu diện tích

lớn, chỉ xử lí nước có nồng độ kim loại nặng hoặc hiệu suất xử lí nước sẽ giảm nếu trong

đất chứa lẫn kim loại nặng [18].

Phương pháp hấp phụ

Phương pháp hấp phụ là quá trình hấp phụ chất hòa tan ở bề mặt ranh giới giữa

10

pha lỏng và pha rắn. Đây là phương pháp hiệu quả để thu hồi các cấu tử quý hiếm, làm

sạch khí thải, nước thải khi nồng độ ô nhiễm của chúng không lớn. Trong xử lý nước

thải, phương pháp hấp phụ có khả năng xử lí triệt để nước thải chứa đồng thời nhiều kim

loại nặng và nồng độ ion trong dung dịch nhỏ. Một ưu điểm lớn của hấp phụ so với các

phương pháp khác là có thể sử dụng các vật liệu tự nhiên để xử lí môi trường như các

khoáng, vật liệu chấu, mùn cưa hoặc tận dụng chất thải của các ngành khác như tro bay,

xỉ than, bùn thải. Hơn nữa, các vật liệu hấp phụ có thể hoàn nguyên, tái sử dụng [8].

1.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước

1.4.1. Những nghiên cứu ngoài nước tiến hành cùng hướng nghiên cứu

Việc sử dụng vật liệu zeolite để cố định các kim loại nặng trong đất bị ô nhiễm

đã và đang được nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu [19]. Xavier và các cộng

sự [20] nghiên cứu sử dụng vật liệu zeolit để cố định các kim loại nặng như Pb, As, Zn,

Cd... trong đất bị ô nhiễm. Kết quả cho thấy zeolit làm giảm đáng kể sự rửa trôi của các

kim loại nặng và cơ chế chính của quá trình cố định là sự hấp phụ. Trong nghiên cứu

[21], Peter và cộng sự đã sử dụng zeolit tự nhiên kết các phế phẩm hữu cơ trong việc

trồng cây trên vùng đất bị ô nhiễm kim loại nặng. Kết quả cho thấy cây có thể phát triển

bình thường giống như trồng trên đất không bị ô nhiễm. Việc sử dụng zeolite tự nhiên

trong việc xử lý đất bị ô nhiễm chì được Hua và cộng sự thực hiện trong nghiên cứu

[22]. Dữ liệu thu được chỉ ra rằng với việc sử dụng từ 10 g zeolite trên 1 kg đất trồng,

lượng chì hòa tan trong đất giảm đáng kể. Trong thời gần đây việc biến tính zeolite nhằm

tăng hiệu quả xử lý kim loại nặng đang là chủ đề được nhiều nhà khoa học quan tâm.

Zhangtao và cộng sự [23] nghiên cứu tổng hợp sử dụng vật liệu sắt(0)-zeolite để loại bỏ

các kim loại Cd(II), Pb(II) và As(III) trong đất và trong nước. Kết quả cho thấy hầu hết

các kim loại nặng kể trên trong đất đều được cố định khi trộn 30 g vật liệu trên 1 kg đất.

Như vậy có thể thấy rằng vật liệu zeolite rất hiệu quả trong việc cố định các cation kim

loại nặng trong đất.

Việc loại bỏ các kim loại nặng bằng vật liệu LDH cũng được nghiên cứu nhiều,

đặc biệt là kim loại nặng ở dạng anion như crom(VI), asen(III), asen(V) [8]. Raijib và

các cộng sự [24] nghiên cứu sự hấp phụ (VI) bằng các loại vật liệu LDH khác nhau như

Mg/Al LDH, Ni/Al LDH và Zn/Cr LDH và thấy rằng vật liệu Mg/Al LDH có khả năng

hấp phụ Cr(VI) cao hơn các vật liệu còn lại. Việc sử dụng vật liệu Mg/Al LDH để hấp

11

phụ Cr(VI) cũng được đề cập trong nghiên cứu [25]. Các tác giả thấy rằng vật liệu LHD

sau khi được nung sẽ có khả năng hấp phụ các kim loại như Cr(VI) và As(V) cao hơn

vật liệu LDH ban đầu. Kết quả này mở ra hướng mới trong việc tổn hợp vật liệu LDH

với khả năng hấp phụ kim loại nặng tốt hơn. Trong thời gian gần đây cũng có nhiều

công trình công bố các kết quả nghiên cứu hấp phụ Cr(VI) trên LDH [26–28] và tất cả

đều cho thấy hiệu quả của việc loại bỏ Cr(VI) bằng vật liệu LDH. Việc loại bỏ asen bằng

vật liệu LDH cũng thu hút được nhiều sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu [29–33].

Lee và các cộng sự [29] nghiên cứu cơ chế hấp phụ As(V) trên vật liệu Mg/Al LDH

nung và thấy rằng dung lượng hấp phụ cực đại của As(V) trên LDH đạt 102.9 mg/g. Sau

5 lần sử dụng vật liệu vẫn loại bỏ được trên 70 % As(V). Cơ chế của quá trình hấp phụ

là phối trí kết hợp với kết tinh. Trong nghiên cứu [30], ion asenat được hấp thụ trên vật

liệu Mg/Fe LDH. Các tác giả thấy rằng khi nung vật liệu ở 400oC sẽ làm tăng đáng kể

khả năng hấp phụ của vật liệu, cụ thể dung lượng hấp phụ cực đại đối với As(V) đạt

50.91 mg/g. Dữ liệu thực nghiệm cho thấy quá trình phụ bao gồm quá trình hấp phụ bề

mặt và trao đổi ion. Qua việc phân tích ở trên, vật liệu LDH có nhiềm tiềm năng trong

việc xử lý các kim loại nặng dạng anion trong môi trường.

Việc tổng hợp vật liệu LDH-zeolit để sử dụng như chất hấp phụ đa chức năng

cũng đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu [34,35]. Trong nghiên cứu

[34] tác giả tổng hợp vật liệu Mg/Al LDH-zeolit bằng phương pháp khuấy trộn LDH

-, I- và cation Cs+. Dữ liệu thực nghiệm cho thấy, bằng việc điều chỉnh anion

với zeolit trong môi trường nước. Sản phẩm thu được sử dụng làm vật liệu hấp phụ các

anion IO3

nằm giữa các lớp trong cấu trúc của LDH có thể tăng hiệu quả hấp phụ các anion. Dung

lượng hấp phụ cation Cs+ cũng đạt yêu cầu mặc dù mộ phần bề mặt zeolit bị bao phủ

bởi LDH. Zhang và các cộng sự [35] tổng hợp vật liệu LDH-zeolit có cấu trúc lõi vỏ để

hấp phụ Cr(VI) trong môi trường nước và thấy rằng hiệu suất xử lý của loại vật liệu này

đối với Cr(VI) lên đến 94.5%. Trong quá trình xử lý, cơ chế hấp thụ hóa học chiếm ưu

thế. Như vậy có thể thấy tính hiệu quả của vật liệu LDH-zeolit trong xử lý môi trường.

Tuy nhiên việc nghiên cứu và phát triển loại vật liệu này hiện nay còn ít được nghiên

cứu.

1.4.2. Những nghiên cứu trong nước tiến hành cùng hướng nghiên cứu

Ở Việt Nam, hướng nghiên cứu sử dụng vật liệu lưỡng cực LDH-zeolit để xử lý

12

các cation và anion kim loại nặng chưa được quan tâm nhiều. Tuy nhiên, zeolite đơn lẻ

đã được sử dụng để xử lý các chất ô nhiễm, điều này được thể hiện qua những công trình

nghiên cứu gần đây về sử dụng zeolit để xử lý kim loại nặng trong môi trường nước và

đất. Trong nghiên cứu [36], nhóm tác giả nghiên cứu quy trình tổng hợp zeolit từ bùn

đỏ Tây Nguyên và đánh khả năng hấp phụ của vật liệu thu được. Các tác giả thấy rằng

vật liệu zeolit tổng hợp được có cấu trúc khác với cấu trúc của zeolit thông thường và

có khả năng hấp phụ amoni và nitrit. Việc loại bỏ asenat bằng vật liệu LDH được đưa

ra trong nghiên cứu [37]. Nhóm tác giả cố định LDH trên nền polyme để tạo ra các hạt

hấp phụ và tiến hành xử lý asenat trong nước. Dữ liệu cho thấy, ở điều kiện tối ưu, trên

80% asen bị loại bỏ bằng vật liệu kể trên. Tác giả Nguyễn Xuân Hải và cộng sự [38] đã

nghiên cứu điều chế Zeolite từ điatomit để hấp phụ Pb và Cd trong môi trường đất.

Nghiên cứu cho thấy Zeolit tổng hợp có khả năng hấp phụ rất tốt đối với Pb (~1600

mmol/Kg) và Cd (~1500 mmol/Kg). Do đó, vật liệu tổng hợp này có thể là một vật liệu

tiềm năng ứng dụng trong lĩnh vực xử lý ô nhiễm. Vật liệu màng Chitosan/Zeolite cũng

được nghiên cứu để xử lý các kim loại nặng trong môi trường nước [39]. Các kết quả về

cơ học cho thấy màng có tính chất cơ học và độ bền tốt theo tỷ lệ chitosan thay đổi trong

màng. Theo đó, kết quả loại bỏ kim loại nặng trong nước cho thấy màng có tỷ lệ

Chitosan/Zeolite với 70% chitosan và 30% Zeolite cho kết quả loại bỏ kim loại cao nhất

và khả năng loại bỏ kim loại sắp xếp theo thứ tự: Cr>As>Cd>Hg>Pb>Cu. Những kết

quả này cho thấy rằng màng CS/Ze được tổng hợp có thể sử dụng làm sạch nước bằng

cách loại nhằm loại bỏ kim loại trong nước. Ở Việt Nam đã có một số nhà khoa học

nghiên cứu sử dụng zeolite hoặc zoelite kết hợp chitosan và sử dụng LDH để hấp phụ

các chất ô nhiễm nhưng vẫn chủ yếu hướng đến đối tượng là nước và nước thải.

