BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

---------------

DƢƠNG THỊ KIM LOAN

PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG

NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng

Mã số : 60.34.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. HOÀNG CÔNG GIA KHÁNH

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013

i

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những thông tin và

nội dung nêu trong luận văn đều dựa trên nghiên cứu thực tế và hoàn toàn đúng với

nguồn trích dẫn.

Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 09 năm 2013

Tác giả luận văn

Dƣơng Thị Kim Loan

ii

LỜI CẢM ƠN



Tôi xin chân thành cảm ơn Quý thầy cô trƣờng Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh

đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt thời

gian học tập tại trƣờng.

Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn thầy TS. Hoàng Công Gia Khánh, ngƣời đã

nhiệt tình hƣớng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.

Tác giả

Dƣơng Thị Kim Loan

iii

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục từ viết tắt

Danh mục các bảng biểu – hình vẽ

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN

QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG ................................................................................... 3

1.1. Một số vấn đề cơ bản về rửa tiền ........................................................................... 3

1.1.1. Khái niệm về rửa tiền ...................................................................................... 3

1.1.2. Quy trình và các phƣơng thức rửa tiền ............................................................ 5

1.1.2.1. Quy trình rửa tiền ..................................................................................... 5

1.1.2.2. Các phương thức rửa tiền ......................................................................... 7

1.1.3. Ảnh hƣởng của rửa tiền đối với nền kinh tế .................................................. 13

1.1.3.1. Làm tăng tội phạm và tham nhũng ......................................................... 13

1.1.3.2. Những hậu quả đối với quốc tế và đầu tư nước ngoài ........................... 14

1.1.3.3. Làm suy yếu các tổ chức tài chính .......................................................... 14

1.1.3.4. Nền kinh tế và khu vực tư nhân bị tổn thương ........................................ 15

1.1.3.5. Làm mất sự kiểm soát của các chính sách kinh tế .................................. 15

1.2. Hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ...................................................... 16

1.2.1. Một số dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ............................... 16

1.2.2. Điều kiện phát sinh rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ................................... 18

1.2.3. Các phƣơng thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ................ 19

1.3. Cơ sở pháp lý về phòng chống rửa tiền trên thế giới ......................................... 22

iv

1.3.1. Các khuyến nghị của FATF – Cơ quan đặc nhiệm tài chính ........................ 22

1.3.2. Các quy định của Ủy ban Basel .................................................................... 24

1.3.3. Các nguyên tắc phòng chống rửa tiền Wolfsberg ......................................... 25

1.4. Hệ thống phòng chống rửa tiền của một số nƣớc trên thế giới ......................... 25

1.4.1. Phòng, chống rửa tiền tại Mỹ ........................................................................ 25

1.4.2. Phòng, chống rửa tiền tại Anh ....................................................................... 27

1.4.3. Phòng, chống rửa tiền tại một số nƣớc khác ................................................. 29

1.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .............................................................. 29

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................... 30

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG

NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ............................................. 31

2.1. Cơ sở pháp lý về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam ....................................... 31

2.1.1. Các văn bản pháp quy về phòng, chống rửa tiền .......................................... 31

2.1.2. Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng chống rửa tiền ............................ 32

2.2. Thực trạng phòng, chống rửa tiền ở các NHTM Việt Nam .............................. 34

2.2.1. Các phƣơng thức, thủ đoạn rửa tiền chủ yếu qua ngân hàng gần đây ........... 34

2.2.1.1. Các trường hợp nghi ngờ rửa tiền đã phát hiện trong thời gian qua ..... 34

2.2.1.2. Các biểu hiện rửa tiền qua hệ thống NHTM Việt Nam .......................... 37

2.2.1.3. Các phương thức, thủ đoạn rửa tiền chủ yếu qua hệ thống ngân hàng gần đây ................................................................................................................. 38

2.2.2. Nhận thức của các ngân hàng trong công tác phòng chống rửa tiền ............. 42

2.2.3. Các biện pháp phòng chống rửa tiền chủ yếu đƣợc áp dụng tại các ngân

hàng ......................................................................................................................... 43

2.3. Đánh giá kết quả công tác phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng..... 46

2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc trong thời gian qua ................................................ 46

v

2.3.2. Những tồn tại, hạn chế .................................................................................. 47

2.3.2.1. Hành lang pháp lý ................................................................................... 48

2.3.2.2. Các công cụ được sử dụng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống tài chính ..................................................................................................................... 49

2.3.2.3. Cơ chế thanh tra, kiểm tra và quản lý, giám sát .................................... 51

2.3.2.4. Một số hạn chế khác ............................................................................... 52

2.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại ...................................................................... 53

2.3.3.1. Do khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện .................................................. 53

2.3.3.2. Do chính sách của các NHTM ................................................................ 54

2.3.3.3. Do nền kinh tế Việt Nam còn sử dụng tiền mặt là phổ biến ................... 55

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................... 56

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN

QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM ............................................................ 57

3.1. Dự báo tình hình rửa tiền trong thời gian tới và định hƣớng phòng chống

rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ................................................................................ 57

3.1.1. Dự báo tình hình rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam ...................... 57

3.1.1.1. Dự báo tình hình quốc tế......................................................................... 57

3.1.1.2. Dự báo tình hình Việt Nam ..................................................................... 57

3.1.2. Định hƣớng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam........ 59

3.2. Các nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống rửa tiền qua hệ thống

ngân hàng ...................................................................................................................... 60

3.2.1. Nhóm giải pháp đối với Nhà nƣớc ................................................................ 60

3.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp ................................................................ 60

3.2.1.2. Hạn chế thanh toán tiền mặt ................................................................... 61

3.2.1.3. Tăng cường công tác phòng, chống các loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm tham nhũng ................................................................................................. 63

vi

3.2.2. Nhóm giải pháp đối với NHNN .................................................................... 64

3.2.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng, chống rửa tiền ................... 64

3.2.2.2. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công tác phòng, chống rửa tiền .................................................................................... 65

3.2.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các NHTM ............. 65

3.2.2.4. Tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong nước và quốc tế về phòng, chống rửa tiền ...................................................................................... 67

3.2.3 Nhóm giải pháp đối với các NHTM ............................................................... 68

3.2.3.1. Xây dựng quy định nội bộ và thành lập bộ phận chuyên trách về phòng, chống rửa tiền .......................................................................................... 68

3.2.3.2. Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng ........................................... 69

3.2.3.3. Ứng dụng công nghệ thông tin, thiết lập phần mềm phòng, chống rửa tiền ........................................................................................................................ 73

3.2.3.4. Đào tạo nguồn nhân lực trong công tác phòng, chống rửa tiền ............ 75

3.2.3.5. Một số giải pháp khác ............................................................................. 76

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................................... 77

KẾT LUẬN .................................................................................................................... 78

Tài liệu tham khảo

vii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Tiếng Việt

NHNN : Ngân hàng Nhà nƣớc

NHTM : Ngân hàng thƣơng mại

Tiếng Anh

ADB : The Asian Development Bank (Ngân hàng Phát triển Châu Á)

APG : The Asia Pacific Group (Nhóm Châu Á – Thái Bình Dƣơng về

chống rửa tiền)

AMLC : Anti- Money Laundering Council

AMLO : Anti- Money Laundering Office (Cơ quan chuyên trách chống rửa

tiền)

BSA : Bank Secrecy Act (Luật bí mật ngân hàng)

FATF : Financial Action Task Force (Tổ chức Lực lƣợng đặc nhiệm tài

chính về chống rửa tiền)

: International Monetary Fund (Quỹ tiền tệ quốc tế) IMF

: World Bank (Ngân hàng Thế giới) WB

viii

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU – HÌNH VẼ

PHẦN BẢNG

Bảng 1.1: Phân loại các khách hàng có nghi vấn đến hoạt động rửa tiền ................... 21

Bảng 2.1: Số lƣợng báo cáo giao dịch đáng ngờ thống kê theo biểu hiện rửa tiền .... 37

Bảng 2.2: Số lƣợng báo cáo giao dịch đáng ngờ thống kê theo phƣơng thức rửa tiền41

Bảng 2.3: Kết quả tiếp nhận, phân tích báo cáo giao dịch đáng ngờ qua các năm ..... 47

PHẦN BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Danh sách 10 quốc gia nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới 2012 ........... 40

Biểu đồ 2.2 : Tỷ lệ tiền mặt lƣu thông trong tổng phƣơng tiện thanh toán................. 56

PHẦN HÌNH

Hình 1.1: Quy trình của hoạt động rửa tiền .................................................................. 7

Hình 1.2: Mô phỏng hoạt động của hệ thống chuyển tiền Hawala ............................. 11

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hoạt động rửa tiền đã và đang trở thành vấn nạn nghiêm trọng mang tính quốc tế,

đƣợc cộng đồng thế giới quan tâm vì nó gây ra những hậu quả kinh tế - xã hội to

lớn, ảnh hƣởng tới an ninh và uy tín quốc gia, làm suy yếu nền kinh tế, cũng nhƣ

quá trình cải tổ nền kinh tế. Rửa tiền không chỉ giúp tội phạm che giấu đƣợc nguồn

gốc của những khoản tiền bất hợp pháp mà còn tạo ra cơ sở cho chúng hƣởng thụ và

sử dụng những đồng tiền này phục vụ cho những hoạt động tội phạm khác. Trong

khi các trung tâm tiền tệ hàng đầu thế giới nỗ lực chống lại các hoạt động rửa tiền

thì những tội phạm rửa tiền lại có thêm động cơ để chuyển hoạt động rửa tiền sang

các nƣớc đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Tại Việt Nam, vấn đề phòng, chống rửa tiền là một trong những vấn đề tƣơng đối

mới mẻ. So với quốc tế, hệ thống luật pháp về phòng chống rửa tiền tại Việt Nam

hiện nay vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu và triển khai những bƣớc khởi đầu.

Công tác phòng, chống rửa tiền tại các NHTM Việt Nam mới đƣợc chú ý trong vài

năm gần đây và vẫn thiếu các công cụ, hệ thống cũng nhƣ nguồn lực cần thiết.

Trong thời gian tới nếu chúng ta không có những giải pháp đúng đắn, nƣớc ta sẽ trở

thành điểm đến của tội phạm rửa tiền, mà ngân hàng đƣợc coi nhƣ là công cụ để

thực hiện hành vi đó. Vì vậy, vấn đề phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

ở Việt Nam đang đƣợc đặt ra nhƣ một đòi hỏi búc xúc trong công tác quản lý hiện

nay. Và đây cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài “Phòng, chống rửa tiền qua hệ

thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu

- Hệ thống lại những lý luận cơ bản về rửa tiền và những tác động của nó đến kinh

tế xã hội.

- Phân tích thực trạng về hoạt động rửa tiền tại Việt Nam đặc biệt qua hệ thống

ngân hàng.

2

- Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng,

chống rửa tiền qua hệ thống NHTM Việt Nam.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tƣợng nghiên cứu: rửa tiền và công tác phòng, chống rửa tiền

- Phạm vi nghiên cứu: hệ thống ngân hàng Việt Nam với các số liệu từ năm 2004

đến năm 2012.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn là sự kết hợp phƣơng pháp mô tả, phân tích, so sánh, thống kê lý thuyết,

các văn bản, tài liệu, thực trạng hoạt động rửa tiền đã và đang diễn ra trên thế giới

và Việt Nam. Từ đó đƣa ra giải pháp cho hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ

thống ngân hàng Việt Nam.

5. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn đƣợc chia làm 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Tổng quan về rửa tiền và phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân

hàng

Chƣơng 2: Thực trạng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng thƣơng mại

Việt Nam

Chƣơng 3: Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng thƣơng mại

Việt Nam

3

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA

TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

1.1. Một số vấn đề cơ bản về rửa tiền

1.1.1. Khái niệm về rửa tiền

Trong đời sống kinh tế - xã hội hiện nay, “rửa tiền” không còn là một thuật ngữ

mới mẻ ở các quốc gia. Khái niệm rửa tiền (money laundering) đã xuất hiện từ thế

kỷ XVIII, trong những vụ án hình sự tại Hoa Kỳ. Sớm hơn, theo sử gia, khoảng hơn

ba nghìn năm trƣớc, tại Trung Quốc đã có những hoạt động này của các thƣơng

nhân nhằm tránh thuế của triều đình.

Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XIX, ngƣời ta mới chính thức nhắc đến “rửa tiền”, nhƣ

là một hành vi phạm tội và chính thức bị coi là bất hợp pháp tại Mỹ từ năm 1986.

Cùng với toàn cầu hóa, rửa tiền đã bùng nổ ở nhiều quốc gia, gây những hậu quả

nghiêm trọng về kinh tế - xã hội, đặc biệt ở các nƣớc đang phát triển hoặc các nền

kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi.

Định nghĩa có tính pháp lý đầu tiên về rửa tiền đƣợc nhắc đến trong Công ƣớc của

Liên hiệp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chất hƣớng thần

(Công ƣớc Viên năm 1988). Theo đó, rửa tiền là “Hành vi chuyển đổi hoặc chuyển

giao tài sản khi biết rằng tài sản đó thu được từ buôn bán ma túy hoặc từ việc tham

gia vào hoạt động phạm tội với mục đích che giấu nguồn gốc tài sản hoặc giúp

người thực hiện các hành vi trên trốn tránh trách nhiệm pháp lý các hành vi của

mình; Hành vi che dấu hoặc ngụy trang hình thái tự nhiên, nguồn gốc, địa điểm,

việc định đoạt, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản hoặc các quyền liên quan đến

1 UN (1988), Convention Against Illicit Traffic In Narcotic Drugs And Psychotropic Substances.

tài sản mà biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma túy mà có; Hành vi mua, tàng trữ hoặc sử dụng tài sản khi biết rõ tài sản do phạm tội mà có”[1].

4

Tuy nhiên, định nghĩa về rửa tiền đƣợc nhiều quốc gia đồng thuận nhất là định

nghĩa theo Công ƣớc chống tham nhũng của Liên hợp quốc (Công ƣớc Palermo

2000). Theo đó, rửa tiền đƣợc quy định là hành vi:“(i) Chuyển đổi hay chuyển

nhượng tài sản, cho dù biết đó là tài sản do phạm tội mà có, nhằm che dấu hoặc

ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản đó hoặc nhằm giúp đỡ bất kỳ ai có

liên quan đến việc thực hiện tội phạm gốc để lẩn tránh trách nhiệm pháp lý do hành

vi của người này mang lại; (ii) Che dấu hoặc ngụy trang bản chất thật sự, nguồn

gốc, địa điểm sự chuyển nhượng, sự vận chuyển hoặc sở hữu hoặc các quyền liên

quan đến tài sản, dù biết tài sản đó do phạm tội mà có; (iii) Nhận, sở hữu hoặc sử

dụng tài sản, mà tại thời điểm nhận đã biết rằng tài đó do phạm tội mà có; Tham

gia, phối hợp hoặc có âm mưu thực hiện hành vi, cố gắng thực hiện hành vi hay

giúp sức, xúi giục, tạo điều kiện thuận lợi và bầy mưu để thực hiện bất kỳ một tội

phạm nào tương ứng với quy định tại điều này khi biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma túy mà có”[2].

Theo Lực lƣợng đặc nhiệm tài chính chống rửa tiền (FATF) thì định nghĩa một

cách ngắn gọn: “Rửa tiền là việc xử lý thu nhập có được do phạm tội mà có nhằm che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của chúng”[3].

Theo nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 của Chính phủ về phòng,

chống rửa tiền (Nghị định 74) thì “rửa tiền” là hành vi của cá nhân hay tổ chức tìm

cách hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể

sau đây:

- Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản

do phạm tội mà có;

- Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhƣợng, vận chuyển, sử

2 UN (2000), Convention Against Transnational Organized Crime, Palermo.

3 FATF, What is Money Laundering ?, http://www.fatf-gafi.org/pages/faq/moneylaundering/

dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có;

5

- Đầu tƣ vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm

cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật

sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm

tội mà có.

Theo Luật phòng, chống rửa tiền có hiệu lực từ ngày 01/01/2013 thì “rửa tiền” là

hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội

mà có, bao gồm:

- Hành vi đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự;

- Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách

nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có;

- Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm

tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản.

Nói một cách dễ hiểu, rửa tiền là việc biến đồng tiền phạm pháp thành đồng tiền

hợp pháp để sử dụng.

1.1.2. Quy trình và các phƣơng thức rửa tiền

1.1.2.1. Quy trình rửa tiền

Tiền bẩn thƣờng có nguồn gốc từ các hoạt động phạm tội nhƣ: buôn lậu, khủng

bố, buôn bán ma túy, tham nhũng, tham ô, hối lộ, trộm cắp, lừa đảo, mại dâm, buôn

ngƣời, trốn thuế, tội phạm tài chính…Bọn tội phạm thƣờng sử dụng nhiều thao tác

tinh vi, phức tạp để rửa tiền, nhằm che mắt các cơ quan điều tra hay cơ quan chống

rửa tiền. Một vòng quay biến những đồng “tiền bẩn” thành “tiền sạch” thông thƣờng

gồm ba bƣớc, có thể diễn ra theo tuần tự hoặc đôi khi chồng chéo và đan xen nhau.

Thực hiện chu trình này, bọn tội phạm khoác cho những đồng “tiền bẩn” một vỏ

bọc hoàn toàn trong sạch, đƣa những đồng tiền này vào lƣu thông trong đời sống xã

hội mà không làm lộ tội phạm gốc hay gây sự nghi ngờ cho những cơ quan bảo vệ

pháp luật.

6

Quy trình cơ bản của hoạt động rửa tiền có ba giai đoạn:

- Giai đoạn thứ nhất: đưa tiền bẩn vào lưu thông trong hệ thống tài chính (gọi tắt

là “cài đặt”, “gửi tiền”). Đây là thao tác đầu tiên trong quy trình rửa tiền, nhằm che

giấu nguồn gốc xuất xứ, thay đổi hình thái tồn tại của tiền bẩn, bƣớc đầu “hòa nhập”

vào hệ thống tài chính ngân hàng. Đây cũng là giai đoạn khó khăn nhất và dễ bị

“phát hiện” nhất. Bởi vì đối với bọn tội phạm và những khoản tiền lớn thƣờng bị

các cơ quan điều tra theo dõi. Bên cạnh đó, mỗi quốc gia ít nhiều đều có những quy

định về lƣợng tiền mặt đƣợc phép lƣu thông, đƣợc phép đƣa qua biên giới, đƣợc

phép thanh toán hay các quy định về khai báo ngân hàng nhằm kiểm soát, đón lõng

những hành vi rửa tiền của bọn tội phạm. Trong giai đoạn này, bọn tội phạm rửa

tiền thƣờng thực hiện đầu tƣ phân tán bằng cách chia nhỏ các khoản “tiền bẩn”

thành nhiều khoản tiền nhỏ dƣới mức quy định, mua các công cụ tiền tệ hay hàng

hóa xa xỉ đắt tiền, chuyển lậu tiền ra nƣớc ngoài… nếu thực hiện trót lọt thì khả

năng rửa tiền thành công là rất lớn.

- Giai đoạn thứ hai: là quá trình tích tụ và quay vòng các khoản tiền sau khi chúng

xâm nhập đƣợc vào các hệ thống tài chính (gọi tắt là “sắp xếp”, “trộn lẫn”, “chuyển

đổi”). Đây cũng là một khâu quan trọng trong việc xóa bỏ hoàn toàn nguồn gốc

“bẩn” của đồng tiền. Tiền đƣợc chuyển từ tổ chức tài chính này sang tổ chức tài

chính khác để che giấu nguồn gốc và chủ sở hữu của tiền. Thực chất đây là quy

trình tạo ra một chuỗi các giao dịch, đồng tiền chuyển dịch khắp nơi, quay vòng

nhiều lần nhằm xóa bỏ dấu vết tội phạm, làm cho chúng ngày càng xa nguồn gốc

ban đầu.

- Giai đoạn thứ ba: là giai đoạn tiền được đầu tư vào những hoạt động kinh doanh

hợp pháp (gọi tắt là “hòa nhập”). Tiền sẽ đƣợc phân phối trở lại vào nền kinh tế

bằng các hành vi tiêu dùng, đầu tƣ vào các doanh nghiệp và đầu tƣ tài chính... Thủ

đoạn của bọn rửa tiền lúc đầu thƣờng bỏ tiền quảng cáo trên các phƣơng tiện thông

tin đại chúng để tạo vỏ bọc uy tín, làm ăn có lãi, tài trợ từ thiện, đóng góp xây dựng,

hoặc mua bất động sản, mua ô tô đắt tiền, xây dựng các công trình… Sau đó bán tài

7

sản, hay đóng góp cổ phần vào các công ty lớn, rồi chuyển nhƣợng cổ phần để thu

lại tiền.

Hình 1.1: Quy trình của hoạt động rửa tiền

1.1.2.2. Các phương thức rửa tiền

Các phƣơng thức rửa tiền thƣờng rất đa dạng, tinh vi, phức tạp, tùy thuộc vào từng

chính sách kiểm soát của mỗi quốc gia. Trong từng điều kiện cụ thể, bọn tội phạm

sẽ dùng những phƣơng thức, thủ đoạn khác nhau để sạch hóa đồng “tiền bẩn”.

 Về mặt không gian, phƣơng thức thủ đoạn rửa tiền thể hiện dƣới 5 trƣờng hợp:

- Trường hợp 1: Các nguồn “tiền bẩn” đƣợc tẩy rửa và sử dụng ngay trong nƣớc.

Đây là quá trình rửa tiền trong đó số tiền bất hợp pháp đƣợc hình thành, đƣợc tẩy

rửa cũng nhƣ đƣợc tái đầu tƣ qua hệ thống tài chính của nƣớc đó.

8

- Trường hợp 2: Lƣợng “tiền bẩn” có nguồn gốc trong nƣớc, sau đó chuyển ra

nƣớc ngoài để rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lƣu thông

trên thị trƣờng trong nƣớc.

- Trường hợp 3: Số “tiền bẩn” đƣợc rửa và rút ra khỏi hệ thống tài chính của một

quốc gia đang phát triển để sử dụng ở nơi khác, không quay lại đầu tƣ cho quốc gia

đó.

- Trường hợp 4: “Tiền bẩn” đƣợc tạo ra ở nƣớc ngoài, đƣợc tẩy rửa ở đó hay một

nƣớc khác và cuối cùng đƣợc đầu tƣ cho các nƣớc đang phát triển.

- Trường hợp 5: Lƣợng “tiền bẩn” sau khi rửa đƣợc chuyển vào một quốc gia

đang phát triển nhƣng không phải để đầu tƣ mà đƣợc lƣu thông tản mạn, tiêu thụ

khắp nơi.

 Về nội dung hoạt động, rửa tiền biểu hiện qua một số phƣơng thức sau:

- Rửa tiền qua các giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt: đây là phƣơng thức rửa tiền

truyền thống và nó vẫn có những hiệu quả thực sự đối với những nền kinh tế chủ

yếu giao dịch bằng tiền mặt. Rửa tiền thông qua các giao dịch tiền mặt với số lƣợng

lớn rất dễ bị nghi ngờ, gây sự chú ý đối với cơ quan điều tra. Tuy nhiên, với những

khoản tiền bẩn không quá lớn, phƣơng thức này vẫn đƣợc áp dụng bằng cách chia

nhỏ khoản tiền thành những khoản nhỏ hơn hòng che mắt cơ quan điều tra. Sau đó,

bọn tôi phạm sẽ tiến hành trà trộn với những khoản tiền sạch khác trong các giao

dịch nhằm cắt đứt nguồn gốc bẩn của đồng tiền.

- Rửa tiền thông qua việc mua những động sản như vàng, bạc, kim cương…Ƣu

điểm của những tài sản này là có giá trị lớn, gọn nhẹ, dễ cất giữ, có thể mua đi bán

lại ở mọi lúc mọi nơi, không cần phải đăng ký quyền sở hữu, do vậy ít gây sự chú ý.

Ngoài ra bọn tội phạm còn thực hiện rửa tiền thông qua phƣơng thức này bằng cách

mua ô tô, xe máy, du thuyền, séc du lịch… và thƣờng đăng ký dƣới một tên khác để

tránh sự chú ý của cơ quan điều tra.

