intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phẫu thuật cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực điều trị đau do bệnh tụy

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

57
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhóm nghiên cứu thực hiện phẫu thuật cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực (thoracoscopic splanchnicectomy) để đánh giá hiệu quả và độ antoàn của phẫu thuật cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực trong điều trị đau do bệnh lý tụy.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phẫu thuật cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực điều trị đau do bệnh tụy

Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> <br /> PHẪU THUẬT CẮT THẦN KINH TẠNG QUA NỘI SOI LỒNG NGỰC<br /> ĐIỀU TRỊ ĐAU DO BỆNH TỤY<br /> Bùi An Thọ*, Đoàn Tiến Mỹ*, Nguyễn Tấn Cường**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Đặt vấn đề: Trong nhiều trường hợp bệnh lý tụy như ung thư tụy giai đoạn cuối, viêm tụy mạn, bệnh<br /> nhân khổ sở, suy nhược vì triệu chứng đau bụng. Có rất nhiều phương pháp giúp kiểm soát tình trạng đau này,<br /> từ việc dùng thuốc giảm đau đơn thuần cho đến các phương pháp xâm nhập như phong bế đám rối tạng và các<br /> phương pháp phẫu thuật. Một phương pháp mới trong hơn một thập niên gần đây trên thế giới, để cắt cơn đau<br /> tụy là phẫu thuật cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực (thoracoscopic splanchnicectomy), bước đầu đã cho<br /> thấy có hiệu quả giảm đau tốt, ít biến chứng. Chúng tôi thực hiện phẫu thuật này để đánh giá hiệu quả và độ an<br /> toàn của phẫu thuật cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực trong điều trị đau do bệnh lý tụy.<br /> Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, tất cả những bệnh nhân được mổ<br /> trong thời gian 5/2004 – 2/2011. Đánh giá mức độ đau chủ quan của bệnh nhân được dựa trên thang điểm đau<br /> quan sát (VAS: Visual Analogue Scale). Ghi nhận các tai biến và tử vong liên quan đến phẫu thuật, thời gian mổ,<br /> và thời gian nằm viện. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 17.0 for Windows.<br /> Kết quả: Từ tháng 5-2004 đến tháng 2-2011, 50 bệnh nhân với 36 ung thư tụy và 14 viêm tụy mạn đau<br /> bụng nhiều do ung thư tụy không cắt được hoặc do viêm tụy mạn. 48 trường hợp cắt thần kinh tạng qua nội soi<br /> lồng ngực 2 bên, 2 trường hợp cắt 1 bên, tất cả đều thành công, không có tử vong trong mổ liên quan đến phẫu<br /> thuật. Thời gian mổ trung bình là 117,58 ± 40,35 phút (từ 70 -270 phút). Mức độ đau trung bình của bệnh nhân<br /> trước mổ là 7,98 ± 1,48 (từ 6-10), sau mổ tình trạng đau giảm với p < 0,005. Thời gian nằm viện sau mổ trung<br /> bình là 5,06 ± 2,94 ngày (1-13 ngày).<br /> Kết luận: Phẫu thuật cắt thần kinh tạng qua soi lồng ngực an toàn và có hiệu quả giảm đau rõ rệt trên các<br /> bệnh nhân ung thư tụy giai đoạn cuối và viêm tụy mạn. Phẫu thuật này giúp bệnh nhân ngưng được thuốc<br /> giảm đau, tránh được các tác dụng phụ của thuốc, cho phép bệnh nhân sinh hoạt tương đối bình thường vào<br /> những ngày cuối đời. Hiệu quả giảm đau này là quan trọng vì tiên lượng sống của bệnh nhân ung thư tụy giai<br /> đoạn cuối rất ngắn. Hiệu quả giảm đau rõ rệt và bền vững đối với các bệnh nhân viêm tụy mạn tính.