1.5. Các phương pháp phân tích vật liệu và kim loại nặng

1.5.1. Phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD)

XRD là một trong các phương pháp thông dụng được sử dụng để phân tích vật

liệu. Phương pháp này có ưu điểm là thực hiện nhanh, chuẩn bị mẫu đơn giản và đặc

biệt là không phá hủy mẫu.

Cơ sở của phương pháp XRD là dựa trên hiện tượng nhiễu xạ của các tia X khi

chúng được chiếu vào tinh thể. Các vạch nhiễu xạ chỉ xuất hiện khi chúng thỏa mãn

phương trình Vulf-Bragg:

13

2dsinθ = nλ

Trong đó: d là khoảng cách giữa hai mặt mạng trong cùng một họ (cùng chỉ số

Miller); θ là góc tới của tia X; λ là bước sóng của tia tới; n là bậc nhiễu xạ (thường lấy

giá trị bằng 1).

Phương pháp XRD được sử dụng để xác định nhiều đặc trưng của vật liệu rắn.

Trước hết, nó thường được sử dụng để xác định thành phần các pha trong vật liệu.

Phương pháp này còn cho phép xác định chính xác cấu trúc thực và thông số mạng tinh

thể, dự đoán các kiểu khiếm khuyết và biến dạng của tinh thể, phân tích định lượng của

các pha... .

XRD cũng là một trong phương pháp hiệu quả để nghiên cứu vật liệu nano, cho

phép xác định kích thước trung bình của các hạt tinh thể có đường kính nhỏ hơn 2000

Å theo công thức Scherrer :

𝑩 𝒄𝒐𝒔 𝜽𝑩

t = 𝟎.𝟗𝝀

Trong đó : λ là bước sóng của tia X; B là bề rộng nửa chiều cao của vạch nhiễu

xạ; θB là vị trí của vạch nhiễu xạ [40].

1.5.2. Phương pháp phổ hồng ngoại (FT-IR)

Khi các phân tử hấp thụ năng lượng từ bên ngoài có thể dẫn đến quá trình quay,

dao động xung quanh vị trí cân bằng của nó. Tùy theo năng lượng kích thích lớn hay

nhỏ, có thể xảy ra quá trình quay, dao động hay đồng thời cả quay và dao động. Để kích

thích các quá trình trên, có thể sử dụng tia sáng vùng hồng ngoại (phổ hồng ngoại) hoặc

tia khuyếch tán Raman (phổ Raman). Bức xạ hồng ngoại nằm giữa vùng khả kiến và

1. Phổ hồng ngoại có thể được sử dụng để xác định các nhóm chức, các liên kết đặc trưng

vùng vi sóng. Vùng phổ có ý nghĩa quan trọng nhất là vùng nằm giữa 4000 và 400 cm-

trong cả hợp chất vô cơ và hữu cơ. Trong nghiên cứu cấu trúc vật liệu, phương pháp phổ

hồng ngoại có thể cung cấp một số thông tin hữu ích như trạng thái tồn tại của ion, các

nhóm chức đặc trưng, sự tương tác giữa các thành phần của vật liệu.

1.5.3. Phương pháp hiển vi điện tử quét (SEM)

SEM là một phương pháp thường được sử dụng để nghiên cứu hình thái bề mặt

của vật liệu. Nguyên tắc hoạt động của phương pháp này là một chùm electron được

tăng tốc trong điện trường, sau đó được đi qua các thấu kính từ tạo thành chùm hội tụ.

Chùm tia này sẽ được quét lên trên bề mặt mẫu và tạo ra chùm electron thứ cấp. Các tia 14

thứ cấp này sẽ được ghi nhận bằng detector và được chuyển đổi thành tín hiệu dưới dạng

hình ảnh [40].

Phương pháp này được sử dụng nhiều trong việc xác định hình dạng và kích

thước của các vật liệu nano. Trong nghiên cứu về các vật liệu LDH và zeolite, SEM

được xem như là một công cụ hữu hiệu để phân tích hình thái học và kích thước của

chúng [9,41].

1.5.4. Phương pháp tử ngoại – khả kiến (UV-Vis)

Phổ tử ngoại và khả kiến, viết tắt là UV-Vis (Ultraviolet-Visible) là phương pháp

phân tích được sử dụng rộng rãi. Vùng bức xạ được sử dụng gồm vùng tử ngoại (UV)

200 – 400 nm và vùng khả kiến (Vis) 400 – 800 nm.

Phổ tử ngoại và khả kiến của các chất gắn liền với bước chuyển electron giữa

mức năng lượng electron trong phân tử khi các electron chuyển từ các obitan liên kết

hoặc không liên kết lên các obitan phản liên kết có mức năng lượng cao hơn, đòi hỏi

phải hấp thụ năng lượng từ bên ngoài. Các electron nằm ở obitan liên kết σ nhảy lên

obitan phản liên kết σ* có mức năng lượng cao nhất, ứng với bước sóng 120 – 150 nm,

nằm ở vùng tử ngoại xa. Các electron π và các electron p (cặp electron tự do) nhảy lên

obitan phản liên kết π* có mức năng lượng lớn hơn, ứng với bước sóng nằm trong vùng

tử ngoại 200 – 400 nm hay vùng khả kiến 400 – 800 nm tùy theo cấu tạo của phân tử

[42]. Phổ UV-Vis được sử dụng nhiều trong phân tích định tính và định lượng các

hợp chất của các kim loại nặng có khả năng tạo ra nhiều phức chất mang màu với nhiều

phối tử.

1.5.5. Phương pháp tán xạ năng lượng tia X (EDX)

EDX là một phương pháp thường được sử dụng để phân tích định tính và định

lượng của các nguyên tố có mặt trong mẫu. Giống như XRD, EDX cũng là một phương

pháp cho kết quả phân tích nhanh và không phá hủy mẫu.

Cơ sở của phương pháp này là khi một nguồn kích thích tia X sơ cấp từ một ống

tia X hoặc từ nguồn đồng vị phóng xạ chiếu vào mẫu sẽ được hấp thụ bởi các nguyên

tử. Khi hấp thụ tia X, các electron của nguyên tử sẽ chuyển lên các mức năng lượng cao

hơn và tạo ra các lỗ trống, lúc này nguyên tử ở trạng thái kích thích và không bền. Sau

15

đó, các lỗ trống được lấp đầy bởi sự dịch chuyển electron ở các lớp ngoài có mức năng

lượng lớn hơn. Mỗi sự chuyển mức đều có năng lượng kèm theo và năng lượng này

được giải phóng ở dạng huỳnh quang tia X. Năng lượng của tia giải phóng ra phụ thuộc

vào sự khác nhau về năng lượng giữa các mức. Nguyên tử của mỗi nguyên tố có các

mức năng lượng riêng biệt, do vậy bức xạ phát ra sẽ đặc trưng cho nguyên tố đó. Mỗi

nguyên tử giải phóng ra nhiều mức năng lượng khác nhau bởi vì có nhiều loại lỗ trống

được tạo ra và nhiều electron trên các lớp khác nhau có thể lấp đầy các lỗ trống đó. Tập

hợp các vạch phát xạ đặc trưng cho một nguyên tố và có thể được coi là “dấu vân tay”

của nguyên tố đó. Bằng việc xác định năng lượng của các bức xạ phát ra, có thể xác định

được sự có mặt của các nguyên tố và đo cường độ của các bức xạ sẽ xác định được hàm

lượng các nguyên tố trong mẫu. Phương pháp EDX có thể xác định được nhiều nguyên

tố, từ Na đến U. Nguyên tử khối của các nguyên tố càng lớn, kết quả càng chính xác

[40].

1.5.6. Phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (AAS)

Phổ hấp thụ nguyên tử là một phương pháp được sử dụng rộng rãi để phân tích

thành phần hóa học của các chất với độ chính xác rất cao. Đối tượng của phương pháp

này là phân tích lượng nhỏ, lượng vết của các kim loại trong mẫu vô cơ và hữu cơ. Cơ

sở của phương pháp này là dựa vào sự hấp thụ năng lượng (bức xạ đơn sắc) của nguyên

tử tự do trong trạng thái hơi khi chiếu chùm bức xạ qua đám hơi của một nguyên tố trong

môi trường hấp thụ. Bằng việc so sánh cường độ của chùm tia tới và cường độ còn lại

16

sau khi bị hấp thụ sẽ xác định được hàm lượng của các nguyên tố [43,44].

CHƯƠNG 2: THỰC NGHIỆM

2.1. Hóa chất và thiết bị

2.1.1. Hóa chất

Bảng 2.1. Hóa chất sử dụng trong đề tài

STT Hóa chất Xuất xứ

Merck (Đức) 1 Al(NO3)3.9H2O

Merck (Đức) 2 Mg(NO3)3.6H2O

Merck (Đức) 3 Na2CO3

4 NaOH Merck (Đức)

5 Zeolite Nito Funka Kogyo (Nhật Bản)

6 Merck (Đức) Pb(NO3)2

Merck (Đức) 7 K2CrO4

2.1.2. Thiết bị

Bảng 2.2. Các thiết bị sử dụng trong đề tài

Thiết bị Xuất xứ

Máy khuấy từ gia nhiệt Đức

Cân phân tích Anh

Tủ sấy Hàn Quốc

Máy ly tâm Đức

Máy lắc Trung Quốc

Máy đo pH

2.2. Tổng hợp vật liệu

2.2.1. Tổng hợp vật liệu LDH

Trong cốc một cốc thủy tinh 400 ml, 100 ml dung dịch chứa 0.01 mol Al (NO3)3

và 0.02 mol Mg (NO3)2 được trộn bằng máy khuấy từ. Sau đó, dung dịch chứa NaOH

17

1,0 M và Na2CO3 0.5 M được nhỏ vào hỗn hợp trên cho đến khi pH đạt 11,0. Hệ thống

phản ứng được ủ trong 4 giờ ở 80oC. Chất rắn được tách ra khỏi chất lỏng bằng phương

pháp ly tâm và rửa nhiều lần bằng nước cất, sau đó sấy khô và nghiền nhỏ.

