Đề bài: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng "li khách" trong bài thơ Tống biệt hành <br />
của Thâm Tâm<br />
Bài làm<br />
Biệt li là đề tài xuất hiện khá nhiều trong thơ ca nói chung và trong thơ Thâm Tâm nói <br />
riêng. Đọc thơ ông ta thường gặp những từ như "lưu biệt", "chia li", "li ca"... Trong cảnh <br />
biệt li, thường có người ra đi và người đưa tiễn. Bài Tống biệt hành của Thâm Tâm <br />
không phải là một ngoại lệ. Có điều, từ đầu chí cuối bài thơ, nhân vật "li khách" người <br />
ra đi không trực tiếp xuất hiện, không bộc lộ điều gì; tác giả dùng phép "Tả chủ hình <br />
khách", dường như ông chỉ thể hiện những cảm xúc và suy nghĩ của người đưa tiễn. <br />
Nhưng qua đó, ta thấy hiện lên rất rõ hình ảnh cao cả của "li khách với vẻ đẹp đầy nhân <br />
tình, đầy tinh thần nhân bản, trong cuộc chia li bi phẫn.”<br />
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt<br />
Bốn câu mở đầu, Thâm Tâm đặc tả nỗi lòng xao xuyến, tái tê cùa người đưa tiễn (ta) <br />
bằng những hình ảnh đầy gợi cảm, với một nhịp điệu chậm rãi và trĩu nặng suy tư:<br />
Đưa người ta không đưa qua sông,<br />
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?<br />
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,<br />
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?<br />
Không gian và thời gian của cuộc tiễn đưa này thực ra rất mơ hồ: chẳng có dòng sông, mà <br />
cũng chẳng có bóng chiều tươi thắm, hay vội vàng. Nhà thơ nói đến những cái không có. <br />
Nhưng, sông nước, con đò, tiếng sóng, bóng chiều... là những hình ảnh đã xuất hiện <br />
không ít trong thơ Phương Đông và đã đi vào tiềm thức của bao người đọc. Bởi vậy, đoạn <br />
thơ nói cái không có, mà dường như lại khắc họa được cái có, tạo nên một trường liên <br />
tưởng thật gợi cảm: người ra đi và người đưa tiễn tựa hồ đã đến bến sông, dù không <br />
muốn rời nhau, nhưng họ đành phải chia tay vào lúc hoàng hồn sắp buông xuống... Ngoài <br />
ra, từ nhan đề của bài thơ đến giọng điệu và những hình ảnh của đoạn thơ trên phải <br />
chăng có tác dụng như một điển cố, khiến người đọc nhớ đến nhân vật Kinh Kha trong <br />
Sử kí của Tư Mã Thiên nói về cuộc tiễn biệt bên sông Dịch Thủy trước khi người tráng sĩ <br />
đi sang đất Tấn? Điều ấy còn góp phần quan trọng tạo không khí có bi hùng, làm nền cho <br />
những hình ảnh xưa, những chữ có xuất hiện một cách tự nhiên, một cách nhất quán ở <br />
những đoạn thơ tiếp theo.<br />
Nói cho cùng, cảnh vật trên đã được "nhìn" qua tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của <br />
con người. Chính vì xao xuyến nên cho dù không đưa bạn qua sông, nhưng người đưa tiễn <br />
vẫn thấy "sóng ở trong lòng", vẫn thấy bóng hoàng hôn ngập tràn trong ánh mắt. Người <br />
đọc có lần đã bắt gặp hình ảnh "sóng tình", "sóng lòng" trong thơ của Nguyễn Du của <br />
Nam Trần... Tuy vậy đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung đã nhận xét: cách <br />
nói của Thâm Tâm ở đây kín đáo và dư ba hơn. Thêm nữa nhờ sự phối hợp bằng trắc (câu <br />