9

- Rửa tiền thông qua đầu tư nước ngoài: trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,

các quốc gia đang phát triển tăng cƣờng kêu gọi đầu tƣ nƣớc ngoài, tạo hành lang

pháp lý thông thoáng cho nhà đầu tƣ nƣớc ngoài vào đầu tƣ trong nƣớc. Nƣớc tiếp

nhận đầu tƣ cũng không quan tâm điều tra nguồn gốc của tiền đƣợc đầu tƣ là tiền

sạch hay tiền bẩn. Đây là điều kiện thuận lợi, là mảnh đất màu mỡ cho hoạt động

rửa tiền phát triển. Bọn tội phạm mang tiền vào thuê quyền sử dụng đất, lập nhà

xƣởng, mua bất động sản, thành lập công ty có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài…Trong quá

trình hoạt động, lợi nhuận đƣợc chuyển đến một số địa chỉ mong muốn. Sau một

thời gian, chúng tuyên bố phá sản hoặc biến mất, những đồng tiền bẩn đƣợc khoác

vỏ bọc hợp pháp.

- Rửa tiền thông qua các trung tâm giải trí, sòng bạc, xổ số, cá cược: đây là

những lĩnh vực kinh doanh có tỷ lệ thanh toán tiền mặt cao. Tại các sòng bạc, bọn

tội phạm có thể bỏ tiền ra mua vé, thẻ chơi bạc để tham gia việc đánh bạc. Đối với

chúng, kết quả thực tế thắng thua không quan trọng, điều cốt lõi là sau khi rời khỏi

đây chúng có giấy chứng nhận đã thắng với một khoản tiền lớn của chủ sòng bạc

với một tỷ lệ chi phí thỏa thuận. Ngoài ra, việc hợp thức hóa tiền bẩn còn đƣợc thực

hiện thông qua việc mua lại những giải thƣởng xổ số có giá trị lớn hơn giá trị thực

mà ngƣời trúng thƣởng có thể đƣợc hƣởng. Sở hữu tấm vé số trúng thƣởng, bọn tội

phạm có thể đàng hoàng nhận đƣợc tiền hợp pháp từ công ty xổ số. Nhiều trò chơi

cá cƣợc để giải trí nhƣ đua ngựa, đua chó…cũng sử dụng lƣợng tiền mặt khá lớn, và

cũng là nơi để rửa tiền lý tƣởng.

- Rửa tiền thông qua các hợp đồng thương mại, hóa đơn chứng từ: bọn tội phạm

sẽ khai tăng số lƣợng hàng hóa trong hóa đơn mua bán hoặc lợi dụng các công ty

kinh doanh hàng hóa thật nhƣng không bán hàng hoặc bán rất ít so với hóa đơn.

Thông qua những hóa đơn chứng từ đó, bọn tội phạm có thể chứng minh cho thu

nhập của chúng có đƣợc là từ hoạt động kinh doanh.

- Rửa tiền thông qua các công ty bảo hiểm: bọn tội phạm dùng tiền bẩn để mua

bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm. Các khoản tiền này khi đƣợc nằm trong tài khoản

10

của công ty bảo hiểm một thời gian sẽ tạo cho nó một điều kiện an toàn nhất định.

Sau đó, kẻ tẩy rửa sẽ viện lý do nào đó để rút tiền trƣớc thời hạn, yêu cầu chi trả cho

những ngƣời thụ hƣởng khác hoặc dùng giá trị hợp đồng bảo hiểm để đảm bảo chi

trả cho một nhu cầu giao dịch nào đó nhƣ mua bất động sản.

- Rửa tiền thông qua đầu tư chứng khoán: ở một số nƣớc chƣa có quy định chặt

chẽ về kiểm soát nguồn gốc đồng tiền thì thị trƣờng chứng khoán là nơi bọn rửa tiền

tìm đến. Các khoản tiền bẩn sẽ đƣợc dùng để mua cổ phiếu tại các sàn giao dịch.

Sau một thời gian, số cổ phiếu này sẽ đƣợc bán đi với giá có thể thấp hơn giá trị

mua lúc ban đầu, đồng tiền thu đƣợc lúc này xa rời với đồng tiền bẩn lúc ban đầu.

- Rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng: bọn tội phạm có thể dùng tiền bẩn gửi

tiết kiệm, mở tài khoản ngân hàng để chuyển tiền hoặc mua trái phiếu, tín phiếu.

Sau một thời gian rút dần hoặc mang các giấy tờ có giá đi cầm cố, thế chấp để vay

một khoản tiền nhất định. Ở những quốc gia có hệ thống ngân hàng chặt chẽ, số tiền

gửi vào ngân hàng nếu vƣợt qua số tiền quy định sẽ bị đƣa vào danh sách những

giao dịch đáng ngờ và phải giải trình nguồn gốc. Tuy nhiên, trên thế giới vẫn còn

nhiều quốc gia chƣa có quy định cụ thể về hạn mức tiền gửi phải giải trình về nguồn

gốc, do đó phƣơng thức rửa tiền này thƣờng đƣợc bọn tội phạm lựa chọn. Bên cạnh

đó rửa tiền còn đƣợc thực hiện qua hệ thống ngân hàng “ngầm”: diễn ra tại các quốc

gia có hệ thống ngân hàng hoạt động kém hiệu quả nhƣng chi phí cao. Do đó, trong

cộng đồng những ngƣời nƣớc ngoài tại các quốc gia này tồn tại hệ thống ngân hàng

không chính thức, gọi là ngân hàng “ngầm” với chi phí dịch vụ rẻ, bí mật và thủ tục

giấy tờ đơn giản hơn các ngân hàng hợp pháp. Các ngân hàng ngầm có đại diện ở

nhiều nƣớc khác nhau để thực hiện dịch vụ chuyển tiền từ nƣớc này sang nƣớc

khác, hoặc từ nơi này sang nơi khác trong cùng một quốc gia. Sự hoạt động của

ngân hàng này chủ yếu dựa trên niềm tin của ngân hàng với khách hàng nên thủ tục

đơn giản. Bọn tội phạm lợi dụng nguyên tắc giữ bí mật của những ngân hàng này đã

đem tiền đến gửi và yêu cầu nhận lại ở một nơi khác. Những địa chỉ cần nhận tiền

tẩy rửa thông thƣờng là những quốc gia khao khát đầu tƣ tài chính nhƣng ít quan

11

tâm đến nguồn gốc đồng tiền, việc thanh toán qua ngân hàng chƣa phải là yêu cầu

bắt buộc và phổ biến, hệ thống pháp luật về phòng chống rửa tiền chƣa nghiêm.

- Rửa tiền thông qua hệ thống chuyển tiền ngầm: Mặc dù thực tế chƣa có thống kê

chính thức nào về tổng giá trị tiền tệ đƣợc chuyển giữa quốc gia này sang quốc gia

khác thông qua các kênh chuyển tiền ngầm nhƣng những quan ngại về việc lợi dụng

kênh chuyển tiền này để tiến hành các hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố đang

đƣợc cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Hệ thống chuyển tiền ngầm đƣợc hình

thành theo các khu vực địa lý nhất định với nhiều tên gọi khác nhau nhƣ: Feichien

(Trung Quốc), Padala (Philippines), Hundi (Ấn Độ), Hui Kuan (Hồng Kông), Phei

Kwan (Thái Lan) và Hawala (Trung Đông), nhƣng xét về bản chất, phƣơng thức

hoạt động của các hệ thống chuyển tiền này là giống nhau và khá đơn giản. Hình

minh họa dƣới đây mô tả phƣơng thức hoạt động điển hình của hệ thống chuyển

tiền ngầm Hawala.

Hình 1.2: Mô phỏng hoạt động của hệ thống chuyển tiền Hawala

12

 Một ngƣời cha ở quốc gia B (XB) muốn chuyển tiền cho con trai mình đang học

tập tại quốc gia A (XA). XB liên hệ với ngƣời cung cấp dịch vụ Hawala ở nơi mình

sinh sống (HB). XB đƣa cho HB số tiền định chuyển cho XA và trả phí cho dịch vụ

này. HB nhận tiền và cung cấp cho XB mã code của giao dịch, mã code này sẽ đƣợc

XB thông báo cho XA.

 HB sau đó sẽ thông báo cho ngƣời cung cấp dịch vụ Hawala ở khu vực XA sinh

sống ở quốc gia A (HA) bằng điện thoại, fax, thƣ điện tử hoặc bất kỳ phƣơng thức

thông báo nào khác về khoản tiền chuyển và thông tin liên lạc của XA.

 HA sau đó sẽ liên lạc với XA và trả tiền cho XA khi XA cung cấp đúng mã code

của giao dịch. Đồng thời, một ngƣời lao động nƣớc ngoài ở quốc gia A (CA) muốn

chuyển tiền về cho gia đình mình ở quốc gia (CB), CA sẽ đƣa cho HA tiền và trả

phí, tƣơng tự nhƣ trên, HA thông báo cho HB, HB liên lạc CB để trả tiền.

Nhƣ vậy, trong giao dịch thứ nhất, HB nợ tiền HA, trong giao dịch thứ hai HA nợ

tiền HB. HA và HB sau đó sẽ thanh toán bù trừ cho nhau. Trên thực tế, có rất nhiều

giao dịch giữa HA và HB, đồng thời, HA và HB có quan hệ với rất nhiều đại lý

Hawala khác tạo thành một mạng lƣới dày đặc vô cùng phức tạp. Không có khoản

tiền thực sự đƣợc chuyển giữa HA và HB, tất cả cả các giao dịch đều đƣợc thanh

toán bù trừ Hawala với nhau. Hệ thống này hoàn toàn đƣợc vận hành trên cơ sở sự

tin tƣởng lẫn nhau và không có bất kỳ ràng buộc pháp lý nào giữa các bên tham gia

giao dịch.

Lý do Hawala đƣợc sử dụng rộng khắp trên toàn thế giới là vì: (i) thủ tục đơn

giản: ngƣời chuyển tiền chỉ phải cung cấp tên và số điện thoại hoặc địa chỉ của

ngƣời nhận tiền mà không cần phải khai báo thông tin hoặc cung cấp giấy tờ chứng

minh về nhân thân của mình. Ngƣời nhận tiền chỉ phải cung cấp mã code giao dịch

và nhận tiền; (ii) thời gian nhanh chóng: thông thƣờng chỉ mất khoảng từ 6 -12h để

tiền đƣợc chuyển đến ngƣời nhận ở các địa điểm và các quốc gia khác nhau, (iii) chi

phí chuyển tiền rẻ: chỉ khoảng từ 0.25% - 1.25% giá trị khoản tiền chuyển, (iv)

13

mạng lƣới rộng khắp: ngƣời cung cấp dịch vụ Hawala không cần phải có trụ sở,

phải đăng ký nên mạng lƣới Hawala rộng khắp (đại lý Hawala có thể là một cá nhân

hoạt động ở nhà mình, có thể ở các cửa hàng nhỏ, đại lý du lịch, cửa hàng

vàng, điểm bán thẻ điện thoại...) tới cả những khu vực vùng sâu, vùng xa nơi không

có mạng lƣới ngân hàng hoạt động hoặc nhận thức của ngƣời dân còn hạn chế,

không có điều kiện tiếp xúc các dịch vụ ngân hàng.

Với những đặc điểm nêu trên, hệ thống chuyển tiền ngầm đã bị tội phạm rửa tiền

lợi dụng để chuyển tiền, tránh sự phát hiện của cơ quan có thẩm quyền. Thậm chí,

trong trƣờng hợp phát hiện tội phạm thì việc điều tra hay truy tố tội phạm là rất khó

khăn do hồ sơ khách hàng, thông tin giao dịch, tài liệu chứng minh hầu nhƣ không

thể khai thác đƣợc. Trên thực tế, tội phạm hoặc các tổ chức tội phạm có thể lập ra

các đại lý chuyển tiền ngầm để nhận và chuyển tiền cho khách hàng nhƣng thực

chất chỉ để ngụy trang cho hoạt động rửa tiền hay tài trợ khủng bố của mình.

1.1.3. Ảnh hƣởng của rửa tiền đối với nền kinh tế

Rửa tiền không chỉ là vấn đề của các thị trƣờng tài chính hàng đầu thế giới mà

ngay cả các quốc gia đang trong quá trình hội nhập vào hệ thống tài chính quốc tế

cũng không tránh khỏi. Đặc biệt khi các thị trƣờng mới nổi mở cửa nền kinh tế và

lĩnh vực tài chính thì họ dễ dàng trở thành mục tiêu của các hoạt động rửa tiền. Nói

cách khác, rửa tiền là hành động gây vẩn đục nền kinh tế. Rửa tiền có thể tàn phá

thành quả kinh tế của một quốc gia. Bằng những thủ đoạn tinh vi, các băng nhóm

tội phạm tìm cách hợp pháp hóa tiền và tài sản có nguồn gốc phạm tội của mình -

những đồng tiền bất chính một “nguồn gốc sạch sẽ”. Những hoạt động này đã gây

ra những ảnh hƣởng tiêu cực cho nền kinh tế vĩ mô nói chung và lĩnh vực tài chính

nói riêng, cụ thể:

1.1.3.1. Làm tăng tội phạm và tham nhũng

Ở những quốc gia có hệ thống phòng chống rửa tiền kém hiệu quả thƣờng là nơi

trú ẩn an toàn cho hoạt động rửa tiền, làm gia tăng tội phạm và thúc đẩy tham

nhũng. Rửa tiền vừa là công cụ vừa là động lực của các tổ chức tội phạm. Khi tiền

14

bẩn đƣợc đem rửa thì có nghĩa là trƣớc đó đã xảy ra các hoạt động phạm pháp. Tiền

có rửa đƣợc thì các băng nhóm tội phạm mới tồn tại đƣợc và càng lao vào phạm tội

để kiếm tiền bất hợp pháp. Rửa tiền là khâu cuối cùng và quan trọng nhất trong

những hoạt động phạm pháp nhằm đem lại những tài khoản kếch xù.

1.1.3.2. Những hậu quả đối với quốc tế và đầu tư nước ngoài

Rửa tiền làm giảm uy tín và đầu tƣ nƣớc ngoài, tai tiếng về một nơi ẩn náu an toàn

cho rửa tiền và tài trợ cho khủng bố cũng đã có thể gây ra những hậu quả bất lợi

đáng kể cho sự phát triển của một đất nƣớc. Các tổ chức tài chính nƣớc ngoài có thể

quyết định hạn chế các giao dịch của mình với những tổ chức là nơi ẩn náu an toàn

cho rửa tiền; buộc những giao dịch nhƣ vậy sẽ qua kiểm soát gắt gao hơn, khiến cho

chúng thêm tốn kém hoặc chấm dứt hoàn toàn các mối quan hệ giao dịch hay vay

mƣợn. Các doanh nghiệp hợp pháp cũng sẽ bị giảm khả năng tiếp cận các thị trƣờng

thế giới hoặc phải tiếp cận với chi phí cao hơn do phải chịu sự kiểm soát gắt gao

hơn về quyền sở hữu, các hệ thống tổ chức và kiểm soát. Các quốc gia nổi tiếng về

sự tuân thủ lỏng lẻo các tiêu chuẩn về phòng, chống rửa tiền sẽ gặp nhiều hạn chế

trong việc tiếp nhận hỗ trợ của chính phủ nƣớc ngoài.

1.1.3.3. Làm suy yếu các tổ chức tài chính

Rửa tiền có thể gây nguy hại cho sự lành mạnh của khu vực tài chính của một đất

nƣớc cũng nhƣ cho sự ổn định của từng tổ chức tài chính theo nhiều cách khác

nhau. Những hậu quả tai hại đó đƣợc coi là rủi ro đối với uy tín, nghiệp vụ, pháp lý

và rủi ro tập trung đều có mối quan hệ qua lại với nhau. Mỗi rủi ro đều gây ra

những chi phí cụ thể:

 Mất đi hoạt động kinh doanh sinh lợi

 Những vấn đề về tính thanh khoản do việc rút tiền gây ra

 Cắt đứt các cơ sở ngân hàng đại lý

 Các chi phí điều tra và tiền phạt

15

 Thu giữ tài sản

 Tổn thất cho vay

 Giảm giá trị cổ phiếu của các tổ chức tài chính

1.1.3.4. Nền kinh tế và khu vực tư nhân bị tổn thương

Những kẻ rửa tiền khét tiếng và việc sử dụng “các công ty bình phong”- là những

doanh nghiệp có vẻ bề ngoài hợp pháp, tham gia hoạt động kinh doanh hợp pháp

nhƣng trên thực tế lại do bọn tội phạm kiểm soát. Những công ty bình phong này

trộn lẫn những khoản tiền hợp pháp với những khoản tiền bất hợp pháp, cung cấp

các sản phẩm và dịch vụ với giá thấp hơn giá thị trƣờng. Điều này làm cho hàng hóa

của những công ty hợp pháp không thể cạnh tranh nổi, có thể dẫn đến phá sản. Bằng

việc sử dụng các công ty bình phong và những khoản đầu tƣ khác vào các công ty

hợp pháp, những khoản thu đƣợc từ “rửa tiền” có thể đƣợc dùng để kiểm soát toàn

bộ các ngành hoặc các khu vực của nền kinh tế ở những nƣớc nhất định. Điều này

làm tăng sự bất ổn định tiềm tàng về khía cạnh tiền tệ và kinh tế do sự phân bổ sai

lệch các nguồn lực bắt nguồn từ tình trạng méo mó giả tạo của giá tài sản và hàng

hóa. Nó cũng tạo ra một cơ chế cho trốn thuế, từ đó là cạn kiệt nguồn thu của đất

nƣớc.

1.1.3.5. Làm mất sự kiểm soát của các chính sách kinh tế

Sự lƣu chuyển các luồng tiền trong thế giới ngầm gây ra những đột biến trong cầu

tiền tệ và bất ổn định lãi suất, tỷ giá hối đoái. Các con số thống kê bị bóp méo, gây

khó khăn cho việc hoạch định chính sách và làm giảm tính hiệu quả điều tiết của

chính phủ, gia tăng tính bất ổn của nền kinh tế.

Bên cạnh những tác động tiêu cực nhƣ trên thì rửa tiền cũng có những tác động

tích cực tới nền kinh tế nhƣ: thông qua đầu tƣ nƣớc ngoài mà cơ sở vật chất của

nƣớc tiếp nhận đầu tƣ đƣợc cải thiện, tạo công ăn việc làm cho ngƣời dân hơn, thu

hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài nhiều hơn… Nhƣng, những tác động tích cực từ hoạt

động rửa tiền mang lại là nhất thời, còn những tác động tiêu cực là lâu dài, tiềm ẩn

16

những hậu quả vô cùng to lớn. Chính vì vậy, hoạt động chống tội phạm rửa tiền rất

cần đƣợc sự quan tâm của các nƣớc trên thế giới.

1.2. Hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

1.2.1. Một số dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Ngày nay, rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là một trong những phƣơng thức mà

bọn tội phạm ƣa thích sử dụng với những thủ đoạn hết sức tinh vi. Chính vì vậy,

việc đƣa ra những dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua ngân hàng là hết sức cần thiết.

Có thể định dạng, phân loại và nhận biết một số dấu hiệu rửa tiền qua ngân hàng

mà bọn tội phạm hay sử dụng nhƣ sau:

 Thông qua thông tin về khách hàng:

Trong quá trình giao dịch với khách hàng, ngân hàng có thể căn cứ vào thái độ của

khách hàng trong việc cung cấp thông tin, chứng từ thông thƣờng theo quy định

ngân hàng để đánh giá về mức độ trung thực của khách hàng. Đặc biệt là những

trƣờng hợp khách hàng miễn cƣỡng cung cấp thông tin, đƣa ra những thông tin rất ít

về bản thân, thông tin không chính xác và nếu muốn xác minh đƣợc những thông

tin này thì ngân hàng thƣờng gặp những khó khăn hoặc phải trả chi phí cao.

 Thông qua những tài khoản đang bị điều tra hay khởi kiện

Nhân viên ngân hàng thƣờng chú ý tới chủ tài khoản đang bị điều tra, khởi kiện

hoặc liên quan đến những vụ án đang đƣợc xét xử tại tòa án, hoặc nằm trong danh

sách cảnh báo rửa tiền của cơ quan có thẩm quyền.

 Thông qua tính chất, đặc điểm của giao dịch

- Các giao dịch thông qua tài khoản ngân hàng có tính chất bất thường nhƣ: tài

khoản có tốc độ chu chuyển tiền trong ngày rất cao. Điều này thể hiện ở việc thay

đổi đột biến doanh số giao dịch trên tài khoản. Doanh số giao dịch lớn trong một

thời gian ngắn nhƣng số dƣ tài khoản nhỏ. Hoặc là các giao dịch chuyển tiền có giá

17

trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một tài khoản thành một khoản tiền lớn và

ngƣợc lại. Trong một khoản thời gian ngắn, tiền đƣợc chuyển lòng vòng qua nhiều

tài khoản khác nhau.

- Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt có giá trị lớn:

+) Khách hàng mua bán ngoại tệ bằng tiền mặt với số lƣợng lớn cho dù có tài

khoản trong ngân hàng.

+) Khách hàng thƣờng rút tiền mặt từ tài khoản với số lƣợng lớn, mà số tiền này

dƣờng nhƣ không phục vụ cho hoạt động kinh doanh của khách hàng.

+) Khách hàng rút tiền mặt từ tài khoản với số lƣợng lớn ngay khi nhận đƣợc tiền

chuyển khoản.

+) Khách hàng gửi tiền mặt với số lƣợng lớn vào tài khoản bằng cách chia nhỏ số

tiền mặt muốn gửi thành nhiều khoản khác nhau. Tuy nhiên, nếu tính tổng tất cả các

khoản tiền gửi đã chia nhỏ thì giá trị rất lớn.

+) Khách hàng thƣờng gửi tiền mặt với số lƣợng lớn vào ngân hàng, sau đó rút

tiền ra tài khoản bằng séc chi trả cho các cá nhân, công ty không có quan hệ kinh

doanh với khách hàng.

- Các giao dịch chuyển tiền ra nước ngoài

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, hoạt động chuyển tiền ra nƣớc ngoài thƣờng

xuyên diễn ra. Nhân viên ngân hàng có thể nhận ra giao dịch mang dấu hiệu bất

thƣờng thông qua tính chất, mục đích chuyển tiền. Có thể đó là việc một khách hàng

vãng lai chuyển tiền ra nƣớc ngoài mà không có lý do hợp pháp. Cũng có thể là việc

một khách hàng chuyển tiền tới chi nhánh nƣớc ngoài, công ty con hoặc ngân hàng

có trụ sở tại một quốc gia mà buôn lậu, tham nhũng, sản xuất và buôn bán ma túy

thƣờng xuyên diễn ra.

18

 Thông qua các khoản vay có hoặc không có thế chấp

Các khoản vay đƣợc trả bằng tiền mặt, ngoại tệ hoặc các công cụ thanh toán khác

mà ngƣời cho vay không đƣợc tiết lộ.

Các khoản cho vay đƣợc đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba mà không có mối

liên hệ minh bạch với khách hàng.

1.2.2. Điều kiện phát sinh rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Thứ nhất, chính sách nới lỏng kiểm soát ngoại hối của nhiều quốc gia. Ở nhiều

nƣớc, việc đổi nội tệ ra ngoại tệ và ngƣợc lại là hoàn toàn tự do. Một số quốc gia đã

chính thức sử dụng chung một thứ tiền (đồng Euro), hoặc công nhận đô la Mỹ hay

Euro nhƣ là nội tệ bán chính thức của họ. Một số công cụ tài chính mới xuất hiện.

Nhờ thế, nhiều lƣợng tiền kể cả sạch và bẩn có thể đƣợc chuyển từ nƣớc này sang

nƣớc khác trong nháy mắt, ngoài tầm kiểm soát của cơ quan công quyền.

Thứ hai, tiến độ mở cửa kinh tế ở hầu hết các nước tăng vọt, nhất là từ 10-15 năm

gần đây. Thị trƣờng vốn trở nên thông thoáng hơn. Hầu nhƣ mọi ngân hàng, công ty

tài chính, giao dịch chứng khoán…đều có đối tác quốc tế, thậm chí có thể là 100%

vốn nƣớc ngoài. Số lƣợng tiền lƣu hành toàn cầu gia tăng gấp nhiều lần, càng làm

cho mức độ phức tạp của nó cũng tăng lên. Hiển nhiên, càng nhiều loại hình dịch

vụ, tài chính thì càng lắm cơ hội và cách thức chuyển tiền phi pháp hoặc đƣa tiền

bẩn vào luồng tiền sạch.

Thứ ba, cạnh tranh thu hút vốn ngày càng kịch liệt giữa các nước, các công ty

phát hành chứng khoán, các ngân hàng, và các tổ chức trung gian tài chính khác.

Đây cũng là sự kiện làm bọn tội phạm rửa tiền thích thú vì bọn chúng biết rằng sớm

muộn gì cũng có ngân hàng, hay các công ty chứng khoán sẵn sàng nhận tiền mà

không cần biết nguồn gốc. Chính phủ cũng nhƣ các công ty tƣ nhân ngày càng nổ

lực thu hút vốn từ khắp nơi, dƣới dạng đầu tƣ trực tiếp lẫn gián tiếp.

