BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
---------------
DƢƠNG THỊ KIM LOAN
PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã số : 60.34.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HOÀNG CÔNG GIA KHÁNH
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những thông tin và
nội dung nêu trong luận văn đều dựa trên nghiên cứu thực tế và hoàn toàn đúng với
nguồn trích dẫn.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 09 năm 2013
Tác giả luận văn
Dƣơng Thị Kim Loan
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Quý thầy cô trƣờng Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt thời
gian học tập tại trƣờng.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn thầy TS. Hoàng Công Gia Khánh, ngƣời đã
nhiệt tình hƣớng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Tác giả
Dƣơng Thị Kim Loan
iii
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng biểu – hình vẽ
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG ................................................................................... 3
1.1. Một số vấn đề cơ bản về rửa tiền ........................................................................... 3
1.1.1. Khái niệm về rửa tiền ...................................................................................... 3
1.1.2. Quy trình và các phƣơng thức rửa tiền ............................................................ 5
1.1.2.1. Quy trình rửa tiền ..................................................................................... 5
1.1.2.2. Các phương thức rửa tiền ......................................................................... 7
1.1.3. Ảnh hƣởng của rửa tiền đối với nền kinh tế .................................................. 13
1.1.3.1. Làm tăng tội phạm và tham nhũng ......................................................... 13
1.1.3.2. Những hậu quả đối với quốc tế và đầu tư nước ngoài ........................... 14
1.1.3.3. Làm suy yếu các tổ chức tài chính .......................................................... 14
1.1.3.4. Nền kinh tế và khu vực tư nhân bị tổn thương ........................................ 15
1.1.3.5. Làm mất sự kiểm soát của các chính sách kinh tế .................................. 15
1.2. Hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ...................................................... 16
1.2.1. Một số dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ............................... 16
1.2.2. Điều kiện phát sinh rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ................................... 18
1.2.3. Các phƣơng thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ................ 19
1.3. Cơ sở pháp lý về phòng chống rửa tiền trên thế giới ......................................... 22
iv
1.3.1. Các khuyến nghị của FATF – Cơ quan đặc nhiệm tài chính ........................ 22
1.3.2. Các quy định của Ủy ban Basel .................................................................... 24
1.3.3. Các nguyên tắc phòng chống rửa tiền Wolfsberg ......................................... 25
1.4. Hệ thống phòng chống rửa tiền của một số nƣớc trên thế giới ......................... 25
1.4.1. Phòng, chống rửa tiền tại Mỹ ........................................................................ 25
1.4.2. Phòng, chống rửa tiền tại Anh ....................................................................... 27
1.4.3. Phòng, chống rửa tiền tại một số nƣớc khác ................................................. 29
1.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .............................................................. 29
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................................... 30
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA ............................................. 31
2.1. Cơ sở pháp lý về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam ....................................... 31
2.1.1. Các văn bản pháp quy về phòng, chống rửa tiền .......................................... 31
2.1.2. Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng chống rửa tiền ............................ 32
2.2. Thực trạng phòng, chống rửa tiền ở các NHTM Việt Nam .............................. 34
2.2.1. Các phƣơng thức, thủ đoạn rửa tiền chủ yếu qua ngân hàng gần đây ........... 34
2.2.1.1. Các trường hợp nghi ngờ rửa tiền đã phát hiện trong thời gian qua ..... 34
2.2.1.2. Các biểu hiện rửa tiền qua hệ thống NHTM Việt Nam .......................... 37
2.2.1.3. Các phương thức, thủ đoạn rửa tiền chủ yếu qua hệ thống ngân hàng gần đây ................................................................................................................. 38
2.2.2. Nhận thức của các ngân hàng trong công tác phòng chống rửa tiền ............. 42
2.2.3. Các biện pháp phòng chống rửa tiền chủ yếu đƣợc áp dụng tại các ngân
hàng ......................................................................................................................... 43
2.3. Đánh giá kết quả công tác phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng..... 46
2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc trong thời gian qua ................................................ 46
v
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế .................................................................................. 47
2.3.2.1. Hành lang pháp lý ................................................................................... 48
2.3.2.2. Các công cụ được sử dụng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống tài chính ..................................................................................................................... 49
2.3.2.3. Cơ chế thanh tra, kiểm tra và quản lý, giám sát .................................... 51
2.3.2.4. Một số hạn chế khác ............................................................................... 52
2.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại ...................................................................... 53
2.3.3.1. Do khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện .................................................. 53
2.3.3.2. Do chính sách của các NHTM ................................................................ 54
2.3.3.3. Do nền kinh tế Việt Nam còn sử dụng tiền mặt là phổ biến ................... 55
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ............................................................................................... 56
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN
QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM ............................................................ 57
3.1. Dự báo tình hình rửa tiền trong thời gian tới và định hƣớng phòng chống
rửa tiền qua hệ thống ngân hàng ................................................................................ 57
3.1.1. Dự báo tình hình rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam ...................... 57
3.1.1.1. Dự báo tình hình quốc tế......................................................................... 57
3.1.1.2. Dự báo tình hình Việt Nam ..................................................................... 57
3.1.2. Định hƣớng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam........ 59
3.2. Các nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống rửa tiền qua hệ thống
ngân hàng ...................................................................................................................... 60
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với Nhà nƣớc ................................................................ 60
3.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp ................................................................ 60
3.2.1.2. Hạn chế thanh toán tiền mặt ................................................................... 61
3.2.1.3. Tăng cường công tác phòng, chống các loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm tham nhũng ................................................................................................. 63
vi
3.2.2. Nhóm giải pháp đối với NHNN .................................................................... 64
3.2.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng, chống rửa tiền ................... 64
3.2.2.2. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công tác phòng, chống rửa tiền .................................................................................... 65
3.2.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các NHTM ............. 65
3.2.2.4. Tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong nước và quốc tế về phòng, chống rửa tiền ...................................................................................... 67
3.2.3 Nhóm giải pháp đối với các NHTM ............................................................... 68
3.2.3.1. Xây dựng quy định nội bộ và thành lập bộ phận chuyên trách về phòng, chống rửa tiền .......................................................................................... 68
3.2.3.2. Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng ........................................... 69
3.2.3.3. Ứng dụng công nghệ thông tin, thiết lập phần mềm phòng, chống rửa tiền ........................................................................................................................ 73
3.2.3.4. Đào tạo nguồn nhân lực trong công tác phòng, chống rửa tiền ............ 75
3.2.3.5. Một số giải pháp khác ............................................................................. 76
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 78
Tài liệu tham khảo
vii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng Việt
NHNN : Ngân hàng Nhà nƣớc
NHTM : Ngân hàng thƣơng mại
Tiếng Anh
ADB : The Asian Development Bank (Ngân hàng Phát triển Châu Á)
APG : The Asia Pacific Group (Nhóm Châu Á – Thái Bình Dƣơng về
chống rửa tiền)
AMLC : Anti- Money Laundering Council
AMLO : Anti- Money Laundering Office (Cơ quan chuyên trách chống rửa
tiền)
BSA : Bank Secrecy Act (Luật bí mật ngân hàng)
FATF : Financial Action Task Force (Tổ chức Lực lƣợng đặc nhiệm tài
chính về chống rửa tiền)
: International Monetary Fund (Quỹ tiền tệ quốc tế) IMF
: World Bank (Ngân hàng Thế giới) WB
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU – HÌNH VẼ
PHẦN BẢNG
Bảng 1.1: Phân loại các khách hàng có nghi vấn đến hoạt động rửa tiền ................... 21
Bảng 2.1: Số lƣợng báo cáo giao dịch đáng ngờ thống kê theo biểu hiện rửa tiền .... 37
Bảng 2.2: Số lƣợng báo cáo giao dịch đáng ngờ thống kê theo phƣơng thức rửa tiền41
Bảng 2.3: Kết quả tiếp nhận, phân tích báo cáo giao dịch đáng ngờ qua các năm ..... 47
PHẦN BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Danh sách 10 quốc gia nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới 2012 ........... 40
Biểu đồ 2.2 : Tỷ lệ tiền mặt lƣu thông trong tổng phƣơng tiện thanh toán................. 56
PHẦN HÌNH
Hình 1.1: Quy trình của hoạt động rửa tiền .................................................................. 7
Hình 1.2: Mô phỏng hoạt động của hệ thống chuyển tiền Hawala ............................. 11
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động rửa tiền đã và đang trở thành vấn nạn nghiêm trọng mang tính quốc tế,
đƣợc cộng đồng thế giới quan tâm vì nó gây ra những hậu quả kinh tế - xã hội to
lớn, ảnh hƣởng tới an ninh và uy tín quốc gia, làm suy yếu nền kinh tế, cũng nhƣ
quá trình cải tổ nền kinh tế. Rửa tiền không chỉ giúp tội phạm che giấu đƣợc nguồn
gốc của những khoản tiền bất hợp pháp mà còn tạo ra cơ sở cho chúng hƣởng thụ và
sử dụng những đồng tiền này phục vụ cho những hoạt động tội phạm khác. Trong
khi các trung tâm tiền tệ hàng đầu thế giới nỗ lực chống lại các hoạt động rửa tiền
thì những tội phạm rửa tiền lại có thêm động cơ để chuyển hoạt động rửa tiền sang
các nƣớc đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Tại Việt Nam, vấn đề phòng, chống rửa tiền là một trong những vấn đề tƣơng đối
mới mẻ. So với quốc tế, hệ thống luật pháp về phòng chống rửa tiền tại Việt Nam
hiện nay vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu và triển khai những bƣớc khởi đầu.
Công tác phòng, chống rửa tiền tại các NHTM Việt Nam mới đƣợc chú ý trong vài
năm gần đây và vẫn thiếu các công cụ, hệ thống cũng nhƣ nguồn lực cần thiết.
Trong thời gian tới nếu chúng ta không có những giải pháp đúng đắn, nƣớc ta sẽ trở
thành điểm đến của tội phạm rửa tiền, mà ngân hàng đƣợc coi nhƣ là công cụ để
thực hiện hành vi đó. Vì vậy, vấn đề phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
ở Việt Nam đang đƣợc đặt ra nhƣ một đòi hỏi búc xúc trong công tác quản lý hiện
nay. Và đây cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài “Phòng, chống rửa tiền qua hệ
thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống lại những lý luận cơ bản về rửa tiền và những tác động của nó đến kinh
tế xã hội.
- Phân tích thực trạng về hoạt động rửa tiền tại Việt Nam đặc biệt qua hệ thống
ngân hàng.
2
- Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng,
chống rửa tiền qua hệ thống NHTM Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: rửa tiền và công tác phòng, chống rửa tiền
- Phạm vi nghiên cứu: hệ thống ngân hàng Việt Nam với các số liệu từ năm 2004
đến năm 2012.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn là sự kết hợp phƣơng pháp mô tả, phân tích, so sánh, thống kê lý thuyết,
các văn bản, tài liệu, thực trạng hoạt động rửa tiền đã và đang diễn ra trên thế giới
và Việt Nam. Từ đó đƣa ra giải pháp cho hoạt động phòng, chống rửa tiền qua hệ
thống ngân hàng Việt Nam.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn đƣợc chia làm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan về rửa tiền và phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng
Chƣơng 2: Thực trạng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng thƣơng mại
Việt Nam
Chƣơng 3: Giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng thƣơng mại
Việt Nam
3
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG RỬA
TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
1.1. Một số vấn đề cơ bản về rửa tiền
1.1.1. Khái niệm về rửa tiền
Trong đời sống kinh tế - xã hội hiện nay, “rửa tiền” không còn là một thuật ngữ
mới mẻ ở các quốc gia. Khái niệm rửa tiền (money laundering) đã xuất hiện từ thế
kỷ XVIII, trong những vụ án hình sự tại Hoa Kỳ. Sớm hơn, theo sử gia, khoảng hơn
ba nghìn năm trƣớc, tại Trung Quốc đã có những hoạt động này của các thƣơng
nhân nhằm tránh thuế của triều đình.
Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XIX, ngƣời ta mới chính thức nhắc đến “rửa tiền”, nhƣ
là một hành vi phạm tội và chính thức bị coi là bất hợp pháp tại Mỹ từ năm 1986.
Cùng với toàn cầu hóa, rửa tiền đã bùng nổ ở nhiều quốc gia, gây những hậu quả
nghiêm trọng về kinh tế - xã hội, đặc biệt ở các nƣớc đang phát triển hoặc các nền
kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi.