đầu gồm toàn thanh bằng, câu thứ hai có luôn ba thanh trắc rất gắt ("có tiếng sóng"), câu <br />
thứ tư trừ chữ "mắt" còn tất cả đều thanh bằng) nhờ cách điệp câu hỏi tu từ và cách điệp <br />
âm ("sao có" "sao đầy"; "đưa người" "đưa qua sông"; "trong mắt trong"), Thâm Tâm tạo <br />
ra được giọng điệu riêng, vừa thiết tha tràn đầy xúc cảm, vừa rắn rỏi hiên ngang. Giọng <br />
điệu này chính là chủ âm, chi phối toàn bộ bài thơ, góp phần tạo nên nét hấp dẫn độc đáo <br />
của Tống biệt hành.<br />
Đoan thơ tiếp theo:<br />
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy<br />
Một giã gia đình một dửng dưng...<br />
Li khách! Li khách! con đường nhỏ.<br />
Chí nhớn chưa về bàn tay không?<br />
Thì không bao giờ nói trở lại.<br />
Ba năm mẹ già cũng đừng mong<br />
Giúp người đọc hiểu rõ hơn cốt cách của người ra đi. Trong cuộc tiễn biệt này, người <br />
tiễn chỉ biết có người đi. Điều này nói rõ ý nghĩa thiêng liêng của cuộc ra đi và mối quan <br />
hệ gắn bó thân thiết giữa hai người. Người tiễn hiểu rất rõ không thể lay chuyển chí <br />
hướng sắt đá của "li khách". Bởi lẽ, "li khách" không phải là kẻ bình thường mà là người <br />
lãng mạn có dáng dấp trượng phu "dứt áo ra đi", quyết "một đi không trở về", tựa hồ như <br />
"chàng tuổi trẻ" "xếp bút nghiên", hùng dũng sẵn sàng ra chiến trường lấy da ngựa bọc <br />
thây trong Chinh phụ ngâm, hay những khách chinh phụ ra đi "không vương thê nhi" xuất <br />
hiện khá nhiều trong thơ ca lãng mạn đương thời, khi các thi sĩ có khuynh hướng trở về <br />
cội nguồn, trở về quá khứ. Anh quyết ra đi không vì khúc mắc với gia đình hay vì miếng <br />
cơm manh áo, mà bởi vì không chấp nhận cuộc sống tù túng, tầm thường; ra đi để thực <br />
hiện "chí nhớn". Do đó bất chấp mọi sự đau xót, đắng cay... Dựa trên câu chữ của bài thơ, <br />
có lẽ chưa hoàn toàn có đủ cơ sở để khẳng định người ra đi là "chiến sĩ cách mạng lên <br />
đường tranh đấu" (Mặc dù mỗi nhà văn lão thành đã khẳng định: Thâm Tâm làm bài thơ <br />
này để tiễn bạn lên chiến khu Việt Bắc năm 1941). Phải chăng người ra đi chỉ nên hiểu là <br />
một con người cao cả, mang "chí nhớn'' Có nghĩa là mang "tình thần siêu việt muôn thuở <br />
của con người" theo cách diễn đạt của Hoàng Ngọc Hiến? Cách hiểu này khiến cho hình <br />
ảnh của "li khách" có tính phổ quát toàn nhân loại, (mà cũng không làm giảm mất tính <br />
khuynh hướng cụ thể của thi phẩm).<br />
Do thái độ quyết liệt, lạnh lùng của người ra đi với quyết tâm không trở về nếu "chí <br />
nhớn" chưa thành đã khiến cuộc tiễn đưa mang màu sắc vĩnh biệt, giống như cuộc tiễn <br />
đưa Kinh Kha vào đất Tấn vậy.<br />
Li khách! Li khách! Con dường nhỏ<br />
Câu thơ vang lên như một tiếng kêu não ruột Người tiễn hiểu thấu trắc trở, gian truân <br />
của người ra đi ("con đường nhỏ"), và cũng không giấu nổi niềm cảm phục, xót thương. <br />
Nhưng cũng như "Li khách", người đưa tiễn xót thương mà vẫn bình thản, đàng hoàng. <br />
Thì ra, người đi và người tiễn đều chung một chí hướng... Có thể còn một chút "lên gân", <br />