2.2.2. Tổng vật liệu LDH-zeolite bằng phương pháp in-situ

Trong cốc 400 ml, 100 ml dung dịch chứa 0.01 mol Al (NO3)3 và 0.02 mol

Mg(NO3)2 được trộn với một lượng zeolite bằng máy khuấy từ. Các bước tiếp theo được

tiến hành như mục 2.2.1. Các mẫu thu được được ký hiệu là LZ (bảng 2.3).

2.2.3. Tổng vật liệu LDH-zeolite bằng phương pháp ex-situ

Trong phương pháp ex-situ, trước hết, LDH được tổng hợp như trên. Sau khi

được gia nhiệt ở 80 oC trong 4 giờ, zeolite được thêm vào hệ thống phản ứng được khuấy

trộn liên tục trong 4 giờ. Cuối cùng, các vật liệu thu được được tách, rửa và sấy khô và

các mẫu được gọi là LZ-EX. Tất cả các điều kiện thí nghiệm của các mẫu được đưa ra

trong bảng 2.3.

Bảng 2.3. Điều kiện tổng hợp vật liệu LDH, LZ và LZ-EX

Mẫu pH

Tỉ lệ LDH/zeolite (w/w) Thời gian phản ứng (giờ) Nhiệt độ phản ứng (oC)

11.0 11.0 11.0 11.0 11.0 11.0 11.0 11.0 11.0 11.0 11.0 11.0 11.0 80 80 80 80 80 80 80 80 80 80 80 80 80 LDH LZ1 LZ2 LZ3 LZ4 LZ5 LZ6 LZ1-EX LZ2-EX LZ3-EX LZ4-EX LZ5-EX LZ6-EX 1:0 1:9 1:4 3:7 2:3 1:1 3:2 1:9 1:4 3:7 2:3 1:1 3:2 4h 4h 4h 4h 4h 4h 4h 8h 8h 8h 8h 8h 8h

2.3. Phương pháp phân tích cấu trúc vật liệu

2.3.1. Phương pháp phân tích thành phần pha

Thành phần pha của vật liệu được phân tích bằng phương pháp nhiễu xạ tia X

(XRD). Trong đề tài này, các mẫu được phân tích trên thiết bị D2 Phaser (Brucker) tại

18

Trung Tâm Thí Nghiệm, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên.

2.3.2. Phương pháp phân tích cấu trúc bề mặt

Trong luận văn này, hình dạng và kích thước hạt của các mẫu được xác định bằng

phương pháp SEM trên thiết bị S-4800 Hitachi tại Viện Khoa học Vật liệu (Viện Hàn

lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam).

2.3.3. Phương pháp phân tích cấu trúc và thành phần hóa học

Các nhóm chức của các mẫu được xác định bằng phương pháp phổ hổng ngoại

(FT-IR) trên máy Spectrum Two tại tại Trung Tâm Thí Nghiệm, Trường Đại học Khoa

học, Đại học Thái Nguyên.

Thành phần hóa học của mẫu được xác định bằng phương pháp EDX trên thiết

bị JOEL JSM-5610 tại Viện Khoa học Vật liệu (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ

Việt Nam).

2.3.4. Phương pháp phân tích cấu trúc lỗ xốp và diện tích bề mặt

Cấu trúc lỗ xốp và diện tích bề mặt của vật liệu được xác định thông qua đường

đẳng nhiệt hấp phụ-giải hấp phụ khí nitơ. Trong nghiên cứu này, đường đẳng nhiệt được

xây dựng trên thiết bị Trista 3000 tại Khoa Hóa học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Kính thước lỗ xóp đước xác định bằng phương pháp t-plot và điện tich bề mặt được tính

theo phương pháp Brunauer–Emmett–Teller (BET).

2.4. Phương pháp phân tích hàm lượng Cr(VI) và Pb(II) trong dung dịch

2.4.1. Phân tích hàm lượng Cr(VI)

Nồng độ Cr(VI) trong dung dịch nước được xác định bằng phương pháp trắc

quang (UV-Vis) theo TCVN 7939 : 2008. Các phép đo được thực hiện trên thiết bị V-

770 tại Trung Tâm Thí Nghiệm, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên.

Quy trình phân tích được thực hiện như sau:

2.4.1.1. Chuẩn bị dung dịch thuốc thử

* Dung dịch axit: cho vào bình định mức dung tích 500 ml khoảng 200 ml nước. Thêm

27ml axit sunfuric và 33ml axit orthophosphoric, trộn đều và pha loãng đến vạch mức

19

bằng nước cất.

* Diphenylcacbazit (thuốc thử DPC) 1% trong axeton: Hòa tan 1g 1,5-diphenylcacbazid

trong 100 ml axeton. Bảo quản trong chai màu nâu để trong tủ lạnh, từ +20C đến +80C,

thuốc thử bền trong khoảng một tuần.

2.4.1.2. Chuẩn bị dung dịch chuẩn

* Dung dịch gốc Cr(VI) 1g/l: hòa tan 3,735g K2CrO4 trong bình định mức 1000 ml

bằng nước cất và pha loãng đến vạch định mức.

* Dung dịch tiêu chuẩn I Cr(VI) 100 mg/l: dùng pipét lấy 50 ml dung dịch gốc kali

cromat 1000 mg/l vào bình định mức 500ml, và pha loãng đến vạch mức bằng nước.

Chuẩn bị dung dịch tiêu chuẩn dùng trong ngày.

* Dung dịch tiêu chuẩn II Cr(VI) 5 mg/l: Dùng pipét lấy 25 ml dung dịch tiêu chuẩn I

vào bình định mức dung tích 500ml, và pha loãng đến vạch mức bằng nước. Chuẩn bị

dung dịch dùng trong ngày.

2.4.1.3. Dựng đường chuẩn

Dùng pipét lấy từ 50µl đến 500µl cho dung dịch tiêu chuẩn II vào 10 bình định

mức 50ml (tương ứng với các nồng độ từ 5, 10, 15, 20, 25, 30, 35, 40, 45 và 50µg/l).

Thêm nước đến khoảng 40ml. Cho vào mỗi bình định mức 4 ml hỗn hợp axit và lắc đều.

Sau đó, thêm vào mỗi bình 500µl thuốc thử DPC và lắc đều. Pha loãng đến vạch mức

bằng nước cất. Sau 15 đến 20 phút, đo độ hấp thụ bằng máy UV-Vis tại bước sóng

540nm. Mẫu trắng được sử chuẩn bị tương tự như trên nhưng không thêm dung dịch

20

tiêu chuẩn II và được sử dụng làm mẫu đối chứng. Đường chuẩn được đưa ra ở hình 2.1.

Hình 2.1. Đường chuẩn phân tích Cr(VI)

2.4.1.4. Phân tích dung dịch mẫu thực

Dung dịch với thể tích 1ml được lấy ra trong các thí sẽ được cho vào bình định

mức 10ml và thêm nước cất đến vạch định mức. Sau đó dung dịch này được li tâm để

loại bỏ các chất rắn lơ lửng. Dung dịch mẫu sau li tâm sẽ tiếp tục được pha loãng và tiến

hành phân tích tương tự như các dung dịch trong quá trình dựng đường chuẩn. Mỗi mẫu

được phân tích 03 lần và lấy kết quả trung bình. Nồng độ Cr(VI) trong dung dịch được

tính theo phương trình:

C = Cđo. K (2.1)

Trong đó C và Cđo là nồng độ Cr(VI) trong dung dịch thí nghiêm và đo được trên

máy UV-Vis, K là hệ số pha loãng. Tùy theo nồng độ của Cr(VI) còn lại trong dung dịch

thí nghiệm mà hệ số pha loãng có thể từ 50 đến 2000 lần để nồng độ của Cr(VI) trong

dung dịch đo nằm trong khoảng tuyến tính từ 5 đến 50 µg/l.

2.4.2. Phân tích hàm lượng Pb(II)

Trong đề tài này, hàm lượng Pb(II) trong dung dịch được xác định bằng phương

21

pháp phổ hấp thụ nguyên tử ngọn lửa (F-AAS) trên thiết bị Z2000 (Hitachi) theo TCVN

6496:2009, tại Trung Tâm Thí Nghiệm, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái

Nguyên.

2.4.2.1. Chuẩn bị dung dịch tiêu chuẩn

Dung dịch tiêu chuẩn của các Pb(II) tương ứng có nồng độ 20 mg/l. Dùng pipet

lấy 20 ml dung dịch Pb(II) gốc (1000 mg/l) cho vào bình định mức 1000 ml. Thêm 20

ml axit nitric (được pha từ 1 thể tích HNO3 65 % + 3 thể tích nước) và thêm nước đến

vạch mức.

2.4.2.2. Chuẩn bị dung dịch hiệu chuẩn

Dùng pipet lấy 5,00 ml; 10,00 ml; 20,00 ml; 30,00 ml và 40,00 ml dung dịch tiêu

chuẩn chì (20 mg/l) cho vào một loạt bình định mức 100 ml. Thêm vào mỗi bình 21 ml

axit clohidric 37 % và 7 ml axit nitric 65 %. Pha loãng bằng nước đến vạch mức và trộn

đều. Các dung dịch này tương ứng với nồng độ chì là 1.0 mg/l; 2.0 mg/l; 4.0 mg/l; 6.0

mg/l và 8,0 mg/l.