<br /> Từ khóa: Cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực, bệnh tụy.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> BILATERAL THORACOSCOPIC SPLANCHNICECTOMY FOR CONTROL OF INTRACTABLE PAIN<br /> DUE TO ADVANCED PANCREATIC CANCER AND CHRONIC PANCREATITIS<br /> Bui An Tho, Nguyen Tan Cuong, Doan Tien My<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 40 - 46<br /> Background: Intractable pain is the most distressing symptom in patients suffering from unresectable<br /> pancreatic cancer and chronic pancreatitis. Bilateral thoracoscopic splanchnicectomy (BTS) is a new method in<br /> the past decade for pancreatic pain control. The purpose of this study was to evaluate the effects and safety of BTS<br /> <br /> <br /> BS, Khoa Ngoại Gan Mật Tụy, Bệnh viện Chợ Rẫy<br /> Bộ môn Ngoại, Đại học Y Dược TPHCM<br /> Tác giả liên lạc: BS. Bùi An Thọ.<br /> ĐT: 0913634862<br /> <br /> <br /> 40<br /> <br /> E-mail: bstho402@yahoo.com.<br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Khoa<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> for control of intractable pancreatic pain. We would like to present this new method that has been implemented in<br /> our department of Hepato-biliary & Pancreatic Surgery at Cho Ray hospital, Vietnam.<br /> Methods: Between May 2004 and February 2011, 50 patients, consitst of 36 pancreatic cancers (23 men, 13<br /> women) and 14 chronic pancreatitis (14 men) suffering from intractable pain due to unresectable carcinoma of the<br /> pancreas or chronic pancreatitis underwent 48 BTS and 2 left thoracoscopic splanchnicectomy. Subjective<br /> evaluation of pain was measured before and after the procedure by a visual analogue score (VAS). The following<br /> parameters were also evaluated: procedure-related morbidity and mortality, operative time, and length of hospital<br /> stay.<br /> Results: The mean operative time was 117.58 ± 40.35 mins (range 70 - 270 mins). The mean value of<br /> preoperative pain intensity reported by patients on VAS was 7.98 ± 1.48 (range 6–10). Postoperatively, pain was<br /> totally relieved in all patient, statistically significant at the level of p < 0.005. There was no procedural mortality.<br /> The mean of postoperative hospital stay was 5.06 ± 2.94 days (range, 1–13).<br /> Conclusions: Bilateral thoracoscopic splanchnicectomy is safe and significant effective in pain control of<br /> advanced pancreatic cancer and chronic pancreatitis patients. This surgery helps patients less depended on<br /> analgesic, avoiding the side effects of drugs, allowing patients living relatively normal in these last days. The<br /> effective in pain relief is important because the prognosis of patients living with advanced pancreatic cancer is<br /> very short. The effective of pain relief is significant and sustained for patients with chronic pancreatitis.