một chút "yêng hùng", đến nay ít nhiều đã trở thành xưa cũ, nhưng cách đây hơn nửa thế <br />
kỷ, cốt cách nói trên của người "li khách" vẫn có sức hấp dẫn lớn lao, khích lệ bao thế hệ <br />
vượt qua những níu giữ thường tình, lên đường vì nghĩa lớn, để cuộc đời mình từ chỗ <br />
nhạt nhoà vô nghĩa có cơ hội cháy sáng huy hoàng. Và nếu đặt bài thơ này vào những năm <br />
đầu sôi sục của thập kỷ 40, người đọc không thể không ít nhiều nhận thấy tình cảm của <br />
Thâm Tâm trước hiện thực đầy biến động của đất nước. Tính chất thời sự này, tác giả <br />
còn nói rõ hơn với niềm lạc quan ở một số bài thơ khác như Tráng ca hay Vọng nhân hành <br />
(Sông Hồng chàng phái xưa sông Dịch Ta ghét hoài câu "nhất khứ hề").<br />
Sao có tiếng sóng ở trong lòng<br />
Những câu còn lại của bài thơ vẫn là suy nghĩ, là xúc cảm của người đi tiễn sau khi chia <br />
biệt, khắc họa đậm nét một phương diện tính cách khác của người ra đi. Người tiễn biết <br />
rất rõ bên trong cái vẻ hùng dũng và khẩu khí ngang tàng "một giã gia đình một dửng <br />
dưng" kia, "li khách" còn có một nỗi buồn dai dẳng, triền miên.<br />
Ta biết người buồn chiều hôm trước ... Ta biết người buồn sảng hôm nay.<br />
Thì ra con tim cùa "li khách" thật mềm yếu, thật cô đơn! Ra đi, anh bỏ lại mẹ già, hai chị <br />
héo mòn và đứa em ngây thơ những người đang cần đến anh như một chỗ dựa. Hai chị <br />
khóc đến cạn nước mắt "khuyên nốt em trai dòng lệ sót" nhưng vẫn không níu được <br />
bước chân em, dẫu trong lòng em cũng tràn ngập nỗi buồn đau:<br />
Ta biết người buồn sáng hôm nay:<br />
Giời chưa mùa thu. tươi lắm thay<br />
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc<br />
Gói tròn thương tiếc chiếc khàn tay...<br />
Trời tươi thắm, đứa em nhỏ e ấp trao cho anh vật kỷ niệm trước giờ li biệt, với bao niềm <br />
thương nỗi nhớ...<br />
Như vậy, bằng cách phác họa gia cảnh éo le, bằng cách miêu tả tình cảm nhớ thương đến <br />
tội nghiệp của những người ở lại, Thâm Tâm muốn tô đậm tâm trạng quyến luyến xót xa <br />
đi đôi với chí khí sắt đá của người “li khách". Ở hai khổ thơ vừa phân tích có những câu <br />
tưởng như tả thời tiết thuần túy, thiếu gắn bó với mạch thơ đang nói về tâm trạng. <br />
Nhưng thực ra, đây là những câu thơ đột biến tạo thêm bình diện cho bài thơ và người <br />
đọc thích thú thấy những biến hóa nội tâm. Biến hóa mà không rối vì chi tiết đột biến ấy <br />
đã phát triển và đồng hóa vào bài "Mùa hạ sen nở nốt" đã dẫn đến "Một chị, hai chị cũng <br />
như sen" và vì nở nốt mới gợi tới "dòng lệ sót". Ở đoạn dưới cũng vậy "Giời chưa mùa <br />
thu" tạo ấn tượng ngây thơ "đôi mắt biếc" của đứa em<br />
Như trên đã nói, cuộc tiễn đưa này thật là thiêng liêng, có màu sắc vĩnh biệt. Bởi thế, đền <br />
phút chót, khi "li khách" lên đường; người tiễn tuy đã được chuẩn bị về mặt tâm lý, tuy <br />
vẫn đồng tình với người ra đi vẫn giật mình, bàng hoàng, không muốn tin vào sự thật đau <br />
lòng. Câu thơ giống như một lời độc thoại, một câu nói thầm thể hiện tài tình tâm trạng <br />
ấy:<br />
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!<br />