Định nghĩa có tính pháp lý đầu tiên về rửa tiền đƣợc nhắc đến trong Công ƣớc của
Liên hiệp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chất hƣớng thần
(Công ƣớc Viên năm 1988). Theo đó, rửa tiền là “Hành vi chuyển đổi hoặc chuyển
giao tài sản khi biết rằng tài sản đó thu được từ buôn bán ma túy hoặc từ việc tham
gia vào hoạt động phạm tội với mục đích che giấu nguồn gốc tài sản hoặc giúp
người thực hiện các hành vi trên trốn tránh trách nhiệm pháp lý các hành vi của
mình; Hành vi che dấu hoặc ngụy trang hình thái tự nhiên, nguồn gốc, địa điểm,
việc định đoạt, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản hoặc các quyền liên quan đến
1 UN (1988), Convention Against Illicit Traffic In Narcotic Drugs And Psychotropic Substances.
tài sản mà biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma túy mà có; Hành vi mua, tàng trữ hoặc sử dụng tài sản khi biết rõ tài sản do phạm tội mà có”[1].
4
Tuy nhiên, định nghĩa về rửa tiền đƣợc nhiều quốc gia đồng thuận nhất là định
nghĩa theo Công ƣớc chống tham nhũng của Liên hợp quốc (Công ƣớc Palermo
2000). Theo đó, rửa tiền đƣợc quy định là hành vi:“(i) Chuyển đổi hay chuyển
nhượng tài sản, cho dù biết đó là tài sản do phạm tội mà có, nhằm che dấu hoặc
ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản đó hoặc nhằm giúp đỡ bất kỳ ai có
liên quan đến việc thực hiện tội phạm gốc để lẩn tránh trách nhiệm pháp lý do hành
vi của người này mang lại; (ii) Che dấu hoặc ngụy trang bản chất thật sự, nguồn
gốc, địa điểm sự chuyển nhượng, sự vận chuyển hoặc sở hữu hoặc các quyền liên
quan đến tài sản, dù biết tài sản đó do phạm tội mà có; (iii) Nhận, sở hữu hoặc sử
dụng tài sản, mà tại thời điểm nhận đã biết rằng tài đó do phạm tội mà có; Tham
gia, phối hợp hoặc có âm mưu thực hiện hành vi, cố gắng thực hiện hành vi hay
giúp sức, xúi giục, tạo điều kiện thuận lợi và bầy mưu để thực hiện bất kỳ một tội
phạm nào tương ứng với quy định tại điều này khi biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma túy mà có”[2].
Theo Lực lƣợng đặc nhiệm tài chính chống rửa tiền (FATF) thì định nghĩa một
cách ngắn gọn: “Rửa tiền là việc xử lý thu nhập có được do phạm tội mà có nhằm che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của chúng”[3].
Theo nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 của Chính phủ về phòng,
chống rửa tiền (Nghị định 74) thì “rửa tiền” là hành vi của cá nhân hay tổ chức tìm
cách hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể
sau đây:
- Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản
do phạm tội mà có;
- Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhƣợng, vận chuyển, sử
2 UN (2000), Convention Against Transnational Organized Crime, Palermo.
3 FATF, What is Money Laundering ?, http://www.fatf-gafi.org/pages/faq/moneylaundering/
dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có;
5
- Đầu tƣ vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm
cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật
sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm
tội mà có.
Theo Luật phòng, chống rửa tiền có hiệu lực từ ngày 01/01/2013 thì “rửa tiền” là
hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội
mà có, bao gồm:
- Hành vi đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự;
- Trợ giúp cho tổ chức, cá nhân có liên quan đến tội phạm nhằm trốn tránh trách
nhiệm pháp lý bằng việc hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có;
- Chiếm hữu tài sản nếu tại thời điểm nhận tài sản đã biết rõ tài sản đó do phạm
tội mà có, nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc tài sản.
Nói một cách dễ hiểu, rửa tiền là việc biến đồng tiền phạm pháp thành đồng tiền
hợp pháp để sử dụng.
1.1.2. Quy trình và các phƣơng thức rửa tiền
1.1.2.1. Quy trình rửa tiền
Tiền bẩn thƣờng có nguồn gốc từ các hoạt động phạm tội nhƣ: buôn lậu, khủng
bố, buôn bán ma túy, tham nhũng, tham ô, hối lộ, trộm cắp, lừa đảo, mại dâm, buôn
ngƣời, trốn thuế, tội phạm tài chính…Bọn tội phạm thƣờng sử dụng nhiều thao tác
tinh vi, phức tạp để rửa tiền, nhằm che mắt các cơ quan điều tra hay cơ quan chống
rửa tiền. Một vòng quay biến những đồng “tiền bẩn” thành “tiền sạch” thông thƣờng
gồm ba bƣớc, có thể diễn ra theo tuần tự hoặc đôi khi chồng chéo và đan xen nhau.
Thực hiện chu trình này, bọn tội phạm khoác cho những đồng “tiền bẩn” một vỏ
bọc hoàn toàn trong sạch, đƣa những đồng tiền này vào lƣu thông trong đời sống xã
hội mà không làm lộ tội phạm gốc hay gây sự nghi ngờ cho những cơ quan bảo vệ
pháp luật.
6
Quy trình cơ bản của hoạt động rửa tiền có ba giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất: đưa tiền bẩn vào lưu thông trong hệ thống tài chính (gọi tắt
là “cài đặt”, “gửi tiền”). Đây là thao tác đầu tiên trong quy trình rửa tiền, nhằm che
giấu nguồn gốc xuất xứ, thay đổi hình thái tồn tại của tiền bẩn, bƣớc đầu “hòa nhập”
vào hệ thống tài chính ngân hàng. Đây cũng là giai đoạn khó khăn nhất và dễ bị
“phát hiện” nhất. Bởi vì đối với bọn tội phạm và những khoản tiền lớn thƣờng bị
các cơ quan điều tra theo dõi. Bên cạnh đó, mỗi quốc gia ít nhiều đều có những quy
định về lƣợng tiền mặt đƣợc phép lƣu thông, đƣợc phép đƣa qua biên giới, đƣợc
phép thanh toán hay các quy định về khai báo ngân hàng nhằm kiểm soát, đón lõng
những hành vi rửa tiền của bọn tội phạm. Trong giai đoạn này, bọn tội phạm rửa
tiền thƣờng thực hiện đầu tƣ phân tán bằng cách chia nhỏ các khoản “tiền bẩn”
thành nhiều khoản tiền nhỏ dƣới mức quy định, mua các công cụ tiền tệ hay hàng
hóa xa xỉ đắt tiền, chuyển lậu tiền ra nƣớc ngoài… nếu thực hiện trót lọt thì khả
năng rửa tiền thành công là rất lớn.
- Giai đoạn thứ hai: là quá trình tích tụ và quay vòng các khoản tiền sau khi chúng
xâm nhập đƣợc vào các hệ thống tài chính (gọi tắt là “sắp xếp”, “trộn lẫn”, “chuyển
đổi”). Đây cũng là một khâu quan trọng trong việc xóa bỏ hoàn toàn nguồn gốc
“bẩn” của đồng tiền. Tiền đƣợc chuyển từ tổ chức tài chính này sang tổ chức tài
chính khác để che giấu nguồn gốc và chủ sở hữu của tiền. Thực chất đây là quy
trình tạo ra một chuỗi các giao dịch, đồng tiền chuyển dịch khắp nơi, quay vòng
nhiều lần nhằm xóa bỏ dấu vết tội phạm, làm cho chúng ngày càng xa nguồn gốc
ban đầu.
- Giai đoạn thứ ba: là giai đoạn tiền được đầu tư vào những hoạt động kinh doanh
hợp pháp (gọi tắt là “hòa nhập”). Tiền sẽ đƣợc phân phối trở lại vào nền kinh tế
bằng các hành vi tiêu dùng, đầu tƣ vào các doanh nghiệp và đầu tƣ tài chính... Thủ
đoạn của bọn rửa tiền lúc đầu thƣờng bỏ tiền quảng cáo trên các phƣơng tiện thông
tin đại chúng để tạo vỏ bọc uy tín, làm ăn có lãi, tài trợ từ thiện, đóng góp xây dựng,
hoặc mua bất động sản, mua ô tô đắt tiền, xây dựng các công trình… Sau đó bán tài
7
sản, hay đóng góp cổ phần vào các công ty lớn, rồi chuyển nhƣợng cổ phần để thu
lại tiền.
Hình 1.1: Quy trình của hoạt động rửa tiền
1.1.2.2. Các phương thức rửa tiền
Các phƣơng thức rửa tiền thƣờng rất đa dạng, tinh vi, phức tạp, tùy thuộc vào từng
chính sách kiểm soát của mỗi quốc gia. Trong từng điều kiện cụ thể, bọn tội phạm
sẽ dùng những phƣơng thức, thủ đoạn khác nhau để sạch hóa đồng “tiền bẩn”.
Về mặt không gian, phƣơng thức thủ đoạn rửa tiền thể hiện dƣới 5 trƣờng hợp:
- Trường hợp 1: Các nguồn “tiền bẩn” đƣợc tẩy rửa và sử dụng ngay trong nƣớc.
Đây là quá trình rửa tiền trong đó số tiền bất hợp pháp đƣợc hình thành, đƣợc tẩy
rửa cũng nhƣ đƣợc tái đầu tƣ qua hệ thống tài chính của nƣớc đó.
8
- Trường hợp 2: Lƣợng “tiền bẩn” có nguồn gốc trong nƣớc, sau đó chuyển ra
nƣớc ngoài để rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lƣu thông
trên thị trƣờng trong nƣớc.
- Trường hợp 3: Số “tiền bẩn” đƣợc rửa và rút ra khỏi hệ thống tài chính của một
quốc gia đang phát triển để sử dụng ở nơi khác, không quay lại đầu tƣ cho quốc gia
đó.
- Trường hợp 4: “Tiền bẩn” đƣợc tạo ra ở nƣớc ngoài, đƣợc tẩy rửa ở đó hay một
nƣớc khác và cuối cùng đƣợc đầu tƣ cho các nƣớc đang phát triển.
- Trường hợp 5: Lƣợng “tiền bẩn” sau khi rửa đƣợc chuyển vào một quốc gia
đang phát triển nhƣng không phải để đầu tƣ mà đƣợc lƣu thông tản mạn, tiêu thụ
khắp nơi.
Về nội dung hoạt động, rửa tiền biểu hiện qua một số phƣơng thức sau:
- Rửa tiền qua các giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt: đây là phƣơng thức rửa tiền
truyền thống và nó vẫn có những hiệu quả thực sự đối với những nền kinh tế chủ
yếu giao dịch bằng tiền mặt. Rửa tiền thông qua các giao dịch tiền mặt với số lƣợng
lớn rất dễ bị nghi ngờ, gây sự chú ý đối với cơ quan điều tra. Tuy nhiên, với những
khoản tiền bẩn không quá lớn, phƣơng thức này vẫn đƣợc áp dụng bằng cách chia
nhỏ khoản tiền thành những khoản nhỏ hơn hòng che mắt cơ quan điều tra. Sau đó,
bọn tôi phạm sẽ tiến hành trà trộn với những khoản tiền sạch khác trong các giao
dịch nhằm cắt đứt nguồn gốc bẩn của đồng tiền.
- Rửa tiền thông qua việc mua những động sản như vàng, bạc, kim cương…Ƣu
điểm của những tài sản này là có giá trị lớn, gọn nhẹ, dễ cất giữ, có thể mua đi bán
lại ở mọi lúc mọi nơi, không cần phải đăng ký quyền sở hữu, do vậy ít gây sự chú ý.
Ngoài ra bọn tội phạm còn thực hiện rửa tiền thông qua phƣơng thức này bằng cách
mua ô tô, xe máy, du thuyền, séc du lịch… và thƣờng đăng ký dƣới một tên khác để
tránh sự chú ý của cơ quan điều tra.
9
- Rửa tiền thông qua đầu tư nước ngoài: trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
các quốc gia đang phát triển tăng cƣờng kêu gọi đầu tƣ nƣớc ngoài, tạo hành lang
pháp lý thông thoáng cho nhà đầu tƣ nƣớc ngoài vào đầu tƣ trong nƣớc. Nƣớc tiếp
nhận đầu tƣ cũng không quan tâm điều tra nguồn gốc của tiền đƣợc đầu tƣ là tiền
sạch hay tiền bẩn. Đây là điều kiện thuận lợi, là mảnh đất màu mỡ cho hoạt động
rửa tiền phát triển. Bọn tội phạm mang tiền vào thuê quyền sử dụng đất, lập nhà
xƣởng, mua bất động sản, thành lập công ty có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài…Trong quá
trình hoạt động, lợi nhuận đƣợc chuyển đến một số địa chỉ mong muốn. Sau một
thời gian, chúng tuyên bố phá sản hoặc biến mất, những đồng tiền bẩn đƣợc khoác
vỏ bọc hợp pháp.