<br /> Key words: Thoracoscopic splanchnicectomy, pancreatitis.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Trong nhiều trường hợp bệnh lý tụy như<br /> ung thư tụy giai đoạn cuối, viêm tụy mạn, bệnh<br /> nhân khổ sở, suy nhược vì triệu chứng đau<br /> bụng. Có rất nhiều phương pháp giúp kiểm soát<br /> tình trạng đau này, từ việc dùng men tụy(9,4),<br /> thuốc giảm đau đơn thuần hay các loại có tính<br /> gây nghiện, cho đến các phương pháp xâm<br /> nhập như phong bế đám rối tạng và các phương<br /> pháp phẫu thuật như cắt hạch thân tạng, mở<br /> ngực cắt thần kinh tạng v.v…. Một phương<br /> pháp mới trong hơn một thập niên gần đây trên<br /> thế giới, để cắt cơn đau tụy là phẫu thuật cắt<br /> thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực<br /> (thoracoscopic splanchnicectomy), bước đầu đã<br /> cho thấy có hiệu quả giảm đau tốt, ít biến<br /> chứng, giúp bệnh nhân bớt lệ thuộc thuốc giảm<br /> đau, cải thiện chất lượng sống và sớm đưa<br /> người bệnh trở lại với đời sống sinh hoạt bình<br /> thường.<br /> Chúng tôi thực hiện phẫu thuật này để đánh<br /> giá hiệu quả và độ an toàn của phẫu thuật cắt<br /> thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực trong điều<br /> trị đau do bệnh lý tụy.<br /> <br /> Ngoại Tổng Quát<br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN<br /> CỨU<br /> Nghiên cứu cắt ngang mô tả, với tiêu chuẩn<br /> chọn là tất cả những bệnh nhân được mổ trong<br /> thời gian 5/2004 – 2/2011 với chẩn đoán ung thư<br /> tụy quá chỉ định mổ triệt để hay viêm tụy mạn,<br /> có triệu chứng đau bụng nhiều và đồng ý<br /> phẫu thuật.<br /> Đánh giá mức độ đau chủ quan của bệnh<br /> nhân được dựa trên thang điểm đau hiển thị<br /> (VAS: Visual Analogue Scale).<br /> Ghi nhận các tai biến và tử vong liên quan<br /> đến phẫu thuật, thời gian mổ, và thời gian<br /> nằm viện.<br /> Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 17.0 for<br /> Windows, kiểm định ý nghĩa thống kê bằng<br /> phép kiểm Wilcoxon.<br /> <br /> Phương pháp mổ<br /> Tất cả đều được thực hiện trong tư thế nằm<br /> nghiêng từng bên dưới gây mê toàn thân.<br /> Ống nội khí quản nòng đôi (Carlene), thông<br /> khí từng bên phổi.<br /> 1 Trocar 10 mm được đặt giữa khoảng liên<br /> sườn VII đường nách trước.<br /> <br /> 41<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> Nếu có tràn khí màng phổi thì đặt dẫn lưu<br /> màng phổi, ống dẫn lưu được rút sau mổ 24 giờ,<br /> sau khi đã chụp X quang kiểm tra.<br /> Sau đó bệnh nhân được đặt nằm nghiêng về<br /> bên đối diện để cắt thần kinh tạng theo kỹ thuật<br /> tương tự.<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> Từ tháng 5/2004 đến tháng 2/2011 chúng tôi<br /> đã mổ 50 bệnh nhân với các số liệu sau:<br /> Hình 1. Tư thế bệnh nhân và vị trí đặt trocar.<br /> Bên trái<br /> <br /> Chuỗi thần kinh giao cảm ngực<br /> <br /> Bên phải<br /> <br /> 50 bệnh nhân được phẫu thuật cắt thần kinh<br /> tạng qua nội soi lồng ngực, 36 ung thư tụy: nam<br /> 63,89% (23/36), nữ 36,11% (13/36) và 14 viêm tụy<br /> mạn toàn là nam 100% (14/14).