19

Thứ tƣ, là tác động của cuộc cách mạng thông tin. Ngân hàng thƣờng là nơi đƣa

ứng dụng của công nghệ thông tin vào sớm và nhanh nhất. Ngày nay, hầu hết dịch

vụ tài chính đều có thể thực hiện trong nháy mắt từ bất cứ nơi nào trên thế giới

thông qua ngân hàng. Chi phí giao dịch cũng đƣợc hạ thấp đáng kể. Những thành

quả này của cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã đƣợc ngƣời rửa tiền tận dụng

triệt để.

Thứ năm, hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền chưa đầy đủ. Rửa tiền là

một vấn đề mang tính toàn cầu. Bọn tội phạm thƣờng lợi dụng những sơ hở trong

các quy định về giám sát của ngân hàng để thực hiện hành vi rửa tiền. Do đó, điều

đầu tiên phải kể đến đó là hệ thống tài chính tiền tệ đang trong giai đoạn phát triển

với những quy định lỏng lẻo trong cơ chế giám sát từ phía các tổ chức tài chính là

một trong những nguyên nhân tạo cơ hội thực hiện rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.

Thứ sáu, bộ máy tổ chức về phòng, chống rửa tiền còn nhiều hạn chế ở một số

nước.

Về phía ngân hàng trung ƣơng thiếu cơ quan đầu mối để có thể tiếp nhận thông tin

về các giao dịch đáng ngờ từ các NHTM trong nƣớc cũng nhƣ thế giới về phòng,

chống rửa tiền.

Về phía NHTM, thiếu cán bộ, hệ thống công nghệ thông tin còn tƣơng đối lạc hậu

và chƣa có quy trình về phòng, chống rửa tiền.

Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thƣờng phải đối mặt với

nhiều rủi ro. Vì vậy, các ngân hàng phải xây dựng các quy trình giám sát, kiểm toán

nội bộ chặt chẽ. Tuy nhiên, trong hầu hết các ngân hàng, việc xây dựng quy trình

giám sát về phòng, chống rửa tiền chƣa đƣợc quan tâm đúng mức.

1.2.3. Các phƣơng thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

Trƣớc xu thế hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động ngân hàng không những chịu áp

lực ngày càng gia tăng của bọn tội phạm trong nƣớc mà còn phải đối phó với nguy

20

cơ các tổ chức tội phạm quốc tế bởi lẽ các quốc gia đang phát triển với hệ thống

ngân hàng và tài chính chƣa thực sự phát tiển và tỷ trọng sử dụng tiền mặt cao,

thƣờng là địa chỉ mà bọn rửa tiền tìm đến. Nhìn chung, các quốc gia đều đã thực

hiện phƣơng thức phòng, chống rửa tiền nhƣ sau:

- Ban hành Luật và các quy định liên quan đến phòng, chống rửa tiền

Hiện nay, phần lớn các nƣớc phát triển đều đã ban hành Luật phòng, chống rửa

tiền. Tùy thuộc vào quy mô, tác động của rửa tiền tới mỗi quốc gia mà Luật phòng,

chống rửa tiền đƣợc ban hành vào những thời gian sớm muộn khác nhau. Nhƣng

nhìn chung, Luật phòng chống rửa tiền ở các nƣớc có một số đặc điểm chung nhƣ:

(i) Tuân thủ các khuyến nghị của FATF; (ii) Liệt kê các tội danh liên quan đến rửa

tiền; (iii) Yêu cầu các tổ chức tín dụng phải thực hiện quy tắc nhận biết khách hàng;

(iv) Liệt kê các giao dịch đáng ngờ, quy định mức giao dịch phải báo cáo; (v) Trách

nhiệm, quyền hạn của cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền.

- Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền

Hầu hết các quốc gia đều có cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền để

giám sát việc thực hiện Luật phòng, chống rửa tiền. Có hai mô hình hoạt động cơ

bản:

+) Cơ quan phòng, chống rửa tiền trực thuộc Chính phủ, trợ giúp chính phủ thực

hiện công tác phòng, chống rửa tiền. Cơ quan này vừa thực hiện giám sát thi hành

Luật phòng, chống rửa tiền vừa thu thập thông tin từ các tổ chức tín dụng, xử lý các

giao dịch đáng ngờ và đề xuất các biện pháp phòng, chống rửa tiền.

+) Cơ quan phòng, chống rửa tiền hoàn toàn độc lập với bộ máy Chính phủ, không

chịu sự chi phối của bất kì đơn vị nào trong bộ máy chính phủ. Nó có quyền hạn,

chức năng, phạm vi hoạt động rộng rãi hơn và đảm bảo tính khách quan trong điều

tra rửa tiền.

21

- Thiết lập quy trình phòng, chống rửa tiền tại các NHTM

+) Đánh giá và phân loại khách hàng: đây là việc làm hàng đầu, có ý nghĩa quan

trọng quyết định, trên cơ sở đó ngân hàng sẽ đƣa ra các biện pháp quản lý rủi ro

thích hợp. Thông thƣờng các ngân hàng thƣơng mại trên thế giới thƣờng phân

khách hàng thành 3 loại nhƣ sau:

Bảng 1.1: Phân loại các khách hàng có nghi vấn đến hoạt động rửa tiền

Phân loại khách hàng Mức độ giám sát

Kiểm tra giám sát thƣờng xuyên và bắt buộc Khách hàng có rủi ro cao trong việc tìm hiểu thông tin về khách hàng

Kiểm tra, giám sát ở mức độ bình thƣờng và tìm Khách hàng có rủi ro trung bình hiểu thông tin về khách hàng khi có yêu cầu

Kiểm tra, giám sát ở mức độ đơn giản và chỉ đòi Khách hàng có rủi ro thấp hỏi những thông tin thông thƣờng về khách hàng

Nguồn: Ngân hàng thế giới (2006), Nhận biết và theo dõi khách hàng, Hà Nội

+) Kiểm soát các giao dịch đáng ngờ: Giao dịch đáng ngờ là giao dịch có dấu hiệu

bất thƣờng liên quan đến rửa tiền đƣợc quy định cụ thể trong văn bản quy phạm

pháp luật của từng quốc gia. Phần lớn các quốc gia trên thế giới xem xét dấu hiệu

bất thƣờng dựa trên giá trị của các giao dịch, thƣờng các giao dịch vƣợt mức 10.000

USD hoặc tƣơng đƣơng sẽ nằm trong danh sách các giao dịch cần lƣu ý, báo cáo.

Một số quốc gia khác lại lƣu ý đến những giao dịch bất thƣờng thông qua tính chất,

đặc điểm giao dịch, thông tin về khách hàng… mà không quá quan tâm đến giá trị

giao dịch.

Nhân viên ngân hàng có nhiệm vụ báo cáo lên cấp trên xem xét khi phát hiện

những giao dịch đáng ngờ. Sau đó ngân hàng có nhiệm vụ kiểm tra tính xác thực

22

thông tin của khách hàng và chuyển các thông tin nghi ngờ này cho Cơ quan phòng,

chống rửa tiền.

+) Lưu giữ hồ sơ về khách hàng: Các ngân hàng thực hiện nghiêm chỉnh việc lƣu

giữ hồ sơ, thông tin khách hàng. Các thông tin về nhận dạng, chi tiết giao dịch phải

đƣợc lƣu trữ trong thời gian tối thiểu là 5 năm hoặc dài hơn theo yêu cầu của cơ

quan chức năng, đặc biệt là các hồ sơ có liên quan đến công tác điều tra khởi tố.

- Tuân thủ các khuyến nghị của FATF và thực hiện hợp tác quốc tế về phòng,

Ngày nay, hoạt động rửa tiền đã vƣợt qua khỏi khuôn khổ của một quốc gia, nó

chống rửa tiền

đƣợc thực hiện từ quốc gia này đến quốc gia khác. Vì vậy, không một quốc gia nào

riêng rẻ có đủ sức mạnh ngăn chặn nạn rửa tiền, cần có sự hợp tác của các quốc gia

trong việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm về phòng chống rửa tiền.

1.3. Cơ sở pháp lý về phòng chống rửa tiền trên thế giới

1.3.1. Các khuyến nghị của FATF – Cơ quan đặc nhiệm tài chính

Cơ quan đặc nhiệm tài chính FATF đƣợc thành lập tại Paris năm 1989 bởi nhóm

G7, nhằm phát triển các hoạt động hợp tác quốc tế đối phó với việc rửa tiền. Ba

chức năng chủ yếu của FATF liên quan đến rửa tiền là:

- Theo dõi tiến độ thực hiện các biện pháp chống rửa tiền của các thành viên

- Tổng kết và báo cáo xu hƣớng, thủ đoạn rửa tiền và các biện pháp chống rửa tiền

- Thúc đẩy việc chấp thuận và thực hiện các tiêu chuẩn của FATF về chống rửa

tiền trên toàn cầu.

Tháng 4 năm 1990, FATF đã ban hành bốn mƣơi khuyến nghị nhằm tìm kiếm sự

nhất trí giữa các nƣớc trong việc ban hành luật và thống nhất hành động của các

ngân hàng để hạn chế các dòng tiền thu đƣợc từ hoạt động buôn bán ma túy chuyển

qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Bốn mƣơi khuyến

23

nghị đƣa ra các nguyên tắc cho hành động; chúng cho phép một nƣớc linh hoạt theo

hoàn cảnh cụ thể và các yêu cầu của hiến pháp của riêng nƣớc đó để thực hiện các

nguyên tắc này. Mặc dù không có hiệu lực bắt buộc nhƣ luật đối với một nƣớc

nhƣng bốn mƣơi khuyến nghị đã đƣợc cộng đồng quốc tế và các tổ chức liên quan

thông qua một cách rộng rãi nhƣ một tiêu chuẩn cho công tác chống rửa tiền.

Bốn mƣơi khuyến nghị thực sự là các nhiệm vụ đòi hỏi mỗi nƣớc phải hành động

nếu nƣớc đó muốn đƣợc cộng đồng thế giới coi là đang tuân theo các tiêu chuẩn

quốc tế. Bốn mƣơi khuyến nghị phòng, chống rửa tiền đề cập đến những vấn đề nhƣ

sau:

- Thứ nhất, các khuyến nghị đề cập đến hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa

tiền nhƣ phạm vi của tội phạm rửa tiền (khuyến nghị 1 và 2), các biện pháp tạm thời

đƣợc áp dụng trong phòng, chống rửa tiền (khuyến nghị 3).

- Thứ hai, các khuyến nghị đưa ra các biện pháp ngăn ngừa rửa tiền và tài trợ cho

khủng bố bao gồm:

+) Các biện pháp nhận biết và lƣu giữ thông tin khách hàng (khuyến nghị 4 đến

12)

+) Báo cáo các giao dịch đáng ngờ (khuyến nghị 13 đến 16)

+) Các biện pháp để ngăn chặn rửa tiền tài trợ khủng bố (khuyến nghị 17 đến 20)

+) Các biện pháp dành cho các quốc gia không tuân thủ đầy đủ các khuyến nghị

của FATF (khuyến nghị 21 và 22)

+) Các quy định và sự giám sát (khuyến nghị 23,24,25)

- Thứ ba, các biện pháp được đưa ra cho các cơ quan công quyền trong cuộc

chiến chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố, bao gồm:

+) Các quy định về quyền lực và nguồn lực các cấp có thẩm quyền (khuyến nghị

26 đến 32)

24

+) Sự minh bạch của các quan chức và các thỏa thuận (khuyến nghị 33 và 34)

+) Vấn đề hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền (khuyến nghị 35)

+) Sự trợ giúp pháp lý lẫn nhau và các vấn đề dẫn độ tội phạm rửa tiền (khuyến

nghị 36 đến 39)

+) Các hình thức hợp tác khác (khuyến nghị 40)

Sau ngày 11/9/2001 FATF ban hành thêm 9 khuyến nghị về tài trợ khủng bố.

1.3.2. Các quy định của Ủy ban Basel

Trong năm 1988, Ủy ban Basel đã ban hành Bản tuyên bố về ngăn ngừa tội phạm

sử dụng hệ thống ngân hàng cho mục đích rửa tiền (Bản tuyên bố về ngăn ngừa).

Mục đích chính là xây dựng những khuôn khổ chung để kiểm soát các rủi ro và

giám sát an toàn đối với những ngân hàng hoạt động quốc tế. Có bốn nguyên tắc

đƣợc đƣa ra trong Bản tuyên bố này, đó là:

- Nhận dạng khách hàng đúng cách;

- Tiêu chuẩn đạo đức cao và tuân thủ luật pháp;

- Hợp tác với các cơ quan thi hành pháp luật; và

- Các chính sách và thủ tục để đảm bảo tuân thủ Bản tuyên bố này.

Trong năm 1997, Ủy ban Basel đã ban hành Các nguyên tắc cốt lõi để giám sát

ngân hàng hiệu quả (Các nguyên tắc cốt lõi), trong đó có đề cập đến vấn đề rửa tiền,

nguyên tắc này quy định:

Các giám sát viên ngành ngân hàng phải bảo đảm rằng các ngân hàng có sẵn

những chính sách, phƣơng pháp và thủ tục thích hợp, bao gồm các quy tắc nghiêm

ngặt về “hiểu biết khách hàng của mình”, nhằm thúc đẩy các tiêu chuẩn đạo đức và

nghề nghiệp cao trong khu vực tài chính và ngăn ngừa việc ngân hàng bị các phần

tử phạm tội lợi dụng, một cách cố ý hay vô ý.

25

1.3.3. Các nguyên tắc phòng chống rửa tiền Wolfsberg

Wolfsberg là một hiệp hội gồm 12 ngân hàng toàn cầu đƣợc thành lập vào năm

2000 với mục đích phát triển các tiêu chuẩn cho ngành dịch vụ tài chính và các sản

phẩm liên quan cũng nhƣ các chính sách phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.

Văn bản đầu tiên của Hiệp hội là “Các nguyên tắc phòng chống rửa tiền dành cho

hệ thống ngân hàng tƣ nhân” đƣợc phát hành vào tháng 10/2000 và đƣợc sửa đổi

vào tháng 5/2002. Nó thể hiện quan điểm của nhóm về các hƣớng dẫn thích hợp để

chống rửa tiền khi đối mặt với các cá nhân có thế lực và các bộ phận ngân hàng tƣ

nhân thuộc các thể chế tài chính. Những nguyên tắc này liên quan đến việc nhận

dạng khách hàng, bao gồm việc xác định chủ sở hữu hƣởng lợi của tất cả các tài

khoản và các tình huống liên quan đến việc phải tăng cƣờng thủ tục chú ý xác đáng,

ví dụ nhƣ các giao dịch bất thƣờng hoặc đáng ngờ.

Năm 2002, ban hành “Các nguyên tắc phòng chống rửa tiền trong hệ thống ngân

hàng đại lý”, chi phối việc thành lập và duy trì quan hệ với các ngân hàng đại lý trên

toàn cầu, cấm các ngân hàng quốc tế giao dịch với các “ngân hàng trá hình”. Vào

tháng 9/2003 ban hành “Thông cáo về giám sát việc sàng lọc và tìm kiếm dữ liệu

liên quan”.

Năm 2009, Hiệp hội đƣa ra 2 ấn phẩm quan trọng “Các nguyên tắc Wolfsberg

trong hoạt động tài trợ thƣơng mại” và “Hƣớng dẫn phòng chống rửa tiền đối với

dịch vụ thẻ tín dụng và các hoạt động sáp nhập bán buôn".

1.4. Hệ thống phòng chống rửa tiền của một số nƣớc trên thế giới

1.4.1. Phòng, chống rửa tiền tại Mỹ

Mỹ là nƣớc có hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa tiền toàn diện và nghiêm

khắc nhất trên thế giới mà tất cả các định chế tài chính và nhân viên của họ đều phải

tuân theo.

26

Một trong những đạo luật quan trọng nhất liên quan đến phòng, chống rửa tiền là

Luật Bí mật ngân hàng (BSA) năm 1970 và những quy tắc của nó. Mục đích của

BSA là tạo ra một văn bản pháp lý tạo điều kiện điều tra tội phạm rửa tiền, trốn

thuế…, nhằm loại bỏ giao dịch ngân hàng ẩn danh. Theo đó, Bộ tài chính có quyền

buộc các ngân hàng lƣu giữ hồ sơ để dễ truy vết hoạt động “rửa tiền”, các ngân

hàng phải báo cáo tất cả giao dịch một lần trên 10.000 USD hoặc nhiều lần có tổng

giá trị trên 10.000 USD nhận vào hoặc chuyển đi từ một tài khoản trong cùng một

ngày. Sau đó Luật đƣợc sửa đổi cho phép Chính phủ và các cơ quan chức năng có

thể hạ thấp mức chuẩn 10.000 USD trong các cuộc điều tra.

Một số luật quan trọng khác trong việc phòng, chống rửa tiền tại Mỹ gồm Luật

Kiểm soát toàn diện tội phạm năm 1984; Luật Kiểm soát rửa tiền năm 1986 ra đời

đánh dấu bƣớc ngoặt trong cuộc chiến chống nạn rửa tiền, từ đó rửa tiền đã bị xem

là hành vi tội phạm thay vì chỉ là yếu tố trong toàn bộ một tội ác; Luật Chống sử

dụng ma túy năm 1988, Luật Chống rửa tiền Annunzio – Wylie năm 1992. Tiếp đó,

Luật Ngăn chặn rửa tiền năm 1994 yêu cầu các ngân hàng phải thành lập lực lƣợng

đặc nhiệm để loại trừ các hoạt động đáng ngờ trong các tổ chức của họ. Luật Ái

quốc năm 2001 thiết lập kiểm tra danh tính bắt buộc đối với khách hàng của các

ngân hàng Mỹ, cung cấp các nguồn theo dõi những giao dịch trong hệ thống ngân

hàng ngầm thƣờng đƣợc bọn khủng bố sử dụng. Những luật và quy định về phòng,

chống rửa tiền tại Mỹ luôn đƣợc bổ sung, sửa chữa cho phù hợp với những thay đổi

của tội phạm rửa tiền, bên cạnh đó, lực lƣợng thực thi pháp luật cũng tăng cƣờng

hành động.

Luật Chống rửa tiền quy định nghĩa vụ của tất cả các đối tƣợng, từ các cá nhân đến

các tổ chức khi phát hiện có sự tham gia vào bất kỳ hoạt động rửa tiền nào và là căn

cứ để tịch thu, sung quỹ tiền và tài sản liên quan đến hoạt động rửa tiền. Việc không

tuân thủ những quy tắc và luật lệ liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền của

các nhân viên của tổ chức tín dụng có thể dẫn tới bị phạt dân sự và hình sự. Về mặt

dân sự, nhân viên ngân hàng có thể bị phạt tới 100.000 USD cho việc cố tình vi

27

phạm những quy định về báo cáo và lƣu giữ chứng từ của BSA. Về mặt hình sự,

ngƣời vi phạm có thể bị phạt tiền tới 250.000 USD, 5 năm tù hoặc cả hai.

Một trong những vụ sớm nhất và nổi tiếng nhất liên quan đến việc ngân hàng bị

phạt do vi phạm các quy định và luật lệ liên quan đến hoạt động rửa tiền tại Mỹ là

trƣờng hợp Ngân hàng Boston. Mặc dù đã đƣợc yêu cầu phải tuân thủ chặt chẽ hơn

trong việc lƣu giữ các chứng từ giao dịch vào năm 1980, song Ngân hàng Boston

vẫn tiếp tục giao dịch với các ngân hàng nƣớc ngoài, bao gồm cả các ngân hàng đại

lý của nó mà không hề lƣu giữ hồ sơ chứng từ đến tận năm 1984. Nghiêm trọng

hơn, các chi nhánh của Ngân hàng Boston đã tiếp tục thực hiện những giao dịch với

những tội phạm nổi tiếng qua nhiều năm. Những nhân vật này đã thực hiện những

phi vụ kinh doanh bất động sản, nhƣng nhân viên của Ngân hàng Boston đã không

báo cáo và lƣu giữ chứng từ của những giao dịch này mặc dù chúng không đƣợc

loại trừ theo các quy định và luật lệ về tài chính. Đến năm 1985, Ngân hàng Boston

mới thực hiện đúng các yêu cầu về phòng, chống rửa tiền theo các quy định, luật lệ

nên cuối cùng đã bị kết án và bị phạt 500.000 USD.

1.4.2. Phòng, chống rửa tiền tại Anh

Tại Anh, các định chế tài chính cũng hoạt động theo những quy định về phòng,

chống rửa tiền tƣơng tự nhƣ tại Mỹ. Tháng 12/1990, nƣớc Anh ban hành một loạt

văn bản hƣớng dẫn các ngân hàng trong việc phát hiện và chấm dứt các hoạt động

rửa tiền, trong đó tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ của ngân hàng trong việc

cảnh báo cho các cơ quan quyền lực những hoạt động và giao dịch đáng ngờ. Các

hƣớng dẫn này đƣợc xây dựng bởi Ngân hàng Trung ƣơng Anh và các NHTM với

sự phối hợp, tham gia của cơ quan tình báo quốc gia, hải quan, cảnh sát. Theo đó,

ngân hàng phải đích thân nhận dạng tất cả các khách hàng bằng mọi cách có thể, kể

cả bằng cách gặp mặt trực tiếp. Hƣớng dẫn cũng chỉ rõ các cách thức xác nhận

thông tin cá nhân, trong đó hộ chiếu là hình thức đƣợc ƣu tiên, ngoài ra các hình

thức khác cũng đƣợc chấp nhận nhƣ thẻ nhân viên, bằng lái xe… Hơn nữa, các ngân

hàng phải lƣu giữ tất cả các chứng từ giao dịch trong 6 năm để phục vụ điều tra.

28

Cũng giống nhƣ tại Mỹ, việc không tuân theo những hƣớng dẫn và các luật, quy

định sẽ dẫn tới những trách nhiệm pháp lý. Những trách nhiệm pháp lý dân sự có

thể nảy sinh nếu vi phạm những quy định về sự bảo mật của khách hàng. Hƣớng

dẫn tại Anh chỉ ra rằng các nhân viên của các định chế tài chính phải hợp tác một

cách toàn diện với các cơ quan pháp luật và phải thông báo trƣớc cho các cơ quan

này các giao dịch đáng ngờ. Trong khi các ngân hàng là chủ thể chính, các tổ chức

tài chính khác nhƣ công ty bảo hiểm, tổ chức môi giới cũng phải thực hiện những

hƣớng dẫn này.

Những quy định, luật lệ khác liên quan đến phòng, chống rửa tiền tại Anh bao gồm

Luật Chống buôn bán ma túy năm 1986, Luật Phòng, chống khủng bố năm 1987,

Luật Hình sự (Hợp tác quốc tế) năm 1990 và Luật Hình sự năm 1993. Bộ luật đầu

tiên cho phép cảnh sát có quyền điều tra những tài sản đáng ngờ có liên quan đến

ma túy, phong tỏa chúng và khi có chứng cớ sẽ tịch thu những tài sản này. Luật

Phòng, chống khủng bố năm 1987 quy định sẽ kết tội những ngƣời sử dụng hoặc sở

hữu quỹ khủng bố. Luật Hình sự năm 1990 cho phép kết tội những ngƣời che giấu,

biển thủ, chuyển nhƣợng hoặc vận chuyển những tài sản hoặc giúp đỡ ngƣời khác

làm việc đó khi biết hoặc nghi ngờ những tài sản do phạm tội buôn bán ma túy mà

có. Luật Hình sự năm 1993 mở rộng quyền lực của tòa án trong việc kết tội rửa tiền

nhƣ một tội phạm hình sự. Sau đó có các Luật về các khoản thu nhập từ tội phạm

năm 2002 (sửa đổi năm 2005); Luật về rửa tiền năm 2007; Luật về khủng bố năm

2000 và 2006.

Hệ thống luật lệ ngân hàng và các hƣớng dẫn thực hành giám sát của cộng đồng

châu Âu yêu cầu tất cả các nhân viên ngân hàng đều phải nhận biết khách hàng của

họ; đồng thời cải thiện hệ thống lƣu giữ chứng từ, ngăn chặn kịp thời những hành

động đáng ngờ và tập huấn các nhân viên để họ tuân theo các luật lệ ngân hàng một

cách chủ động và có thể nhận biết, báo cáo các hành động rửa tiền.

29

1.4.3. Phòng, chống rửa tiền tại một số nƣớc khác

Nƣớc Úc cũng thực hiện hệ thống báo cáo giao dịch tiền tệ tƣơng tự nhƣ tại Mỹ.