2.4.2.3. Dựng đường chuẩn

Sử dụng dãy các dung dịch hiệu chuẩn theo trật tự từ dưới lên và dung dịch hiệu

chuẩn trắng coi như có nồng độ bằng 0 mg/l. Kết quả được đưa ra ở Hình 2.2.

Hình 2.2. Đường chuẩn phân tích Pb(II)

2.4.2.4. Phân tích trong dung dịch mẫu thực

Dùng pipet lấy V ml dung dịch sau hấp phụ cho vào bình định mức 100 ml. Thêm

vào mỗi bình 21 ml axit clohidric 37 %, 7 ml axit nitric 65 %. Pha loãng bằng nước đến

22

vạch mức và trộn đều. Giá trị V được lấy phụ thuộc vào nồng độ kim loại trong dung

dịch, sao cho sau khi pha loãng nồng độ sẽ nằm trong khoảng nồng độ hiệu chuẩn. Mỗi

mẫu được đo ba lần và lấy kết quả trung bình. Hàm lượng Pb(II) sẽ được xác định theo

100

công thức sau :

𝑉

(2.2) C = Cđo,tb.

Trong đó, C là nồng độ của dung dịch cần đo, Cđo, tb là nồng độ trung bình của 3

phép đo trên máy F-AAS.

2.5. Đánh giá khả năng hấp phụ Cr(VI) và Pb(II) của vật liệu

Trong nghiên cứu hấp phụ, một lượng chất hấp phụ xác định đã được thêm vào

50 ml dung dịch Pb (II) hoặc Cr (VI) với nồng độ nhất định. Hỗn hợp được lắc ở 150

vòng / phút ở nhiệt độ nghiên cứu và trong một khoảng thời gian mong muốn. Nồng độ

chì trong dung dịch được phân tích bằng phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử

(AAS, Z2000) và nồng độ cromat được xác định bằng phương pháp đo quang phổ (sử

dụng máy đo quang phổ V-770). Mỗi thí nghiệm được lặp lại hai lần và kết quả được

báo cáo là giá trị trung bình. Sai số được chấp nhận là ≤ 2%. Hiệu quả loại bỏ (H, %)

kim loại nặng của vật liệu được xác định theo công thức:

𝐶𝑜−𝐶 𝐶𝑜

H = 100, (2.3)

Trong đó, Co (mg/L) and C (mg/L) là nồng độ kim loại trong dung dịch trước và

sau khi xử lý. Lượng kim loại bị hấp phụ tại thời điểm cân bằng (qe) và sau t phút (qt)

được tính theo phương trình sau:

𝑉 (2.4) 𝑞𝑒 = 𝑐𝑜 − 𝑐𝑒 𝑤

𝑉 (2.5) 𝑞𝑡 = 𝑐𝑜 − 𝑐𝑡 𝑤

Trong đó Ce và Ct là nồng độ kim loại tại thời điểm cân bằng và sau thời gian t phút, V

23

(L) là thể tích dung dịch và w (g) là khối lượng chất hấp phụ.

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Tổng hợp và phân tích cấu trúc tinh thể của vật liệu LDH-zeolite

Thành phần pha của các mẫu tổng hợp được phân tích bằng phương pháp XRD

và kết quả được trình bày trong Hình 3.1. Giản đồ XRD của mẫu LDH cho thấy các đỉnh

nhiễu xạ ở hai góc theta khoảng 11,55, 23,28, 34,52, 39,03 và 46,42 độ, lần lượt tương

ứng với các mặt phản xạ (003), (006), (012), (015) và (018) trong cấu trúc của

2- chiếm ưu thế trong khoảng trống giữa các lớp [24].

hydrotalcite (PDF-01-089-0460). Khoảng cách mặt mạng được tính từ vị trí của đỉnh

(003) là 7,59 chứng tỏ CO3

Đối với mẫu zeolite (ZEO), có thể quan sát các đỉnh nhiễu xạ đặc trưng cho pha

zeolite tự nhiên (mordenite, PDF-00-029-1257) [45]. Cường độ của các đỉnh nhiễu xạ

lớn cho tỏ của pha zeolite tự nhiên pha độ tinh khiết cao.

Đối với mẫu LZ được chế tạo bằng phương pháp in-situ, cường độ của các đỉnh

nhiễu xạ LDH tăng lên cùng với sự gia tăng hàm lượng LDH trong các vật liệu được

tổng hợp. Trên giản đồ XRD của mẫu LZ1, các đỉnh LDH rất khó quan sát trong khi đối

với mẫu LZ2, các đỉnh này rõ rệt hơn, đặc biệt là đỉnh (003). Trong các mẫu LZ3, LZ4,

LZ5 và LZ6, tất cả các đỉnh đặc trưng của LDH có thể được quan sát rõ ràng. Ngoài ra,

các đỉnh nhiễu xạ của zeolite tự nhiên có thể quan sát được trong tất cả các mẫu LZ

nhưng cường độ của chúng giảm từ LZ1 đến LZ6, chứng tỏ các hạt zeolite được phủ

một phần bởi LDH. Đối với các mẫu LZ4, LZ5 và LZ6, ngoài các đỉnh LDH và zeolite,

có thể thấy các đỉnh nhiễu xạ của natri nitrat (PDF 00-001-0840). Điều này cho thấy

không thể loại bỏ hoàn toàn natri nitrat khỏi sản phẩm bằng cách rửa. Sự xuất hiện của

tạp chất này có thể được giải thích từ thực tế là khi hàm lượng LDH tăng lên, bề mặt

của zeolite được che phủ phần lớn và các tinh thể natri nitrat kết tinh bên trong cấu trúc

zeolite không thể thoát ra ngoài trong quá trình rửa.

Trong các mẫu tổng hợp bằng phương pháp ex-situ, tất cả các đỉnh đặc trưng của

cả LDH và zeolite đều có thể được quan sát rõ ràng, ngay cả đối với các mẫu có hàm

lượng LDH là 10%. Các đỉnh nhiễu xạ của LDH sắc nét hơn so với các đỉnh trong các

mẫu tổng hợp bằng phương pháp in-situ. Ngoài ra, không thể nhận thấy các đỉnh nhiễu

24

xạ của NaNO3 trong bất kỳ mẫu LZ-EX nào, chứng tỏ LDH không tương tác với zeolite

và không bao phủ bề mặt zeolite. Nói cách khác, zeolite trộn sau khi kết tinh không có

Hình 3. 1. Giản đồ XRD của LDH, zeolite và LDH-zeolite tổng hợp bằng phương pháp in-stu và ex-situ

bất kỳ ảnh hưởng nào đến cấu trúc tinh thể của cả hai thành phần LDH và zeolite.

Kích thước tinh thể (crystallite size) của LDH trong các mẫu có hàm lượng LDH

khác nhau được đánh giá theo phương trình Sherrer [40] (quá trình tính toán được thực

25

hiện trên phần mềm Diffract.eva, phiên bản 5.1) và kết quả được đưa ra trong hình 3.2.

Hình 3. 2. Sự phụ thuộc của kích thước tinh thể LDH trong vật liệu LZ vào hàm lượng LDH và phương pháp tổng hợp

Có thể thấy rằng phương pháp tổng hợp và hàm lượng LDH ảnh hưởng đến kích

thước tinh thể của LDH trong LZ. Đối với các mẫu được tổng hợp theo phương pháp

in-situ, kích thước tinh thể của LDH tăng khi hàm lượng LDH tăng. Hơn nữa, kích thước

tinh thể nhỏ hơn nhiều so với mẫu LDH hoặc LZ được chế tạo bằng phương pháp ex-

situ. Kích thước tinh thể của LDH trong các mẫu tổng hợp bằng phương pháp ex-situ

thay đổi không đáng kể khi hàm lượng LDH tăng và giá trị này khá tương đồng với kích

thước tinh thể trong mẫu LDH.

Theo kết quả thu được ở trên, có thể khẳng định rằng sự hình thành cấu trúc LZ

phụ thuộc đáng kể vào phương pháp tổng hợp. Cơ chế hình thành có thể được mô tả như

26

sơ đồ sau (Hình 3.3).

Hình 3. 3. Sơ đồ mô tả cơ chế hình thành LZ trong phương pháp in-situ và ex-situ

Trong phương pháp in-situ, trước tiên, các ion được hấp phụ lên các bề mặt

zeolite tại các vị trí hoạt động bằng tương tác tĩnh điện và quá trình tạo mầm bắt đầu

diễn ra. Sau đó, các tinh thể LDH phát triển từ các mầm này. Khi tỷ lệ giữa các ion tiền

chất và zeolite tăng lên, các vị trí hoạt động trên bề mặt zeolite không đủ cho quá trình

tạo mầm mới, dẫn đến sự gia tăng kích thước tinh thể [41].

Trong phương pháp ex-situ, các hạt LDH đã hình thành trước khi thêm zeolite,

do đó không có sự tạo mầm trên bề mặt zeolite. Hệ quả là các hạt LDH và zeolite được

phân tán riêng biệt và sự tương tác giữa hai thành phần không có, dẫn đến sự độc lập

của kích thước tinh thể LDH vào hàm lượng LDH trong trong vật liệu.

Sự khác biệt về hình thái của LZ thu được bằng các phương pháp in-situ và ex-

situ có thể được quan sát rõ ràng trên các hình ảnh SEM (hình 3.4). Có thể thấy rằng

mẫu LDH chủ yếu bao gồm các hạt giống như tiểu cầu có đường kính trung bình 50-60

nm và độ dày khoảng 10nm và hình thái của zeolite tự nhiên có cấu trúc giống hình que.

Trên các ảnh SEM của mẫu LZ3-EX (Hình 3.4 C), các hạt LDH giống như tiểu cầu và

tương tự như các mẫu của LDH, cho thấy hình thái LDH không bị ảnh hưởng bởi việc

thêm zeolite sau LDH đã kết tinh. Ngoài ra, một số hạt zeolite có thể được quan sát trong

27

mẫu này, cho thấy sự phân tán riêng biệt của các hạt LDH và zeolite.