<br /> Thời gian mổ trung bình 117,58 ± 40,35 phút<br /> (từ 70 -270 phút). 48 (96%) trường hợp cắt thần<br /> kinh tạng 2 bên, 2 (4%) trường hợp chỉ cắt bên<br /> trái do dày dính màng phổi nhiều bên phải. Tất<br /> cả thực hiện hoàn toàn qua soi lồng ngực và<br /> không có tử vong do phẫu thuật gây ra.<br /> Bảng 1. Các đặc điểm giữa 2 nhóm ung thư tụy và<br /> viêm tụy mạn.<br /> <br /> Hình 2. Phẫu tích dọc thần kinh tạng lớn bên trái và<br /> bên phải, thần kinh được cắt ở thân và rễ với kéo đốt<br /> điện.<br /> 2 Trocar 5 mm được đặt giữa khoảng liên<br /> sườn IV – VIII đường nách sau.<br /> Thần kinh tạng lớn và tạng bé được xác định<br /> qua màng phổi thành.<br /> <br /> Ung thư tụy<br /> trung<br /> bình<br /> <br /> Viêm tụy mạn<br /> <br /> thấp<br /> trung<br /> cao nhất<br /> nhất<br /> bình<br /> <br /> Tuổi<br /> 59,72 33,00 80,00<br /> (năm)<br /> Thời<br /> gian đau<br /> trước 65,94 6,00 365,00<br /> mổ<br /> (ngày)<br /> <br /> 43,28<br /> <br /> thấp<br /> nhất<br /> <br /> cao<br /> nhất<br /> <br /> 30,00<br /> <br /> 54,00<br /> <br /> 223,78 30,00 1095,00<br /> <br /> Phẩu tích được thực hiện dọc theo thần kinh<br /> tạng bôc lộ thân (T5 –T9) và các rễ của nó. Khi<br /> thực hiện cần cẩn thận để tránh tổn thương bất<br /> kỳ mạch máu nào kể cả tĩnh mạch bán đơn bên<br /> trái và các mạch máu liên sườn. Rễ và thân thần<br /> kinh được cắt bằng móc đốt điện.<br /> <br /> Tử vong 71,36 22,00 145,00 1030,75 240,00 2250,00<br /> sau mổ<br /> (ngày)<br /> <br /> Phẫu tích tiếp tục đến đoạn xa và thần kinh<br /> tạng bé (T10-T11) được bộc lộ và cắt.<br /> <br /> Bảng 2. Số nhánh thần kinh tạng cắt được.<br /> <br /> Cuối cùng đặt 1 catheter đuổi khí khoang<br /> màng phổi. Chụp X quang phổi kiểm tra, nếu<br /> phổi nở tốt thì khâu lại vết thương không dẫn<br /> lưu màng phổi.<br /> <br /> 42<br /> <br /> CEA<br /> (ng/ml)<br /> <br /> 24,33<br /> <br /> 2,21<br /> <br /> 0,00<br /> <br /> 8,3<br /> <br /> CA 19.9<br /> 24.880,0<br /> 3002,69 0,00<br /> 66,00<br /> (UI/ml)<br /> 0<br /> <br /> 0,00<br /> <br /> 248,00<br /> <br /> Trung bình<br /> Thấp nhất<br /> Cao nhất<br /> <br /> 0,00<br /> <br /> 240,00<br /> <br /> Số nhánh thần<br /> kinh tạng phải<br /> (n=48)<br /> 4,83<br /> 2<br /> 7<br /> <br /> Số nhánh thần kinh<br /> tạng trái<br /> (n=50)<br /> 4,48<br /> 1<br /> 7<br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Khoa<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> Tất cả các nhánh được gởi làm giải phẫu<br /> bệnh đều có kết quả là mô sợi thần kinh.<br /> Bảng 3. Các biến chứng.