Bất kỳ một giao dịch tiền tệ nào tƣơng đƣơng hoặc lớn hơn 10.000 USD đều phải

báo cáo. Những dữ liệu này sau đó đƣợc truyền tự động tới Cơ quan Báo cáo giao

dịch tiền tệ.

Tại Nhật, các ngân hàng đƣợc yêu cầu phải báo cáo tất cả các giao dịch tiền tệ

trong nƣớc vƣợt quá 30 triệu Yên và các giao dịch tiền tệ quốc tế vƣợt quá 5 triệu

Yên. Hơn nữa, trong trƣờng hợp liên quan đến ma túy, tòa án có thể kết án ngân

hàng và các tổ chức tín dụng về tội rửa tiền.

Các nƣớc trong khu vực nhƣ Singapore, Thái Lan, Myanmar, Indonesia, Philippin

đều có các văn bản về chống rửa tiền với những phạm vi và mức độ khác nhau. Các

nƣớc này cũng đã thành lập những cơ quan chuyên trách riêng xử lý vấn đề liên

quan đến phòng, chống rửa tiền nhƣ AMLO hay AMLC. Các cơ quan này có chức

năng chủ yếu là thu thập và xử lý thông tin liên quan đến tài sản liên quan đến buôn

bán ma tuý và rửa tiền.

1.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới trong hoạt động phòng,

chống rửa tiền, Việt Nam cần chú ý một số yếu tố sau:

-Yếu tố nhân lực: Trong công tác phòng, chống rửa tiền yếu tố con ngƣời có ý

nghĩa hết sức quan trọng, cần những ngƣời có đủ năng lực, đạo đức, hợp tác cùng

nhau chống rửa tiền một cách hiệu quả.

- Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền: Kinh

nghiệm của các nƣớc cho thấy, văn bản pháp lý càng hoàn chỉnh, càng đầy đủ và

càng chặt chẽ sẽ là nền tảng cơ sở pháp lý vững chắc để các cơ quan có thể thực

hiện đầy đủ quyền hạn và chức năng của mình.

30

- Xây dựng hệ thống giám sát hiệu quả: Bất kỳ một hoạt động nào khi thực hiện

cũng cần đƣợc theo dõi, giám sát chặt chẽ mới đảm bảo tính hiệu quả của nó. Hệ

thống pháp luật hoàn chỉnh cùng với hệ thống giám sát hiệu quả sẽ góp phần đẩy lùi

tệ nạn rửa tiền.

- Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng: Mỗi ngân hàng cần phân loại đối với

từng loại khách hàng: khách hàng vay, khách hàng gửi tiền, khách hàng sử dụng các

dịch vụ ngân hàng nhƣ chuyển tiền, thanh toán quốc tế…Việc các ngân hàng xây

dựng phân khúc, phân loại khách hàng tốt là đã thực hiện và cắt đứt đƣợc giai đoạn

đầu trong quy trình rửa tiền, không cho tội phạm tiếp cận các ngân hàng.

- Phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, cơ quan, ngân hàng với nhau: Công tác

phòng chống rửa tiền là công việc hết sức phức tạp, tốn nhiều thời gian công sức,

đòi hỏi sự quyết tâm, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành, tổ chức có liên

quan, giữa NHTM với NHNN, giữa các ngân hàng với nhau.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Qua chƣơng này, luận văn đã giới thiệu các khái niệm về rửa tiền, các phƣơng thức

và quy trình rửa tiền tiêu biểu cũng nhƣ những ảnh hƣởng của hoạt động rửa tiền

đến nền kinh tế. Giới thiệu về hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng, các cơ sở

pháp lý cùng với kinh nghiệm phòng, chống rửa tiền của một số nƣớc trên thế giới.

Từ đó cho thấy, hoạt động rửa tiền ngày nay không bó hẹp trong phạm vi một quốc

gia mà có xu hƣớng mở rộng ra toàn thế giới với quy mô ngày càng lớn.

Hoạt động rửa tiền diễn ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣng rửa tiền qua hệ thống

ngân hàng vẫn hấp dẫn hơn cả. Vì thông qua ngân hàng, khả năng giao dịch lớn và

đồng tiền “bẩn” sẽ trở thành tiền “sạch”, từ đó có thể giao dịch đến bất kỳ đâu mà

không gây ra bất cứ một sự nghi ngờ gì về tính hợp pháp của chúng. Ngành ngân

hàng Việt Nam hiện đang đứng trƣớc nguy cơ bị bọn rửa tiền tìm đến. Thực trạng

về hoạt động rửa tiền ở Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng Việt Nam nói

riêng đƣợc trình bày ở chƣơng 2 sẽ cho thấy rõ hơn về vấn đề này.

31

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM

2.1. Cơ sở pháp lý về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam

2.1.1. Các văn bản pháp quy về phòng, chống rửa tiền

- Phòng, chống tội rửa tiền đã đƣợc đề cập chính thức lần đầu tiên trong Bộ luật

hình sự năm 1999 của Việt Nam với tội danh “tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do

phạm tội mà có”. Cụ thể nhƣ thành lập tội danh, cùng những hình phạt

thích đáng, đối với bất cứ hành vi nào hợp pháp hóa tiền tệ và tài sản có đƣợc từ

hành vi phạm tội, che giấu hoặc sở hữu lƣợng lớn tài sản có đƣợc do hành vi phạm

tội của ngƣời khác, giả mạo tiền, séc, hoặc giấy tờ có giá khác. Ngoài ra, luật cũng

thành lập tội danh và hình phạt đối với các hành vi phạm tội khác nhau, bao gồm

khủng bố và các tội danh liên quan đến khủng bố khác. Theo đó, việc gây quỹ tài

trợ cho hành động khủng bố, trực tiếp hoặc gián tiếp, là bất hợp pháp và tạo thành

tội ác nghiêm trọng.

- Trong văn bản pháp lý cao nhất quy định các hoạt động ngân hàng – Luật các tổ

chức tín dụng có hiệu lực ngày 01/10/1998 đã quy định trách nhiệm của các định

chế tài chính đối với các khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp.

- Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền ngày 07/06/2005 của Chính

phủ, có hiệu lực ngày 01/08/2005 là văn bản đầu tiên quy định riêng và toàn diện

nhất về phòng, chống rửa tiền. Nghị định quy định cơ chế và các biện pháp phòng,

chống rửa tiền ở Việt Nam trong các giao dịch tiền tệ hay tài sản khác; trách nhiệm

của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế trong

lĩnh vực phòng, chống rửa tiền. Theo Nghị định này, các tổ chức tài chính phải (i)

xây dựng quy trình kiểm soát, kiểm toán nội bộ bảo đảm cho việc phòng, chống rửa

tiền có hiệu quả và phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành; (ii) xây dựng

quy trình tìm hiểu, cập nhật thông tin và thủ tục nhận biết khách hàng; (iii) lƣu giữ,

cập nhật số liệu và báo cáo các giao dịch có mức giá trị giao dịch từ 200 triệu đồng

32

đối với giao dịch trong một ngày và 500 triệu đồng đối với giao dịch tiền gửi tiết

kiệm…

- Thông tƣ 22/2009/TT-NHNN ngày 17/11/2009 (thông tƣ 22) Hƣớng dẫn các

biện pháp phòng, chống rửa tiền Đính kèm: - Báo cáo các giao dịch nộp tiền mặt có

tổng giá trị từ 200.000.000 đồng trở lên; - Báo cáo các giao dịch rút tiền mặt có tổng

giá trị từ 200.000.000 đồng trở lên; - Báo cáo các giao dịch gửi hoặc rút tiết kiệm

bằng tiền mặt có tổng giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên; - Báo cáo giao dịch đáng

ngờ.

- Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật số 47/2010/QH12 ngày 29/06/2010),

điều 11 quy định về trách nhiệm phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố.

- Thông tƣ số 148/2010/TT-BTC ngày 24/09/2010 của Bộ tài chính hƣớng dẫn

thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền đối với lĩnh vực bảo hiểm, chứng

khoán và trò chơi giải trí có thƣởng.

- Ngày 18/06/2012, Luật phòng, chống rửa tiền đã đƣợc Quốc hội ban hành và

chính thức có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2013 đánh dấu bƣớc ngoặc đáng kể

trong quyết tâm phòng, chống rửa tiền của Việt Nam. Luật quy định về các biện

pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền;

trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác

quốc tế về phòng, chống rửa tiền.

2.1.2. Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng chống rửa tiền

 Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền (nay là Cục phòng, chống rửa

tiền) đƣợc thành lập theo quyết định số 1003/2005/QĐ-NHNN ngày 08/07/2005 của

NHNN với vai trò là một đơn vị tình báo tài chính của Việt Nam. Trung tâm thông

tin phòng, chống rửa tiền giữ vai trò đi đầu trong việc thực thi chống rửa tiền tại

Việt Nam, kể cả việc hợp tác trong nƣớc, nâng cao nhận thức chung giữa các cơ

quan có thẩm quyền khác và các tổ chức báo cáo.

33

Theo Nghị định 74, Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền thực hiện chức

năng là một trung tâm quốc gia trong việc thu thập, phân tích và chuyển giao các

thông tin liên quan đến rửa tiền; là đầu mối thực hiện vai trò quản lý nhà nƣớc về

phòng, chống rửa tiền nhƣ: tiếp nhận, tổng hợp, phân tích, xử lý tài liệu, hồ sơ về

các giao dịch có nghi vấn; chuyển giao, cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà

nƣớc có thẩm quyền liên quan đến việc rửa tiền và tài trợ khủng bố. Trung tâm

thông tin phòng, chống rửa tiền sẽ tiếp nhận các báo cáo giao dịch đáng ngờ của các

tổ chức báo cáo. Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền sẽ xem xét, xử lý, trong

trƣờng hợp có dấu hiệu liên quan tới rửa tiền hoặc tội phạm khác thì chuyển hồ sơ

sang Bộ Công an xem xét, xử lý.

Theo quy định tại Điều 16 Nghị định 74, Bộ Công an là cơ quan có trách nhiệm

chính trong điều tra hoạt động rửa tiền. Hai Cục chủ chốt của Bộ Công an là Cục

Điều tra các tội phạm kinh tế và Cục Chống khủng bố chịu trách nhiệm điều tra về

rửa tiền và khủng bố. Bộ Công an có trách nhiệm: tổ chức lực lƣợng điều tra các tội

phạm liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố; hƣớng dẫn các cơ quan khác tiến

hành điều tra sơ bộ các tội phạm có liên quan đến rửa tiền theo quy định của pháp

luật tố tụng hình sự và Nghị định 74.

 Ban Chỉ đạo phòng, chống rửa tiền thành lập tháng 04/2009 nhằm tăng cƣờng

các nỗ lực cũng nhƣ hiệu quả hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Ban

Chỉ đạo phòng, chống rửa tiền do Phó Thủ tƣớng Thƣờng trực Chính phủ Nguyễn

Sinh Hùng làm trƣởng ban. Các Phó trƣởng ban là Thống đốc NHNN Việt Nam và

lãnh đạo Bộ Công An, 11 ủy viên là lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan. NHNN Việt

Nam đƣợc giao nhiệm vụ là cơ quan thƣờng trực của Ban chỉ đạo. Ban Chỉ đạo

phòng, chống rửa tiền có các nhiệm vụ và quyền hạn nhƣ:

- Giúp Thủ tƣớng Chính phủ chỉ đạo xây dựng chiến lƣợc, chủ trƣơng, chính sách,

chƣơng trình, kế hoạch, cơ chế, giải pháp trong công tác phòng, chống rửa tiền.

34

- Giúp Thủ tƣớng Chính phủ chỉ đạo, điều phối hoạt động, đôn đốc, kiểm tra và

đánh giá công tác phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam.

- Giúp Thủ tƣớng Chính phủ chỉ đạo việc triển khai thực hiện nghĩa vụ thành viên

của Việt Nam trong Nhóm châu Á – Thái Bình Dƣơng về chống rửa tiền (APG) và

kế hoạch tiến tới thực hiện đầy đủ 40+9 Khuyến nghị của Lực lƣợng đặc nhiệm tài

chính về chống rửa tiền (FATF).

- Phối hợp với các lực lƣợng nòng cốt trong công tác chống khủng bố nhằm nghiên

cứu, đề xuất cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành chính sách pháp luật,

chƣơng trình, biện pháp chống tài trợ cho khủng bố trên lãnh thổ Việt Nam.

- Duyệt báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền theo

từng thời kỳ và khi Thủ tƣớng Chính phủ yêu cầu.

- Giúp Thủ tƣớng Chính phủ nghiên cứu, ban hành chủ trƣơng, chính sách về hợp

tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền phù hợp từng thời kỳ.

- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Thủ tƣớng Chính phủ phân công.

2.2. Thực trạng phòng, chống rửa tiền ở các NHTM Việt Nam

2.2.1. Các phƣơng thức, thủ đoạn rửa tiền chủ yếu qua ngân hàng gần đây

2.2.1.1. Các trường hợp nghi ngờ rửa tiền đã phát hiện trong thời gian qua

Theo Cục phòng, chống rửa tiền thuộc NHNN, ở Việt Nam khó có thể thống kê

chính xác thời điểm hành vi rửa tiền xuất hiện, nhƣng có những dấu hiệu cho thấy

các nhóm tội phạm quốc tế đã nhắm đến Việt Nam để thực hiện hành vi rửa tiền.

Cho đến nay, Việt Nam chƣa có vụ án rửa tiền nào bị khởi tố điều tra mà hành vi

rửa tiền chỉ bị phanh phui, xử lý nhƣ một trong tổng thể các hành vi phạm tội của

một vụ án. Bởi hoạt động rửa tiền diễn ra hết sức tinh vi, đa dạng, bọn tội phạm sử

dụng các hoạt động nghiệp vụ kinh tế nhƣ tài chính, kế toán, ngân hàng nên rất khó

bị phát hiện.

35

Lực lƣợng cảnh sát quốc tế Interpol cũng đƣa ra cảnh báo trong những năm qua,

đã xuất hiện một số vụ rửa tiền thông qua việc chuyển tiền có nguồn gốc bất hợp

pháp từ nƣớc ngoài vào Việt Nam. Đặc biệt, một số đối tƣợng, băng nhóm tội phạm

ngƣời gốc Phi vào Việt Nam sử dụng giấy tờ giả mở tài khoản tại các NHTM để

đồng bọn ở nƣớc ngoài chuyển tiền vào, sau đó rút hết tiền trong các tài khoản này.

Từ tháng 4/2004 đến tháng 7/2006, các cơ quan chức năng đã phát hiện James

Edmund Corbett (công dân Australia, tạm trú tại phƣờng Linh Trung, quận Thủ

Đức, TP HCM) có dấu hiệu bất thƣờng nghi vấn là rửa tiền. James E.Corbett đã mở

tài khoản vãng lai USD tại một số ngân hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua

các tài khoản này, đã nhận hơn 3,2 triệu USD từ nƣớc ngoài chuyển vào Việt Nam,

sau đó lần lƣợt chuyển cho một số công ty ở Việt Nam và ở nƣớc ngoài.

Điển hình là vụ rửa tiền xuyên quốc gia đã đƣợc Công an Đà Nẵng phát hiện vào

tháng 10/2008, bắt đƣợc thủ phạm là Baggio Carlitos Linska, quốc tịch

Mozambique khi đến chi nhánh một NHTM tại Đà Nẵng mở cùng lúc 2 tài khoản.

Ngay sau khi mở đƣợc tài khoản, lập tức có hơn 4,1 tỷ đồng đƣợc chuyển vào. Điều

đáng nghi ngờ là đối tƣợng này tức tốc làm thủ tục để rút tiền. Nhận thấy giao dịch

bất thƣờng, cơ quan điều tra đã vào cuộc và xác minh số tiền trên là khoản tiền bọn

tội phạm đánh cắp từ một tài khoản nƣớc ngoài. Sau đó chuyển vào Việt Nam qua

hai chi nhánh NHTM tại Đà Nẵng và Bà Rịa – Vũng Tàu. Công an Đà Nẵng đã tiến

hành tạm giữ Linska và Massamba Lendebe Vis (quốc tịch Mozambique). Đáng

tiếc là Niaty Lokasso Djamba (quốc tịch Congo), ngƣời đã mở tài khoản và đƣợc

chuyển số tiền hơn 3,34 tỷ đồng tại Bà Rịa – Vũng Tàu đã nhanh chân tẩu thoát.

Ngoài ra trong một số vụ án khác, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã phát

hiện hành vi rửa tiền hoặc có dấu hiệu rửa tiền. Điển hình là vụ việt kiều Lê Thị

Phƣơng Mai đầu tƣ tiền từ hoạt động ma túy vào các dự án của công ty Viet – Can

Resorts & Plannation Inc. Theo hồ sơ của Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI), Lê Thị

Phƣơng Mai là nhân vật đã đứng ra tổ chức một tập đoàn tội phạm quốc tế lớn tại

Bắc Mỹ, hoạt động theo quy trình khép kín từ sản xuất, tiêu thụ ma túy đến rửa tiền.

36

Đầu năm 2004, trƣớc khi bị FBI bắt khoảng 3 tháng, Mai cùng một số ngƣời khác

dƣới danh nghĩa ngƣời của Công ty Viet – Can Resorts & Plannation Inc, đã về Việt

Nam tìm “cơ hội đầu tƣ”. Mai đã xin phép đầu tƣ 25 triệu USD vào dự án khu nghĩ

mát và căn hộ cho thuê tại Dốc Lết, Ninh Hòa, Khánh Hòa. Cùng lúc, Công ty Viet

– Can Resorts & Plannation Inc cũng lập một website trên mạng internet để quảng

bá dự án du lịch cùng một dự án khác ở tỉnh Lâm Đồng. Tháng 2/2004, UBND tỉnh

Khánh Hòa có văn bản đồng ý về mặt chủ trƣơng cho phép đầu tƣ khu nghỉ mát và

căn hộ cho thuê với diện tích khoảng 70 ha tại Dốc Lết. Dự án chƣa kịp hoàn thành

thủ tục thì Mai bị bắt giữ.

Hoặc nhƣ vụ Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam nhận đƣợc email từ một

số doanh nhân Nigeria yêu cầu mở tài khoản 28 triệu USD, hứa hẹn sẽ chi lại 15%

tổng số tiền… Trong thời gian gần đây, lực lƣợng công an Việt Nam đã phối hợp

với Cục Phòng, chống rửa tiền đã phát hiện nhiều giao dịch nghi vấn liên quan đến

hoạt động này.

Các chuyên gia của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và quản lý chức vụ

(Bộ công an) cũng cho rằng, việc rửa tiền qua chứng khoán là việc rất dễ dàng, do

đặc thù của chứng khoán là mọi ngƣời đều có quyền mua đi bán lại cổ phiếu và tái

đầu tƣ trong khi giá cổ phiếu lại lên xuống thất thƣờng. Rửa tiền qua đánh bạc chính

là phƣơng pháp rửa tiền nhanh nhất, nhƣ trong một số vụ án thời gian qua đã bị

phanh phui. Trƣớc đây, Công an Việt Nam phối hợp với phía Canada điều tra trùm

cá độ bóng đá Ngô Tiến Dũng có dấu hiệu mang hàng chục triệu USD từ nƣớc

ngoài về “rửa tiền” ở Việt Nam. Ngô Tiến Dũng đƣợc xác định là ngƣời cầm đầu

đƣờng dây cá độ bóng đá cực lớn, với số tiền luân chuyển 1- 2 triệu USD mỗi đêm.

Vụ việc này cho thấy, mánh khóe của tội phạm rửa tiền là dùng “tiền bẩn” mở tài

khoản ở ngân hàng, sau đó chúng sẽ dùng số tiền đó rót vào những trận cá độ bóng

đá trên mạng. Nếu thắng, tiền thƣởng sẽ đƣợc thanh toán vào một tài khoản hợp

pháp khác.

37

2.2.1.2. Các biểu hiện rửa tiền qua hệ thống NHTM Việt Nam

Cho đến nay có rất nhiều biểu hiện rửa tiền qua hệ thống ngân hàng đƣợc các

nƣớc trên thế giới ghi nhận. Tại Việt Nam, mặc dù chƣa có vụ án rửa tiền nào đƣợc

phanh phui, nhƣng nhƣ thế không có nghĩa là chúng ta không có rửa tiền. Trong giai

đoạn 2009-2012, Cục phòng, chống rửa tiền đã nhận đƣợc hàng trăm báo cáo giao

dịch đáng ngờ từ các tổ chức tín dụng với các hành vi rửa tiền đƣợc biểu hiện nhƣ:

khách hàng có thái độ miễn cƣỡng khi cung cấp các thông tin cá nhân; các khách

hàng đang bị điều tra, khởi kiện hoặc nằm trong danh sách cảnh báo rửa tiền quốc

tế; các giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế; các giao dịch gồm nhiều khoản

tiền mặt có giá trị lớn; các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển tiền quốc tế và

các giao dịch liên quan đến các hoạt động đầu tƣ.

Bảng 2.1: Số lƣợng báo cáo giao dịch đáng ngờ thống kê theo biểu hiện rửa tiền

Loại biểu hiện 2009 2010 2011 2012

Thái độ miễn cƣỡng khi cung cấp thông tin 9 53 48 16

Khách hàng đang bị điều tra, khởi kiện hoặc nằm 35 96 97 55 trong danh sách cảnh báo rửa tiền quốc tế

Các giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế 24 19 15 8

Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt có giá trị lớn 49 36 14 6

Các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển tiền 25 78 75 47 quốc tế

Các giao dịch liên quan đên các hoạt động đầu tƣ 10 26 29 18

Tổng cộng 93 326 304 165

Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng

38

Theo số liệu của bảng tổng hợp trên cho thấy các giao dịch liên quan đến các

khách hàng đang bị điều tra, khởi kiện hoặc các cuộc chuyển tiền quốc tế chiếm tỷ

lệ lớn trong các báo cáo giao dịch đáng ngờ là do các hoạt động chuyển tiền và

khách hàng nằm trong danh sách cảnh báo cụ thể đƣợc cập nhật thƣờng xuyên, dễ

dàng phát hiện khi thực hiện giao dịch qua ngân hàng. Các hoạt động còn lại nhƣ

hoạt động đầu tƣ, các giao dịch không mang lợi ích kinh tế đang là đích nhắm đến

của bọn tội phạm rửa tiền nhƣng việc phát hiện các hoạt động này khó khăn, đòi hỏi

kinh nghiệm của ngƣời làm công tác phòng chống rửa tiền cũng nhƣ hệ thống công

nghệ hiện đại, kiểm soát rửa tiền hiệu quả.

2.2.1.3. Các phương thức, thủ đoạn rửa tiền chủ yếu qua hệ thống ngân hàng gần đây

Theo Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, bọn tội phạm rửa tiền đã lạm dụng hệ

thống ngân hàng Việt Nam để tiến hành rửa tiền thông qua các phƣơng thức sau:

- Phương thức thứ nhất: bọn tội phạm tiến hành chia nhỏ tiền và chuyển dần ra

nước ngoài, qua mặt hệ thống kiểm soát của các ngân hàng và các định chế tài

chính. Đã từng có hiện tƣợng rửa tiền bằng cách thuê ngƣời khác đứng tên chủ tài

khoản, sau đó chủ sở hữu bàn giao mã số pin để ngƣời thuê thực hiện việc chuyển

tiền vào tài khoản trong nƣớc và rút ngoại tệ tại nƣớc ngoài. Trƣớc đây, có nhóm tội

phạm quốc tế thuê một số ngƣời Việt Nam mở 12 thẻ debit của các ngân hàng trong

nƣớc. Các chủ thẻ nhận ít thù lao rồi giao thẻ cho ngƣời đặt hàng. Sau đó, nhóm tội

phạm này sang Campuchia (quốc gia không quản lý ngoại hối) để rút tiền mặt.

Hằng ngày, tiền đƣợc chuyển vào cả 12 tài khoản ở Việt Nam và rút sạch từ

Campuchia.

- Phương thức thứ hai: một số đối tượng nước ngoài dùng các chứng từ giả để mở

tài khoản tại các NHTM Việt Nam để nhận các khoản tiền có giá trị lớn được

chuyển từ nước ngoài về. Khi có tiền chuyển về, các chủ tài khoản này thực hiện

giao dịch rút tiền ra khỏi tài khoản, một thời gian sau NHTM nhận đƣợc thông báo

từ nƣớc ngoài gửi về đề nghị thu lại số tiền đã rút với lý do giao dịch bị giả mạo.