Ngược lại, các hạt LDH trong mẫu LZ3 nhỏ hơn nhiều so với các hạt trong mẫu

LDH và LZ3-EX, chứng tỏ có sự ảnh ảnh hưởng của zeolite đến quá trình kết tinh LDH.

Hơn nữa, cấu trúc giống như que của zeolite không thể quan sát được, cho thấy các hạt

zeolite được phủ bởi LDH. Kết quả phân tích SEM cho thấy cơ chế được đưa ra trong

Hình 3. 4. Ảnh SEM của LDH (A), ZEO (B) và LZ3-EX (C) và LZ3 (D)

hình 3.3 là hoàn toàn phù hợp.

3.2. Ảnh hưởng của phương pháp tổng hợp đến khả năng hấp phụ Cr(VI) và Pb(II)

của vật liệu

Các kết quả trên cho thấy, phương pháp tổng hợp là một yếu tố quan trọng ảnh

hưởng đến cấu trúc LZ và các tính chất của vật liệu LDH-zeolite. Để nghiên cứu ảnh

hưởng của phương pháp tổng hợp cũng như tỷ lệ LDH/zeolite đến khả năng hấp phụ

Cr(VI) và Pb(II) của vật liệu, các thí nghiệm hấp phụ của hai loạt vật liệu được thực hiện

bằng cách thêm 0,1 g từng loại vật liệu vào 100 ml dung dịch Cr(VI) hoặc Pb (II) với

nồng độ 100 mg/L. Hỗn hợp được lắc trong 4 giờ ở 25 oC và pH từ 3.0 đến 6.0. Hiệu

quả loại bỏ kim loại nặng của từng vật liệu được trình bày trong hình 3.5.

Đối với sự hấp phụ Cr (VI) trên LZ tổng hợp bằng phương pháp in-situ, hiệu suất

28

hấp phụ tăng đáng kể khi hàm lượng LDH tăng từ 0,0 đến 30%. Tuy nhiên, giá trị này

tăng lên 40% hoặc cao hơn thì hiệu quả loại bỏ Cr (VI) sẽ giảm. Xu hướng này có thể

được giải thích là với hàm lượng LDH trong khoảng 10-30% các hạt LDH nhỏ và phân

tán tốt trên bề mặt zeolite, dẫn đến hiệu quả loại bỏ Cr(VI) cao. Khi hàm lượng LDH

trên 30%, các hạt trở nên lớn hơn, dẫn đến giảm diện tích bề mặt và làm giảm hiệu quả

loại bỏ. Ngược lại, hiệu quả loại bỏ Cr (VI) của các mẫu LZ-EX tỷ lệ thuận với hàm

lượng LDH và thấp hơn nhiều so với các mẫu LZ. Lý do cho hiệu quả hấp phụ thấp của

LZ-EX có thể là do kích thước lớn của các hạt LDH được hình thành trước khi thêm

zeolite trong quá trình tổng hợp ex-situ.

Ngoài hàm lượng LDH, pH cũng là yếu tố chính ảnh hưởng đến hiệu quả loại bỏ

Cr(VI). Nói chung, hiệu quả loại bỏ Cr (VI) của các mẫu tăng khi pH tăng từ 3.0 lên 5.0

và giảm ở pH 6.0. Ảnh hưởng của pH đến sự hấp phụ Cr (VI) có thể là do dạng tồn tại

Cr(VI) và điện tích của bề mặt chất hấp phụ [24].

Hàm lượng LDH trong LZ cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự hấp phụ

Pb (II) của các mẫu LZ và LZ-EX. Nhìn chung, đối với các mẫu LZ, ở hàm lượng LDH

thấp (từ 10 đến 30%), sự hấp phụ Pb (II) của LZ tương tự như của zeolite. Tuy nhiên,

khi hàm lượng LDH cao hơn 30%, hiệu quả loại bỏ Pb (II) sẽ giảm nhanh chóng. Xu

hướng này là hợp lý vì zeolite là thành phần có vai trò chủ yếu trong quá trình hấp phụ

của Pb (II) thông qua quá trình trao đổi ion. Khi hàm lượng LDH trên 30%, bề mặt

zeolite được LDH che phủ đáng kể, dẫn đến giảm khả năng trao đổi cation của zeolite.

Đối với các mẫu LZ-EX, hiệu suất loại bỏ Pb (II) giảm khi hàm lượng LDH tăng, cho

thấy không có tương tác giữa LDH và zeolite. Có thể thấy rõ ảnh hưởng của pH đến quá

trình hấp phụ Pb (II). Hiệu quả loại bỏ tăng khi pH tăng từ 3.0 lên 5.0 và ổn định trong

khoảng pH 5.0-6.0. Hiệu suất loại bỏ thấp ở pH dưới 5.0 có thể là do sự cạnh tranh giữa

29

các ion Pb(II) và các proton cho các vị trí trao đổi và hấp phụ ion [45,46].

Hình 3. 5. Sự hấp phụ Cr(VI) và Pb(II) trên LDH, ZEO và LDH-zeolite với hàm LDH khác nhau

Theo kết quả trên, vật liệu LZ3 (được điều chế bằng phương pháp in-situ với hàm

lượng LDH là 30%) có hiệu quả loại bỏ Cr(VI) và Pb(II) khỏi dung dịch nước cao nhất,

do đó các đặc trưng của vật liệu này, cùng với LDH và zeolite sẽ được phân tích chi tiết

hơn nữa. Vật LZ3 sẽ được sử dụng để nghiên cứu động học hấp phụ, đẳng nhiệt và cơ

chế hấp phụ Cr(VI) và Pb(II).

3.3. Cấu trúc và thành phần hóa học của vật liệu

Cấu trúc hóa học của LDH, ZEO và LZ3 được phân tích bằng FT-IR và kết quả

được đưa ra trong Hình 3.6. Trên phổ FT-IR của LDH, có thể thấy dải hấp thụ mạnh và

rộng ở 3000- 3750 cm-1, tương ứng với dao động kéo dài của nhóm hydroxyl. Sự tương

tác giữa các nhóm hydroxyl được thể hiện bằng vai phổ ở khoảng 3050 cm-1. Các dải ở

khoảng 940, 775 và 551 cm-1 có thể được gán cho dao động kéo dài của nhóm Al-O.

Các đỉnh ở 1354, 665 cm-1 đặc trưng cho nhóm carbonate trong vật liệu CO3-LDH. Phổ

của ZEO cho thấy một đỉnh ở khoảng 3435 cm-1, được gán cho sự hiện diện của nhóm

30

hydroxyl. Các dải ở khoảng 1223, 1020, 531 và 440 cm-1 đặc trưng cho dao động góc

của nhóm của Si-Si-Al. Các đỉnh ở 750 cm-1 có thể được gắn cho dao động kéo dài đối

xứng và bất đối xứng trong cấu trúc zeolite. Trên phổ FT-IR của LZ3, có thể quan sát

được các giải phổ đặc trưng cho cả LDH và ZEO, chứng tỏ sự hình thành của vật liệu

LZ. Sự thay đổi cường độ và vị trí cực đại của một số dải phổ khi so sánh với các dải

trong LDH và ZEO chỉ ra rằng LDH và zeolite đã tương tác với nhau trong quá trình

Hình 3. 6. Phổ FT-IR của LDH, ZEO và LZ3

31

hình thành vật liệu.

Hình 3. 7. Phổ EDX của LDH, ZEO và LZ3

Bảng 3. 1. Thành phần hóa học của LDH, ZEO và LZ3

Mẫu O Mg Al Si Na Fe K C Ca

LDH 68.43 17.48 8.31 - 5.73

ZEO 63.7 7.01 23.98 0.95 2.51 0.82 1.03

LZ3 60.64 7.77 6.27 12.29 1.38 0.98 9.97 0.71

Thành phần hóa học của ZEO, LDH và LZ3 được phân tích bằng phương pháp

EDX và kết quả được đưa ra trong hình 3.7 và bảng 3.1. Có thể thấy rằng mẫu LDH

chứa bốn nguyên tố chính bao gồm O (67,93%), Al (9,31%) , Mg (16,48%), C (5,73%)

và một lượng nhỏ Na (0,5%). Tỷ lệ mol Mg/Al được tính toán từ dữ liệu EDX xấp xỉ

bằng với tỷ lệ tiền chất. Kết quả này phù hợp với kết quả XRD. Mẫu ZEO bao gồm O,

Al, Si, Fe, K và Ca. Thành phần nguyên tố LZ3 là thành phần kết hợp của LDH và ZEO.

3.4. Kết quả phân tích diện tích bề mặt và kích thước lỗ xốp

Các cấu trúc xốp của các mẫu LDH, ZEO và LZ3 được phân tích thông qua các

đường đẳng nhiệt hấp phụ nitơ như được trình bày trong hình 3.8. Theo phân loại

IUPAC, các đường đẳng nhiệt của mẫu LDH thuộc loại IV, đặc trưng của vật liệu mao

quản trung bình. Một vòng trễ (loại H3) ở áp suất tương đối cao là dấu hiệu cho thấy sự 32

xuất hiện của mao quản trung bình và mao quản lớn trong cấu trúc LDH [47]. Các đường

đẳng nhiệt của mẫu ZEO tưng ứng với đường đẳng nhiệt loại I, đặc trưng cho vật liệu vi

mao quản [48]. Đường đẳng nhiệt của mẫu LZ3 cũng thuộc loại đường đẳng nhiệt loại

Hình 3. 8. Các đường đẳng nhiệt hấp phụ/giải hấp phụ nitơ của LDH, ZEO và LZ3

IV, tương tự với LDH.