<br /> Biến chứng<br /> <br /> Chảy máu<br /> <br /> Tổn<br /> thương<br /> tạng<br /> <br /> Đau chỗ<br /> đặt trocar<br /> <br /> Số ca<br /> <br /> Tỉ lệ %<br /> <br /> Do đặt trocar<br /> Do phẫu tích<br /> Không chảy máu<br /> Tổng cộng<br /> Thủng phổi<br /> Thủng cơ hoành + lách<br /> <br /> 1<br /> 1<br /> 48<br /> 50<br /> 2<br /> 1<br /> <br /> 2,00<br /> 2,00<br /> 96,00<br /> 100,0<br /> 4,00<br /> 2,00<br /> <br /> Không tổn thương<br /> <br /> 47<br /> <br /> 94,00<br /> <br /> Tổng cộng<br /> Có đau<br /> <br /> 50<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> 40<br /> <br /> 80,00<br /> <br /> Không đau<br /> <br /> 10<br /> <br /> 20,00<br /> <br /> Tổng cộng<br /> <br /> 50<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> Chúng tôi không gặp các biến chứng: hạ<br /> huyết áp trong lúc mổ, khó thở hay nhiễm<br /> khuẩn vết mổ sau mổ.<br /> 8% (4/50) trường hợp được dẫn lưu dịch<br /> màng phổi (2 trường hợp thủng phổi, 1 thủng<br /> hoành và lách, 1 trường hợp chảy máu từ chỗ<br /> trocar), cả 4 trường hợp đều diễn biến tốt không<br /> ra máu hay dịch sau mổ. 14% (7/50) trường hợp<br /> dẫn lưu khí màng phổi một bên bằng ống nhỏ<br /> 14F. Sau khi rút ống dẫn lưu màng phổi tất cả<br /> đều diễn biến tốt.<br /> 4% (2/50) trường hợp chảy máu, 1 trường<br /> hợp thấy máu ra qua ống đuổi khí, lưu dẫn lưu<br /> màng, sau mổ không thấy ra máu thêm, 1<br /> trường hợp chảy máu từ lỗ trocar, cầm máu qua<br /> nội soi thất bại, phải mở rộng vết mổ khâu cầm<br /> máu.<br /> Thời gian đau chỗ đặt trocar trung bình<br /> 1,9±1,79 ngày, khoảng biến thiên từ 0 - 7 ngày.<br /> Chúng tôi dùng phép kiểm phi tham số<br /> Wilcoxon so sánh mức độ đau trước và sau mổ<br /> của bệnh nhân, dựa trên thang điểm VAS trước<br /> và sau mổ theo thời gian qua bảng 4 và 5.<br /> Bảng 4. Mô tả mức độ đau VAS trước và sau mổ<br /> theo thời gian của nhóm ung thư tụy.<br /> VAS<br /> VAS<br /> sau<br /> trước mổ 1<br /> mổ<br /> ngày<br /> N Ghi nhận 36<br /> 36<br /> <br /> Ngoại Tổng Quát<br /> <br /> VAS VAS VAS VAS<br /> sau<br /> sau<br /> sau<br /> sau<br /> mổ 1 mổ 1 mổ 3 mổ 6<br /> tuần tháng tháng tháng<br /> 36<br /> 32<br /> 12<br /> 0<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Không ghi<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 4<br /> 24<br /> nhận<br /> Trung bình 7,944<br /> 1,8333 0,8611 1,2813 2,000<br /> 4<br /> Tối thiểu 6,00 0,00 0,00 0,00 0,00<br /> Tối đa<br /> 10,0 6,00 3,00 9,00 9,00<br /> Giá trị p<br /> <br /> 36<br /> <br /> 0,000 0,000 0,000 0,002<br /> <br /> Phép kiểm Wilcoxon cho ta thấy sau mổ 1<br /> ngày, 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng, p < 0,05, chứng<br /> tỏ sự giảm đau có ý nghĩa thống kê. Trong lô<br /> nghiên cứu này chưa có bệnh nhân ung thư tụy<br /> nào sống sau mổ trên 6 tháng nên không kiểm<br /> định được.<br /> Trong nhóm ung thư tụy: 36 bệnh nhân.<br /> 94,44% (34/36) trường hợp chỉ còn đau ít<br /> hoặc không đau, VAS = 0- 3. 36,11% (13/36) hết<br /> đau, VAS = 0. 58,33% (21/36) đau ít sau mổ, VAS<br /> = 1- 3. 5,56% (2/36) đau lại nhiều gần như trước<br /> mổ, nhưng tính chất đau thay đổi, bệnh nhân<br /> đau khắp bụng hơn là đau khu trú ở thượng vị.<br /> Bảng 5. Mô tả mức độ đau VAS trước và sau mổ<br /> theo thời gian của nhóm viêm tụy mạn.