- Rửa tiền thông qua các trung tâm giải trí, sòng bạc, xổ số, cá cược: đây là
những lĩnh vực kinh doanh có tỷ lệ thanh toán tiền mặt cao. Tại các sòng bạc, bọn
tội phạm có thể bỏ tiền ra mua vé, thẻ chơi bạc để tham gia việc đánh bạc. Đối với
chúng, kết quả thực tế thắng thua không quan trọng, điều cốt lõi là sau khi rời khỏi
đây chúng có giấy chứng nhận đã thắng với một khoản tiền lớn của chủ sòng bạc
với một tỷ lệ chi phí thỏa thuận. Ngoài ra, việc hợp thức hóa tiền bẩn còn đƣợc thực
hiện thông qua việc mua lại những giải thƣởng xổ số có giá trị lớn hơn giá trị thực
mà ngƣời trúng thƣởng có thể đƣợc hƣởng. Sở hữu tấm vé số trúng thƣởng, bọn tội
phạm có thể đàng hoàng nhận đƣợc tiền hợp pháp từ công ty xổ số. Nhiều trò chơi
cá cƣợc để giải trí nhƣ đua ngựa, đua chó…cũng sử dụng lƣợng tiền mặt khá lớn, và
cũng là nơi để rửa tiền lý tƣởng.
- Rửa tiền thông qua các hợp đồng thương mại, hóa đơn chứng từ: bọn tội phạm
sẽ khai tăng số lƣợng hàng hóa trong hóa đơn mua bán hoặc lợi dụng các công ty
kinh doanh hàng hóa thật nhƣng không bán hàng hoặc bán rất ít so với hóa đơn.
Thông qua những hóa đơn chứng từ đó, bọn tội phạm có thể chứng minh cho thu
nhập của chúng có đƣợc là từ hoạt động kinh doanh.
- Rửa tiền thông qua các công ty bảo hiểm: bọn tội phạm dùng tiền bẩn để mua
bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm. Các khoản tiền này khi đƣợc nằm trong tài khoản
10
của công ty bảo hiểm một thời gian sẽ tạo cho nó một điều kiện an toàn nhất định.
Sau đó, kẻ tẩy rửa sẽ viện lý do nào đó để rút tiền trƣớc thời hạn, yêu cầu chi trả cho
những ngƣời thụ hƣởng khác hoặc dùng giá trị hợp đồng bảo hiểm để đảm bảo chi
trả cho một nhu cầu giao dịch nào đó nhƣ mua bất động sản.
- Rửa tiền thông qua đầu tư chứng khoán: ở một số nƣớc chƣa có quy định chặt
chẽ về kiểm soát nguồn gốc đồng tiền thì thị trƣờng chứng khoán là nơi bọn rửa tiền
tìm đến. Các khoản tiền bẩn sẽ đƣợc dùng để mua cổ phiếu tại các sàn giao dịch.
Sau một thời gian, số cổ phiếu này sẽ đƣợc bán đi với giá có thể thấp hơn giá trị
mua lúc ban đầu, đồng tiền thu đƣợc lúc này xa rời với đồng tiền bẩn lúc ban đầu.
- Rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng: bọn tội phạm có thể dùng tiền bẩn gửi
tiết kiệm, mở tài khoản ngân hàng để chuyển tiền hoặc mua trái phiếu, tín phiếu.
Sau một thời gian rút dần hoặc mang các giấy tờ có giá đi cầm cố, thế chấp để vay
một khoản tiền nhất định. Ở những quốc gia có hệ thống ngân hàng chặt chẽ, số tiền
gửi vào ngân hàng nếu vƣợt qua số tiền quy định sẽ bị đƣa vào danh sách những
giao dịch đáng ngờ và phải giải trình nguồn gốc. Tuy nhiên, trên thế giới vẫn còn
nhiều quốc gia chƣa có quy định cụ thể về hạn mức tiền gửi phải giải trình về nguồn
gốc, do đó phƣơng thức rửa tiền này thƣờng đƣợc bọn tội phạm lựa chọn. Bên cạnh
đó rửa tiền còn đƣợc thực hiện qua hệ thống ngân hàng “ngầm”: diễn ra tại các quốc
gia có hệ thống ngân hàng hoạt động kém hiệu quả nhƣng chi phí cao. Do đó, trong
cộng đồng những ngƣời nƣớc ngoài tại các quốc gia này tồn tại hệ thống ngân hàng
không chính thức, gọi là ngân hàng “ngầm” với chi phí dịch vụ rẻ, bí mật và thủ tục
giấy tờ đơn giản hơn các ngân hàng hợp pháp. Các ngân hàng ngầm có đại diện ở
nhiều nƣớc khác nhau để thực hiện dịch vụ chuyển tiền từ nƣớc này sang nƣớc
khác, hoặc từ nơi này sang nơi khác trong cùng một quốc gia. Sự hoạt động của
ngân hàng này chủ yếu dựa trên niềm tin của ngân hàng với khách hàng nên thủ tục
đơn giản. Bọn tội phạm lợi dụng nguyên tắc giữ bí mật của những ngân hàng này đã
đem tiền đến gửi và yêu cầu nhận lại ở một nơi khác. Những địa chỉ cần nhận tiền
tẩy rửa thông thƣờng là những quốc gia khao khát đầu tƣ tài chính nhƣng ít quan
11
tâm đến nguồn gốc đồng tiền, việc thanh toán qua ngân hàng chƣa phải là yêu cầu
bắt buộc và phổ biến, hệ thống pháp luật về phòng chống rửa tiền chƣa nghiêm.
- Rửa tiền thông qua hệ thống chuyển tiền ngầm: Mặc dù thực tế chƣa có thống kê
chính thức nào về tổng giá trị tiền tệ đƣợc chuyển giữa quốc gia này sang quốc gia
khác thông qua các kênh chuyển tiền ngầm nhƣng những quan ngại về việc lợi dụng
kênh chuyển tiền này để tiến hành các hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố đang
đƣợc cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Hệ thống chuyển tiền ngầm đƣợc hình
thành theo các khu vực địa lý nhất định với nhiều tên gọi khác nhau nhƣ: Feichien
(Trung Quốc), Padala (Philippines), Hundi (Ấn Độ), Hui Kuan (Hồng Kông), Phei
Kwan (Thái Lan) và Hawala (Trung Đông), nhƣng xét về bản chất, phƣơng thức
hoạt động của các hệ thống chuyển tiền này là giống nhau và khá đơn giản. Hình
minh họa dƣới đây mô tả phƣơng thức hoạt động điển hình của hệ thống chuyển
tiền ngầm Hawala.
Hình 1.2: Mô phỏng hoạt động của hệ thống chuyển tiền Hawala
12
Một ngƣời cha ở quốc gia B (XB) muốn chuyển tiền cho con trai mình đang học
tập tại quốc gia A (XA). XB liên hệ với ngƣời cung cấp dịch vụ Hawala ở nơi mình
sinh sống (HB). XB đƣa cho HB số tiền định chuyển cho XA và trả phí cho dịch vụ
này. HB nhận tiền và cung cấp cho XB mã code của giao dịch, mã code này sẽ đƣợc
XB thông báo cho XA.
HB sau đó sẽ thông báo cho ngƣời cung cấp dịch vụ Hawala ở khu vực XA sinh
sống ở quốc gia A (HA) bằng điện thoại, fax, thƣ điện tử hoặc bất kỳ phƣơng thức
thông báo nào khác về khoản tiền chuyển và thông tin liên lạc của XA.
HA sau đó sẽ liên lạc với XA và trả tiền cho XA khi XA cung cấp đúng mã code
của giao dịch. Đồng thời, một ngƣời lao động nƣớc ngoài ở quốc gia A (CA) muốn
chuyển tiền về cho gia đình mình ở quốc gia (CB), CA sẽ đƣa cho HA tiền và trả
phí, tƣơng tự nhƣ trên, HA thông báo cho HB, HB liên lạc CB để trả tiền.
Nhƣ vậy, trong giao dịch thứ nhất, HB nợ tiền HA, trong giao dịch thứ hai HA nợ
tiền HB. HA và HB sau đó sẽ thanh toán bù trừ cho nhau. Trên thực tế, có rất nhiều
giao dịch giữa HA và HB, đồng thời, HA và HB có quan hệ với rất nhiều đại lý
Hawala khác tạo thành một mạng lƣới dày đặc vô cùng phức tạp. Không có khoản
tiền thực sự đƣợc chuyển giữa HA và HB, tất cả cả các giao dịch đều đƣợc thanh
toán bù trừ Hawala với nhau. Hệ thống này hoàn toàn đƣợc vận hành trên cơ sở sự
tin tƣởng lẫn nhau và không có bất kỳ ràng buộc pháp lý nào giữa các bên tham gia
giao dịch.
Lý do Hawala đƣợc sử dụng rộng khắp trên toàn thế giới là vì: (i) thủ tục đơn
giản: ngƣời chuyển tiền chỉ phải cung cấp tên và số điện thoại hoặc địa chỉ của
ngƣời nhận tiền mà không cần phải khai báo thông tin hoặc cung cấp giấy tờ chứng
minh về nhân thân của mình. Ngƣời nhận tiền chỉ phải cung cấp mã code giao dịch
và nhận tiền; (ii) thời gian nhanh chóng: thông thƣờng chỉ mất khoảng từ 6 -12h để
tiền đƣợc chuyển đến ngƣời nhận ở các địa điểm và các quốc gia khác nhau, (iii) chi
phí chuyển tiền rẻ: chỉ khoảng từ 0.25% - 1.25% giá trị khoản tiền chuyển, (iv)
13
mạng lƣới rộng khắp: ngƣời cung cấp dịch vụ Hawala không cần phải có trụ sở,
phải đăng ký nên mạng lƣới Hawala rộng khắp (đại lý Hawala có thể là một cá nhân
hoạt động ở nhà mình, có thể ở các cửa hàng nhỏ, đại lý du lịch, cửa hàng
vàng, điểm bán thẻ điện thoại...) tới cả những khu vực vùng sâu, vùng xa nơi không
có mạng lƣới ngân hàng hoạt động hoặc nhận thức của ngƣời dân còn hạn chế,
không có điều kiện tiếp xúc các dịch vụ ngân hàng.
Với những đặc điểm nêu trên, hệ thống chuyển tiền ngầm đã bị tội phạm rửa tiền
lợi dụng để chuyển tiền, tránh sự phát hiện của cơ quan có thẩm quyền. Thậm chí,
trong trƣờng hợp phát hiện tội phạm thì việc điều tra hay truy tố tội phạm là rất khó
khăn do hồ sơ khách hàng, thông tin giao dịch, tài liệu chứng minh hầu nhƣ không
thể khai thác đƣợc. Trên thực tế, tội phạm hoặc các tổ chức tội phạm có thể lập ra
các đại lý chuyển tiền ngầm để nhận và chuyển tiền cho khách hàng nhƣng thực
chất chỉ để ngụy trang cho hoạt động rửa tiền hay tài trợ khủng bố của mình.
1.1.3. Ảnh hƣởng của rửa tiền đối với nền kinh tế
Rửa tiền không chỉ là vấn đề của các thị trƣờng tài chính hàng đầu thế giới mà
ngay cả các quốc gia đang trong quá trình hội nhập vào hệ thống tài chính quốc tế
cũng không tránh khỏi. Đặc biệt khi các thị trƣờng mới nổi mở cửa nền kinh tế và
lĩnh vực tài chính thì họ dễ dàng trở thành mục tiêu của các hoạt động rửa tiền. Nói
cách khác, rửa tiền là hành động gây vẩn đục nền kinh tế. Rửa tiền có thể tàn phá
thành quả kinh tế của một quốc gia. Bằng những thủ đoạn tinh vi, các băng nhóm
tội phạm tìm cách hợp pháp hóa tiền và tài sản có nguồn gốc phạm tội của mình -
những đồng tiền bất chính một “nguồn gốc sạch sẽ”. Những hoạt động này đã gây
ra những ảnh hƣởng tiêu cực cho nền kinh tế vĩ mô nói chung và lĩnh vực tài chính
nói riêng, cụ thể:
1.1.3.1. Làm tăng tội phạm và tham nhũng
Ở những quốc gia có hệ thống phòng chống rửa tiền kém hiệu quả thƣờng là nơi
trú ẩn an toàn cho hoạt động rửa tiền, làm gia tăng tội phạm và thúc đẩy tham
nhũng. Rửa tiền vừa là công cụ vừa là động lực của các tổ chức tội phạm. Khi tiền
14
bẩn đƣợc đem rửa thì có nghĩa là trƣớc đó đã xảy ra các hoạt động phạm pháp. Tiền
có rửa đƣợc thì các băng nhóm tội phạm mới tồn tại đƣợc và càng lao vào phạm tội
để kiếm tiền bất hợp pháp. Rửa tiền là khâu cuối cùng và quan trọng nhất trong
những hoạt động phạm pháp nhằm đem lại những tài khoản kếch xù.