Diện tích bề mặt được tính toán theo phương pháp BET [49], diện tích vi mao

quản được xác định bằng phương pháp t-plot và kích thước lỗ được tính theo phương

pháp BJH của ba mẫu được đưa ra trong bảng 3.2.

Có thể thấy rằng diện tích bề mặt của zeolite giảm khi kết hợp với LDH để tạo

thành vật liệu LZ3, chứng tỏ mặt zeolite được phủ bởi LDH. Diện tích vi mao quản tính

toán của LZ3 thấp hơn nhiều so với zeolite, cho thấy các vi mao quản của zeolite được

33

bao phủ một phần bởi các hạt LDH. Kết quả này phù hợp với phân tích XRD.

Bảng 3. 2. Diện tích bề mặt, diện tích vi mao quản và kích thước lỗ xốp của LDH, zeolite LZ3

Mẫu Diện tích bề mặt Diện tích vi mao Kích thước mao quản

(m2/g) quản (nm)

(m2/g)

68.632 LDH 5.637 35.058

91.753 ZEO 72.238 12.059

82.342 LZ3 15.317 23.420

3.5. Động học của quá trình hấp phụ

Để nghiên cứu động học của quá trình hấp phụ Pb (II) và Cr (VI) lên LZ3, các

thí nghiệm được thực hiện với thời gian tiếp xúc khác nhau. Trong nghiên cứu hấp phụ

Cr(VI), thời gian hấp phụ được thay đổi từ 10 đến 600 phút và các thí nghiệm được thực

hiện ở pH 5.0 với nồng độ ban đầu của Cr(VI) là 100 mg/L, khối lượng LZ3 bằng 0.1 g,

và nhiệt độ 25 oC. Đối với hấp phụ Pb (II), thời gian tiếp xúc được thay đổi từ 10 đến

480 phút với nồng độ Pb(II) ban đầu là 120 mg/L trong khi các thông số khác giống như

trong nghiên cứu hấp phụ Cr (VI). Dữ liệu thực nghiệm được phân tích bằng ba mô hình

động học bao gồm mô động học bậc một, mô hinhd động học bậc hai và mô hình Elovich

để tìm ra mô hình thích hợp cho việc mô tả các quá trình hấp phụ.

Mô hình động học bậc nhất được sử dụng để mô tả quá trình hấp phụ chất lỏng-

rắn [50,51]. Theo mô hình này, sự hấp phụ vật lý là chủ yếu do sự tương tác yếu giữa

bề mặt chất hấp phụ và chất hấp phụ. Phương trình của mô hình động học bậc môt là:

(4) 𝑞𝑡 = 𝑞𝑒(1 − 𝑒−𝑘1𝑡)

Trong đó, qe và qt (mg/g) lần lượt là khả năng hấp phụ ở trạng thái cân bằng và

thời gian t; k1 1/phút) là hằng số tốc độ của mô hình.

Mô hình động học bậc hai liên quan đến quá trình hấp phụ hóa học [51,52] và

có thể được biểu diễn bằng phương trình:

2𝑘2𝑡 𝑞𝑒 1 + 𝑞𝑒𝑘2𝑡

(5) 𝑞𝑡 =

34

Trong đó k2 (g/mg.min) là hằng số tốc độ của mô hình động học bậc hai.

Mô hình động học Elovich [53] đã được sử dụng để nghiên cứu quá trình hấp phụ

các chất ô nhiễm như kim loại nặng, phốt phát và thuốc nhuộm trong dung dịch nước

[54,55]. Phương trình của mô hình này là:

ln(𝛼𝛽𝑡) (6) 𝑞𝑡 = 1 𝛽

Trong đó α (mg/g.min) và 𝛽(m/mg) là các hằng số của mô hình Elovich, chúng

có liên quan đến mức độ bao phủ bề mặt và biểu thị năng lượng hoạt hóa của quá trình

hấp phụ.

Việc phân tích thực hiện trên phần mềm OriginLab 9.0 và kết quả được trình bày

trong hình 3.9. Các thông số tính toán từ các mô hình được đưa ra trong bảng 3.3. Có

thể thấy rằng quá trình hấp phụ của cả Cr (VI) và Pb (II) trên LZ3 đều diễn ra nhanh

trong thời gian đầu, chậm lại khi thời gian tiếp xúc trên 100 phút, và cuối cùng đạt đến

trạng thái ốn định, chứng tỏ trạng thái cân bằng được thiết lập. Thời gian để hấp phụ Cr

(VI) đạt trạng thái cân bằng là 360 phút trong khi đó đối với hấp phụ Pb (II) là 240 phút.

Theo bảng 3.3, với hệ số tương quan (R2) gần bằng 1.0, cả ba mô hình đều phù để mô

tả sự hấp phụ Cr(VI) và Pb(II) lên LZ3. Với R2 cao nhất, mô hình bậc hai là phù hợp

nhất với dữ liệu thử nghiệm, tiếp theo là mô hình bậc nhất và mô hình Elovich. Về khả

năng hấp phụ, các giá trị được tính toán từ mô hình bậc hai là 47,39 mg/g đối với Cr(VI)

và 61,60 mg/g đối với Pb (II) cũng rất gần với các giá trị thí nghiệm, 46,61 mg/g đối với

Cr(VI) và 59,23 mg/g đối với Pb (II). Kết quả này cho thấy sự hấp thụ hóa học chiếm

35

ưu thế trong sự hấp phụ của Cr(VI) và Pb(II) lên LZ3.

Hình 3. 9. Mô hình động học của quá trình hấp phụ Cr(VI) và Pb(II) trên LZ3

Bảng 3. 3. Các thông số tính toán từ các mô hình

Mô hình Thông số Cr(VI) Pb(II)

0.0138 0.015 k1 (min-1)

Mô hình bậc 1 44.09 57.45 qe (mg/g)

r2 0.981 0.974

36

2.9 10-4 2.46 10-4 k2 (g/mg min) Mô hình bậc 2 47.39 61.60 qe (mg/g)

r2 0.988 0.982

α (mg/g min) 1.685 2.38

Mô hình bậc Elovich β (g/mg) 0.088 0.065

r2 0.967 0.961

3.6. Đường đẳng nhiệt hấp phụ

Mối quan hệ giữa lượng Cr (VI) và Pb (II) được hấp phụ trên LZ3 và nồng độ

cân bằng của các ion này có thể được mô tả bằng các đường đẳng nhiệt hấp phụ. Trong

nghiên cứu này, các thí nghiệm được thực hiện với nồng độ ban đầu Cr(VI) trong khoảng

10-300 và Pb (II) từ 10 đến 350 mg/l. Thời gian tiếp xúc là 360 phút đối với hấp phụ Cr

(VI) và 240 phút đối với hấp phụ Pb (II). Tất cả các thí nghiệm được thực hiện ở 25 oC

và pH 5.0 và dữ liệu thí nghiệm được trình bày trong hình 3.10. Có thể thấy rằng ở nồng

độ ban đầu thấp, dung lượng hấp hấp phụ cân bằng (qe) tăng nhanh, sau đó tăng nhẹ,

cuối cùng đạt đến trạng thái cần bằng, chứng tỏ các vị trí hấp phụ đã đạt đến trạng thái

độ bão hòa. Để làm sáng tỏ cơ chế hấp phụ, dữ liệu thựcnghiệm được phân tích bằng

bốn mô hình phổ biến bao gồm mô hình Langmuir, Freundlich, Temkin và Sips.

Mô hình Langmuir được sử dụng để mô tả sự hấp phụ đơn lớp, trong đó tất cả

các vị trí hấp phụ đều tương đương nhau nhau, mỗi phân tử của chất bị hấp phụ chỉ được

gắn vào một vị trí [56,57]. Phương trình của mô hình này là:

(7) 𝑞𝑒 = 𝑞𝑚. 𝐾𝐿. 𝐶𝑒 1 + 𝐾𝐿𝐶𝑒

Trong đó Ce là nồng độ cân bằng của chất bị hấp phụ (mg/L), qm là dung lượng hấp phụ

cực đại (mg/g) và KL là hằng số Langmuir liên quan đến năng lượng hấp phụ tự do

(L/mg).

Mô hình Freundlich là đẳng nhiệt theo kinh nghiệm, được sử dụng để dự đoán sự

hấp phụ đa lớp trên bề mặt không đồng nhất [56,58] Phương trình của mô hình này được

trình bày như sau:

1/𝑛

(8) 𝑞𝑒 = 𝐾𝐹𝐶𝑒

Trong đó, KF là hằng số Freundlich liên quan đến khả năng hấp phụ của chất hấp phụ và

37

hằng số 1/n chỉ ra cường độ của sự hấp phụ.

Đường đẳng nhiệt Temkin được sử dụng để mô tả các tương tác giữa chất hấp

phụ và chất bị hấp phụ trong quá trình hấp phụ. Trong mô hình này, nhiệt hấp phụ giảm

tuyến tính do sự tương tác giữa các phân tử bị hấp phụ và chất hấp phụ [59]. Phương

trình của mô hình này được trình bày như sau:

(9) 𝑞𝑒 = 𝐵𝑙𝑛(𝐾𝑇𝐶𝑒)

Trong đó KT là hằng số liên kết cân bằng (L/mg) tương ứng với năng lượng liên kết tối

đa và hằng số B có liên quan đến nhiệt hấp phụ.

Mô hình Sips dựa trên sự kết hợp giữa mô hình đẳng nhiệt Langmuir và Freundlich và

có thể được trình bày dưới dạng:

𝑞𝑚(𝑏𝐶𝑒)1/𝑛 1+(𝑏𝐶𝑒)1/𝑛 (6)

𝑞𝑒 =

Các đường đường đẳng nhiệt và dữ liệu thực nghiệm được trình bày trên hình 3.10 và

các thông số được tính toán từ các mô hình này (sử dụng phần mềm Origin Lab 9.0)

được đưa ra trong bảng 3.4.