<br /> VAS<br /> VAS VAS VAS VAS VAS VAS VAS<br /> sau VAS sau sau sau sau sau sau sau<br /> VAS mổ sau mổ mổ mổ mổ mổ mổ mổ<br /> trướ 1 mổ 1<br /> 3<br /> 6<br /> 9<br /> 1 1½ 2<br /> c ngà 1 thán thán thán thán năm năm năm<br /> mổ y tuần g<br /> g<br /> g<br /> g<br /> N Ghi<br /> 14 14 14 14 14 13 10 8<br /> 8<br /> 7<br /> nhận<br /> Khôn<br /> g ghi 0<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 1<br /> 4<br /> 6<br /> 6<br /> 7<br /> nhận<br /> Trung 8,07 1,64 0,85 1,07 1,00 1,00 0,80 0,25 0,25 0,14<br /> bình<br /> 1<br /> 2<br /> 7<br /> 1<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 0<br /> 3<br /> Tối thiểu 6,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00<br /> Tối đa 10,0 6,00 4,00 7,00 8,00 8,00 3,00 1,00 1,00 1,00<br /> Giá trị p<br /> <br /> 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,01 0,01 0,01<br /> 1<br /> 1<br /> 1<br /> 1<br /> 2<br /> 5<br /> 1<br /> 1<br /> 8<br /> <br /> Trong nhóm bệnh nhân viêm tụy mạn: 14<br /> bệnh nhân: 71,43% (1 tử vong + 9 hiện sống/14)<br /> hết đau sau mổ, VAS = 0. 28,57% (1 tử vong + 3<br /> hiện sống/14) đau ít sau mổ, VAS = 1- 3.<br /> 1 bệnh nhân viêm tụy mạn không đau sau<br /> mổ hơn 2 năm. 1 bệnh nhân bị thủng loét tá<br /> tràng vào ngày thứ 4 hậu phẫu phải mổ bụng để<br /> khâu thủng. Bệnh nhân này bị viêm tụy mạn<br /> tính đã mổ trước đó 2 tháng, có phong bế thần<br /> <br /> 43<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> kinh tạng nhưng không hiệu quả, bệnh nhân<br /> uống thuốc giảm đau thường xuyên loại<br /> NSAID. Sau mổ bệnh nhân không đau bụng cho<br /> đến khi tử vong (sau mổ 240 ngày).<br /> Thời gian nằm viện sau mổ trung bình là<br /> 5,06 ± 2,94 ngày (1-13 ngày).<br /> Không có tử vong do phẫu thuật trong lô<br /> nghiên cứu này.<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Trong 6 năm từ tháng 5/2004 – 2/2011 chúng<br /> tôi thực hiện 48 trường hợp cắt thần kinh tạng<br /> qua nội soi lồng ngực 2 bên và 2 trường hợp cắt<br /> thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực 1 bên. Số<br /> lượng của chúng tôi tương đương với các tác giả<br /> trên thế giới.<br /> Năm thực<br /> hiện<br /> 1993-1998<br /> 1999-2002<br /> 1995-1997<br /> 2005<br /> 1993<br /> 1995-1999<br /> 1997-1999<br /> 1992-1997<br /> 1997-1999<br /> 1997-1999<br /> 1998<br /> 2004-2006<br /> <br /> Tác giả<br /> <br /> Số bệnh nhân<br /> <br /> (6)<br /> <br /> Ihse<br /> <br /> (5)<br /> <br /> Hammond<br /> (4)<br /> Buscher<br /> (2)<br /> Basinski<br /> (9)<br /> Maher<br /> (3)<br /> Buscher<br /> (7)<br /> Leksowski<br /> (1)<br /> Barthes<br /> Pietrabissa(11)<br /> Leksowski(8)<br /> (10)<br /> Noppen<br /> Chúng tôi<br /> <br /> 21 viêm tụy mạn +23 ung<br /> thư tụy<br /> 20 ung thư tụy<br /> 26 viêm tụy mạn<br /> 18 viêm tụy mạn<br /> 15 viêm tụy mạn<br /> 44 viêm tụy mạn<br /> 26 ung thư tụy<br /> 20 ung thư tụy<br /> 24 ung thư tụy<br /> 20 viêm tụy mạn<br /> 8 viêm tụy mạn<br /> 36 ung thư tụy+ 14 viêm tụy<br /> mạn<br /> <br /> Thời gian mổ trung bình của chúng tôi<br /> 117,58 phút, khoảng biến thiên 70 – 270 phút, là<br /> do chúng tôi tính