1.1.3.2. Những hậu quả đối với quốc tế và đầu tư nước ngoài
Rửa tiền làm giảm uy tín và đầu tƣ nƣớc ngoài, tai tiếng về một nơi ẩn náu an toàn
cho rửa tiền và tài trợ cho khủng bố cũng đã có thể gây ra những hậu quả bất lợi
đáng kể cho sự phát triển của một đất nƣớc. Các tổ chức tài chính nƣớc ngoài có thể
quyết định hạn chế các giao dịch của mình với những tổ chức là nơi ẩn náu an toàn
cho rửa tiền; buộc những giao dịch nhƣ vậy sẽ qua kiểm soát gắt gao hơn, khiến cho
chúng thêm tốn kém hoặc chấm dứt hoàn toàn các mối quan hệ giao dịch hay vay
mƣợn. Các doanh nghiệp hợp pháp cũng sẽ bị giảm khả năng tiếp cận các thị trƣờng
thế giới hoặc phải tiếp cận với chi phí cao hơn do phải chịu sự kiểm soát gắt gao
hơn về quyền sở hữu, các hệ thống tổ chức và kiểm soát. Các quốc gia nổi tiếng về
sự tuân thủ lỏng lẻo các tiêu chuẩn về phòng, chống rửa tiền sẽ gặp nhiều hạn chế
trong việc tiếp nhận hỗ trợ của chính phủ nƣớc ngoài.
1.1.3.3. Làm suy yếu các tổ chức tài chính
Rửa tiền có thể gây nguy hại cho sự lành mạnh của khu vực tài chính của một đất
nƣớc cũng nhƣ cho sự ổn định của từng tổ chức tài chính theo nhiều cách khác
nhau. Những hậu quả tai hại đó đƣợc coi là rủi ro đối với uy tín, nghiệp vụ, pháp lý
và rủi ro tập trung đều có mối quan hệ qua lại với nhau. Mỗi rủi ro đều gây ra
những chi phí cụ thể:
Mất đi hoạt động kinh doanh sinh lợi
Những vấn đề về tính thanh khoản do việc rút tiền gây ra
Cắt đứt các cơ sở ngân hàng đại lý
Các chi phí điều tra và tiền phạt
15
Thu giữ tài sản
Tổn thất cho vay
Giảm giá trị cổ phiếu của các tổ chức tài chính
1.1.3.4. Nền kinh tế và khu vực tư nhân bị tổn thương
Những kẻ rửa tiền khét tiếng và việc sử dụng “các công ty bình phong”- là những
doanh nghiệp có vẻ bề ngoài hợp pháp, tham gia hoạt động kinh doanh hợp pháp
nhƣng trên thực tế lại do bọn tội phạm kiểm soát. Những công ty bình phong này
trộn lẫn những khoản tiền hợp pháp với những khoản tiền bất hợp pháp, cung cấp
các sản phẩm và dịch vụ với giá thấp hơn giá thị trƣờng. Điều này làm cho hàng hóa
của những công ty hợp pháp không thể cạnh tranh nổi, có thể dẫn đến phá sản. Bằng
việc sử dụng các công ty bình phong và những khoản đầu tƣ khác vào các công ty
hợp pháp, những khoản thu đƣợc từ “rửa tiền” có thể đƣợc dùng để kiểm soát toàn
bộ các ngành hoặc các khu vực của nền kinh tế ở những nƣớc nhất định. Điều này
làm tăng sự bất ổn định tiềm tàng về khía cạnh tiền tệ và kinh tế do sự phân bổ sai
lệch các nguồn lực bắt nguồn từ tình trạng méo mó giả tạo của giá tài sản và hàng
hóa. Nó cũng tạo ra một cơ chế cho trốn thuế, từ đó là cạn kiệt nguồn thu của đất
nƣớc.
1.1.3.5. Làm mất sự kiểm soát của các chính sách kinh tế
Sự lƣu chuyển các luồng tiền trong thế giới ngầm gây ra những đột biến trong cầu
tiền tệ và bất ổn định lãi suất, tỷ giá hối đoái. Các con số thống kê bị bóp méo, gây
khó khăn cho việc hoạch định chính sách và làm giảm tính hiệu quả điều tiết của
chính phủ, gia tăng tính bất ổn của nền kinh tế.
Bên cạnh những tác động tiêu cực nhƣ trên thì rửa tiền cũng có những tác động
tích cực tới nền kinh tế nhƣ: thông qua đầu tƣ nƣớc ngoài mà cơ sở vật chất của
nƣớc tiếp nhận đầu tƣ đƣợc cải thiện, tạo công ăn việc làm cho ngƣời dân hơn, thu
hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài nhiều hơn… Nhƣng, những tác động tích cực từ hoạt
động rửa tiền mang lại là nhất thời, còn những tác động tiêu cực là lâu dài, tiềm ẩn
16
những hậu quả vô cùng to lớn. Chính vì vậy, hoạt động chống tội phạm rửa tiền rất
cần đƣợc sự quan tâm của các nƣớc trên thế giới.
1.2. Hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
1.2.1. Một số dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Ngày nay, rửa tiền qua hệ thống ngân hàng là một trong những phƣơng thức mà
bọn tội phạm ƣa thích sử dụng với những thủ đoạn hết sức tinh vi. Chính vì vậy,
việc đƣa ra những dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua ngân hàng là hết sức cần thiết.
Có thể định dạng, phân loại và nhận biết một số dấu hiệu rửa tiền qua ngân hàng
mà bọn tội phạm hay sử dụng nhƣ sau:
Thông qua thông tin về khách hàng:
Trong quá trình giao dịch với khách hàng, ngân hàng có thể căn cứ vào thái độ của
khách hàng trong việc cung cấp thông tin, chứng từ thông thƣờng theo quy định
ngân hàng để đánh giá về mức độ trung thực của khách hàng. Đặc biệt là những
trƣờng hợp khách hàng miễn cƣỡng cung cấp thông tin, đƣa ra những thông tin rất ít
về bản thân, thông tin không chính xác và nếu muốn xác minh đƣợc những thông
tin này thì ngân hàng thƣờng gặp những khó khăn hoặc phải trả chi phí cao.
Thông qua những tài khoản đang bị điều tra hay khởi kiện
Nhân viên ngân hàng thƣờng chú ý tới chủ tài khoản đang bị điều tra, khởi kiện
hoặc liên quan đến những vụ án đang đƣợc xét xử tại tòa án, hoặc nằm trong danh
sách cảnh báo rửa tiền của cơ quan có thẩm quyền.
Thông qua tính chất, đặc điểm của giao dịch
- Các giao dịch thông qua tài khoản ngân hàng có tính chất bất thường nhƣ: tài
khoản có tốc độ chu chuyển tiền trong ngày rất cao. Điều này thể hiện ở việc thay
đổi đột biến doanh số giao dịch trên tài khoản. Doanh số giao dịch lớn trong một
thời gian ngắn nhƣng số dƣ tài khoản nhỏ. Hoặc là các giao dịch chuyển tiền có giá
17
trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một tài khoản thành một khoản tiền lớn và
ngƣợc lại. Trong một khoản thời gian ngắn, tiền đƣợc chuyển lòng vòng qua nhiều
tài khoản khác nhau.
- Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt có giá trị lớn:
+) Khách hàng mua bán ngoại tệ bằng tiền mặt với số lƣợng lớn cho dù có tài
khoản trong ngân hàng.
+) Khách hàng thƣờng rút tiền mặt từ tài khoản với số lƣợng lớn, mà số tiền này
dƣờng nhƣ không phục vụ cho hoạt động kinh doanh của khách hàng.
+) Khách hàng rút tiền mặt từ tài khoản với số lƣợng lớn ngay khi nhận đƣợc tiền
chuyển khoản.
+) Khách hàng gửi tiền mặt với số lƣợng lớn vào tài khoản bằng cách chia nhỏ số
tiền mặt muốn gửi thành nhiều khoản khác nhau. Tuy nhiên, nếu tính tổng tất cả các
khoản tiền gửi đã chia nhỏ thì giá trị rất lớn.
+) Khách hàng thƣờng gửi tiền mặt với số lƣợng lớn vào ngân hàng, sau đó rút
tiền ra tài khoản bằng séc chi trả cho các cá nhân, công ty không có quan hệ kinh
doanh với khách hàng.
- Các giao dịch chuyển tiền ra nước ngoài
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, hoạt động chuyển tiền ra nƣớc ngoài thƣờng
xuyên diễn ra. Nhân viên ngân hàng có thể nhận ra giao dịch mang dấu hiệu bất
thƣờng thông qua tính chất, mục đích chuyển tiền. Có thể đó là việc một khách hàng
vãng lai chuyển tiền ra nƣớc ngoài mà không có lý do hợp pháp. Cũng có thể là việc
một khách hàng chuyển tiền tới chi nhánh nƣớc ngoài, công ty con hoặc ngân hàng
có trụ sở tại một quốc gia mà buôn lậu, tham nhũng, sản xuất và buôn bán ma túy
thƣờng xuyên diễn ra.
18
Thông qua các khoản vay có hoặc không có thế chấp
Các khoản vay đƣợc trả bằng tiền mặt, ngoại tệ hoặc các công cụ thanh toán khác
mà ngƣời cho vay không đƣợc tiết lộ.
Các khoản cho vay đƣợc đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba mà không có mối
liên hệ minh bạch với khách hàng.
1.2.2. Điều kiện phát sinh rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Thứ nhất, chính sách nới lỏng kiểm soát ngoại hối của nhiều quốc gia. Ở nhiều
nƣớc, việc đổi nội tệ ra ngoại tệ và ngƣợc lại là hoàn toàn tự do. Một số quốc gia đã
chính thức sử dụng chung một thứ tiền (đồng Euro), hoặc công nhận đô la Mỹ hay
Euro nhƣ là nội tệ bán chính thức của họ. Một số công cụ tài chính mới xuất hiện.
Nhờ thế, nhiều lƣợng tiền kể cả sạch và bẩn có thể đƣợc chuyển từ nƣớc này sang
nƣớc khác trong nháy mắt, ngoài tầm kiểm soát của cơ quan công quyền.
Thứ hai, tiến độ mở cửa kinh tế ở hầu hết các nước tăng vọt, nhất là từ 10-15 năm
gần đây. Thị trƣờng vốn trở nên thông thoáng hơn. Hầu nhƣ mọi ngân hàng, công ty
tài chính, giao dịch chứng khoán…đều có đối tác quốc tế, thậm chí có thể là 100%
vốn nƣớc ngoài. Số lƣợng tiền lƣu hành toàn cầu gia tăng gấp nhiều lần, càng làm
cho mức độ phức tạp của nó cũng tăng lên. Hiển nhiên, càng nhiều loại hình dịch
vụ, tài chính thì càng lắm cơ hội và cách thức chuyển tiền phi pháp hoặc đƣa tiền
bẩn vào luồng tiền sạch.
Thứ ba, cạnh tranh thu hút vốn ngày càng kịch liệt giữa các nước, các công ty
phát hành chứng khoán, các ngân hàng, và các tổ chức trung gian tài chính khác.
Đây cũng là sự kiện làm bọn tội phạm rửa tiền thích thú vì bọn chúng biết rằng sớm
muộn gì cũng có ngân hàng, hay các công ty chứng khoán sẵn sàng nhận tiền mà
không cần biết nguồn gốc. Chính phủ cũng nhƣ các công ty tƣ nhân ngày càng nổ
lực thu hút vốn từ khắp nơi, dƣới dạng đầu tƣ trực tiếp lẫn gián tiếp.
19
Thứ tƣ, là tác động của cuộc cách mạng thông tin. Ngân hàng thƣờng là nơi đƣa
ứng dụng của công nghệ thông tin vào sớm và nhanh nhất. Ngày nay, hầu hết dịch
vụ tài chính đều có thể thực hiện trong nháy mắt từ bất cứ nơi nào trên thế giới
thông qua ngân hàng. Chi phí giao dịch cũng đƣợc hạ thấp đáng kể. Những thành
quả này của cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã đƣợc ngƣời rửa tiền tận dụng
triệt để.
Thứ năm, hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền chưa đầy đủ. Rửa tiền là
một vấn đề mang tính toàn cầu. Bọn tội phạm thƣờng lợi dụng những sơ hở trong
các quy định về giám sát của ngân hàng để thực hiện hành vi rửa tiền. Do đó, điều
đầu tiên phải kể đến đó là hệ thống tài chính tiền tệ đang trong giai đoạn phát triển
với những quy định lỏng lẻo trong cơ chế giám sát từ phía các tổ chức tài chính là
một trong những nguyên nhân tạo cơ hội thực hiện rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
Thứ sáu, bộ máy tổ chức về phòng, chống rửa tiền còn nhiều hạn chế ở một số
nước.