Hệ số tương quan thu được từ mô hình Freundlich, Temkin và Sips cho sự hấp

phụ Cr (VI) đều lớn hơn 0.9, cho thấy các mô hình này có thể mô tả tốt sự hấp phụ của

Cr (VI) trên LZ3, trong khi đó mô hình Langmuir với R2 là 0,852 không phù hợp cho

việc mô tả quá trình hấp phụ. Đối với sự hấp phụ Pb (II), có thể thấy rằng mô hình Sips

và Langmuir phù hợp với dữ liệu thực nghiệm.

Trong các mô hình đã trên, Sips là mô hình phù hợp nhất vì R2 của mô hình này

là cao nhất cho cả sự hấp phụ Cr (VI) và Pb (II). Dung lượng hấp phụ tối đa được tính

toán từ mô hình Sips lần lượt là 59.393 mg/g và 63.825 mg/g đối với hấp phụ Cr(VI) và

38

Pb(II).

Hình 3. 10. Các đường đẳng nhiệt hấp phụ và dữ liệu thực nghiệm của quá trình hấp phụ Cr(VI) và Pb(II) trên LZ3.

Bảng 3. 4. Các thông số thính toán từ các mô hình đường đẳng nhiệt 39

Mô hình Thông số Cr(VI) Pb(II)

3.087 5.977 KL (L/mg)

48.84 63.620 Langmuir qm (mg/g)

r2 0.852 0.996

28.312 35.71 KF (mg/g)

n 7.422 7.541 Freundlich

r2 0.981 0.787

32.247 39.357 KT (L/g)

B 4.259 5.976 Temkin

r2 0.976 0.891

59.393 63.825 Ships qm (mg/g)

1.77 5.852 KL (L/mg)

n 2.77 1.046

r2 0.989 0.996

3.7. Nghiên cứu khả năng hấp phụ đồng thời hai kim loại

Để đánh giá khả năng hấp phụ kép của LZ3, các thí nghiệm đã được thực hiện

bằng cách thêm 0,1 g LZ3 vào dung dịch 100 ml chứa cả Cr(VI) và Pb(II) với nồng độ

ban đầu của mỗi kim loại trong khoảng 20-100 mg/l. Sự hấp phụ được thực hiện trong

360 phút ở nhiệt độ 25 oC và pH là 5,0. Dữ liệu thực nghiệm được đưa ra trong bảng

3.5.

Theo kết quả thu được, với nồng độ ban đầu trong khoảng 20-50 mg / L, hơn

99% cả Cr (VI) và Pb (II) có thể được loại bỏ, trong khi nồng độ ban đầu trên 50 mg/L,

hiệu quả loại bỏ Pb (II) giảm nhẹ nhưng Cr (VI) giảm đáng kể, ở mức 150 mg / L. Tổng

dung lượng hấp phụ có thể đạt 106,92 mg / g, chỉ ra rằng vật liệu tổng hợp là chất hấp

40

phụ tiềm năng để loại bỏ đồng thời các dạng kim loại nặng cation và anion khỏi nước.

Bảng 3. 5. Hiệu quả loại bỏ và khả năng hấp phụ đồng thời Cr(VI) và Pb(II) của LZ3

Nồng độ ban đầu Dung lượng hấp Dung lượng hấp Hiệu suất (%) (mg/l) phụ (mg/g) phụ tổng cộng

Cr(VI) Pb(II) Cr(VI) Pb(II) Cr(VI) Pb(II) (mg/g)

20 20 99.97 99.88 10.00 9.99 19.99

50 50 99.14 99.76 24.79 24.94 49.73

80 80 93.72 99.25 37.49 39.70 77.19

100 100 86.27 96.72 43.14 48.36 91.50

41

150 150 60.25 82.31 45.19 61.73 106.92

KẾT LUẬN

Từ các kết quả nghiên cứu trong luận văn này, có thể rút ra một số kết luận như

sau:

1. Đã tổng hợp thành công vật liệu LDH-zeolite bằng phương pháp in-situ và ex-

situ và xây dựng được cơ chế cho quá trình hình thành vật liệu.

2. Đã phân tích thành phần pha, hình thái học, nhóm chức, thành phần hóa học

diện tích bề mặt của vật liệu LZ3 bằng các phương XRD, SEM, FT-IR, EDX và BET.

3. Đã đánh giá được sự ảnh hưởng của phương pháp tổng hợp và tỉ lệ LDH/zeolite

đến khả năng hấp phụ Cr(VI) và Pb(II) của vật liệu thu được. Vật liệu LZ3 tổng hợp

bằng phương pháp in-situ với hàm lượng LDH bằng 30% cho hiệu suất loại bỏ Cr(VI)

và Pb(II) cao nhất.

4. Đã nghiên cứu động học và đường đẳng của quá trình hấp phụ Cr(VI) và Pb(II)

trên LZ3. Mô hình động học bậc 2 và mô hình Sips phù hợp nhất cho việc mô tả quá

trình hấp phụ.

5. Đã đánh giá được khả năng hấp phụ đồng thời Cr(VI) và Pb(II) trên vật liệu

LZ3. Vật liệu này có khả năng loại bỏ 99% kim loại năng ở nồng độ từ 10-50 mg/l và

42

có dung lượng hấp phụ tổng cộng khá lớn, đạt 106.92 mg/g.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ambrozova, P.; Kynicky, J.; Urubek, T.; Nguyen, V.D. Synthesis and

modification of Clinoptilolite. Molecules 2017, 22, 1107.

2. Barrer, R.M.; Makki, M.B. MOLECULAR SIEVE SORBENTS FROM

CLINOPTILOLITE. CanJChem 1964, 42, 1481–1487.

3. Polat, E.; Karaca, M.; Demir, H.; Onus, A.N. Use of natural zeolite

(clinoptilolite) in agriculture. J. Fruit Ornam. Plant Reserarch 2004, 12, 183–

189.

4. Zieliński, M.; Zielińska, M.; Dębowski, M. Ammonium removal on zeolite

modified by ultrasound. Desalin. Water Treat. 2016, 57, 8748–8753.

5. Misaelides, P. Application of natural zeolites in environmental remediation: A

short review. Microporous Mesoporous Mater. 2011, 144, 15–18.

6. Weitkamp, J.; Puppe, L. Catalysis and Zeolites Fundamentals and Applications;

1999; ISBN 9783642083471.

7. Gogos, A.; Knauer, K.; Bucheli, T.D. Nanomaterials in Plant Protection and

Fertilization: Current State, Foreseen Applications, and Research Priorities. J.

Agric. Food Chem. 2012, 60, 9781–9792.

8. Goh, K.H.; Lim, T.T.; Dong, Z. Application of layered double hydroxides for

removal of oxyanions: A review. Water Res. 2008, 42, 1343–1368.

9. Kanezaki, E. Preparation of layered double hydroxides. Interface Sci. Technol.

2004, 1, 345–373.

10. Zou, Y.; Wang, X.; Wu, F.; Yu, S.; Hu, Y.; Song, W.; Liu, Y.; Wang, H.; Hayat,

T.; Wang, X. Controllable Synthesis of Ca-Mg-Al Layered Double Hydroxides

and Calcined Layered Double Oxides for the Efficient Removal of U(VI) from

Wastewater Solutions. ACS Sustain. Chem. Eng. 2017, 5, 1173–1185.

11. Kerger, B.D.; Paustenbach, D.J.; Corbett, G.E.; Finley, B.L. Absorption and

I

elimination of trivalent and hexavalent chromium in humans following

ingestion of a bolus dose in drinking water. Toxicol. Appl. Pharmacol. 1996,

141, 145–158.

12. Zhitkovich, A. Importance of chromium− DNA adducts in mutagenicity and

toxicity of chromium (VI). Chem. Res. Toxicol. 2005, 18, 3–11.

13. M, C. Toxicity and carcinogenicity of Cr(VI) in animal models and humans.

Crit. Rev. Toxicol. 1997, 27, 431–442.

14. Freedman, R.; Olson, L.; Hoffer, B.J. Toxic effects of lead on neuronal

development and function. Environ. Health Perspect. 1990, 89, 27.

15. Barrera-Díaz, C.E.; Lugo-Lugo, V.; Bilyeu, B. A review of chemical,

electrochemical and biological methods for aqueous Cr(VI) reduction. J.

Hazard. Mater. 2012, 223–224, 1–12.

16. Ćurković, L.; Cerjan-Stefanović, Š.; Filipan, T. Metal ion exchange by natural

and modified zeolites. Water Res. 1997, 31, 1379–1382.

17. Bazrafshan, E.; Mohammadi, L.; Ansari-Moghaddam, A.; Mahvi, A.H. Heavy

metals removal from aqueous environments by electrocoagulation process - A

systematic review. J. Environ. Heal. Sci. Eng. 2015, 13.

18. Mahar, A.; Wang, P.; Ali, A.; Awasthi, M.K.; Lahori, A.H.; Wang, Q.; Li, R.;

Zhang, Z. Challenges and opportunities in the phytoremediation of heavy metals

contaminated soils: A review. Ecotoxicol. Environ. Saf. 2016, 126, 111–121.

19. Shi, W. yu; Shao, H. bo; Li, H.; Shao, M. an; Du, S. Progress in the remediation

of hazardous heavy metal-polluted soils by natural zeolite. J. Hazard. Mater.

2009, 170, 1–6.

20. Querol, X.; Alastuey, A.; Moreno, N.; Alvarez-Ayuso, E.; García-Sánchez, A.;

Cama, J.; Ayora, C.; Simón, M. Immobilization of heavy metals in polluted

soils by the addition of zeolitic material synthesized from coal fly ash.

Chemosphere 2006, 62, 171–180.

II

21. Leggo, P.J.; Ledésert, B.; Christie, G. The role of clinoptilolite in organo-

zeolitic-soil systems used for phytoremediation. Sci. Total Environ. 2006, 363,

1–10.