39

Tuy nhiên, khi liên hệ với chủ tài khoản thì không liên lạc đƣợc vì các dữ liệu liên

quan cũng đều là giả mạo. Công an Hà Nội đã bắt giữ một trƣờng hợp sử dụng hộ

chiếu giả mở tài khoản để rút tiền tại các ngân hàng Việt Nam. Đó là tên Musasa

Paul- quốc tịch Dămbia, nhập cảnh vào Việt Nam ngày 07/08/2005, có tất cả 9 hộ

chiếu khác nhau và đã mở 4 tài khoản cá nhân tại các ngân hàng ở Hà Nội, trong đó

đã thực hiện rút tiền trót lọt tại Ngân hàng Ngoại thƣơng số tiền 35.000 Euro và

13.200 USD.

- Phương thức thứ ba: các đối tượng thông qua ngân hàng để thực hiện lừa đảo tín

dụng. Bọn tội phạm thƣờng giả danh các tập đoàn hay các khách hàng nƣớc ngoài

đến các ngân hàng đề nghị cho ngân hàng vay khoản tiền lớn với lãi suất ƣu đãi hơn

lãi suất thị trƣờng nhiều lần, thời gian vay dài hạn nhƣng yêu cầu “lại quả” trƣớc

cho chúng một khoản tiền tƣơng đƣơng 5-10%. Với hình thức này, bọn tội phạm

thông qua ngân hàng để biến những đồng tiền bất hợp pháp thành tiền hợp pháp.

Nguyên thống đốc NHNN Việt Nam, ông Lê Đức Thúy cho hay đã từng biết và xử

lý một vài vụ khi đối tác nƣớc ngoài vào Việt Nam với ý định lừa đảo. Năm 1998,

một nhân vật ngƣời Đức vào Ngân hàng Nông nghiệp xin mở tài khoản và nói rằng

nếu cho mở tài khoản thì trong một tuần sẽ chuyển vào 100 triệu USD cho vay

trong 30 năm với lãi suất ƣu đãi 2%/năm. Có những cán bộ cũng đã phấn khởi theo

đuổi việc này, kể cả lãnh đạo. Nhƣng sau khi tìm hiểu mới biết đây là hành vi lợi

dụng việc mở tài khoản để lừa đảo. Nhân vật này không mở đƣợc tài khoản tại

Ngân hàng Nông nghiệp đã đến xin mở tài khoản tại Deutsch Bank ở Việt Nam.

Khi mở tài khoản rồi không có tiền nhƣng đến xin vay trƣớc 5.000 USD và nói rằng

cho vay thì vài hôm nữa sẽ chuyển vào Việt Nam vài triệu USD. Ngân hàng này lập

tức đóng ngay tài khoản này lại. Đặc biệt có một số trƣờng hợp đề nghị cho các

ngân hàng vay 20 tỷ USD trong 20 năm với lãi suất ƣu đãi và sau 10 năm cũng xóa

luôn khoản nợ chỉ với điều kiện có 5% “lại quả”. Không ít các ngân hàng cũng nhận

đƣợc những lời chào mời có tính chất lừa đảo qua thƣ tín dụng (L/C). Bọn tội phạm

có thể dùng L/C đã có xác nhận để đi lừa đảo trên thị trƣờng quốc tế và ngân hàng

sẽ phải là ngƣời thanh toán cuối cùng.

40

- Phương thức thứ tư: các công ty tại nước ngoài dùng tiền bất hợp pháp phân

chia lòng vòng để xóa dấu vết, sau đó dùng số tiền này để mua cổ phiếu của các

ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam. Sau một thời gian chuyển lợi nhuận từ

hoạt động kinh doanh này ra nước ngoài.

- Phương thức thứ năm: rửa tiền thông qua nghiệp vụ chuyển tiền của NHTM.

Việt Nam hiện có hơn 4 triệu kiều bào đang sinh sống ở trên 100 quốc gia. Hằng

năm, số kiều bào này chuyển về nƣớc một lƣợng lớn ngoại tệ trợ cấp thân nhân

trong nƣớc và đầu tƣ kinh doanh. Lƣợng kiều hối đổ về nƣớc tăng đều qua các năm

và ngày càng trở thành nguồn lực đáng kể cho nền kinh tế. Theo đánh giá của Ngân

hàng thế giới, Việt Nam là một trong 10 nƣớc nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới

trong năm 2012.

Biểu đồ 2.1: Danh sách 10 quốc gia nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới năm 2012

Nguồn: World Bank (2013), Migration and Development Brief 20

Theo số liệu báo cáo, lƣợng kiều hối năm 2012 của Việt Nam đạt 10 tỷ đô la,

đứng thứ hai Đông Nam Á và đứng thứ 9 thế giới. Phần lớn lƣợng kiều hối này

đƣợc gửi về nƣớc thông qua hệ thống ngân hàng do các dịch vụ ngân hàng đƣợc cải

tiến. Điều này trái ngƣợc hoàn toàn với những năm trƣớc khi đa phần kiều hối đƣợc

41

giao dịch ở chợ đen. Bên cạnh những mặt tích cực của kiều hối nhƣ hỗ trợ cán cân

thanh toán, làm gia tăng đầu tƣ trong nƣớc, đóng góp xóa đói giảm nghèo, nâng cao

đời sống ngƣời lao động…thì nó cũng có những mặt trái nhƣ: bọn tội phạm lợi dụng

chính sách kiểm soát kiều hối nới lỏng của nhà nƣớc, để chuyển tiền về Việt Nam

phục vụ các hoạt động phạm pháp, cũng nhƣ là thực hiện các hoạt động rửa tiền.

- Phương thức thứ sáu: thông qua việc mở tài khoản tiền gửi tại các NHTM để phục

vụ việc giao dịch chứng khoán. Hiện nay ở Việt Nam, các ngân hàng đều thực hiện

mở tài khoản chứng khoán cho nhà đầu tƣ. Tuy nhiên, nguồn gốc của tiền đƣợc

dùng để chơi chứng khoán chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Việc rửa tiền qua chứng

khoán là việc rất dễ dàng do đặc thù của chứng khoán là mọi ngƣời đều có quyền

mua đi bán lại cổ phiếu và tái đầu tƣ trong khi giá cổ phiếu lại lên xuống thất

thƣờng. Do đó không thể kiểm soát nổi tài sản của ngƣời chơi chứng khoán, đặc

biệt trong bối cảnh hệ thống kiểm soát rửa tiền qua hệ thống ngân hàng còn khá sơ

khai.

Bảng 2.2: Số lƣợng báo cáo giao dịch đáng ngờ thống kê theo phƣơng thức rửa tiền

Phƣơng thức rửa tiền 2009 2010 2011 2012

Phƣơng thức thứ nhất 7 21 22 16

18 34 35 21 Phƣơng thức thứ hai

11 32 38 19 Phƣơng thức thứ ba

3 38 29 11 Phƣơng thức thứ tƣ

48 166 156 80 Phƣơng thức thứ năm

6 35 24 18 Phƣơng thức thứ sáu

Tổng cộng 93 326 304 165

Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng

42

Theo bảng tổng hợp trên, trong tổng số 888 báo cáo giao dịch đáng ngờ mà Cục

phòng, chống rửa tiền nhận đƣợc từ năm 2009 đến năm 2012, thì có đến 450 báo

cáo giao dịch đáng ngờ đƣợc thực hiện thông qua nghiệp vụ chuyển tiền giữa các

ngân hàng, chiếm 50.68% số lƣợng báo cáo các giao dịch đáng ngờ. Điều đó cho

thấy hoạt động rửa tiền đƣợc phát hiện chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng. Hiện

nay, ở Việt Nam ngân hàng vẫn là cửa ngõ chính của hoạt động rửa tiền, việc phát

hiện và xử lý hành vi rửa tiền chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng.

2.2.2. Nhận thức của các ngân hàng trong công tác phòng, chống rửa tiền

- Sau một thời gian triển khai công tác phòng, chống rửa tiền, ý thức của các

NHTM trong công tác này đã có những tiến bộ vƣợt bậc. Nhiều ngân hàng đã ban

hành các quy định nội bộ liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền. Việc xây

dựng quy trình kiểm tra, kiểm toán nội bộ, các ngân hàng thƣờng lồng ghép nội

dung kiểm toán việc phòng, chống rửa tiền trong chƣơng trình kiểm toán chung của

ngân hàng. Các ngân hàng cũng đã thƣờng xuyên tổ chức các khóa đào tạo cho các

cán bộ nhằm nâng cao ý thức của đội ngũ cán bộ trong công tác phòng, chống rửa

tiền, hạn chế rủi ro uy tín của ngân hàng. Tuy nhiên, quy trình về phòng, chống rửa

tiền của đa phần các ngân hàng chỉ dừng ở mức tuân thủ, chƣa nhằm làm giảm rủi

ro cho ngân hàng. Việc triển khai thi hành các quy trình, quy định này chỉ thực sự

có ở các ngân hàng lớn có uy tín nhƣ: Vietcombank, Vietinbank, BIDV, ACB,

Sacombank…

- Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, đã có rất nhiều trƣờng hợp nghi

ngờ rửa tiền. Tuy nhiên, hiện nay báo cáo về các giao dịch đáng ngờ đang đƣợc các

bộ phận tác nghiệp bằng phƣơng pháp thủ công, chƣa có hệ thống tự động hỗ trợ

cho nhân viên trong việc xác định các giao dịch đáng ngờ. Ngân sách dành cho việc

đầu tƣ hệ thống công nghệ thông tin phục vụ phòng, chống rửa tiền còn hạn chế do

nhiều ngân hàng chƣa cho rằng đây là vấn đề cấp bách. Vì vậy, các ngân hàng cũng

thiếu sự quan tâm tạo nhận thức về phòng chống rửa tiền, lúng túng trong việc lựa

chọn phần mềm hỗ trợ phòng, chống rửa tiền. Nhiều ngân hàng lại dùng phần mềm

43

phòng, chống rửa tiền sai mục đích, nhƣ để xếp hạng rủi ro tín dụng. Do đó số

lƣợng báo cáo giao dịch đáng ngờ mà các NHTM gửi về Cục phòng, chống rửa tiền

còn hạn chế, chủ yếu mang tính chất đối phó, chƣa phản ánh đúng tình hình thực tế.

2.2.3. Các biện pháp phòng chống rửa tiền chủ yếu đƣợc áp dụng tại các ngân hàng

Sau khi Nghị định 74/2005/NĐ-CP, thông tƣ số 22/2009/TT-NHNN đƣợc ban

hành các NHTM đã nghiêm túc thực hiện các quy định phòng, chống rửa tiền nhƣ

sau:

- Về ban hành quy định, chính sách phòng, chống rửa tiền: Đặc biệt sau khi Luật

phòng, chống rửa tiền đƣợc ban hành ngày 18/06/2012 và có hiệu lực ngày

01/01/2013, hầu hết các ngân hàng đã tiến hành xây dựng và ban hành quy chế nội

bộ về phòng chống rửa tiền, làm căn cứ thực hiện công tác phòng chống rửa tiền tại

đơn vị mình. Quy định nội bộ bao gồm các chính sách, quy trình và thủ tục cơ bản

về phòng, chống rửa tiền. Việc xây dựng quy trình kiểm tra, kiểm toán nội bộ, các

ngân hàng thƣờng lồng ghép nội dung kiểm toán việc phòng, chống rửa tiền trong

chƣơng trình kiểm toán chung, kiểm soát nội bộ của ngân hàng.

- Về việc bố trí cán bộ chịu trách nhiệm phòng, chống rửa tiền: Hiện nay, mỗi

ngân hàng đều đã bố trí một thành viên trong ban điều hành chịu trách nhiệm về tổ

chức, chỉ đạo, kiểm tra việc tuân thủ các quy định của pháp luật về phòng, chống

rửa tiền tại đơn vị và đăng ký thông tin với Cục phòng, chống rửa tiền. Tùy theo

quy mô, mức độ, phạm vi và đặc thù hoạt động của mình, từng ngân hàng thành lập

bộ phận chuyên trách hoặc chỉ định một bộ phận tại trụ sở chính chịu trách nhiệm

về phòng, chống rửa tiền; quy định rõ trách nhiệm của ngƣời phụ trách phòng,

chống rửa tiền và của từng cá nhân, bộ phận trong quá trình tác nghiệp đảm bảo

việc thực hiện quy chế nội bộ về phòng, chống rửa tiền của ngân hàng. Công tác

phòng, chống rửa tiền thƣờng đƣợc các Ngân hàng giao cho Phòng quản lý rủi ro;

Phòng pháp chế; Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ…

44

- Về việc đào tạo nhân viên trong công tác phòng, chống rửa tiền: Các ngân hàng

luôn cử nhân viên tham gia đầy đủ các lớp do NHNN đào tạo. Công tác đào tạo tại

đơn vị thƣờng đƣợc các ngân hàng tổ chức riêng hoặc lồng ghép vào các chƣơng

trình huấn luyện nghiệp vụ chung do tự bản thân các ngân hàng tổ chức cho nhân

viên.

- Về việc lưu trữ, cập nhật số liệu và báo cáo giao dịch đáng ngờ: Các NHTM có

trách nhiệm cập nhật, lƣu trữ thông tin, báo cáo NHNN thƣờng xuyên các giao dịch

có giá trị lớn hoặc khi nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc do phạm tội

mà có hoặc liên quan tới rửa tiền. Các NHTM có nhiệm vụ báo cáo đột xuất cho

NHNN khi phát sinh giao dịch với các khách hàng nằm trong “danh sách đen” do

NHNN cung cấp cho từng NHTM. “Danh sách đen” cũng đƣợc các ngân hàng cập

nhật một cách thƣờng xuyên, nhanh chóng. Tuy nhiên, việc phát hiện và chặn lại

các giao dịch đáng ngờ của các NHTM còn nhiều hạn chế, chƣa thật sự thực hiện

tốt, chủ yếu mang tính đối phó.

Hiện nay, hầu hết các NHTM tại Việt Nam đều có phần mềm hệ thống quản lý hồ

sơ khách hàng, khi một nhân viên tao tác trên hệ thống sẽ thấy đƣợc toàn bộ thông

tin về khách hàng một cách chi tiết và đầy đủ.

 Mô hình tổ chức phòng, chống rửa tiền tại các NHTM

Tùy theo quy định của mỗi NHTM, các bộ phận có trách nhiệm về công tác

phòng, chống rửa tiền có thể đƣợc tổ chức theo mô hình cụ thể khác nhau song

thông thƣờng bao gồm các cấp và các đơn vị nhƣ sau:

 Tại Hội sở, Ban phòng chống rửa tiền gồm:

- Trƣởng ban phòng, chống rửa tiền: chịu trách nhiệm sắp xếp, xây dựng hệ

thống phòng, chống rửa tiền trong toàn ngân hàng; trực tiếp chỉ đạo Bộ phận phòng

chống rửa tiền tại các khối, phòng, ban trung tâm và các bộ phận khác thực hiện

45

công tác phòng, chống rửa tiền; kiểm tra và xử lý các sai phạm trong việc tuân thủ

pháp luật, quy định của ngân hàng về phòng, chống rửa tiền.

- Bộ phận phòng, chống rửa tiền tại Hội sở: đây là đầu mối tiếp nhận danh sách

cảnh báo của Cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, chịu trách nhiệm hƣớng dẫn các

đơn vị thực hiện các báo cáo giao dịch đáng ngờ, báo cáo các giao dịch theo yêu cầu

của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, thực hiện các báo cáo liên quan đến phòng,

chống rửa tiền theo quy định pháp luật; hƣớng dẫn thực hiện quy định pháp luật về

phòng, chống rửa tiền và các công việc khác có liên quan đến phòng, chống rửa tiền

tại ngân hàng.

- Bên cạnh đó còn có sự phối hợp chặt chẽ của các khối, phòng, ban, trung tâm

nhằm: nhận biết các giao dịch thông qua quá trình giao dịch của khách hàng; rà soát

khách hàng, giao dịch của khách hàng liên quan đến danh sách cảnh báo của Cơ

quan nhà nƣớc có thẩm quyền theo yêu cầu của Bộ phận phòng, chống rửa tiền; rà

soát và gửi danh sách giao dịch tiền mặt phải báo cáo theo yêu cầu của Trƣởng ban

và Bộ phận phòng chống rửa tiền; thanh tra, kiểm soát những sai phạm trong công

tác phòng chống rửa tiền với Trƣởng ban phòng chống rửa tiền và Bộ phận phòng

chống rửa tiền tại Hội sở; kiểm soát việc tuân thủ theo quy định của pháp luật, quy

định của ngân hàng về phòng chống rửa tiền với Cục phòng, chống rửa tiền.

 Tại các chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc:

- Có cán bộ đƣợc chỉ định chịu trách nhiệm tại từng chi nhánh, phòng giao dịch

trên toàn hệ thống ngân hàng.

- Chịu trách nhiệm triển khai các quy định của Bộ phận phòng chống rửa tiền tại

Hội sở về phòng chống rửa tiền tại đơn vị.

- Thực hiện lập, gửi số liệu, báo cáo liên quan đến công tác phòng, chống rủa tiền

tại đơn vị.

- Kiểm tra việc chấp hành các quy định trong phòng, chống rửa tiền tại đơn vị.

46

2.3. Đánh giá kết quả công tác phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc

Với sự nỗ lực to lớn của NHNN, công tác phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân

hàng Việt Nam đã đạt đƣợc một số kết quả, cụ thể:

- Chính phủ đã ban hành Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 là cơ sở

pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền tại Việt

Nam, đáp ứng một phần các quy định của các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là

thành viên. Tiếp theo đó là thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về phòng, chống rửa

tiền.

- Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền (nay là Cục phòng, chống rửa tiền) đã

đƣợc thành lập vào ngày 08/07/2005 thuộc NHNN với vai trò là trung tâm quốc gia

trong việc tiếp nhận, phân tích và xử lý thông tin, báo cáo về phòng, chống rửa tiền.

- Hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền của Việt Nam đang ngày càng đƣợc

hoàn thiện. Việt Nam đã có Luật phòng, chống rửa tiền, đã hình sự hóa hành vi rửa

tiền và các văn bản cho phép các cơ quan chức năng điều tra, truy tố, xét xử tội

phạm rửa tiền.

- Phần lớn các ngân hàng đều đã xây dựng quy trình kiểm soát, kiểm toán nội bộ

đảm bảo cho việc phòng, chống rửa tiền có hiệu quả và phù hợp với quy định của

pháp luật hiện hành. Trên cơ sở quy trình nội bộ này, các ngân hàng đã triển khai

thực hiện việc phòng ngừa hoạt động rửa tiền tại tổ chức mình, đảm bảo phát hiện

những giao dịch đáng ngờ. Để thực hiện các biện pháp phòng ngừa, các ngân hàng

đã thực hiện việc bố trí cán bộ chịu trách nhiệm triển khai thực hiện các chính sách,

kế hoạch, quy trình, biện pháp phòng, chống rửa tiền. Đồng thời, các ngân hàng xây

dựng quy trình tìm hiểu, cập nhật thông tin và thủ tục nhận biết khách hàng, lƣu giữ,

báo cáo các giao dịch đã góp phần quan trọng trong việc phát hiện và phòng ngừa

tội phạm rửa tiền.

47

- Thông qua các báo cáo của các NHTM về việc lập các báo cáo giao dịch đáng

ngờ và giao dịch tiền mặt vƣợt ngƣỡng quy định gửi Cục phòng, chống rửa tiền.

Cục phòng, chống rửa tiền đã tiếp nhận thông tin báo cáo từ các ngân hàng để phân

tích, chuyển giao thông tin. Kết quả việc tiếp nhận, phân tích báo cáo giao dịch nhƣ

sau:

Bảng 2.3: Kết quả tiếp nhận, phân tích báo cáo giao dịch đáng ngờ qua các năm

Năm Số báo cáo giao dịch đáng ngờ Số báo cáo chuyển cơ quan Công an

2007 12 4 báo cáo

2008 39 18 báo cáo

2009 93 32 vụ việc liên quan tới 32 báo cáo

2010 326 17 vụ việc liên quan tới 99 báo cáo

2011 304 4 vụ việc liên quan tới 7 báo cáo

2012 165 160 báo cáo

Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng

- Việt Nam đã đƣợc kết nạp làm thành viên thứ 33 của Nhóm Châu Á Thái Bình

Dƣơng về phòng, chống rửa tiền và đã đƣợc tổ chức này đánh giá đa phƣơng vào

năm 2009.

- Hoạt động phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam đƣợc sự hỗ trợ kỹ thuật và trợ giúp

xây dựng năng lực phòng chống rửa tiền từ nhiều tổ chức quốc tế đặc biệt là WB,

IMF, ADB.

2.3.2. Những tồn tại, hạn chế

Theo số liệu thống kê, năm 2012 có 160 báo cáo giao dịch đáng ngờ có liên quan

đến hoạt động rửa tiền đƣợc gửi tới cơ quan công an, Việt Nam cho tới nay vẫn

48

chƣa phát hiện một vụ rửa tiền cụ thể nào, chƣa thể đánh giá rửa tiền ở lĩnh vực nào

nhiều. Trên thực tế, hoạt động rửa tiền diễn ra hết sức tinh vi, đa dạng làm cho hoạt

động điều tra của các cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn do hệ thống văn bản

pháp lý về xử lý hành vi này chƣa thực sự hoàn thiện, chế tài chƣa rõ ràng, công tác

kiểm tra, xử lý các hoạt động rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng, đặc biệt là

hoạt động rửa tiền quốc tế liên quan đến các ngân hàng nƣớc ngoài rất khó khăn.

Phức tạp nhất, do đặc thù giao dịch tài chính ở Việt Nam, chủ yếu là tiền mặt trao

tay, các giao dịch, thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ.

Thực tế này khiến việc kiểm tra hoạt động rửa tiền càng trở nên phức tạp tới mức

gần nhƣ không thể thực hiện. Do đó đề tài tập trung phân tích những hạn chế trên ba

mặt chủ yếu: (i) hành lang pháp lý; (ii) các công cụ phòng ngừa trong hệ thống tài

chính, bao gồm cả những quy định pháp lý đối với các định chế tài chính và cơ quan

chức năng có thẩm quyền, cũng nhƣ việc triển khai các quy định đó; (iii) cơ chế

thanh tra, kiểm tra

2.3.2.1. Hành lang pháp lý

Vấn đề phòng, chống rửa tiền đã đƣợc đề cập đến trong điều 251 Bộ Luật Hình sự:

quy định xử lý hành vi rửa tiền với tội danh hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội

mà có; điều 19 của Luật các tổ chức tín dụng năm 1997; Nghị định số 74 của Chính

phủ về phòng chống rửa tiền năm 2005. Các văn bản này tuy đã quy định một số

biện pháp tạm thời trong quá trình phòng, chống rửa tiền nhƣng pháp luật hiện hành

vẫn thiếu các điều khoản cụ thể cho phép các cơ quan điều tra có thẩm quyền thực

hiện phong tỏa và tạm giữ, cũng nhƣ không có luật cụ thể cho phép các quyền để

nhận dạng, lần theo dấu vết và dò tìm nguồn thu tội phạm.

Đến ngày 18/06/2012 Luật phòng, chống rửa tiền mới đƣợc ban hành và đến ngày

01/01/2013 bắt đầu có hiệu lực. Trong thời gian qua, Nghị định 74 và Thông tƣ 22

đƣợc sử dụng nhiều nhất trong công tác phòng chống rửa tiền nói chung và hệ thống

ngân hàng nói riêng. Trong quá trình thực hiện, Nghị định đã bộc lộ một số bất cập,

thiếu sót cần phải đƣợc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao hiệu quả công

49

tác phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam, góp phần minh bạch hóa nền tài chính quốc

gia và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Một số bất cập của Nghị định:

- Nghị định 74 chƣa phải là văn bản pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật của Việt Nam.

- Quy định trong Nghị định 74 chƣa đáp ứng đƣợc các chuẩn mực quốc tế về

phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố. Khái niệm rửa tiền trong Nghị

định và tội rửa tiền đƣợc quy định tại điều 251 Bộ luật Hình sự chƣa đồng nhất và

chƣa đáp ứng đƣợc các quy định tại Công ƣớc Viên và Công ƣớc Palermo.