Về phía ngân hàng trung ƣơng thiếu cơ quan đầu mối để có thể tiếp nhận thông tin
về các giao dịch đáng ngờ từ các NHTM trong nƣớc cũng nhƣ thế giới về phòng,
chống rửa tiền.
Về phía NHTM, thiếu cán bộ, hệ thống công nghệ thông tin còn tƣơng đối lạc hậu
và chƣa có quy trình về phòng, chống rửa tiền.
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thƣờng phải đối mặt với
nhiều rủi ro. Vì vậy, các ngân hàng phải xây dựng các quy trình giám sát, kiểm toán
nội bộ chặt chẽ. Tuy nhiên, trong hầu hết các ngân hàng, việc xây dựng quy trình
giám sát về phòng, chống rửa tiền chƣa đƣợc quan tâm đúng mức.
1.2.3. Các phƣơng thức phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Trƣớc xu thế hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động ngân hàng không những chịu áp
lực ngày càng gia tăng của bọn tội phạm trong nƣớc mà còn phải đối phó với nguy
20
cơ các tổ chức tội phạm quốc tế bởi lẽ các quốc gia đang phát triển với hệ thống
ngân hàng và tài chính chƣa thực sự phát tiển và tỷ trọng sử dụng tiền mặt cao,
thƣờng là địa chỉ mà bọn rửa tiền tìm đến. Nhìn chung, các quốc gia đều đã thực
hiện phƣơng thức phòng, chống rửa tiền nhƣ sau:
- Ban hành Luật và các quy định liên quan đến phòng, chống rửa tiền
Hiện nay, phần lớn các nƣớc phát triển đều đã ban hành Luật phòng, chống rửa
tiền. Tùy thuộc vào quy mô, tác động của rửa tiền tới mỗi quốc gia mà Luật phòng,
chống rửa tiền đƣợc ban hành vào những thời gian sớm muộn khác nhau. Nhƣng
nhìn chung, Luật phòng chống rửa tiền ở các nƣớc có một số đặc điểm chung nhƣ:
(i) Tuân thủ các khuyến nghị của FATF; (ii) Liệt kê các tội danh liên quan đến rửa
tiền; (iii) Yêu cầu các tổ chức tín dụng phải thực hiện quy tắc nhận biết khách hàng;
(iv) Liệt kê các giao dịch đáng ngờ, quy định mức giao dịch phải báo cáo; (v) Trách
nhiệm, quyền hạn của cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền.
- Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền
Hầu hết các quốc gia đều có cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền để
giám sát việc thực hiện Luật phòng, chống rửa tiền. Có hai mô hình hoạt động cơ
bản:
+) Cơ quan phòng, chống rửa tiền trực thuộc Chính phủ, trợ giúp chính phủ thực
hiện công tác phòng, chống rửa tiền. Cơ quan này vừa thực hiện giám sát thi hành
Luật phòng, chống rửa tiền vừa thu thập thông tin từ các tổ chức tín dụng, xử lý các
giao dịch đáng ngờ và đề xuất các biện pháp phòng, chống rửa tiền.
+) Cơ quan phòng, chống rửa tiền hoàn toàn độc lập với bộ máy Chính phủ, không
chịu sự chi phối của bất kì đơn vị nào trong bộ máy chính phủ. Nó có quyền hạn,
chức năng, phạm vi hoạt động rộng rãi hơn và đảm bảo tính khách quan trong điều
tra rửa tiền.
21
- Thiết lập quy trình phòng, chống rửa tiền tại các NHTM
+) Đánh giá và phân loại khách hàng: đây là việc làm hàng đầu, có ý nghĩa quan
trọng quyết định, trên cơ sở đó ngân hàng sẽ đƣa ra các biện pháp quản lý rủi ro
thích hợp. Thông thƣờng các ngân hàng thƣơng mại trên thế giới thƣờng phân
khách hàng thành 3 loại nhƣ sau:
Bảng 1.1: Phân loại các khách hàng có nghi vấn đến hoạt động rửa tiền
Phân loại khách hàng Mức độ giám sát
Kiểm tra giám sát thƣờng xuyên và bắt buộc Khách hàng có rủi ro cao trong việc tìm hiểu thông tin về khách hàng
Kiểm tra, giám sát ở mức độ bình thƣờng và tìm Khách hàng có rủi ro trung bình hiểu thông tin về khách hàng khi có yêu cầu
Kiểm tra, giám sát ở mức độ đơn giản và chỉ đòi Khách hàng có rủi ro thấp hỏi những thông tin thông thƣờng về khách hàng
Nguồn: Ngân hàng thế giới (2006), Nhận biết và theo dõi khách hàng, Hà Nội
+) Kiểm soát các giao dịch đáng ngờ: Giao dịch đáng ngờ là giao dịch có dấu hiệu
bất thƣờng liên quan đến rửa tiền đƣợc quy định cụ thể trong văn bản quy phạm
pháp luật của từng quốc gia. Phần lớn các quốc gia trên thế giới xem xét dấu hiệu
bất thƣờng dựa trên giá trị của các giao dịch, thƣờng các giao dịch vƣợt mức 10.000
USD hoặc tƣơng đƣơng sẽ nằm trong danh sách các giao dịch cần lƣu ý, báo cáo.
Một số quốc gia khác lại lƣu ý đến những giao dịch bất thƣờng thông qua tính chất,
đặc điểm giao dịch, thông tin về khách hàng… mà không quá quan tâm đến giá trị
giao dịch.
Nhân viên ngân hàng có nhiệm vụ báo cáo lên cấp trên xem xét khi phát hiện
những giao dịch đáng ngờ. Sau đó ngân hàng có nhiệm vụ kiểm tra tính xác thực
22
thông tin của khách hàng và chuyển các thông tin nghi ngờ này cho Cơ quan phòng,
chống rửa tiền.
+) Lưu giữ hồ sơ về khách hàng: Các ngân hàng thực hiện nghiêm chỉnh việc lƣu
giữ hồ sơ, thông tin khách hàng. Các thông tin về nhận dạng, chi tiết giao dịch phải
đƣợc lƣu trữ trong thời gian tối thiểu là 5 năm hoặc dài hơn theo yêu cầu của cơ
quan chức năng, đặc biệt là các hồ sơ có liên quan đến công tác điều tra khởi tố.
- Tuân thủ các khuyến nghị của FATF và thực hiện hợp tác quốc tế về phòng,
Ngày nay, hoạt động rửa tiền đã vƣợt qua khỏi khuôn khổ của một quốc gia, nó
chống rửa tiền
đƣợc thực hiện từ quốc gia này đến quốc gia khác. Vì vậy, không một quốc gia nào
riêng rẻ có đủ sức mạnh ngăn chặn nạn rửa tiền, cần có sự hợp tác của các quốc gia
trong việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm về phòng chống rửa tiền.
1.3. Cơ sở pháp lý về phòng chống rửa tiền trên thế giới
1.3.1. Các khuyến nghị của FATF – Cơ quan đặc nhiệm tài chính
Cơ quan đặc nhiệm tài chính FATF đƣợc thành lập tại Paris năm 1989 bởi nhóm
G7, nhằm phát triển các hoạt động hợp tác quốc tế đối phó với việc rửa tiền. Ba
chức năng chủ yếu của FATF liên quan đến rửa tiền là:
- Theo dõi tiến độ thực hiện các biện pháp chống rửa tiền của các thành viên
- Tổng kết và báo cáo xu hƣớng, thủ đoạn rửa tiền và các biện pháp chống rửa tiền
- Thúc đẩy việc chấp thuận và thực hiện các tiêu chuẩn của FATF về chống rửa
tiền trên toàn cầu.
Tháng 4 năm 1990, FATF đã ban hành bốn mƣơi khuyến nghị nhằm tìm kiếm sự
nhất trí giữa các nƣớc trong việc ban hành luật và thống nhất hành động của các
ngân hàng để hạn chế các dòng tiền thu đƣợc từ hoạt động buôn bán ma túy chuyển
qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Bốn mƣơi khuyến
23
nghị đƣa ra các nguyên tắc cho hành động; chúng cho phép một nƣớc linh hoạt theo
hoàn cảnh cụ thể và các yêu cầu của hiến pháp của riêng nƣớc đó để thực hiện các
nguyên tắc này. Mặc dù không có hiệu lực bắt buộc nhƣ luật đối với một nƣớc
nhƣng bốn mƣơi khuyến nghị đã đƣợc cộng đồng quốc tế và các tổ chức liên quan
thông qua một cách rộng rãi nhƣ một tiêu chuẩn cho công tác chống rửa tiền.
Bốn mƣơi khuyến nghị thực sự là các nhiệm vụ đòi hỏi mỗi nƣớc phải hành động
nếu nƣớc đó muốn đƣợc cộng đồng thế giới coi là đang tuân theo các tiêu chuẩn
quốc tế. Bốn mƣơi khuyến nghị phòng, chống rửa tiền đề cập đến những vấn đề nhƣ
sau:
- Thứ nhất, các khuyến nghị đề cập đến hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa
tiền nhƣ phạm vi của tội phạm rửa tiền (khuyến nghị 1 và 2), các biện pháp tạm thời
đƣợc áp dụng trong phòng, chống rửa tiền (khuyến nghị 3).
- Thứ hai, các khuyến nghị đưa ra các biện pháp ngăn ngừa rửa tiền và tài trợ cho
khủng bố bao gồm:
+) Các biện pháp nhận biết và lƣu giữ thông tin khách hàng (khuyến nghị 4 đến
12)
+) Báo cáo các giao dịch đáng ngờ (khuyến nghị 13 đến 16)
+) Các biện pháp để ngăn chặn rửa tiền tài trợ khủng bố (khuyến nghị 17 đến 20)
+) Các biện pháp dành cho các quốc gia không tuân thủ đầy đủ các khuyến nghị
của FATF (khuyến nghị 21 và 22)
+) Các quy định và sự giám sát (khuyến nghị 23,24,25)
- Thứ ba, các biện pháp được đưa ra cho các cơ quan công quyền trong cuộc
chiến chống rửa tiền và tài trợ cho khủng bố, bao gồm:
+) Các quy định về quyền lực và nguồn lực các cấp có thẩm quyền (khuyến nghị
26 đến 32)
24
+) Sự minh bạch của các quan chức và các thỏa thuận (khuyến nghị 33 và 34)
+) Vấn đề hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền (khuyến nghị 35)
+) Sự trợ giúp pháp lý lẫn nhau và các vấn đề dẫn độ tội phạm rửa tiền (khuyến
nghị 36 đến 39)
+) Các hình thức hợp tác khác (khuyến nghị 40)
Sau ngày 11/9/2001 FATF ban hành thêm 9 khuyến nghị về tài trợ khủng bố.
1.3.2. Các quy định của Ủy ban Basel
Trong năm 1988, Ủy ban Basel đã ban hành Bản tuyên bố về ngăn ngừa tội phạm
sử dụng hệ thống ngân hàng cho mục đích rửa tiền (Bản tuyên bố về ngăn ngừa).
Mục đích chính là xây dựng những khuôn khổ chung để kiểm soát các rủi ro và
giám sát an toàn đối với những ngân hàng hoạt động quốc tế. Có bốn nguyên tắc
đƣợc đƣa ra trong Bản tuyên bố này, đó là:
- Nhận dạng khách hàng đúng cách;
- Tiêu chuẩn đạo đức cao và tuân thủ luật pháp;
- Hợp tác với các cơ quan thi hành pháp luật; và
- Các chính sách và thủ tục để đảm bảo tuân thủ Bản tuyên bố này.
Trong năm 1997, Ủy ban Basel đã ban hành Các nguyên tắc cốt lõi để giám sát
ngân hàng hiệu quả (Các nguyên tắc cốt lõi), trong đó có đề cập đến vấn đề rửa tiền,
nguyên tắc này quy định:
Các giám sát viên ngành ngân hàng phải bảo đảm rằng các ngân hàng có sẵn
những chính sách, phƣơng pháp và thủ tục thích hợp, bao gồm các quy tắc nghiêm
ngặt về “hiểu biết khách hàng của mình”, nhằm thúc đẩy các tiêu chuẩn đạo đức và
nghề nghiệp cao trong khu vực tài chính và ngăn ngừa việc ngân hàng bị các phần
tử phạm tội lợi dụng, một cách cố ý hay vô ý.
25
1.3.3. Các nguyên tắc phòng chống rửa tiền Wolfsberg
Wolfsberg là một hiệp hội gồm 12 ngân hàng toàn cầu đƣợc thành lập vào năm
2000 với mục đích phát triển các tiêu chuẩn cho ngành dịch vụ tài chính và các sản
phẩm liên quan cũng nhƣ các chính sách phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.