22. Li, H.; Shi, W.; Shao, H.; Shao, M. The remediation of the lead-polluted garden

soil by natural zeolite. J. Hazard. Mater. 2009, 169, 1106–1111.

23. Li, Z.; Wang, L.; Meng, J.; Liu, X.; Xu, J.; Wang, F.; Brookes, P. Zeolite-

supported nanoscale zero-valent iron: New findings on simultaneous adsorption

of Cd(II), Pb(II), and As(III) in aqueous solution and soil. J. Hazard. Mater.

2018, 344, 1–11.

24. Goswamee, R.L.; Sengupta, P.; Bhattacharyya, K.G.; Dutta, D.K. Adsorption of

Cr(VI) in layered double hydroxides. Appl. Clay Sci. 1998, 13, 21–34.

25. Yu, X.Y.; Luo, T.; Jia, Y.; Xu, R.X.; Gao, C.; Zhang, Y.X.; Liu, J.H.; Huang,

X.J. Three-dimensional hierarchical flower-like Mg-Al-layered double

hydroxides: Highly efficient adsorbents for As(v) and Cr(vi) removal.

Nanoscale 2012, 4, 3466–3474.

26. Chao, H.P.; Wang, Y.C.; Tran, H.N. Removal of hexavalent chromium from

groundwater by Mg/Al-layered double hydroxides using characteristics of in-

situ synthesis. Environ. Pollut. 2018, 243, 620–629.

27. Chen, S.; Huang, Y.; Han, X.; Wu, Z.; Lai, C.; Wang, J.; Deng, Q.; Zeng, Z.;

Deng, S. Simultaneous and efficient removal of Cr(VI) and methyl orange on

LDHs decorated porous carbons. Chem. Eng. J. 2018, 352, 306–315.

28. Acharya, R.; Naik, B.; Parida, K.M. Adsorption of Cr (VI) and Textile Dyes on

to Mesoporous Silica, Titanate Nanotubes, and Layered Double Hydroxides. In

Nanomaterials in the Wet Processing of Textiles; 2018; pp. 219–260 ISBN

9781119459804.

29. Lee, S.H.; Tanaka, M.; Takahashi, Y.; Kim, K.W. Enhanced adsorption of

arsenate and antimonate by calcined Mg/Al layered double hydroxide:

Investigation of comparative adsorption mechanism by surface characterization.

III

Chemosphere 2018, 211, 903–911.

30. Kang, D.; Yu, X.; Tong, S.; Ge, M.; Zuo, J.; Cao, C.; Song, W. Performance

and mechanism of Mg/Fe layered double hydroxides for fluoride and arsenate

removal from aqueous solution. Chem. Eng. J. 2013, 228, 731–740.

31. Guo, Y.; Zhu, Z.; Qiu, Y.; Zhao, J. Adsorption of arsenate on Cu/Mg/Fe/La

layered double hydroxide from aqueous solutions. J. Hazard. Mater. 2012, 239–

240, 279–288.

32. Wu, X.; Tan, X.; Yang, S.; Wen, T.; Guo, H.; Wang, X.; Xu, A. Coexistence of

adsorption and coagulation processes of both arsenate and NOM from

contaminated groundwater by nanocrystallined Mg/Al layered double

hydroxides. Water Res. 2013, 47, 4159–4168.

33. Xu, Y.; Dai, Y.; Zhou, J.; Xu, Z.P.; Qian, G.; Lu, G.Q.M. Removal efficiency of

arsenate and phosphate from aqueous solution using layered double hydroxide

materials: Intercalation vs. precipitation. J. Mater. Chem. 2010, 20, 4684–4691.

34. Hibino, T. HYBRID ADSORBENTS MADE OF ZEOLITES AND LAYERED

DOUBLE HYDROXIDES : INTERACTIONS BETWEEN COMPONENTS

Researt : h ( Solution ( Cavani Preparation ofIrybrid A-4 ( Wako for

delaminating LDHs ( Adachi- ( Hibino. Clay Sci. 2013, 17, 57–66.

35. Zhang, X.; Lei, Y.; Yuan, Y.; Gao, J.; Jiang, Y.; Xu, Z.; Zhao, S. Enhanced

removal performance of Cr(VI) by the core-shell zeolites/layered double

hydroxides (LDHs) synthesized from different metal compounds in constructed

rapid infiltration systems. Environ. Sci. Pollut. Res. 2018, 25, 9759–9770.

36. Pham, T.M.H.; Tran, H.C.; Le, T.P.Q. Synthesis of zeolites from Tay Nguyen

red mud and test of their adsorption ability. J. Vietnamese Environ. 2018, 9, 32–

37.

37. Nhat Ha, H.N.; Kim Phuong, N.T.; Boi An, T.; Mai Tho, N.T.; Ngoc Thang, T.;

Quang Minh, B.; Van Du, C. Arsenate removal by layered double hydroxides

embedded into spherical polymer beads: Batch and column studies. J. Environ.

IV

Sci. Heal. - Part A Toxic/Hazardous Subst. Environ. Eng. 2016, 51, 403–413.

38. Nguyễn, X.H.; Nguyễn, N.M.; Kireycheva, L.V.; Phạm, A.H.; Phan, Đ.P.; Vũ,

T.H.H.; Dương, K. Nghiên cứu tổng hợp zeolit từ điatomit làm vật liệu hấp phụ

kim loại nặng (Pb và Cd). Tạp chí Khoa học ĐHQGHN 2011, 27, 171–178.

39. Trương, T.C.T.; Takaomi, K.; Nguyễn, T.Q. Nghiên cứu tổng hợp màng

Chitosan/Zeolite và khảo sát khả năng loại bỏ các kim loại nặng trong nước của

màng. Sci. Technol. Dev. 2016, 19.

40. West, A. SOLID STATE CHEMISTRY AND ITS APPLICATIONS.; 1984; ISBN

0471903779.

41. Yamada, H.; Watanabe, Y.; Hashimoto, T.; Tamura, K.; Ikoma, T.; Yokoyama,

S.; Tanaka, J.; Moriyoshi, Y. Synthesis and characterization of Linde A zeolite

coated with a layered double hydoxide. J. Eur. Ceram. Soc. 2006, 26, 463–467.

42. Triệu, N. Các phương pháp phân tích vật lý và hóa lýtập 1. Nhà xuất bản Khoa

học và Kỹ thuật 2001.

43. Phạm, L. Phương pháp phân tích phổ nguyên tử. 2006.

44. Welz, B. Atomic absorption spectroscopy. 1976.

45. Wang, X.S.; He, L.; Hu, H.Q.; Wang, J. Effect of temperature on the Pb (II)

removal from single aqueous solutions by a locally natural mordenite:

Equilibrium and kinetic modeling. Sep. Sci. Technol. 2008, 43, 908–922.

46. Turkyilmaz, H.; Kartal, T.; Yildiz, S.Y. Optimization of lead adsorption of

mordenite by response surface methodology: Characterization and modification.

J. Environ. Heal. Sci. Eng. 2014, 12, 1–9.

47. Olfs, H.W.; Torres-Dorante, L.O.; Eckelt, R.; Kosslick, H. Comparison of

different synthesis routes for Mg-Al layered double hydroxides (LDH):

Characterization of the structural phases and anion exchange properties. Appl.

Clay Sci. 2009, 43, 459–464.

48. Kowalczyk, P.; Sprynskyy, M.; Terzyk, A.P.; Lebedynets, M.; Namieśnik, J.;

V

Buszewski, B. Porous structure of natural and modified clinoptilolites. J.

Colloid Interface Sci. 2006, 297, 77–85.

49. Rouquerol, J.; Llewellyn, P.; Rouquerol, F. Is the bet equation applicable to

microporous adsorbents? 2007, 2991, 49–56.

50. Lagergren, S.; Lagergren, S.; Lagergren, S.Y.; Sven, K. Zurtheorie der

sogenannten adsorption gelösterstoffe. K. Sven. Vetenskapsakad 1898,

Handlingar, 1–39.

51. Simonin, J.P. On the comparison of pseudo-first order and pseudo-second order

rate laws in the modeling of adsorption kinetics. Chem. Eng. J. 2016, 300, 254–

263.

52. Ys, H.; Mckay, G.; Ys, H.; Mckay, G. Pseudo-second order model for sorption

processes. Process Biochem 1999, 34, 451–465.

53. Aharoni, C.; Tompkins, F.C. Kinetics of adsorption and desorption and the

Elovich equation. Adv. Catal. 1970, 21, 1–49.

54. Bulgariu, L.; Escudero, L.B.; Bello, O.S.; Iqbal, M.; Nisar, J.; Adegoke, K.A.;

Alakhras, F.; Kornaros, M.; Anastopoulos, I. The utilization of leaf-based

adsorbents for dyes removal: A review. J. Mol. Liq. 2019, 276, 728–747.

55. Wan, S.; Wang, S.; Li, Y.; Gao, B. Functionalizing biochar with Mg–Al and

Mg–Fe layered double hydroxides for removal of phosphate from aqueous

solutions. J. Ind. Eng. Chem. 2017, 47, 246–253.

56. Limousin, G.; Gaudet, J.-P.; Charlet, L.; Szenknect, S.; Barthes, V.; Krimissa,

M. Sorption isotherms: a review on physical bases, modeling and measurement.

Appl. geochemistry 2007, 22, 249–275.

57. Langmuir, I. The adsorption of gases on plane surfaces of glass, mica and

platinum. J. Am. Chem. Soc. 1918, 40, 1361–1403.

58. Freundlich, H. Kapillarchemie, eine Darstellung der Chemie der Kolloide und

verwandter Gebiete; Akademische Verlagsgesellschaft, 1922;

VI

59. Temkin, M.I. Kinetics of ammonia synthesis on promoted iron catalysts. Acta

VII

physiochim. URSS 1940, 12, 327–356.