từ lúc rạch da đến khi kết thúc<br /> cuộc mổ, sau khi đã cắt thần kinh tạng 2 bên,<br /> không trừ đi thời gian chờ gây mê giúp phổi<br /> xẹp và thay đổi tư thế bệnh nhân. Do đó nhìn<br /> chung thời gian mổ của chúng tôi dài hơn các<br /> tác giả khác. Trường hợp 270 phút là do có biến<br /> chứng chảy máu do đặt trocar làm rách tĩnh<br /> mạch liên sườn, không kiểm soát được qua nội<br /> soi phải mở rộng vết mổ khâu cầm máu. Về sau<br /> khi đã có kinh nghiệm sau khi đặt trocar nếu<br /> phổi chưa xẹp tốt thì chúng tôi bơm khí CO2 với<br /> áp lực thấp, giúp phổi xẹp nhanh hơn, mà<br /> không ảnh hưởng đến thông khí của bệnh nhân.<br /> <br /> 44<br /> <br /> 2 trường hợp chỉ cắt thần kinh tạng 1 bên<br /> trái do có tiền căn lao phổi cũ, trên X quang<br /> phổi có hình ảnh dày dính màng phổi 2 bên,<br /> chúng tôi cố gắng cắt dây dính và cắt được thần<br /> kinh bên trái, nhưng bên phải dính nhiều không<br /> thể mổ được, có 1 trường hợp bị thủng phổi khi<br /> đặt trocar bên phải vì màng phổi bị dính chặt,<br /> phải mở ngực để khâu lại nhu mô phổi. Trong 2<br /> trường hợp này chúng tôi cố gắng cắt thân thần<br /> kinh tạng lớn, sau mổ cả 2 đều giảm đau tốt,<br /> VAS = 1 sau mổ 1 tháng so với 8 trước mổ.<br /> Từ 1990, Stones đã thực hiện cắt thần kinh<br /> tạng qua ngả mở ngực. Tuy nhiên phẫu thuật<br /> này không được chấp nhận rộng rãi vì sự nặng<br /> nề của nó. 1993 Melki và Worsey mô tả kỹ thuật<br /> cắt thần kinh tạng qua nội soi lồng ngực. Từ đó<br /> đến nay đã có nhiều nghiên cứu ứng dụng phẫu<br /> thuật nội soi lồng ngực để cắt thần kinh tạng.<br /> Đến nay chưa có hội nghị chuyên đề nào<br /> khuyến cáo nên cắt thần kinh tạng bên trái, bên<br /> phải hay cả hai bên. Đa số tác giả chọn bên phẫu<br /> thuật dựa vào vị trí đau bụng của bệnh nhân.<br /> Đối với cơn đau vùng giữa bụng hoặc bên trái,<br /> họ cắt thần kinh tạng bên trái; đối với đau nỗi<br /> trội ở bụng phải thì họ cắt thần kinh tạng bên<br /> phải. Chưa có sự đồng thuận về việc nên cắt<br /> thần kinh tạng một bên phải, trái hoặc hai bên<br /> khi đau phân bố đều cả vùng thượng vị và hai<br /> bên, nhiều tác giả áp dụng cắt thần kinh tạng<br /> bên trái trước, vì theo thực nghiệm của Mallet<br /> Guy chỉ khi kích thích thần kinh tạng trái thì<br /> viêm tụy xảy ra, còn kích thích thần kinh tạng<br /> phải thì không gây tác dụng đó. Tuy nhiên,<br /> nhiều tác giả nhận thấy tất cả bệnh nhân đau cả<br /> hai bên mà chỉ cắt thần kinh tạng bên trái thì sau<br /> 3 tháng đều bị đau tái phát phải mổ lại để cắt<br /> dây thần kinh tạng phía đối diện. Do đó, ngày<br /> càng nhiều tác giả tán đồng nên mổ cắt thần<br /> kinh tạng hai bên để tránh phải mổ lại về sau(6,8).<br /> Chúng tôi áp dụng phương pháp cắt thần kinh<br /> tạng 2 bên để tránh việc mổ lại bên kia do đau<br /> phát, hơn nữa bệnh nhân chúng tôi đa số eo hẹp<br /> về kinh tế và ở xa nên rất khó khăn nếu phải<br /> nhập viện mổ lại.<br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Khoa<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2