Văn bản đầu tiên của Hiệp hội là “Các nguyên tắc phòng chống rửa tiền dành cho
hệ thống ngân hàng tƣ nhân” đƣợc phát hành vào tháng 10/2000 và đƣợc sửa đổi
vào tháng 5/2002. Nó thể hiện quan điểm của nhóm về các hƣớng dẫn thích hợp để
chống rửa tiền khi đối mặt với các cá nhân có thế lực và các bộ phận ngân hàng tƣ
nhân thuộc các thể chế tài chính. Những nguyên tắc này liên quan đến việc nhận
dạng khách hàng, bao gồm việc xác định chủ sở hữu hƣởng lợi của tất cả các tài
khoản và các tình huống liên quan đến việc phải tăng cƣờng thủ tục chú ý xác đáng,
ví dụ nhƣ các giao dịch bất thƣờng hoặc đáng ngờ.
Năm 2002, ban hành “Các nguyên tắc phòng chống rửa tiền trong hệ thống ngân
hàng đại lý”, chi phối việc thành lập và duy trì quan hệ với các ngân hàng đại lý trên
toàn cầu, cấm các ngân hàng quốc tế giao dịch với các “ngân hàng trá hình”. Vào
tháng 9/2003 ban hành “Thông cáo về giám sát việc sàng lọc và tìm kiếm dữ liệu
liên quan”.
Năm 2009, Hiệp hội đƣa ra 2 ấn phẩm quan trọng “Các nguyên tắc Wolfsberg
trong hoạt động tài trợ thƣơng mại” và “Hƣớng dẫn phòng chống rửa tiền đối với
dịch vụ thẻ tín dụng và các hoạt động sáp nhập bán buôn".
1.4. Hệ thống phòng chống rửa tiền của một số nƣớc trên thế giới
1.4.1. Phòng, chống rửa tiền tại Mỹ
Mỹ là nƣớc có hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa tiền toàn diện và nghiêm
khắc nhất trên thế giới mà tất cả các định chế tài chính và nhân viên của họ đều phải
tuân theo.
26
Một trong những đạo luật quan trọng nhất liên quan đến phòng, chống rửa tiền là
Luật Bí mật ngân hàng (BSA) năm 1970 và những quy tắc của nó. Mục đích của
BSA là tạo ra một văn bản pháp lý tạo điều kiện điều tra tội phạm rửa tiền, trốn
thuế…, nhằm loại bỏ giao dịch ngân hàng ẩn danh. Theo đó, Bộ tài chính có quyền
buộc các ngân hàng lƣu giữ hồ sơ để dễ truy vết hoạt động “rửa tiền”, các ngân
hàng phải báo cáo tất cả giao dịch một lần trên 10.000 USD hoặc nhiều lần có tổng
giá trị trên 10.000 USD nhận vào hoặc chuyển đi từ một tài khoản trong cùng một
ngày. Sau đó Luật đƣợc sửa đổi cho phép Chính phủ và các cơ quan chức năng có
thể hạ thấp mức chuẩn 10.000 USD trong các cuộc điều tra.
Một số luật quan trọng khác trong việc phòng, chống rửa tiền tại Mỹ gồm Luật
Kiểm soát toàn diện tội phạm năm 1984; Luật Kiểm soát rửa tiền năm 1986 ra đời
đánh dấu bƣớc ngoặt trong cuộc chiến chống nạn rửa tiền, từ đó rửa tiền đã bị xem
là hành vi tội phạm thay vì chỉ là yếu tố trong toàn bộ một tội ác; Luật Chống sử
dụng ma túy năm 1988, Luật Chống rửa tiền Annunzio – Wylie năm 1992. Tiếp đó,
Luật Ngăn chặn rửa tiền năm 1994 yêu cầu các ngân hàng phải thành lập lực lƣợng
đặc nhiệm để loại trừ các hoạt động đáng ngờ trong các tổ chức của họ. Luật Ái
quốc năm 2001 thiết lập kiểm tra danh tính bắt buộc đối với khách hàng của các
ngân hàng Mỹ, cung cấp các nguồn theo dõi những giao dịch trong hệ thống ngân
hàng ngầm thƣờng đƣợc bọn khủng bố sử dụng. Những luật và quy định về phòng,
chống rửa tiền tại Mỹ luôn đƣợc bổ sung, sửa chữa cho phù hợp với những thay đổi
của tội phạm rửa tiền, bên cạnh đó, lực lƣợng thực thi pháp luật cũng tăng cƣờng
hành động.
Luật Chống rửa tiền quy định nghĩa vụ của tất cả các đối tƣợng, từ các cá nhân đến
các tổ chức khi phát hiện có sự tham gia vào bất kỳ hoạt động rửa tiền nào và là căn
cứ để tịch thu, sung quỹ tiền và tài sản liên quan đến hoạt động rửa tiền. Việc không
tuân thủ những quy tắc và luật lệ liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền của
các nhân viên của tổ chức tín dụng có thể dẫn tới bị phạt dân sự và hình sự. Về mặt
dân sự, nhân viên ngân hàng có thể bị phạt tới 100.000 USD cho việc cố tình vi
27
phạm những quy định về báo cáo và lƣu giữ chứng từ của BSA. Về mặt hình sự,
ngƣời vi phạm có thể bị phạt tiền tới 250.000 USD, 5 năm tù hoặc cả hai.
Một trong những vụ sớm nhất và nổi tiếng nhất liên quan đến việc ngân hàng bị
phạt do vi phạm các quy định và luật lệ liên quan đến hoạt động rửa tiền tại Mỹ là
trƣờng hợp Ngân hàng Boston. Mặc dù đã đƣợc yêu cầu phải tuân thủ chặt chẽ hơn
trong việc lƣu giữ các chứng từ giao dịch vào năm 1980, song Ngân hàng Boston
vẫn tiếp tục giao dịch với các ngân hàng nƣớc ngoài, bao gồm cả các ngân hàng đại
lý của nó mà không hề lƣu giữ hồ sơ chứng từ đến tận năm 1984. Nghiêm trọng
hơn, các chi nhánh của Ngân hàng Boston đã tiếp tục thực hiện những giao dịch với
những tội phạm nổi tiếng qua nhiều năm. Những nhân vật này đã thực hiện những
phi vụ kinh doanh bất động sản, nhƣng nhân viên của Ngân hàng Boston đã không
báo cáo và lƣu giữ chứng từ của những giao dịch này mặc dù chúng không đƣợc
loại trừ theo các quy định và luật lệ về tài chính. Đến năm 1985, Ngân hàng Boston
mới thực hiện đúng các yêu cầu về phòng, chống rửa tiền theo các quy định, luật lệ
nên cuối cùng đã bị kết án và bị phạt 500.000 USD.
1.4.2. Phòng, chống rửa tiền tại Anh
Tại Anh, các định chế tài chính cũng hoạt động theo những quy định về phòng,
chống rửa tiền tƣơng tự nhƣ tại Mỹ. Tháng 12/1990, nƣớc Anh ban hành một loạt
văn bản hƣớng dẫn các ngân hàng trong việc phát hiện và chấm dứt các hoạt động
rửa tiền, trong đó tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ của ngân hàng trong việc
cảnh báo cho các cơ quan quyền lực những hoạt động và giao dịch đáng ngờ. Các
hƣớng dẫn này đƣợc xây dựng bởi Ngân hàng Trung ƣơng Anh và các NHTM với
sự phối hợp, tham gia của cơ quan tình báo quốc gia, hải quan, cảnh sát. Theo đó,
ngân hàng phải đích thân nhận dạng tất cả các khách hàng bằng mọi cách có thể, kể
cả bằng cách gặp mặt trực tiếp. Hƣớng dẫn cũng chỉ rõ các cách thức xác nhận
thông tin cá nhân, trong đó hộ chiếu là hình thức đƣợc ƣu tiên, ngoài ra các hình
thức khác cũng đƣợc chấp nhận nhƣ thẻ nhân viên, bằng lái xe… Hơn nữa, các ngân
hàng phải lƣu giữ tất cả các chứng từ giao dịch trong 6 năm để phục vụ điều tra.
28
Cũng giống nhƣ tại Mỹ, việc không tuân theo những hƣớng dẫn và các luật, quy
định sẽ dẫn tới những trách nhiệm pháp lý. Những trách nhiệm pháp lý dân sự có
thể nảy sinh nếu vi phạm những quy định về sự bảo mật của khách hàng. Hƣớng
dẫn tại Anh chỉ ra rằng các nhân viên của các định chế tài chính phải hợp tác một
cách toàn diện với các cơ quan pháp luật và phải thông báo trƣớc cho các cơ quan
này các giao dịch đáng ngờ. Trong khi các ngân hàng là chủ thể chính, các tổ chức
tài chính khác nhƣ công ty bảo hiểm, tổ chức môi giới cũng phải thực hiện những
hƣớng dẫn này.
Những quy định, luật lệ khác liên quan đến phòng, chống rửa tiền tại Anh bao gồm
Luật Chống buôn bán ma túy năm 1986, Luật Phòng, chống khủng bố năm 1987,
Luật Hình sự (Hợp tác quốc tế) năm 1990 và Luật Hình sự năm 1993. Bộ luật đầu
tiên cho phép cảnh sát có quyền điều tra những tài sản đáng ngờ có liên quan đến
ma túy, phong tỏa chúng và khi có chứng cớ sẽ tịch thu những tài sản này. Luật
Phòng, chống khủng bố năm 1987 quy định sẽ kết tội những ngƣời sử dụng hoặc sở
hữu quỹ khủng bố. Luật Hình sự năm 1990 cho phép kết tội những ngƣời che giấu,
biển thủ, chuyển nhƣợng hoặc vận chuyển những tài sản hoặc giúp đỡ ngƣời khác
làm việc đó khi biết hoặc nghi ngờ những tài sản do phạm tội buôn bán ma túy mà
có. Luật Hình sự năm 1993 mở rộng quyền lực của tòa án trong việc kết tội rửa tiền
nhƣ một tội phạm hình sự. Sau đó có các Luật về các khoản thu nhập từ tội phạm
năm 2002 (sửa đổi năm 2005); Luật về rửa tiền năm 2007; Luật về khủng bố năm
2000 và 2006.
Hệ thống luật lệ ngân hàng và các hƣớng dẫn thực hành giám sát của cộng đồng
châu Âu yêu cầu tất cả các nhân viên ngân hàng đều phải nhận biết khách hàng của
họ; đồng thời cải thiện hệ thống lƣu giữ chứng từ, ngăn chặn kịp thời những hành
động đáng ngờ và tập huấn các nhân viên để họ tuân theo các luật lệ ngân hàng một
cách chủ động và có thể nhận biết, báo cáo các hành động rửa tiền.
29
1.4.3. Phòng, chống rửa tiền tại một số nƣớc khác
Nƣớc Úc cũng thực hiện hệ thống báo cáo giao dịch tiền tệ tƣơng tự nhƣ tại Mỹ.
Bất kỳ một giao dịch tiền tệ nào tƣơng đƣơng hoặc lớn hơn 10.000 USD đều phải
báo cáo. Những dữ liệu này sau đó đƣợc truyền tự động tới Cơ quan Báo cáo giao
dịch tiền tệ.
Tại Nhật, các ngân hàng đƣợc yêu cầu phải báo cáo tất cả các giao dịch tiền tệ
trong nƣớc vƣợt quá 30 triệu Yên và các giao dịch tiền tệ quốc tế vƣợt quá 5 triệu
Yên. Hơn nữa, trong trƣờng hợp liên quan đến ma túy, tòa án có thể kết án ngân
hàng và các tổ chức tín dụng về tội rửa tiền.
Các nƣớc trong khu vực nhƣ Singapore, Thái Lan, Myanmar, Indonesia, Philippin
đều có các văn bản về chống rửa tiền với những phạm vi và mức độ khác nhau. Các
nƣớc này cũng đã thành lập những cơ quan chuyên trách riêng xử lý vấn đề liên
quan đến phòng, chống rửa tiền nhƣ AMLO hay AMLC. Các cơ quan này có chức
năng chủ yếu là thu thập và xử lý thông tin liên quan đến tài sản liên quan đến buôn
bán ma tuý và rửa tiền.
1.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới trong hoạt động phòng,
chống rửa tiền, Việt Nam cần chú ý một số yếu tố sau:
-Yếu tố nhân lực: Trong công tác phòng, chống rửa tiền yếu tố con ngƣời có ý
nghĩa hết sức quan trọng, cần những ngƣời có đủ năng lực, đạo đức, hợp tác cùng
nhau chống rửa tiền một cách hiệu quả.
- Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền: Kinh
nghiệm của các nƣớc cho thấy, văn bản pháp lý càng hoàn chỉnh, càng đầy đủ và
càng chặt chẽ sẽ là nền tảng cơ sở pháp lý vững chắc để các cơ quan có thể thực
hiện đầy đủ quyền hạn và chức năng của mình.