Cuối cùng là những câu man mác buồn, giọng thơ lắng xuống, lần lượt nói về những <br />
người thân ở lại:<br />
Mẹ thà coi như chiếc lá bay.<br />
Chị thà coi như là hạt bụi,<br />
Em thà coi như hơi rượu say.<br />
Đến đây, bài thơ rõ ràng đã thành một chỉnh thể, nếu thêm bất cứ một câu nào nữa chắc <br />
sẽ làm cho nó mất đi sự hàm súc Nhà văn Bùi Hiển có lí khi ông khẳng định ở những câu <br />
thơ nói trên, Thâm Tâm đã có dụng ý sử dụng liên tiếp ba hình ảnh động: chiếc lá bay, hạt <br />
bụi càng bay mạnh và hơi rượu tất nhiên luôn khuyếch tán. Những hình ảnh động này có <br />
lẽ không để diễn tả cuộc sống của những con người ở nhà với cuộc đời tĩnh lặng tù túng <br />
mà phải để chỉ người ra đi sắp dấn thân vào nơi sống gió với biết bao biến động, trắc <br />
trở? Từ đó có lẽ ta nên hiểu đây chính là lời của người đưa tiễn "nói hộ" "li khách": thôi <br />
thì, mẹ hãy coi con như chiếc lá bay; hai chị hãy coi em như hạt bụi lơ lửng giữa trời; em <br />
hãy coi anh như giọt rượu bốc thành hơi! Như vậy, phải chăng từ "thà" ở đây được sử <br />
dụng như những từ "thôi đành", "thôi thì" – vốn là những tổ hợp thường dùng để mở đầu <br />
một lời kết thúc biểu thị cái điều mà người trong cuộc đành phải chấp nhận, vì không còn <br />
cách nào khác. Tiếp theo từ "thà" mạnh mẽ là những hình ảnh mềm mại, nhẹ nhàng. <br />
Ngoài ra, bằng cách dùng từ "thà" và phép điệp từ, điệp cấu trúc câu, Thâm Tâm vừa gây <br />
được ấn tượng quyết liệt thể hiện nhất quán thái độ gạt tình riêng vì "chí nhớn" vừa tạo <br />
nên sự tương phản, để thể hiện tinh tế tâm trạng giằng xé của "người ra đi dẫu không <br />
ngoảng lại" (Nguyễn Đình Thi).<br />
Ngoài ra, trong bài thơ này, bên cạnh những câu thơ êm ái, dịu dàng kết quả của nghệ <br />
thuật phối thanh, của cách gieo vần và của lối điệp:<br />
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong<br />
Em nhỏ ngày thơ đôi mắt biếc<br />
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay<br />
Là những câu thơ rất gắt tựa như câu nói của người đang uất ức, đọc lên tỏ rằng có sự <br />
hụt hẫng (khác xa với phần nhiều những câu thơ uyển chuyển giàu chất âm nhạc và hội <br />
họa của phong trào Thơ mới):<br />
Chí nhớn chưa về bàn tay không<br />
Thì không bao già nói trở lại<br />
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.<br />
Phải chăng, bằng cách sử dụng luân phiên những câu thơ có giọng điệu đối lập nhau này. <br />
Tác giá có dụng ý "tạo nên những chu kỳ âm hưởng, đáp ứng tứ thơ", khác họa hai <br />
phương diện trong tính cách của "li khách" như đã nói ở trên?<br />
Bằng Tống biệt hành, Thâm Tâm đã đem đến cho kho tàng thơ Việt Nam một tác phẩm <br />
độc đáo làm "sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ Cổ", nhưng vẫn "đượm chút <br />
bâng khuâng khó hiểu của thời đại" (Hoài Thanh) với những hình ảnh, thi tứ, giọng điệu... <br />
thật mới mẻ, hấp dẫn. Bài thơ thể hiện một cách tài tình về đẹp của "li khách" "của con <br />
người cao cà trong toàn bộ sự biểu hiện chân thật của nhân tình, đẩy tinh thần nhân đạo”<br />