- Về đối tƣợng phải thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền: theo Nghị định

là các định chế tài chính, các luật sƣ, công ty luật, các tổ chức kinh doanh trò chơi

may rủi, sòng bạc hoặc sổ xố; các tổ chức kinh doanh có khuyến mại lớn đối với

khách hàng; các công ty dịch vụ buôn bán bất động sản có đăng ký kinh doanh. Đối

tƣợng có trách nhiệm phòng, chống rửa tiền chƣa đƣợc mở rộng đối với các văn

phòng hành nghề công chứng và kế toán viên độc lập; chƣa có những quy định về

vấn đề ngân hàng vỏ bọc, tài khoản nặc danh, những ngƣời có ảnh hƣởng chính

trị…

- Các khái niệm, phƣơng thức đƣa ra trong Nghị định và phạm vi triển khai thực

hiện vẫn còn bó hẹp và chƣa đƣợc chuẩn hóa so với chuẩn mực quốc tế, điều này

làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, đặc

biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tƣ và cả lĩnh vực chính trị, ngoại giao.

2.3.2.2. Các công cụ được sử dụng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân

hàng

Việc triển khai công tác phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng vẫn còn tồn

tại những mặt hạn chế sau:

50

- Phạm vi triển khai: Mặc dù Nghị định 74 quy định phòng, chống rửa tiền là trách

nhiệm của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức nhƣng thực tế Nghị định này chủ yếu chỉ

áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng, các cơ quan ban ngành, đoàn thể khác không

quan tâm và chú ý đến Nghị định này. Chƣa có sự quan tâm đồng bộ, cùng hợp tác,

đề cao cảnh giác cùng phòng, chống rửa tiền.

- Việc cập nhật, theo dõi thông tin và lƣu trữ hồ sơ khách hàng: đều đƣợc quy định

trong văn bản phòng, chống rửa tiền tại từng ngân hàng. Tuy nhiên, công tác thực

hiện còn sơ sài, các nhân viên giao dịch là ngƣời trực tiếp quan hệ với khách hàng

nhƣng việc tìm hiểu nguồn gốc các khoản tiền gửi, tiền chuyển chƣa nghiêm túc;

danh sách cảnh báo các khách hàng đáng ngờ, “danh sách đen” hầu nhƣ không đƣợc

quan tâm chú ý đúng mức. Ngân hàng chƣa tiến hành phân loại khách hàng, điều

mà các nƣớc trên thế giới thực hiện từ lâu.

- Về báo cáo các giao dịch đáng ngờ và tuân thủ: Nghị định 74 tuy đã quy định các

cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện trách nhiệm báo cáo hoặc cung cấp thông tin về

các giao dịch đáng ngờ song nội dung quy định chƣa thật rõ ràng và do đó phần nào

triệt tiêu động lực báo cáo các giao dịch tiền mặt nghi vấn liên quan tới rửa tiền.

Phần lớn các giao dịch đáng ngờ đều do nhân viên chịu trách nhiệm báo cáo tại Hội

sở gửi báo cáo đi theo yêu cầu của Cục phòng, chống rửa tiền thông qua chƣơng

trình trích lọc số liệu tại Hội sở. Trong quá trình giao dịch với khách hàng, các giao

dịch viên nếu có phát hiện giao dịch đáng ngờ thì giao dịch đó vẫn thực hiện. Các

báo cáo mang tính chất đối phó, làm cho có hơn là chú ý đến tính hiệu quả của nó.

Thực tế, Nghị định 74 đƣợc ban hành và có hiệu lực từ năm 2005 nhƣng đến cuối

năm 2009, Cục phòng, chống rửa tiền mới chỉ nhận đƣợc 144 báo cáo giao dịch

đáng ngờ. Đây là con số khá thấp so với số lƣợng ngân hàng, tiềm năng rửa tiền tại

Việt Nam.

Thực tế hiện nay tại các NHTM Việt Nam, chƣa có một ngân hàng nào có chƣơng

trình tiên tiến phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền. Đa số việc theo dõi khách

hàng nằm trong danh sách rửa tiền đều thực hiện một cách thủ công. Số lƣợng các

51

báo cáo mà các ngân hàng gửi về Cục phòng, chống rửa tiền rất lớn trong khi hệ

thống công nghệ thông tin tại các NHTM cũng nhƣ tại Cục phòng, chống rửa tiền

chƣa thể đáp ứng đƣợc yêu cầu này. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của công tác

phòng, chống rửa tiền, các NHTM lớn tại Việt Nam nhƣ: Vietcombank, ACB,

BIDV đã tiến hành thuê tƣ vấn lựa chọn công nghệ phục vụ công tác phòng, chống

rửa tiền. Tuy nhiên, để có phần mềm hiệu quả có tính ổn định cao, ít phải nâng cấp

thì giá cả khá cao trên 2 triệu USD, trong khi đó các chƣơng trình giao dịch tiên tiến

nhƣ Core Banking T24 đƣợc các ngân hàng triển khai sử dụng hiện nay cũng chỉ có

giá 2,5 – 4 triệu USD.

2.3.2.3. Cơ chế thanh tra, kiểm tra và quản lý, giám sát

- Các cơ quan giám sát chƣa thực hiện cuộc thanh tra phòng, chống rửa tiền nào để

đánh giá hiệu quả của việc thực hiện Nghị định 74. Cục phòng, chống rửa tiền chỉ

tiếp nhận số liệu báo cáo từ các NHTM mà chƣa thực hiện kiểm tra, giám sát việc

tuân thủ. Các ngân hàng khó có thể đánh giá đƣợc đầy đủ do không có các hoạt

động giám sát chính thức về phòng, chống rửa tiền. Ngân hàng chỉ đơn giản nhận

tiền gửi, đầu tƣ của các cá nhân, tổ chức có tiền thông qua các giấy tờ pháp lý hình

thức mà không thể xác định đƣợc ngƣời “chủ” thực sự của các nguồn tiền đó là ai

và cũng không có động cơ và sự ràng buộc về pháp lý để làm điều đó mặc dù trong

pháp luật kinh doanh ngân hàng cũng đề cập đến vấn đề này nhƣng không có hƣớng

dẫn cụ thể cũng nhƣ không có cơ sở để thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát. Mặt

khác, do các ngân hàng đang trong tình trạng “cầu” vốn do đó họ cũng không mặn

mà trong việc truy hỏi nguồn gốc tiền của khách hàng vì có thể làm mất những

khách hàng trung thực, hợp pháp. Tuy nhiên, làm thế nào để ngân hàng có thể nhận

diện các khoản tiền gửi “nghi vấn” và báo lại cho các cơ quan an ninh kinh tế có

liên quan đến việc chống tẩy rửa tiền. Ngoài ra, nghĩa vụ và quyền lợi của ngân

hàng sẽ ra sao trong quá trình phát hiện và xử lý các khoản tiền có nguồn gốc tội

phạm đã đƣợc gửi vào ngân hàng vì chắc chắn khi ngân hàng kinh doanh giúp các

cơ quan chức năng ngăn chặn các khoản tiền bất hợp pháp vào hệ thống tài chính

52

ngân hàng để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia họ đã phải tốn những chi phí và

thiệt hại nhất định. Do đó cũng hạn chế việc thực hiện nghĩa vụ khai báo các nghi

vấn về các giao dịch tại ngân hàng của nhân viên ngân hàng.

- Việc chống rửa tiền tại Việt Nam tập trung chủ yếu qua ngân hàng, các tổ chức

tài chính, các doanh nghiệp. Chƣa xây dựng cơ chế giám sát và khung pháp lý về

phòng, chống rửa tiền đối với khu vực ngoài ngân hàng, làm giảm hiệu lực phòng,

chống rửa tiền của cả nền kinh tế.

- Bên cạnh đó, quy trình kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng vẫn là vấn đề

cần bàn cãi. Các nhân viên kiểm toán làm việc cho ngân hàng, kiểm tra tính tuân thủ

pháp lý của ngân hàng nhƣng vẫn chƣa hoạt động một cách độc lập, việc kiểm tra

thực hiện phòng, chống rửa tiền chƣa thật sự triệt để. Các ngân hàng khó có thể

đánh giá đƣợc đầy đủ do không có hoạt động giám sát chính thức về phòng, chống

rửa tiền.

2.3.2.4. Một số hạn chế khác

- Hiện nay, hầu hết các ngân hàng chƣa xây dựng và thực hiện chƣơng trình đào

tạo nhằm nâng cao nhận thức về công tác phòng, chống rửa tiền một cách đầy đủ.

Công tác đào tạo nhân viên về phòng, chống rửa tiền vẫn còn mang tính chất chung

chung, làm cho có theo quy định của NHNN, chƣa đƣợc triển khai tới mọi nhân

viên. Thực tế tại nhiều đơn vị ở một số bộ phận trực tiếp giao dịch với khách hàng

chƣa nắm đƣợc các quy định và văn bản hƣớng dẫn về phòng, chống rửa tiền, việc

triển khai chỉ mới dừng lại ở mức độ phổ biến.

- Việc ban hành Nghị định 74 về phòng chống rửa tiền là một việc phải thực hiện

theo cam kết quốc tế, nhƣng sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế và tạo tâm lý lo ngại

cho ngƣời dân có tiền gửi tiết kiệm cũng nhƣ các doanh nghiệp, hệ quả có thể thấy

trƣớc là, thay vì gửi tiền vào ngân hàng để hƣởng lãi tiết kiệm thì ngƣời dân sẽ đầu

tƣ vào vàng, đôla Mỹ hoặc bất động sản để đảm bảo bí mật, nguồn kiều hối gửi về

nƣớc vì thế cũng sẽ giảm đi nhanh chóng.

53

- Mặt khác, việc chống rửa tiền hiện nay cũng có những khó khăn mới so với

trƣớc đây là công nghệ rửa tiền đã phát triển đến mức độ toàn cầu hóa với việc sử

dụng các phƣơng thức không chỉ đơn giản nhƣ gửi tiền mặt vào ngân hàng hay đầu

tƣ mà còn có thể sử dụng hệ thống “ảo” thông qua mạng Internet.

2.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại

2.3.3.1. Do khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện

Quá trình xây dựng khuôn khổ pháp lý là một quá trình phức tạp, với sự tham gia

của nhiều cấp, ngành khác nhau. Trong khi đó, việc phòng, chống rửa tiền là khá

mới mẻ ở Việt Nam, rất phức tạp, nhiều vấn đề, nhiều nội dung đƣợc thảo luận

nhiều lần, nhƣng do hiểu biết, nhận thức khác nhau, nên có những quy định không

thể đạt đƣợc sự nhất trí cao, buộc phải quy định chung chung, một số quy định chƣa

đƣợc cụ thể hóa trong hoạt động của các cơ quan pháp luật nên chƣa phát huy đƣợc

năng lực và thẩm quyền của các cơ quan thi hành luật. Cụ thể:

- Nghị định số 74/2005/NĐ-CP đƣợc ban hành ngày 07/06/2005 nhƣng mãi tới

ngày 17/11/2009, NHNN mới ban hành Thông tƣ số 22/2009/TT-NHNN hƣớng dẫn

thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền. Việc chậm ban hành thông tƣ gây ra

không ít khó khăn trong công tác phòng chống rửa tiền, đặc biệt là công tác phòng,

chống rửa tiền tại các NHTM.

- Bên cạnh đó, Nghị định 74 chủ yếu tập trung trong lĩnh vực ngân hàng, trong

khi các lĩnh vực khác có nguy cơ cao nhƣ: sòng bạc, xổ số, cá cƣợc, chứng khoán,

bất động sản…chỉ đƣợc Nghị định nhắc đến, nhƣng không có biện pháp kiểm soát

rửa tiền ở lĩnh vực này.

Tính hiệu quả trong các hoạt động chống rửa tiền tại Việt Nam cơ bản là do thiếu

một khung pháp luật hoàn thiện và một cơ chế kiểm soát đồng bộ, hiệu quả. Thực

tế, do một thời gian dài các quy định về chống tội phạm rửa tiền đƣợc quy định rải

rác tại các văn bản khác nhau, các thiết chế có chức năng đấu tranh chống loại tội

phạm này lại chƣa có một cơ chế hợp tác, phối hợp hiệu quả và chuyên trách.

54

Hiện nay, Luật Phòng chống rửa tiền đã đƣợc ban hành, bắt đầu có hiệu lực từ

01/01/2013 hoàn thiện hệ thống pháp lý về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam.

2.3.3.2. Do chính sách của các NHTM

- Trƣớc đây, có giai đoạn các NHTM thực hiện việc bổ sung vốn theo yêu cầu của

NHNN trong chƣơng trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Từ đó, dẫn đến nguy cơ

các NHTM dễ dàng chấp nhận việc góp vốn của bất kỳ ai mà không quan tâm đến

nguồn gốc của các khoản vốn đó. Bọn tội phạm có thể lợi dụng đƣa tiền bẩn đầu tƣ

vào ngân hàng và sau một thời gian tiền bẩn lúc này sẽ đƣợc hợp pháp hóa, trở

thành tiền sạch một cách chính đáng. Có trƣờng hợp các cổ đông lớn của ngân hàng

giao dịch với số tiền rất lớn, những khoản tiền này có thể là tiền sạch cũng có thể là

tiền bẩn, các khoản tiền đó có đƣợc báo cáo cho NHNN hay đƣợc lờ đi cũng chƣa

đƣợc điều tra làm rõ.

- Hiện nay, các NHTM tập trung chủ yếu chỉ tiêu huy động vốn tiền gửi, sử dụng

nhiều biện pháp khuyến mãi hấp dẫn để thu hút khách hàng gửi tiền mà không quan

tâm đến nguồn gốc của nó. Một ngân hàng có lẽ sẽ rất vui mừng khi nhận đƣợc một

lƣợng tiền gửi lớn từ công chúng với một mức lãi suất huy động thấp hơn những đối

thủ cạnh tranh khác. Với bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào có tiền bất hợp pháp, họ sẽ

sẵn sàng đầu tƣ vào cả những nơi không sinh lợi cho chúng, miễn sao là tiền bẩn

của chúng đƣợc biến thành tiền sạch càng nhanh càng tốt, và đặc biệt một khi tiền

đƣợc rút ra từ ngân hàng thì hiển nhiên là tiền sạch.

- Việc thực hiện giám sát và báo cáo giao dịch đáng ngờ làm cho ngƣời dân và

doanh nghiệp có thu nhập chân chính lo ngại, thậm chí không muốn giao dịch với

ngân hàng và có cảm giác tài sản của mình luôn bị theo dõi. Hệ quả có thể nhìn thấy

trƣớc là, thay vì gửi tiền vào ngân hàng để hƣởng lãi tiết kiệm thì ngƣời dân sẽ đầu

tƣ vào vàng, đô la Mỹ hay bất động sản để đảm bảo bí mật, nguồn kiều hối gửi về

nƣớc vì thế cũng sẽ giảm đi nhanh chóng. Còn các doanh nghiệp sẽ ƣu tiên phƣơng

thức thanh toán bằng tiền mặt để khỏi bị “nhòm ngó” mỗi khi giao dịch qua ngân

hàng với giá trị lớn. Bản thân các NHTM cũng rất miễn cƣỡng khi phải tuân thủ

55

hoàn toàn, một phần vì lo ngại sẽ mất khách và tổng giá trị giao dịch của một khách

hàng đạt 200 – 500 triệu đồng phải báo cáo là khối lƣợng vô cùng lớn.

- Trong năm 2011 hoạt động xuất nhập khẩu chiếm tới 200 tỷ USD, năm 2012

doanh số xuất nhập khẩu chuyển ra và chuyển vào để phục vụ cho hoạt động xuất

khẩu và nhập khẩu khoảng 228 tỷ USD. Doanh số hoạt động xuất nhập khẩu chuyển

tiền ra vào Việt Nam là rất lớn, có thể là nơi ẩn náu của hoạt động rửa tiền. Thực tế

việc hậu kiểm trong vấn đề thanh toán quốc tế - chuyển tiền xuất nhập khẩu cũng rất

hạn chế. Các NHTM quan tâm nhiều đến khoản phí họ thu đƣợc trong hoạt động

xuất nhập khẩu, cho nên có tình trạng có chứng từ là họ thanh toán ngay, nhƣng sau

đó hàng hóa có vào Việt Nam hay không thì chúng ta thấy không kiểm tra đƣợc.

Hoặc hàng lậu, ma túy vào, nhƣng cuối cùng hợp thức hóa thông qua các hợp đồng

thanh toán xuất nhập khẩu đó.

2.3.3.3. Do nền kinh tế Việt Nam còn sử dụng tiền mặt là phổ biến

- Nền kinh tế tiền mặt của Việt Nam hiện cũng là điều kiện thuận lợi cho các hoạt

động rửa tiền. Tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong lƣu thông đã giảm dần qua các năm

nhƣng nhìn chung vẫn còn khá cao so với các nƣớc phát triển chỉ tiêu này ở mức 1

con số.

- Phần lớn các tội phạm rửa tiền tại Việt Nam đều thích tiền mặt bởi nó dễ dàng

tiêu xài, dễ ẩn danh, các cơ quan chức năng khó kiểm soát. Các hình thức rửa tiền

đơn giản nhất ở Việt Nam thƣờng là mua ô tô, vàng, nhà, đất, đồ cổ, vé số trúng

thƣởng…Các khoản thanh toán bằng tiền mặt rất nhiều nhƣ thanh toán giữa các cá

nhân, tổ chức với nhau; các khoản cho vay lớn tại các ngân hàng; các giao dịch bất

động sản; mua bán vàng bạc đá quý diễn ra ở thị trƣờng tự do... Không chỉ có tiền

mặt VNĐ mà vàng, đô la Mỹ cũng đƣợc sử dụng rộng rãi trong việc mua bán các

loại hàng hóa, tài sản có giá trị lớn. Việc mua bán các tài sản, hàng hóa nhƣ nhà

cửa, đất đai, xe cộ với giá trị tƣơng đƣơng hàng tỷ đồng, hàng trăm, hàng ngàn

lƣợng vàng, hàng trăm ngàn USD không phải là chuyện hiếm. Các giao dịch nhƣ

thế đều đƣợc xã hội mặc nhiên thừa nhận, hơn nữa còn tỏ ra thuận lợi, nhanh chóng.

56

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ tiền mặt lƣu thông trong tổng phƣơng tiện thanh toán (%)

Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thƣờng niên của NHNN qua các năm

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Trong chƣơng 2, luận văn tập trung phân tích thực trạng rửa tiền, công tác phòng,

chống rửa tiền qua ngân hàng trong thời gian qua. Từ đó, đƣa ra những kết quả đạt

đƣợc, những mặt tích cực cũng nhƣ những mặt hạn chế, bất cập trong công tác

phòng, chống rửa tiền đang diễn ra thông qua hệ thống ngân hàng. Và để giải quyết

triệt để những tồn tại này, đòi hỏi chúng ta phải có hệ thống giải pháp hiệu quả, cụ

thể những giải pháp này nhƣ thế nào sẽ đƣợc đề cập đến trong chƣơng 3 của luận

văn.

57

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM

3.1. Dự báo tình hình rửa tiền trong thời gian tới và định hƣớng phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

3.1.1. Dự báo tình hình rửa tiền qua hệ thống ngân hàng

3.1.1.1. Dự báo tình hình quốc tế

Tình trạng rửa tiền qua các ngân hàng trên thế giới ngày càng gia tăng. Hàng năm

có tới nhiều tỷ USD tiền bất hợp pháp từ các vụ gian lận trong xây dựng, kinh

doanh bất hợp pháp, buôn bán ma túy, vũ khí, cá cƣợc thể thao, cờ bạc và nguồn tài

chính của các tổ chức khủng bố… đƣợc chuyển qua ngân hàng để đƣợc hợp pháp

hóa. Ngân hàng dần dần trở thành nơi bọn tội phạm tìm đến rửa tiền với các ƣu

điểm nhƣ chi phí thấp, số lƣợng tiền rửa lớn, tiền đảm bảo sạch hơn so với các hệ

thống khác. Bên cạnh đó, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ, các

giao dịch tài chính, mua bán hàng hóa, thanh toán các hợp đồng hầu hết sẽ đƣợc

thực hiện thông qua hệ thống tài chính ngân hàng. Qua đó, có thể nói hệ thống ngân

hàng đang phải đối mặt với những nguy cơ rất lớn, nguy cơ bị bọn tội phạm tìm đến

để rửa tiền.

3.1.1.2. Dự báo tình hình Việt Nam

- Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới, ngày càng

có nhiều công ty nƣớc ngoài đến Việt Nam làm ăn, sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt là

từ năm 2007, nƣớc ta trở thành thành viên chính thức của WTO, các giao dịch về

thƣơng mại, tài chính, xuất nhập khẩu ngày càng tăng. Chuyển tiền kiều hối của bà

con Việt kiều định cƣ nƣớc ngoài và của những lao động Việt Nam xuất khẩu lao

động đƣợc khuyến khích ngày càng nhiều về số lƣợng và giá trị. Thị trƣờng du lịch

ngày càng mở rộng, lƣợng khách quốc tế ra vào Việt Nam ngày càng nhiều. Mở

rộng ra thế giới, chúng ta đón đƣợc ngọn gió lành nhƣng cùng có những ngọn gió

độc vào, ảnh hƣởng đến sức khỏe của nền kinh tế, đó là các giao dịch tài chính

“bẩn” trong đó có các vụ buôn bán ma túy xuyên quốc gia, hoặc các đối tác nƣớc

58

ngoài sử dụng nguồn tiền bất hợp pháp và đầu tƣ, kinh doanh ở nƣớc ta với mục

tiêu rửa tiền hoặc chuyển tiền cho các tổ chức, cá nhân trong nƣớc với âm mƣu lật

đổ chế độ, làm mất ổn định chính trị nƣớc ta. Còn trong nƣớc tình trạng trốn thuế,

buôn lậu, tham nhũng, sản xuất và buôn bán hàng giả, các vụ đầu cơ trên thị trƣờng

chứng khoán, bất động sản, vàng ngày càng gia tăng. Các đối tƣợng đƣợc hƣởng lợi

cũng đã thông qua các hoạt động hợp pháp nhƣ gửi tiền vào ngân hàng, đầu tƣ vào

chứng khoán, vàng, bất động sản, một số khác chuyển tiền gửi sang các nhà băng

nƣớc ngoài nơi có luật bí mật ngân hàng… Tình trạng đó đã đe dọa an ninh chính

trị, kinh tế trong nƣớc và đặc biệt làm giảm uy tín của nƣớc ta trƣớc con mắt của

bạn bè quốc tế.

- Theo nhận định của Cơ quan Phòng chống ma túy và tội phạm Liên Hợp Quốc

(UNODC), Việt Nam dễ bị tội phạm rửa tiền tìm đến do nền kinh tế sử dụng nhiều

tiền mặt, cùng với hoạt động thƣơng mại và đầu tƣ ngày càng gia tăng. Cơ quan này

cảnh báo, nếu không có biện pháp nhanh và hiệu quả để đối phó với rửa tiền thì tội

phạm và tham nhũng sẽ gia tăng, ảnh hƣởng đến lĩnh vực tài chính ngân hàng. Nếu

để cho dòng tài chính phi pháp này chảy vào, sớm muộn gì nền kinh tế và hệ thống

tài chính tiền tệ quốc gia cũng sẽ bị ảnh hƣởng xấu. Ngoài ra, nó còn làm mất uy tín

của quốc gia và do đó làm giảm đi những cơ hội tăng trƣởng từ nguồn đầu tƣ nƣớc

ngoài và các nhà đầu tƣ không còn thấy cơ hội để đầu tƣ vào quốc gia đó nữa.

- Trƣớc tình hình đó, ngành ngân hàng gặp nhiều cơ hội nhƣ có thể nâng cao tính

cạnh tranh, nâng cao trình độ quản trị điều hành ở các ngân hàng…và cũng phải đối

mặt với không ít những khó khăn, thách thức nhƣ: công nghệ còn tƣơng đối lạc hậu,

hiệu quả điều hành thấp, năng lực cạnh tranh yếu, tạo nhiều khe hở cho bọn tội

phạm tấn công vào hệ thống tài chính ngân hàng còn non yếu để thực hiện hành vi

rửa tiền thông qua: hoạt động đầu tƣ nƣớc ngoài, thanh toán bằng hình thức thƣ tín

dụng, kiều hối, chuyển tiền…

- Việc tăng vốn điều lệ đối với các NHTM theo quy định của NHNN, cùng với xu

hƣớng cổ phần hóa tại các ngân hàng trong nƣớc ngày càng tăng cao, tạo nhiều kẻ

59

hở cho các nhà đầu tƣ có nguồn vốn bất hợp pháp thực hiện đầu tƣ với mục đích rửa

tiền. Điều này tạo ra một rủi ro rất lớn cho các ngân hàng đối với nguy cơ bị liên lụy

trong các vụ án kinh tế, ảnh hƣởng đến uy tín ngân hàng. Bên cạnh đó, nguồn gốc

thu nhập để mua cổ phiếu của khách hàng trên thị trƣờng chứng khoán chƣa đƣợc

các ngân hàng quan tâm đúng mức. Do vậy, việc “tiền bẩn” đƣợc tẩy rửa trên thị

trƣờng chứng khoán thông qua ngân hàng là hoàn toàn có thể, và rủi ro về uy tín

xảy ra đối với ngân hàng là tất yếu. Hầu hết các NHTM trong nƣớc có quy mô nhỏ

chƣa nhận thức hết đƣợc tác hại của rửa tiền đối với ngân hàng mình và nếu nhận ra

đƣợc vấn đề thì cũng hết sức boăn khoăn về biện pháp phòng, chống rửa tiền nên

những ngân hàng này hoàn toàn có khả năng bị bọn tội phạm tìm đến rửa tiền.