30
- Xây dựng hệ thống giám sát hiệu quả: Bất kỳ một hoạt động nào khi thực hiện
cũng cần đƣợc theo dõi, giám sát chặt chẽ mới đảm bảo tính hiệu quả của nó. Hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh cùng với hệ thống giám sát hiệu quả sẽ góp phần đẩy lùi
tệ nạn rửa tiền.
- Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng: Mỗi ngân hàng cần phân loại đối với
từng loại khách hàng: khách hàng vay, khách hàng gửi tiền, khách hàng sử dụng các
dịch vụ ngân hàng nhƣ chuyển tiền, thanh toán quốc tế…Việc các ngân hàng xây
dựng phân khúc, phân loại khách hàng tốt là đã thực hiện và cắt đứt đƣợc giai đoạn
đầu trong quy trình rửa tiền, không cho tội phạm tiếp cận các ngân hàng.
- Phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, cơ quan, ngân hàng với nhau: Công tác
phòng chống rửa tiền là công việc hết sức phức tạp, tốn nhiều thời gian công sức,
đòi hỏi sự quyết tâm, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành, tổ chức có liên
quan, giữa NHTM với NHNN, giữa các ngân hàng với nhau.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Qua chƣơng này, luận văn đã giới thiệu các khái niệm về rửa tiền, các phƣơng thức
và quy trình rửa tiền tiêu biểu cũng nhƣ những ảnh hƣởng của hoạt động rửa tiền
đến nền kinh tế. Giới thiệu về hoạt động rửa tiền qua hệ thống ngân hàng, các cơ sở
pháp lý cùng với kinh nghiệm phòng, chống rửa tiền của một số nƣớc trên thế giới.
Từ đó cho thấy, hoạt động rửa tiền ngày nay không bó hẹp trong phạm vi một quốc
gia mà có xu hƣớng mở rộng ra toàn thế giới với quy mô ngày càng lớn.
Hoạt động rửa tiền diễn ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣng rửa tiền qua hệ thống
ngân hàng vẫn hấp dẫn hơn cả. Vì thông qua ngân hàng, khả năng giao dịch lớn và
đồng tiền “bẩn” sẽ trở thành tiền “sạch”, từ đó có thể giao dịch đến bất kỳ đâu mà
không gây ra bất cứ một sự nghi ngờ gì về tính hợp pháp của chúng. Ngành ngân
hàng Việt Nam hiện đang đứng trƣớc nguy cơ bị bọn rửa tiền tìm đến. Thực trạng
về hoạt động rửa tiền ở Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng Việt Nam nói
riêng đƣợc trình bày ở chƣơng 2 sẽ cho thấy rõ hơn về vấn đề này.
31
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
2.1. Cơ sở pháp lý về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam
2.1.1. Các văn bản pháp quy về phòng, chống rửa tiền
- Phòng, chống tội rửa tiền đã đƣợc đề cập chính thức lần đầu tiên trong Bộ luật
hình sự năm 1999 của Việt Nam với tội danh “tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do
phạm tội mà có”. Cụ thể nhƣ thành lập tội danh, cùng những hình phạt
thích đáng, đối với bất cứ hành vi nào hợp pháp hóa tiền tệ và tài sản có đƣợc từ
hành vi phạm tội, che giấu hoặc sở hữu lƣợng lớn tài sản có đƣợc do hành vi phạm
tội của ngƣời khác, giả mạo tiền, séc, hoặc giấy tờ có giá khác. Ngoài ra, luật cũng
thành lập tội danh và hình phạt đối với các hành vi phạm tội khác nhau, bao gồm
khủng bố và các tội danh liên quan đến khủng bố khác. Theo đó, việc gây quỹ tài
trợ cho hành động khủng bố, trực tiếp hoặc gián tiếp, là bất hợp pháp và tạo thành
tội ác nghiêm trọng.
- Trong văn bản pháp lý cao nhất quy định các hoạt động ngân hàng – Luật các tổ
chức tín dụng có hiệu lực ngày 01/10/1998 đã quy định trách nhiệm của các định
chế tài chính đối với các khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp.
- Nghị định 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền ngày 07/06/2005 của Chính
phủ, có hiệu lực ngày 01/08/2005 là văn bản đầu tiên quy định riêng và toàn diện
nhất về phòng, chống rửa tiền. Nghị định quy định cơ chế và các biện pháp phòng,
chống rửa tiền ở Việt Nam trong các giao dịch tiền tệ hay tài sản khác; trách nhiệm
của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực phòng, chống rửa tiền. Theo Nghị định này, các tổ chức tài chính phải (i)
xây dựng quy trình kiểm soát, kiểm toán nội bộ bảo đảm cho việc phòng, chống rửa
tiền có hiệu quả và phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành; (ii) xây dựng
quy trình tìm hiểu, cập nhật thông tin và thủ tục nhận biết khách hàng; (iii) lƣu giữ,
cập nhật số liệu và báo cáo các giao dịch có mức giá trị giao dịch từ 200 triệu đồng
32
đối với giao dịch trong một ngày và 500 triệu đồng đối với giao dịch tiền gửi tiết
kiệm…
- Thông tƣ 22/2009/TT-NHNN ngày 17/11/2009 (thông tƣ 22) Hƣớng dẫn các
biện pháp phòng, chống rửa tiền Đính kèm: - Báo cáo các giao dịch nộp tiền mặt có
tổng giá trị từ 200.000.000 đồng trở lên; - Báo cáo các giao dịch rút tiền mặt có tổng
giá trị từ 200.000.000 đồng trở lên; - Báo cáo các giao dịch gửi hoặc rút tiết kiệm
bằng tiền mặt có tổng giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên; - Báo cáo giao dịch đáng
ngờ.
- Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật số 47/2010/QH12 ngày 29/06/2010),
điều 11 quy định về trách nhiệm phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố.
- Thông tƣ số 148/2010/TT-BTC ngày 24/09/2010 của Bộ tài chính hƣớng dẫn
thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền đối với lĩnh vực bảo hiểm, chứng
khoán và trò chơi giải trí có thƣởng.
- Ngày 18/06/2012, Luật phòng, chống rửa tiền đã đƣợc Quốc hội ban hành và
chính thức có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2013 đánh dấu bƣớc ngoặc đáng kể
trong quyết tâm phòng, chống rửa tiền của Việt Nam. Luật quy định về các biện
pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền;
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác
quốc tế về phòng, chống rửa tiền.
2.1.2. Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng chống rửa tiền
Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền (nay là Cục phòng, chống rửa
tiền) đƣợc thành lập theo quyết định số 1003/2005/QĐ-NHNN ngày 08/07/2005 của
NHNN với vai trò là một đơn vị tình báo tài chính của Việt Nam. Trung tâm thông
tin phòng, chống rửa tiền giữ vai trò đi đầu trong việc thực thi chống rửa tiền tại
Việt Nam, kể cả việc hợp tác trong nƣớc, nâng cao nhận thức chung giữa các cơ
quan có thẩm quyền khác và các tổ chức báo cáo.
33
Theo Nghị định 74, Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền thực hiện chức
năng là một trung tâm quốc gia trong việc thu thập, phân tích và chuyển giao các
thông tin liên quan đến rửa tiền; là đầu mối thực hiện vai trò quản lý nhà nƣớc về
phòng, chống rửa tiền nhƣ: tiếp nhận, tổng hợp, phân tích, xử lý tài liệu, hồ sơ về
các giao dịch có nghi vấn; chuyển giao, cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền liên quan đến việc rửa tiền và tài trợ khủng bố. Trung tâm
thông tin phòng, chống rửa tiền sẽ tiếp nhận các báo cáo giao dịch đáng ngờ của các
tổ chức báo cáo. Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền sẽ xem xét, xử lý, trong
trƣờng hợp có dấu hiệu liên quan tới rửa tiền hoặc tội phạm khác thì chuyển hồ sơ
sang Bộ Công an xem xét, xử lý.
Theo quy định tại Điều 16 Nghị định 74, Bộ Công an là cơ quan có trách nhiệm
chính trong điều tra hoạt động rửa tiền. Hai Cục chủ chốt của Bộ Công an là Cục
Điều tra các tội phạm kinh tế và Cục Chống khủng bố chịu trách nhiệm điều tra về
rửa tiền và khủng bố. Bộ Công an có trách nhiệm: tổ chức lực lƣợng điều tra các tội
phạm liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố; hƣớng dẫn các cơ quan khác tiến
hành điều tra sơ bộ các tội phạm có liên quan đến rửa tiền theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự và Nghị định 74.
Ban Chỉ đạo phòng, chống rửa tiền thành lập tháng 04/2009 nhằm tăng cƣờng
các nỗ lực cũng nhƣ hiệu quả hoạt động phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam. Ban
Chỉ đạo phòng, chống rửa tiền do Phó Thủ tƣớng Thƣờng trực Chính phủ Nguyễn
Sinh Hùng làm trƣởng ban. Các Phó trƣởng ban là Thống đốc NHNN Việt Nam và
lãnh đạo Bộ Công An, 11 ủy viên là lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan. NHNN Việt
Nam đƣợc giao nhiệm vụ là cơ quan thƣờng trực của Ban chỉ đạo. Ban Chỉ đạo
phòng, chống rửa tiền có các nhiệm vụ và quyền hạn nhƣ:
- Giúp Thủ tƣớng Chính phủ chỉ đạo xây dựng chiến lƣợc, chủ trƣơng, chính sách,
chƣơng trình, kế hoạch, cơ chế, giải pháp trong công tác phòng, chống rửa tiền.
34
- Giúp Thủ tƣớng Chính phủ chỉ đạo, điều phối hoạt động, đôn đốc, kiểm tra và
đánh giá công tác phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam.
- Giúp Thủ tƣớng Chính phủ chỉ đạo việc triển khai thực hiện nghĩa vụ thành viên
của Việt Nam trong Nhóm châu Á – Thái Bình Dƣơng về chống rửa tiền (APG) và
kế hoạch tiến tới thực hiện đầy đủ 40+9 Khuyến nghị của Lực lƣợng đặc nhiệm tài
chính về chống rửa tiền (FATF).
- Phối hợp với các lực lƣợng nòng cốt trong công tác chống khủng bố nhằm nghiên
cứu, đề xuất cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành chính sách pháp luật,
chƣơng trình, biện pháp chống tài trợ cho khủng bố trên lãnh thổ Việt Nam.
- Duyệt báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền theo
từng thời kỳ và khi Thủ tƣớng Chính phủ yêu cầu.
- Giúp Thủ tƣớng Chính phủ nghiên cứu, ban hành chủ trƣơng, chính sách về hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền phù hợp từng thời kỳ.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Thủ tƣớng Chính phủ phân công.
2.2. Thực trạng phòng, chống rửa tiền ở các NHTM Việt Nam
2.2.1. Các phƣơng thức, thủ đoạn rửa tiền chủ yếu qua ngân hàng gần đây
2.2.1.1. Các trường hợp nghi ngờ rửa tiền đã phát hiện trong thời gian qua
Theo Cục phòng, chống rửa tiền thuộc NHNN, ở Việt Nam khó có thể thống kê
chính xác thời điểm hành vi rửa tiền xuất hiện, nhƣng có những dấu hiệu cho thấy
các nhóm tội phạm quốc tế đã nhắm đến Việt Nam để thực hiện hành vi rửa tiền.
Cho đến nay, Việt Nam chƣa có vụ án rửa tiền nào bị khởi tố điều tra mà hành vi
rửa tiền chỉ bị phanh phui, xử lý nhƣ một trong tổng thể các hành vi phạm tội của
một vụ án. Bởi hoạt động rửa tiền diễn ra hết sức tinh vi, đa dạng, bọn tội phạm sử
dụng các hoạt động nghiệp vụ kinh tế nhƣ tài chính, kế toán, ngân hàng nên rất khó
bị phát hiện.
35
Lực lƣợng cảnh sát quốc tế Interpol cũng đƣa ra cảnh báo trong những năm qua,
đã xuất hiện một số vụ rửa tiền thông qua việc chuyển tiền có nguồn gốc bất hợp
pháp từ nƣớc ngoài vào Việt Nam. Đặc biệt, một số đối tƣợng, băng nhóm tội phạm
ngƣời gốc Phi vào Việt Nam sử dụng giấy tờ giả mở tài khoản tại các NHTM để
đồng bọn ở nƣớc ngoài chuyển tiền vào, sau đó rút hết tiền trong các tài khoản này.
Từ tháng 4/2004 đến tháng 7/2006, các cơ quan chức năng đã phát hiện James
Edmund Corbett (công dân Australia, tạm trú tại phƣờng Linh Trung, quận Thủ
Đức, TP HCM) có dấu hiệu bất thƣờng nghi vấn là rửa tiền. James E.Corbett đã mở
tài khoản vãng lai USD tại một số ngân hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua
các tài khoản này, đã nhận hơn 3,2 triệu USD từ nƣớc ngoài chuyển vào Việt Nam,
sau đó lần lƣợt chuyển cho một số công ty ở Việt Nam và ở nƣớc ngoài.