Từ những dự báo trên, chúng ta đã có một bức tranh tổng thể về nguy cơ rửa tiền

xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam trong thời gian tới là rất cao. Để đẩy lùi nguy cơ này,

cần phải có một hệ thống giải pháp thích hợp dựa trên chiến lƣợc phát triển dịch vụ

ngân hàng và dự báo tình hình rửa tiền ở Việt Nam.

3.1.2. Định hƣớng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống NHTM Việt Nam

Việt Nam trở thành thành viên thứ 33 của APG, Chính phủ Việt Nam cam kết thi

hành theo đúng các điều khoản phòng, chống rửa tiền, đặc biệt là phải thực thi 40

khuyến nghị của FATF. Điều này có nghĩa là Việt Nam vừa tuân thủ theo các quy

định quốc tế vừa phải để cho FATF giám sát và theo dõi cơ chế chống rửa tiền một

cách chặt chẽ và cũng nhƣ phải đƣợc các cơ quan độc lập khác đánh giá, xem xét.

Nhƣ vậy, hoạt động phòng, chống rửa tiền hiện nay cần phải theo định hƣớng phát

triển sau:

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về chống rửa tiền theo tiêu chuẩn quốc tế. Có hiệu

quả trong việc ngăn ngừa tội phạm lợi dụng hệ thống tài chính, nâng cao chất lƣợng

quản lý rủi ro của các định chế tài chính. Tăng cƣờng sự phát triển hệ thống tài

chính Việt Nam và hội nhập toàn cầu.

60

- Phát triển một hệ thống giám sát các dòng vốn, cải thiện các báo cáo vƣợt

ngƣỡng và các báo cáo giao dịch đáng ngờ, tăng cƣờng hợp tác và chia sẻ thông tin

giữa các cơ quan phòng, chống rửa tiền và nâng cao năng lực của các cơ quan điều

tiết tài chính, lập pháp, hành pháp trong việc phát hiện, điều tra và chống tội phạm.

- Ngăn chặn, chống tội phạm rửa tiền bằng cách tham gia hiệu quả hơn trong hợp

tác quốc tế với mục tiêu xây dựng một mạng lƣới quốc tế phòng chống rửa tiền hiệu

quả hơn, đặc biệt là trong mục tiêu chống rửa tiền xuyên quốc gia và các hoạt động

tài trợ khủng bố.

- Tham gia các tổ chức quốc tế về chống rửa tiền một cách tích cực hơn, nhằm

phát triển và cải thiện các khuôn khổ phòng, chống rửa tiền quốc tế.

3.2. Các nhóm giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống NHTM Việt Nam

Qua nghiên cứu cho thấy, hoạt động rửa tiền qua ngân hàng của bọn tội phạm rất

đa dạng, phức tạp, qua nhiều công đoạn. Vì vậy, vấn đề phòng, chống rửa tiền

không chỉ là hoạt động riêng của bất kỳ ngân hàng nào mà là sự phối hợp chặt chẽ

của nhiều ngành, giữa NHNN và các NHTM, giữa các phòng ban trong nội bộ

NHTM. Để công tác phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam qua hoạt động ngân hàng

một cách hiệu quả, cần chú ý một số giải pháp sau:

3.2.1. Nhóm giải pháp đối với Nhà nƣớc

3.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp

Để nâng cao toàn diện chất lƣợng công tác phòng, chống rửa tiền, hƣớng tới đáp

ứng các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực này, một trong những nhiệm vụ cấp bách

cần đƣợc triển khai ngay chính là việc hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống

rửa tiền. Khung pháp lý này cần tập trung vào một số lĩnh vực nhƣ:

- Triển khai các biện pháp ngăn chặn có hiệu lực

- Tăng cƣờng yêu cầu về thu nhập và quản lý thông tin khách hàng

61

- Gia tăng hiệu lực của các báo cáo về giao dịch đáng ngờ

- Tăng cƣờng công tác quản lý và giám sát.

Việt Nam đã ban hành Luật phòng, chống rửa tiền từng bƣớc đáp ứng yêu cầu của

quá trình hội nhập và tuân thủ các cam kết quốc tế. Từ đó nâng cao đƣợc uy tín của

Việt Nam, tránh tâm lý e ngại cho nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đồng thời tạo điều kiện

thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nƣớc kinh doanh ở nƣớc ngoài.

Tuy nhiên công tác triển khai luật đến nay chƣa đạt hiệu quả vì chƣa có nghị định,

thông tƣ mới hƣớng dẫn. Do đó hoạt động phòng, chống rửa tiền vẫn đƣợc thực

hiện dựa vào Nghị định 74 và thông tƣ 22 ban hành trƣớc đó. Với các quy định

mang tính định tính nhƣ hiện nay nên việc giám sát, báo cáo các giao dịch đáng ngờ

có dấu hiệu rửa tiền trong hoạt động ngân hàng đang trở nên khó thực hiện, mỗi nơi

thực hiện một kiểu. Vì vậy, để ngăn chặn hành vi rửa tiền, NHNN cần phối hợp với

các bộ, ngành nhanh chóng trình nghị định hƣớng dẫn Luật phòng, chống rửa tiền

để Chính phủ ban hành.

3.2.1.2. Hạn chế thanh toán tiền mặt

Ở Việt Nam, thanh toán bằng tiền mặt còn rất phổ biến trong nền kinh tế. Tiền mặt

vẫn là phƣơng tiện thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực doanh nghiệp và

chiếm đại đa số trong các giao dịch thanh toán của khu vực dân cƣ. Việc sử dụng

tiền mặt quá lớn trong thanh toán ở nƣớc ta hiện nay là điều kiện lý tƣởng của tội

phạm rửa tiền. Vì vậy, vấn đề hạn chế sử dụng tiền mặt trong thanh toán là yêu cầu

bức thiết đặt ra để hạn chế nạn rửa tiền. Khuyến khích sử dụng thanh toán bằng tiền

điện tử, mọi hoạt động tài chính của mỗi ngƣời sẽ đƣợc quản lý chặt chẽ và dễ dàng

hơn. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng đó, Nhà nƣớc cũng đã đƣa ra nhiều biện pháp

để hạn chế lƣợng tiền mặt trong thanh toán nhƣng vẫn chƣa đem lại kết quả nhƣ

mong đợi. Sau đây là một đề xuất đối với Chính phủ trong việc khuyến khích phát

triển thanh toán không dùng tiền mặt:

62

- Bổ sung, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và các cơ chế chính sách hạn chế thanh

toán tiền mặt. Các cơ chế, chính sách thanh toán không dùng tiền mặt phải đƣợc

chỉnh sửa, thay thế cho đồng bộ, đầy đủ đặc biệt là những vấn đề liên quan đến

thanh toán điện tử và thƣơng mại điện tử để có thể phù hợp với thông lệ quốc tế và

nhu cầu ngƣời sử dụng.

- Nâng cao chất lƣợng và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Xây dựng các phƣơng

án miễn, giảm thuế nhập khẩu để giảm nhẹ gánh nặng đầu tƣ cho các đơn vị đầu tƣ

trang thiết bị phục vụ hoạt động thanh toán.

- Phát triển thanh toán điện tử với nhiều sản phẩm, dịch vụ mới đa dạng, an toàn,

thuận tiện. Xây dựng các phƣơng án miễn giảm thuế giá trị gia tăng đối với các

thanh toán qua ngân hàng, xây dựng cơ chế tính phí dịch vụ thanh toán hợp lý đối

với các giao dịch thanh toán liên ngân hàng. Trên cơ sở đó tác động tới toàn bộ cơ

cấu tính phí của các tổ chức tín dụng nhằm tạo lập một mức phí hợp lý cho khách

hàng, nhằm khuyến khích sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, dần dần

thay đổi thói quen thanh toán tiền mặt trong dân cƣ.

- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, hƣớng dẫn trong toàn xã hội. Đối với

một số giao dịch có giá trị lớn nhƣ: chuyển nhƣợng quyền sử dụng đất, quyền sở

hữu nhà ở, mua bán ô tô…Khi tiến hành đăng ký chuyển quyền sử dụng, sở hữu thì

bắt buộc phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng.

- Đẩy mạnh các giải pháp hỗ trợ khác nhƣ đẩy mạnh hợp tác quốc tế để nhận đƣợc

sự hỗ trợ, tƣ vấn kỹ thuật; tăng cƣờng phối hợp giữa các cơ quan, ngành trong việc

triển khai các giải pháp; tăng cƣờng nâng cao chất lƣợng cán bộ, đặc biệt là cán bộ

tham gia xây dựng chính sách, tăng cƣờng kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động

thanh toán trong nền kinh tế.

63

3.2.1.3. Tăng cường công tác phòng, chống các loại tội phạm, đặc biệt là tội

phạm tham nhũng

Để công tác phòng, chống rửa tiền đạt hiệu quả thì việc phòng, chống các loại tội

phạm nguồn nhƣ: ma túy, buôn lậu, trốn thuế… và đặc biệt là tham nhũng cần phải

đƣợc quan tâm đúng mức. Sau đây là một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả

phòng, chống tham nhũng, qua đó đẩy lùi hoạt động rửa tiền:

- Thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà

nƣớc. Tăng cƣờng cải cách hành chính thông qua việc đơn giản hóa, công khai hóa

các thủ tục hành chính, áp dụng phƣơng thức quản lý theo cơ chế “một cửa”.

- Cần có những cơ chế kiểm soát chặt chẽ nguồn thu nhập của công chức, nhất là

đối với số công chức có vai trò lãnh đạo, quản lý. Quy định công chức phải kê khai

tài sản, nhằm giúp các cơ quan chức năng kiểm soát đƣợc tài sản của cán bộ, công

chức. Trong trƣờng hợp xảy ra tham nhũng, nếu công chức không chứng minh đƣợc

nguồn gốc tài sản của mình thì đó là tài sản do tham nhũng mà có.

- Coi trọng công tác giáo dục nhận thức, đạo đức liêm chính cho mọi ngƣời dân,

nhất là đội ngũ cán bộ công chức. Đƣa nội dung phòng, chống tham nhũng vào

giảng dạy trong các trƣờng học để giáo dục ngay từ nhỏ về đạo đức trong sáng, lối

sống lành mạnh, cách ứng xử văn minh, lịch thiệp đối với thế hệ trẻ; Đẩy mạnh

công tác tuyên truyền về tham nhũng cũng nhƣ hậu quả, tác hại của nó đến mọi

ngƣời dân để ngƣời dân nhận diện đƣợc các hành vi tham nhũng, có thái độ lên án

và tinh thần kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Ban hành các văn bản quy

định cụ thể về đạo đức của cán bộ công chức đặc biệt là những viên chức cao cấp

trong từng ngành, từng lĩnh vực, qua đó nâng cao hiệu quả của công tác phòng,

chống tham nhũng.

- Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên sâu cho hoạt động phòng, chống tham nhũng:

Những cán bộ phòng, chống tham nhũng phải tinh thông nghiệp vụ, có phƣơng

pháp, cách thức tổ chức phù hợp; thƣờng xuyên học tập, trao đổi, tích lũy kinh

64

nghiệm. Đặc biệt, cán bộ phòng, chống tham nhũng phải có bản lĩnh vững vàng,

dám đƣơng đầu với những thế lực bao che cho tham nhũng; phải kiên nhẫn, đừng để

mất tinh thần sớm. Đảm bảo mức thu nhập cao cho cán bộ, công chức để hạn chế

tình trạng tham nhũng.

- Sử dụng sức mạnh của ngƣời dân, các tổ chức xã hội trong việc phát hiện, tố giác

các hành vi tham nhũng. Công tác phòng, chống tội phạm chỉ thành công khi có sự

tham gia đông đảo của quần chúng bởi quần chúng luôn là các nguồn thông tin vô

tận có giá trị liên quan đến các vụ việc tham nhũng. Xây dựng cơ chế, chính sách

bảo vệ ngƣời tố giác, góp phần khuyến khích, động viên ngƣời dân tham gia phòng,

chống tham nhũng.

3.2.2. Nhóm giải pháp đối với NHNN

3.2.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng, chống rửa tiền

- Luật phòng, chống rửa tiền đã đƣợc ban hành và công tác phòng, chống rửa tiền

đã đƣợc các Bộ, ngành, đơn vị, địa phƣơng tích cực triển khai thực hiện. Tuy nhiên,

để tạo ra phong trào sâu rộng trong xã hội thì cần thiết phải triển khai công tác

tuyên truyền, phổ biến cho các tầng lớp nhân dân và vận động toàn dân cùng tham

gia vào công tác này. Thƣờng xuyên phát động các chiến dịch gia tăng sự hiểu biết

của cộng đồng về phòng, chống rửa tiền. Cụ thể là cần phải tuyên truyền cho ngƣời

dân hiểu về giao dịch phải báo cáo, đó là việc các ngân hàng ghi lại và báo cáo về

các giao dịch nhƣ là một nghiệp vụ nội bộ của ngân hàng. Các thông tin này nằm

trong nội bộ ngân hàng và vẫn đƣợc đảm bảo bí mật và chỉ đƣợc cung cấp cho cơ

quan có thẩm quyền khi có yêu cầu.

- NHNN cần phối hợp với Hiệp hội ngân hàng mở các lớp tập huấn về công tác

phòng, chống rửa tiền cho cán bộ nhân viên ngân hàng, để có những giải thích kịp

thời cho khách hàng, tránh tâm lý e ngại của khách hàng khi đến giao dịch với ngân

hàng.

65

3.2.2.2. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công tác

phòng, chống rửa tiền

- Việc ứng dụng công nghệ thông tin chính là mấu chốt trong phòng, chống rửa

tiền. Tuy nhiên, ngân sách dành cho việc đầu tƣ công nghệ thông tin còn hạn chế.

Do đó, hệ thống công nghệ thông tin cần đồng bộ hóa và nâng cấp tại các ngân hàng

theo hƣớng đáp ứng quy định của pháp luật, phân tích giao dịch, khách hàng, hỗ trợ

sàng lọc, nhận biết khách hàng, báo cáo, lƣu trữ thông tin…

- NHNN cần đi đầu trong việc đầu tƣ, nhận sự hỗ trợ về kỹ thuật của các tổ chức

nƣớc ngoài, sử dụng hiệu quả các phần mềm phát hiện và ngăn chặn các giao dịch

đáng ngờ. Tuyển chọn đội ngũ nhân viên giỏi, sẵn sàng trả mức lƣơng tƣơng xứng

để chuyển biến, phát triển phần mềm trong nƣớc cũng nhƣ ứng dụng các phần mềm

nƣớc ngoài phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam.

- Cục phòng, chống rửa tiền cần phải đƣợc đầu tƣ, trang bị hệ thống công nghệ

thông tin hiện đại để có thể thu thập, phân tích thông tin về các giao dịch phải báo

cáo, các giao dịch đáng ngờ từ các ngân hàng một cách nhanh chóng và kịp thời. Từ

đó, có thể phát hiện chính xác, nhanh chóng những giao dịch có nguy cơ rửa tiền,

đƣa ra cảnh báo với các NHTM và chuyển dữ liệu cho cơ quan điều tra.

3.2.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các NHTM

- Tính đến nay, hầu hết các NHTM đều đã ban hành quy định nội bộ về phòng,

chống rửa tiền nhƣng chỉ có một số ngân hàng lớn mới thực sự triển khai quy định

này. Nguyên nhân là do NHNN chƣa ban hành quy chế giám sát việc tuân thủ các

quy định về phòng, chống rửa tiền. Việc ban hành quy chế giám sát sẽ giúp cho Cơ

quan thanh tra và Cục phòng, chống rửa tiền chủ động trong việc thanh tra, giám sát

các NHTM. Từ đó đƣa ra các biên pháp hữu hiệu yêu cầu các ngân hàng thực hiện

nghiêm chỉnh các quy định về phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh đó, NHNN cần đƣa

tiêu chí tuân thủ các quy định về phòng, chống rửa tiền vào trong bộ tiêu chuẩn

đánh giá xếp hạng các NHTM, cũng nhƣ là cho phép thực hiện các nghiệp vụ thanh

66

toán quốc tế, phê duyệt mở rộng mạng lƣới, chi nhánh các ngân hàng này. Đối với

các ngân hàng không tuân thủ cần có một số giải pháp cụ thể nhƣ:

+) Các ngân hàng không tuân thủ các quy định của NHNN về thành lập hệ thống

phòng, chống rửa tiền tại ngân hàng nhƣ: chƣa ban hành quy định nội bộ về phòng,

chống rửa tiền; chƣa thành lập bộ phận chống rửa tiền hoặc không tổ chức tập huấn

công tác phòng chống rửa tiền cho nhân viên… NHNN sẽ yêu cầu ngân hàng thực

hiện trong một thời gian nhất định; nếu chậm trễ sẽ có văn bản nhắc nhở; trong

trƣờng hợp nghiêm trọng có quyền ra quyết định xử lý kỹ luật ngƣời đứng đầu:

Tổng giám đốc, Trƣởng ban phòng chống rửa tiền tại Hội sở…

+) Các ngân hàng không thực hiện báo cáo, lƣu trữ thông tin khách hàng theo yêu

cầu của NHNN nhƣ: không thực hiện nghĩa vụ nhận biết khách hàng, lƣu trữ hồ sơ,

tài liệu về giao dịch đã thực hiện; không thực hiện báo cáo các giao dịch đáng ngờ;

cố tình thực hiện giao dịch với các tài khoản ẩn danh, vô danh hoặc với khách hàng

không có giấy tờ chứng minh danh tính của họ; vi phạm các quy định về bảo mật,

tiết lộ thông tin, từ chối, ngăn cản công tác kiểm tra, điều tra chống rửa

tiền…NHNN cho phép NHTM sửa chữa các sai phạm đó trong thời gian nhất định;

trong trƣờng hợp nghiêm trọng có thể áp dụng mức phạt tiền đối với ngân hàng và

cá nhân chịu trách nhiệm. NHNN cần quy định mức phạt vi phạm hành chính với số

tiền hợp lý đủ sức răn đe đối với những trƣờng hợp không thực hiện nghiêm chỉnh

các biện pháp phòng, chống rửa tiền.

- Công tác phòng, chống rửa tiền tại các NHTM phải đƣợc thanh tra, giám sát

thƣờng xuyên. NHNN giữ vai trò trung tâm, làm đầu mối để các ngân hàng thƣờng

xuyên trao đổi thông tin về tình hình tội phạm rửa tiền tại các ngân hàng. Từ đó,

NHNN tiếp nhận đƣợc các ý kiến phản hồi của các NHTM trong việc thực hiện các

biện pháp phòng chống rửa tiền và là cơ hội để các ngân hàng trao đổi kinh nghiệm

với nhau, hạn chế các hành vi lợi dụng hệ thống ngân hàng để thực hiện hành vi rửa

tiền.

67

3.2.2.4. Tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong nước và quốc tế về

phòng, chống rửa tiền

- Hoạt động rửa tiền thực chất là tội phạm phái sinh của các loại tội phạm khác.

Chính vì vậy, việc phòng, chống loại tội phạm này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa

NHNN với các bộ, ngành khác nhƣ Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Công thƣơng, Bộ

Tƣ pháp, Bộ Xây dựng... trong việc hƣớng dẫn, kiểm tra chấp hành các biện pháp

phòng chống rửa tiền của các tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý. Đặc biệt, cần có sự

phối hợp đồng bộ và hiệu quả giữa ngành ngân hàng và công an trong việc thực

hiện phòng, chống rửa tiền nhƣ:

+) Cần có sự trao đổi thông tin với nhau: Cục phòng, chống rửa tiền thƣờng

xuyên cập nhật “danh sách đen” từ Bộ Công an, để cung cấp danh sách cho ngân

hàng theo dõi, đánh giá. Bộ Công an căn cứ vào các báo cáo giao dịch đáng ngờ

đƣợc gửi từ Cục phòng, chống rửa tiền, tiến hành điều tra, báo cáo kết quả.

+) Cục phòng, chống rửa tiền, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an và các cơ

quan có liên quan nên cộng tác nghiên cứu các loại hình rửa tiền, chia sẻ phƣơng

pháp, kinh nghiệm để công tác phòng, chống rửa tiền đạt hiệu quả.

- Trong hoạt động phòng chống tội phạm rửa tiền, hợp tác quốc tế đóng vai trò

quan trọng vì đây là loại tội phạm thƣờng đƣợc thực hiện ở nhiều quốc quốc gia và

liên quan đến tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia. Đấu tranh phòng chống loại tội

phạm này phải có sự hợp tác, phối hợp giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế

giới.

Hợp tác quốc tế về phòng chống tội phạm rửa tiền thể hiện trƣớc hết ở việc tham

gia, ký kết các điều ƣớc quốc tế là những văn bản pháp lý có hiệu lực chung giữa

các quốc gia thành viên. Từ đó, hợp tác trên những lĩnh vực cụ thể nhƣ trao đổi

thông tin, dẫn độ tội phạm, tịch thu tài sản, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơ sở vật

chất… Thông qua việc trao đổi này, cơ quan điều tra của các quốc gia liên quan

68

giúp nhau phát hiện và hoàn thiện hồ sơ để xử lý các băng nhóm tội phạm xuyên

quốc gia.

3.2.3 Nhóm giải pháp đối với các NHTM

3.2.3.1. Xây dựng quy định nội bộ và thành lập bộ phận chuyên trách về phòng,

chống rửa tiền

- Để có thể đảm bảo công tác phòng, chống rửa tiền trong hệ thống ngân hàng có

hiệu quả, giảm thiểu rủi ro cũng nhƣ bảo vệ lợi ích cổ đông, các ngân hàng cần xây

dựng chính sách, quy định nội bộ, quy trình hƣớng dẫn cách thức thực hiện công tác

phòng, chống rửa tiền. Sau khi Luật phòng, chống rửa tiền ra đời, đến nay hầu hết

các ngân hàng đã ban hành đƣợc quy trình nội bộ về phòng, chống rửa tiền nhƣng

công tác triển khai thực hiện vẫn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức nên hiệu quả

phòng, chống rửa tiền tại các NHTM, đặc biệt là các ngân hàng quy mô nhỏ vẫn còn

hạn chế. Để nâng cao hiệu quả phòng, chống rửa tiền, một trong những biện pháp

quan trọng là các NHTM cần phải triển khai thực hiện quy trình nội bộ phòng,

chống rửa tiền một cách nghiêm chỉnh.

- Hiện nay, tại hầu hết các NHTM đều đã thành lập bộ phận chuyên trách về

phòng, chống rửa tiền tuy nhiên hoạt động vẫn chƣa thực sự đạt hiệu quả. Chính vì

vậy, cần phải xúc tiến thành lập một bộ phận chuyên trách về phòng, chống rửa tiền

hoạt động hiệu quả, đúng nghĩa chuyên xử lý phân tích báo cáo, thu thập dữ liệu

giao dịch, tổng hợp mọi thông tin về những giao dịch đáng ngờ báo cáo Ban lãnh

đạo ngân hàng nghiên cứu xử lý. Từ đó có thể tổng hợp báo cáo gửi Cục phòng,

chống rửa tiền và đề xuất các biện pháp khác liên quan đến công tác phòng, chống

rửa tiền.

- Mỗi chi nhánh, phòng giao dịch, các công ty trực thuộc các NHTM cần có cán

bộ chịu trách nhiệm phòng, chống rửa tiền tại đơn vị để nhanh chóng cập nhật, phản

hồi báo cáo giao dịch đáng ngờ về Hội sở chính. Việc hỗ trợ và nhận thức rủi ro về

phòng, chống rửa tiền từ Ban lãnh đạo cũng là một điều kiện tiên quyết cho một hệ

69

thống phòng , chống rửa tiền thành công, do vậy mỗi NHTM cần có một lãnh đạo

phụ trách về phòng, chống rửa tiền.

- Ngoài ra, kiểm soát tuân thủ thực hiện phòng, chống rửa tiền không thể thiếu bộ

phận kiểm tra kiểm soát tính tuân thủ, thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, quy định

về phòng chống rửa tiền. Thành lập bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động

chuyên trách trực thuộc Tổng giám đốc bao gồm Phòng Kiểm tra nội bộ tại Hội sở

chính và Phòng Kiểm tra nội bộ tại các chi nhánh. Thông qua hoạt động của bộ máy

kiểm tra kiểm toán nội bộ, ngân hàng giám sát việc chấp hành các quy định của

pháp luật, quy định của NHNN và các cơ quan có thẩm quyền cũng nhƣ các quy

trình nghiệp vụ, hoạt động kinh doanh và các quy định nội bộ khác của các bộ phận

trong ngân hàng nhằm phòng chống việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền.

3.2.3.2. Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng

Nhận biết khách hàng là tất cả các thủ tục cần thiết nhằm nắm bắt những thông tin

có liên quan tới cá nhân, tổ chức có giao dịch tiền tệ hay tài sản khác với ngân hàng,

nhằm hiểu biết khách hàng của ngân hàng, khách hàng đến giao dịch với ngân hàng

là khách hàng thuộc đối tƣợng nào, khu vực cƣ trú nào và mang lại rủi ro nào cho

ngân hàng… Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng cần gồm một số nội dung

sau:

 Nhận dạng khách hàng

- Ngân hàng cần phải xác định đƣợc ai là khách hàng thật sự của ngân hàng, xác

minh xem liệu khách hàng đang giao dịch với ngân hàng cho nhu cầu của chính

mình hay cho ngƣời khác. Nhân viên ngân hàng khi giao dịch với khách hàng cần

biết rõ khách hàng mình là ai, làm lĩnh vực gì, nguồn tiền đó từ đâu ra và sử dụng

có hợp pháp hay không? Thời gian thích hợp cho việc nhận dạng là khi tiếp nhận

mới khách hàng, khi một số nội dung thông thƣờng trên giấy tờ của khách hàng bị

thay đổi đáng kể hoặc khi có sự thay đổi trên tài khoản so với hoạt động thông

thƣờng của khách hàng. Cần phải xây dựng chính sách nhận biết khách hàng rõ

70

ràng, các thông tin về khách hàng đƣợc lƣu trữ đầy đủ, là cơ sở để ngân hàng có thể

quản lý tốt mối quan hệ với khách hàng.

- Việc nhận dạng khách hàng còn bao gồm việc chú ý đến những khách hàng

không thƣờng xuyên nhƣng đã giao dịch với số tiền lớn, vƣợt ngƣỡng cho phép theo

quy định của NHNN hoặc khi nhân viên giao dịch thấy có bất cứ sự nghi ngờ nào

về khách hàng, khi đó cần phải báo cáo với cấp có thẩm quyền cao hơn để xử lý kịp

- “Hiểu đƣợc những vấn đề mấu chốt của khách hàng” là nguyên tắc hàng đầu

thời.

trong kinh doanh của ngân hàng để vừa phòng chống rủi ro cũng nhƣ để phục vụ

ngân hàng tốt nhất. Vì vậy, ngân hàng cần thu thập thông tin và tìm hiểu khách hàng

kỹ lƣỡng trên tất cả các hoạt động nghiệp vụ then chốt của ngân hàng, từ nghiệp vụ

tín dụng, bảo lãnh, nhận tiền gửi, thanh toán... Ngân hàng cần phải liên hệ chặt chẽ

với các cơ quan chức năng nhƣ: trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN, cơ

quan Công an để chủ động nắm bắt thông tin về khách hàng. Hiện nay, một số

NHTM Việt Nam đã hoàn thiện Module CIF quản lý hồ sơ khách hàng để bất kỳ lúc

nào truy cập vào hệ thống sẽ có bức tranh toàn diện về khách hàng với những thông

tin đầy đủ, chi tiết và thƣờng xuyên đƣợc cập nhật.

 Chấp nhận khách hàng

- Các ngân hàng cần phải xây dựng những quy định chấp nhận khách hàng một

cách rõ ràng, bao gồm miêu tả cụ thể các loại khách hàng có thể gây ra rủi ro cao

hơn mức bình thƣờng cho ngân hàng. Khi xây dựng những quy định này, các yếu tố

nhƣ: lý lịch, quốc tịch, chức danh… và các tài khoản có liên quan cần phải đƣợc

xem xét. Các ngân hàng cần phải xây dựng những quy định chấp nhận khách hàng

- “Hiểu đƣợc mục đích của khách hàng khi đến ngân hàng”: các NHTM luôn có bộ

theo mức độ rủi ro và đòi hỏi theo dõi sâu rộng hơn.

phận tƣ vấn, chăm sóc khách hàng để khách hàng bày tỏ những nguyện vọng của

mình khi giao dịch với ngân hàng. Theo đó, ngân hàng có thể kiểm tra chặt chẽ mục

71

đích sử dụng các giao dịch của ngân hàng. Ví dụ, đối với hoạt động tín dụng, cần

giám sát các khoản vay khách hàng thông qua việc theo dõi sát sao hoạt động đầu tƣ

kinh tế của doanh nghiệp trong từng giai đoạn trƣớc, trong và sau khi cho vay. Từ

đó, ngân hàng có thể kiểm soát đƣợc các khoản cho vay của ngân hàng, hạn chế

việc sử dụng vốn vay vào các mục đích bất hợp pháp. Đối với các khoản tiền gửi,

trong quá trình tƣ vấn, ngân hàng sẽ hiểu rõ đƣợc nguồn gốc khoản tiền đó cũng

nhƣ hình thức đầu tƣ của khoản tiền để tiện theo dõi, quản lý.

 Quản lý thường xuyên các tài khoản và các giao dịch

- Đối với tất cả các tài khoản, các ngân hàng phải có chƣơng trình phát hiện ra

những dấu hiệu bất thƣờng hay đáng ngờ trong hoạt động. Ngoài các dấu hiệu giao

dịch đáng ngờ đƣợc quy định, ngân hàng cần xem xét các giao dịch đáng ngờ nhƣ:

số điện thoại cá nhân hoặc cơ quan của khách hàng không thể kết nối đƣợc hoặc

không có số máy này sau khi mở tài khoản thực hiện giao dịch. Khách hàng thƣờng

xuyên đổi tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn với tổng giá trị một lần đổi lớn.

Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển tiền đƣợc thực hiện bởi một cá nhân hay tổ

chức liên quan đến hoạt động bất hợp pháp mà thông tin đại chúng đã đăng tải.

- Xây dựng mẫu thu thập thông tin khách hàng là điều tối cần thiết, vừa đáp ứng

yêu cầu của pháp luật, vừa đáp ứng nhu cầu quản lý của ngân hàng, giảm thiểu rủi

ro. Đối với những trƣờng hợp mở tài khoản đặc biệt chú trọng: xác định mục đích

mở tài khoản của khách hàng: mở tài khoản để làm gì, để chuyển tiền hay nhận tiền

chuyển đến, nguồn tiền nhận đến từ những nguồn nào…Cần lƣu ý khi phát hiện

khách hàng có những dấu hiệu đáng ngờ thì nhân viên giao dịch hỏi thêm về quốc

gia khách hàng chuyển tiền đến hay nhận tiền từ đâu, có nằm trong danh sách cảnh

báo của NHNN hay không, báo cáo cho cơ quan phòng, chống rửa tiền.

- Luôn theo dõi sát sao mục đích của các khoản chuyển tiền để tránh hiện tƣợng

hợp thức hoá các khoản tiền bất hợp pháp vào ngân hàng. Bọn tội phạm thƣờng rửa

tiền qua ngân hàng thông qua hình thức chuyển tiền, các giao dịch chuyển tiền có

72

giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một khoản trong một thời gian ngắn

hoặc ngƣợc lại, hoặc tiền đƣợc chuyển lòng vòng qua nhiều tài khoản. Vì vậy, ngân

hàng cần có bộ phận quản lý và xử lý thông tin nằm trong Trung tâm chuyển tiền để

có thể theo dõi mục đích các khoản chuyển tiền, đề phòng sự lợi dụng của bọn tội

phạm.

 Quản lý rủi ro

- Các NHTM cần xây dựng ma trận rủi ro rửa tiền để đánh giá rủi ro, kiểm soát các

rủi ro đã đƣợc xác định, đánh giá tần suất xảy ra, mức độ ảnh hƣởng và xếp hạng rủi

ro. Phân khúc khách hàng với các mức độ rủi ro từ thấp đến cao: mức độ rủi ro thấp,

mức độ rủi ro trung bình, mức độ rủi ro cao dựa trên các thông tin khách hàng (họ

tên, nghề nghiệp, độ tuổi, quốc tịch…), sản phẩm/dịch vụ, kênh giao dịch, vị trí địa

lý nơi khách hàng cƣ trú hoặc có trụ sở chính. Những khách hàng có mức độ rủi ro

thấp thƣờng là nhân viên làm công ăn lƣơng có thu nhập đƣợc chi trả qua tài khoản

ở ngân hàng, ngƣời buôn bán lẻ... Những khách hàng có mức độ rủi ro cao thƣờng

là ngƣời buôn bán bất động sản, buôn bán qua biên giới, kinh doanh sòng bạc, trò

chơi có thƣởng, kinh doanh qua mạng internet, khách hàng có quốc tịch nằm trong

danh sách đen FATF, những nhân vật có ảnh hƣởng chính trị và những ngƣời thân

của họ, cá nhân có tổng tài sản cao, các tổ chức phi lợi nhuận…cần đƣợc chú ý đặc

biệt, phải theo dõi thƣờng xuyên. Khi phát hiện khách hàng có mức độ rủi ro cao

cần áp dụng thêm các biện pháp nhận biết tăng cƣờng nhƣ:

 Đối với khách hàng cá nhân:

▪ Xác thực thông tin do khách hàng cung cấp

▪ Tìm hiểu nguồn gốc tiền và tài sản của khách hàng

▪ Tăng cƣờng giám sát hành vi giao dịch và quan hệ kinh doanh của khách hàng

▪ Xác định khách hàng có thực hiện kinh doanh trên danh nghĩa cá nhân, tổ chức

hoặc chủ sở hữu hƣởng lợi khác không?

73

 Đối với khách hàng tổ chức:

▪ Yêu cầu cung cấp báo cáo tài chính gần nhất

▪ Xác thực thông tin: kiểm tra số điện thoại cố định, địa chỉ trụ sở doanh nghiệp,

xác thực tài liệu qua các cơ quan quản lý nhà nƣớc…

▪ Xác thực khách hàng có thực hiện kinh doanh trên danh nghĩa cá nhân, tổ chức

hoặc chủ sở hữu hƣởng lợi khác không?

▪ Thu thập thông tin liên quan đến giao dịch đang thực hiện, các hoạt động kinh

doanh, nguồn gốc tài sản của khách hàng.

- Các ngân hàng cần nhận biết đƣợc các dấu hiệu rửa tiền trong từng hoạt động

kinh doanh, giao dịch, trong từng sản phẩm dịch vụ nhƣ: dấu hiệu nhận biết rửa tiền

trong hoạt động kế toán giao dịch, tín dụng, tài trợ thƣơng mại, chứng khoán, kinh

doanh thẻ…

3.2.3.3. Ứng dụng công nghệ thông tin, thiết lập phần mềm phòng, chống rửa

tiền

- Trong thời đại công nghệ, việc ứng dụng công nghệ thông tin chính là mấu chốt

trong phòng, chống rửa tiền. Tuy nhiên, thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin

vào phòng, chống rửa tiền ở các NHTM còn nhiều hạn chế. Nhất là sự thiếu quan

tâm tới đào tạo, nâng cao nhận thức về phòng, chống rửa tiền, cán bộ công nghệ

thông tin chƣa hiểu rõ về phòng, chống rửa tiền, lúng túng trong việc lựa chọn phần

mềm hỗ trợ phòng chống rửa tiền. Ngân sách dành cho việc đầu tƣ hệ thống công

nghệ thông tin còn hạn chế. Với những ngân hàng đã triển khai hệ thống công nghệ

thông tin phục vụ phòng, chống rửa tiền thì chủ yếu quan tâm tới mục tiêu đảm bảo

an toàn giao dịch.

- Do đó, những yêu cầu đối với hệ thống công nghệ thông tin là cần đồng bộ hóa

và nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin tại các ngân hàng theo hƣớng đáp ứng

quy định của pháp luật, phân tích giao dịch của khách hàng, hỗ trợ sàng lọc, nhận

74

biết khách hàng, báo cáo, lƣu trữ thông tin…Ngân hàng cần đầu tƣ phần mềm phục

vụ công tác phòng, chống rửa tiền có thể tích hợp với hệ thống core banking để lấy

thông tin khách hàng, tích hợp thông tin của khách hàng đã giao dịch trong các hệ

thống khác; có thể lọc tách dữ liệu nằm trong mức giao dịch phải báo cáo, tạo nhiều

loại báo cáo theo các tiêu chí khác nhau; có khả năng cảnh báo đối với các khách

hàng nằm trong “danh sách đen”, phân loại tài khoản theo mức độ rủi ro.

 Phần mềm phòng, chống rửa tiền cần có các module chính nhƣ sau:

 Khai báo thông tin khách hàng

+) Khai báo thông tin khách hàng giao dịch lần đầu

+) Chỉnh sửa thông tin khách hàng

+) Chọn loại khách hàng cá nhân, tổ chức, trong nƣớc, nƣớc ngoài

 Thiết lập, đánh giá rủi ro khách hàng theo từng cấp độ

+) Thiết lập các loại rủi ro, mức độ rủi ro

+) Chỉnh sửa, cập nhật loại rủi ro, mức độ rủi ro

+) Phân loại rủi ro theo các nghiệp vụ giao dịch; quốc gia khách hàng cƣ trú

 Thiết lập các giới hạn giao dịch

+) Thiết lập giới hạn giao dịch cho mỗi lần giao dịch, trong tuần, tháng, quý,

năm

+) Cài đặt các mức cảnh báo theo mức độ rủi ro (cao, trung bình, thấp)

+) Cập nhật danh sách “đen” do các cơ quan chức năng cung cấp

+) Hiển thị danh sách cho phép kiểm tra khách hàng, ngƣời thụ hƣởng, chỉnh

sửa, cập nhật thông tin đã khai báo

75

+) Đánh giá các rủi ro rửa tiền ở cả hai cấp độ là tài khoản và khách hàng

 Tạo báo cáo

+) Báo cáo các giao dịch đáng ngờ

+) Tự động cảnh báo khách hàng khi nhập thông tin vào hệ thống

+) Báo cáo cảnh báo các giao dịch theo mức độ rủi ro

+) Báo cáo theo yêu cầu của NHNN, cơ quan quản lý

3.2.3.4. Đào tạo nguồn nhân lực trong công tác phòng, chống rửa tiền

- Tất cả các NHTM cần phải có chƣơng trình đào tạo về phòng, chống rửa tiền để

nhân viên am hiểu quy trình phòng, chống rửa tiền. Nội dung cốt lõi trong công tác

đào tạo phòng, chống rửa tiền là đào tạo theo dõi, nhận biết, cập nhật thông tin về

khách hàng. Đội ngũ nhân viên mới cần phải đƣợc trang bị về kiến thức, tầm quan

trọng của các chính sách nhận biết khách hàng và những yêu cầu cơ bản tại ngân

hàng. Đối với những cán bộ làm việc ở các bộ phận khác nhau cần phải có những

chƣơng trình và thời gian đào tạo một cách phù hợp. Qua đó, nhân viên sẽ thực hiện

việc xem xét kỹ lƣỡng đối với khách hàng có rủi ro cao, kịp thời phát hiện các giao

dịch đáng ngờ để hạn chế rủi ro ngân hàng.

- Công tác tuyển dụng cần căn cứ trên đạo đức, chuyên môn, kinh nghiệm và năng

lực tƣ duy. Trong đó, đạo đức và năng lực tƣ duy là hai yếu tố quan trọng hơn cả.

Đạo đức tốt quyết định hành vi và mục đích hành động. Năng lực tƣ duy có khả

năng đáp ứng sự thích nghi với hoạt động đa dạng và luôn phát triển của hệ thống

ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. Cần đặc biệt quan tâm đào tạo và

nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, cán bộ ngân hàng không những có phẩm chất

đạo đức tốt mà còn giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ.

76

- Ngân hàng cần phải có chế độ lƣơng thƣởng hợp lý, đảm bảo cho nhân viên đáp

ứng đƣợc nhu cầu cuộc sống, từ đó sẽ giúp hạn chế tham nhũng hoặc tránh tình

trạng bị mua chuộc, tiếp tay cho bọn tội phạm thực hiện các hành vi rửa tiền.

3.2.3.5. Một số giải pháp khác

- NHTM cần lựa chọn các ngân hàng (ngân hàng phát hành, ngân hàng xác

nhận…) có uy tín, có tình hình tài chính lành mạnh, tuân thủ các quy định quốc tế

về rửa tiền là đối tác trong hoạt động thanh toán quốc tế để tránh việc lợi dụng mở

L/C và các phƣơng thức tài trợ thƣơng mại khác nhằm chuyển tiền giữa các quốc

gia. Ngân hàng cần tránh, hạn chế quan hệ với các ngân hàng mà bị FATF phân loại

vào “các nƣớc và vùng lãnh thổ không tuân thủ”, ảnh hƣởng đến uy tín của bản thân

các NHTM.

- Tăng cƣờng công tác hậu kiểm trong các giao dịch thanh toán quốc tế - chuyển

tiền thanh toán xuất nhập khẩu. Sau khi nhận đƣợc bộ chứng từ yêu cầu thanh toán

ngân hàng cần phải kiểm tra, theo dõi hàng hóa đã nhận đƣợc hay chƣa. Ngân hàng

yêu cầu nhà nhập khẩu bổ sung tờ khai hải quan và các chứng từ khác sau khi hoàn

tất thủ tục nhận hàng. Đây là thao tác giúp hạn chế tình trạng bọn tội phạm lợi dụng

mở LC “ma” với yêu cầu về chứng từ đơn giản để ngƣời thụ hƣởng là đồng bọn của

chúng có thể dễ dàng xuất trình chứng từ yêu cầu thanh toán, tiền đƣợc chuyển ra

nƣớc ngoài mà không gặp trở ngại nào.

- Thông thƣờng bọn tội phạm thƣờng rửa tiền thông qua các giao dịch xuyên quốc

gia bằng tiền mặt nhƣ thuê ngƣời vận chuyển qua biên giới, sau đó đổi tiền tại các

quầy đổi tiền ở các nƣớc sở tại. Để góp phần hạn chế rửa tiền thông qua hình thức

này, ngân hàng cần nổ lực đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt thông

qua việc khuyến khích các tổ chức kinh tế cá nhân thanh toán qua thẻ, mở tài khoản

miễn phí cho các cá nhân, tổ chức kinh tế, mở rộng mạng lƣới ATM.

77

- Hợp tác chặt chẽ với các bộ phận thuộc ngân hàng, NHNN, cơ quan công an

cũng nhƣ các ngành hữu quan để xử lý các giao dịch có dấu hiệu phạm pháp liên

quan đến rửa tiền.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Trong chƣơng 3, luận văn đề cập những dự báo về tình hình rửa tiền tại Việt Nam

trong thời gian tới cùng với những định hƣớng về phòng, chống rửa tiền của nhà

nƣớc. Từ đó đƣa ra các nhóm giải pháp theo phạm vi và chức năng của cơ quan Nhà

nƣớc, NHNN và các NHTM. Các giải pháp về phòng, chống rửa tiền này không độc

lập mà luôn hỗ trợ nhau. Chính vì vậy, để hoạt động phòng, chống rửa tiền có hiệu

quả thì nên có sự phối hợp giữa các ban ngành, các cấp dƣới sự chỉ đạo thống nhất

của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền để cùng thực hiện.

78

KẾT LUẬN

Rửa tiền là vấn nạn toàn cầu, tác động đến hầu hết các nƣớc trên thế giới. Các tổ

chức tội phạm rửa tiền đang tìm ra những thủ đoạn mới, chuyển hoạt động rửa tiền

đến các nƣớc có hệ thống kiểm soát tài chính còn hạn chế, trong đó có Việt Nam.

Khi càng hội nhập sâu thì nguy cơ dẫn đến rửa tiền càng lớn và tinh vi hơn mặc dù

cho đến nay Việt Nam chƣa có con số cụ thể nào thống kê về quy mô và tính

nghiêm trọng do hoạt động rửa tiền gây ra. Nhƣng điều đó không có nghĩa là Việt

Nam không có rửa tiền, không chịu bất cứ rủi ro nào do rửa tiền mang lại. Nhằm

góp phần hạn chế những rủi ro này, luận văn đã hoàn thành những nhiệm vụ chủ

yếu sau:

Một là, luận văn đã hệ thống lại những vấn đề cơ bản về rửa tiền nói chung và

rửa tiền qua ngân hàng nói riêng: các khái niệm, các quy trình, phƣơng thức rửa

tiền, tác động của rửa tiền đến nền kinh tế xã hội cũng nhƣ kinh nghiệm phòng,

chống rửa tiền của một số nƣớc trên thế giới.

Hai là, luận văn đã phân tích thực trạng rửa tiền và công tác phòng, chống rửa tiền

qua ngân hàng trong thời gian qua. Từ đó, nêu ra những mặt còn tồn tại, hạn chế cần

phải giải quyết trong thời gian tới.

Ba là, luận văn đã đƣa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống

rửa tiền qua hệ thống ngân hàng, đó là sự kết hợp đồng bộ những giải pháp thuộc về

nhà nƣớc, NHNN và NHTM.

Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên sự tham khảo các tài liệu, sách báo, tạp chí về

rửa tiền; hoạt động phòng, chống rửa tiền trên thế giới và Việt Nam. Do hạn chế về

thời gian, tƣ liệu nghiên cứu cùng với kiến thức có hạn nên luận văn không thể

tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tác giả rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp từ

Quý thầy cô và các anh chị quan tâm để luận văn đƣợc hoàn chỉnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. ADB (2007), Chính sách chống tham nhũng tại Châu Á – Thái Bình Dương, Hà

Nội.

2. Chính phủ (2005), Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền, Hà

Nội.

3. Lê Xuân Hiền (2010), Phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam,

Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế TP HCM, HCM.

4. Liên Hiệp Quốc (1988), Công ước Viên về chống buôn lậu ma túy tổng hợp và

các chất hướng thần, Vienna.

5. Liên Hiệp Quốc (2000), Công ước Palermo về chống tội phạm có tổ chức,

Palermo.

6. Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo (2005), “Rửa tiền trở ngại cho phát triển

kinh tế”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số 186), HCM.

7. Nguyễn Đức Lam (2012), “Chống rửa tiền- kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế

giới”, Tạp chí Thông tin khoa học lập pháp, (số 4), Hà Nội.

8. Nguyễn Minh Phƣơng, Đặng Thế Tùng (2011), “Kiều hối và phòng chống rửa

tiền qua kiều hối”, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, (số 113), Hà Nội.

9. NHNN Việt Nam (2009), Thông tư số 22/2009/TT-NHNN Hướng dẫn thực hiện

các biện pháp phòng, chống rửa tiền, Hà Nội.

10. NHNN Việt Nam (2011), Báo cáo Tổng kết 6 năm thi hành Nghị định

74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền, Hà Nội.

11. Trần Huy Hoàng, Trần Thị Phƣơng Lan (2006), “Phòng chống rửa tiền ở Việt

Nam”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số 186), HCM.

12. Trần Thị Hoài Thu (2013), “Nguy cơ bị lợi dụng rửa tiền, tài trợ khủng bố từ hệ

thống chuyển tiền ngầm và hành lang pháp lý điều chỉnh”, Tạp chí ngân hàng, (số

16), Hà Nội.

13. Paul Allan Schott (2007), Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền và chống tài

trợ cho khủng bố, NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội.

14. Phạm Huy Hùng (2011), “Giải pháp phòng chống rửa tiền tại các ngân hàng

thƣơng mại Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (số 21), Hà Nội.

15. Quốc hội (2012), Luật Phòng, chống rửa tiền, Hà Nội.

16. Văn Tạo, Kim Anh (2010), “Phòng, chống rửa tiền kinh nghiệm của các nƣớc

và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (số 1), Hà Nội.

17. Vƣơng Tịnh Mạch (2009), Phòng chống rửa tiền ở Việt Nam trong bối cảnh hội

nhập kinh tế quốc tế, HCM.

Tiếng Anh

18. Development Prospects Group, World Bank (2013), Outlook for Remittance

Flows 2013- Migration and Development Brief 20, USA.

19. UN (1988), Convention Against Illicit Traffic In Narcotic Drugs And

Psychotropic Substances, Vienna.

20. UN (2000), Convention Against Transnational Organized Crime, Palermo.