Điển hình là vụ rửa tiền xuyên quốc gia đã đƣợc Công an Đà Nẵng phát hiện vào
tháng 10/2008, bắt đƣợc thủ phạm là Baggio Carlitos Linska, quốc tịch
Mozambique khi đến chi nhánh một NHTM tại Đà Nẵng mở cùng lúc 2 tài khoản.
Ngay sau khi mở đƣợc tài khoản, lập tức có hơn 4,1 tỷ đồng đƣợc chuyển vào. Điều
đáng nghi ngờ là đối tƣợng này tức tốc làm thủ tục để rút tiền. Nhận thấy giao dịch
bất thƣờng, cơ quan điều tra đã vào cuộc và xác minh số tiền trên là khoản tiền bọn
tội phạm đánh cắp từ một tài khoản nƣớc ngoài. Sau đó chuyển vào Việt Nam qua
hai chi nhánh NHTM tại Đà Nẵng và Bà Rịa – Vũng Tàu. Công an Đà Nẵng đã tiến
hành tạm giữ Linska và Massamba Lendebe Vis (quốc tịch Mozambique). Đáng
tiếc là Niaty Lokasso Djamba (quốc tịch Congo), ngƣời đã mở tài khoản và đƣợc
chuyển số tiền hơn 3,34 tỷ đồng tại Bà Rịa – Vũng Tàu đã nhanh chân tẩu thoát.
Ngoài ra trong một số vụ án khác, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã phát
hiện hành vi rửa tiền hoặc có dấu hiệu rửa tiền. Điển hình là vụ việt kiều Lê Thị
Phƣơng Mai đầu tƣ tiền từ hoạt động ma túy vào các dự án của công ty Viet – Can
Resorts & Plannation Inc. Theo hồ sơ của Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI), Lê Thị
Phƣơng Mai là nhân vật đã đứng ra tổ chức một tập đoàn tội phạm quốc tế lớn tại
Bắc Mỹ, hoạt động theo quy trình khép kín từ sản xuất, tiêu thụ ma túy đến rửa tiền.
36
Đầu năm 2004, trƣớc khi bị FBI bắt khoảng 3 tháng, Mai cùng một số ngƣời khác
dƣới danh nghĩa ngƣời của Công ty Viet – Can Resorts & Plannation Inc, đã về Việt
Nam tìm “cơ hội đầu tƣ”. Mai đã xin phép đầu tƣ 25 triệu USD vào dự án khu nghĩ
mát và căn hộ cho thuê tại Dốc Lết, Ninh Hòa, Khánh Hòa. Cùng lúc, Công ty Viet
– Can Resorts & Plannation Inc cũng lập một website trên mạng internet để quảng
bá dự án du lịch cùng một dự án khác ở tỉnh Lâm Đồng. Tháng 2/2004, UBND tỉnh
Khánh Hòa có văn bản đồng ý về mặt chủ trƣơng cho phép đầu tƣ khu nghỉ mát và
căn hộ cho thuê với diện tích khoảng 70 ha tại Dốc Lết. Dự án chƣa kịp hoàn thành
thủ tục thì Mai bị bắt giữ.
Hoặc nhƣ vụ Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam nhận đƣợc email từ một
số doanh nhân Nigeria yêu cầu mở tài khoản 28 triệu USD, hứa hẹn sẽ chi lại 15%
tổng số tiền… Trong thời gian gần đây, lực lƣợng công an Việt Nam đã phối hợp
với Cục Phòng, chống rửa tiền đã phát hiện nhiều giao dịch nghi vấn liên quan đến
hoạt động này.
Các chuyên gia của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và quản lý chức vụ
(Bộ công an) cũng cho rằng, việc rửa tiền qua chứng khoán là việc rất dễ dàng, do
đặc thù của chứng khoán là mọi ngƣời đều có quyền mua đi bán lại cổ phiếu và tái
đầu tƣ trong khi giá cổ phiếu lại lên xuống thất thƣờng. Rửa tiền qua đánh bạc chính
là phƣơng pháp rửa tiền nhanh nhất, nhƣ trong một số vụ án thời gian qua đã bị
phanh phui. Trƣớc đây, Công an Việt Nam phối hợp với phía Canada điều tra trùm
cá độ bóng đá Ngô Tiến Dũng có dấu hiệu mang hàng chục triệu USD từ nƣớc
ngoài về “rửa tiền” ở Việt Nam. Ngô Tiến Dũng đƣợc xác định là ngƣời cầm đầu
đƣờng dây cá độ bóng đá cực lớn, với số tiền luân chuyển 1- 2 triệu USD mỗi đêm.
Vụ việc này cho thấy, mánh khóe của tội phạm rửa tiền là dùng “tiền bẩn” mở tài
khoản ở ngân hàng, sau đó chúng sẽ dùng số tiền đó rót vào những trận cá độ bóng
đá trên mạng. Nếu thắng, tiền thƣởng sẽ đƣợc thanh toán vào một tài khoản hợp
pháp khác.
37
2.2.1.2. Các biểu hiện rửa tiền qua hệ thống NHTM Việt Nam
Cho đến nay có rất nhiều biểu hiện rửa tiền qua hệ thống ngân hàng đƣợc các
nƣớc trên thế giới ghi nhận. Tại Việt Nam, mặc dù chƣa có vụ án rửa tiền nào đƣợc
phanh phui, nhƣng nhƣ thế không có nghĩa là chúng ta không có rửa tiền. Trong giai
đoạn 2009-2012, Cục phòng, chống rửa tiền đã nhận đƣợc hàng trăm báo cáo giao
dịch đáng ngờ từ các tổ chức tín dụng với các hành vi rửa tiền đƣợc biểu hiện nhƣ:
khách hàng có thái độ miễn cƣỡng khi cung cấp các thông tin cá nhân; các khách
hàng đang bị điều tra, khởi kiện hoặc nằm trong danh sách cảnh báo rửa tiền quốc
tế; các giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế; các giao dịch gồm nhiều khoản
tiền mặt có giá trị lớn; các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển tiền quốc tế và
các giao dịch liên quan đến các hoạt động đầu tƣ.
Bảng 2.1: Số lƣợng báo cáo giao dịch đáng ngờ thống kê theo biểu hiện rửa tiền
Loại biểu hiện 2009 2010 2011 2012
Thái độ miễn cƣỡng khi cung cấp thông tin 9 53 48 16
Khách hàng đang bị điều tra, khởi kiện hoặc nằm 35 96 97 55 trong danh sách cảnh báo rửa tiền quốc tế
Các giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế 24 19 15 8
Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt có giá trị lớn 49 36 14 6
Các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển tiền 25 78 75 47 quốc tế
Các giao dịch liên quan đên các hoạt động đầu tƣ 10 26 29 18
Tổng cộng 93 326 304 165
Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
38
Theo số liệu của bảng tổng hợp trên cho thấy các giao dịch liên quan đến các
khách hàng đang bị điều tra, khởi kiện hoặc các cuộc chuyển tiền quốc tế chiếm tỷ
lệ lớn trong các báo cáo giao dịch đáng ngờ là do các hoạt động chuyển tiền và
khách hàng nằm trong danh sách cảnh báo cụ thể đƣợc cập nhật thƣờng xuyên, dễ
dàng phát hiện khi thực hiện giao dịch qua ngân hàng. Các hoạt động còn lại nhƣ
hoạt động đầu tƣ, các giao dịch không mang lợi ích kinh tế đang là đích nhắm đến
của bọn tội phạm rửa tiền nhƣng việc phát hiện các hoạt động này khó khăn, đòi hỏi
kinh nghiệm của ngƣời làm công tác phòng chống rửa tiền cũng nhƣ hệ thống công
nghệ hiện đại, kiểm soát rửa tiền hiệu quả.
2.2.1.3. Các phương thức, thủ đoạn rửa tiền chủ yếu qua hệ thống ngân hàng gần đây
Theo Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, bọn tội phạm rửa tiền đã lạm dụng hệ
thống ngân hàng Việt Nam để tiến hành rửa tiền thông qua các phƣơng thức sau:
- Phương thức thứ nhất: bọn tội phạm tiến hành chia nhỏ tiền và chuyển dần ra
nước ngoài, qua mặt hệ thống kiểm soát của các ngân hàng và các định chế tài
chính. Đã từng có hiện tƣợng rửa tiền bằng cách thuê ngƣời khác đứng tên chủ tài
khoản, sau đó chủ sở hữu bàn giao mã số pin để ngƣời thuê thực hiện việc chuyển
tiền vào tài khoản trong nƣớc và rút ngoại tệ tại nƣớc ngoài. Trƣớc đây, có nhóm tội
phạm quốc tế thuê một số ngƣời Việt Nam mở 12 thẻ debit của các ngân hàng trong
nƣớc. Các chủ thẻ nhận ít thù lao rồi giao thẻ cho ngƣời đặt hàng. Sau đó, nhóm tội
phạm này sang Campuchia (quốc gia không quản lý ngoại hối) để rút tiền mặt.
Hằng ngày, tiền đƣợc chuyển vào cả 12 tài khoản ở Việt Nam và rút sạch từ
Campuchia.
- Phương thức thứ hai: một số đối tượng nước ngoài dùng các chứng từ giả để mở
tài khoản tại các NHTM Việt Nam để nhận các khoản tiền có giá trị lớn được
chuyển từ nước ngoài về. Khi có tiền chuyển về, các chủ tài khoản này thực hiện
giao dịch rút tiền ra khỏi tài khoản, một thời gian sau NHTM nhận đƣợc thông báo
từ nƣớc ngoài gửi về đề nghị thu lại số tiền đã rút với lý do giao dịch bị giả mạo.
39
Tuy nhiên, khi liên hệ với chủ tài khoản thì không liên lạc đƣợc vì các dữ liệu liên
quan cũng đều là giả mạo. Công an Hà Nội đã bắt giữ một trƣờng hợp sử dụng hộ
chiếu giả mở tài khoản để rút tiền tại các ngân hàng Việt Nam. Đó là tên Musasa
Paul- quốc tịch Dămbia, nhập cảnh vào Việt Nam ngày 07/08/2005, có tất cả 9 hộ
chiếu khác nhau và đã mở 4 tài khoản cá nhân tại các ngân hàng ở Hà Nội, trong đó
đã thực hiện rút tiền trót lọt tại Ngân hàng Ngoại thƣơng số tiền 35.000 Euro và
13.200 USD.
- Phương thức thứ ba: các đối tượng thông qua ngân hàng để thực hiện lừa đảo tín
dụng. Bọn tội phạm thƣờng giả danh các tập đoàn hay các khách hàng nƣớc ngoài
đến các ngân hàng đề nghị cho ngân hàng vay khoản tiền lớn với lãi suất ƣu đãi hơn
lãi suất thị trƣờng nhiều lần, thời gian vay dài hạn nhƣng yêu cầu “lại quả” trƣớc
cho chúng một khoản tiền tƣơng đƣơng 5-10%. Với hình thức này, bọn tội phạm
thông qua ngân hàng để biến những đồng tiền bất hợp pháp thành tiền hợp pháp.
Nguyên thống đốc NHNN Việt Nam, ông Lê Đức Thúy cho hay đã từng biết và xử
lý một vài vụ khi đối tác nƣớc ngoài vào Việt Nam với ý định lừa đảo. Năm 1998,
một nhân vật ngƣời Đức vào Ngân hàng Nông nghiệp xin mở tài khoản và nói rằng
nếu cho mở tài khoản thì trong một tuần sẽ chuyển vào 100 triệu USD cho vay
trong 30 năm với lãi suất ƣu đãi 2%/năm. Có những cán bộ cũng đã phấn khởi theo
đuổi việc này, kể cả lãnh đạo. Nhƣng sau khi tìm hiểu mới biết đây là hành vi lợi
dụng việc mở tài khoản để lừa đảo. Nhân vật này không mở đƣợc tài khoản tại
Ngân hàng Nông nghiệp đã đến xin mở tài khoản tại Deutsch Bank ở Việt Nam.
Khi mở tài khoản rồi không có tiền nhƣng đến xin vay trƣớc 5.000 USD và nói rằng
cho vay thì vài hôm nữa sẽ chuyển vào Việt Nam vài triệu USD. Ngân hàng này lập
tức đóng ngay tài khoản này lại. Đặc biệt có một số trƣờng hợp đề nghị cho các
ngân hàng vay 20 tỷ USD trong 20 năm với lãi suất ƣu đãi và sau 10 năm cũng xóa
luôn khoản nợ chỉ với điều kiện có 5% “lại quả”. Không ít các ngân hàng cũng nhận
đƣợc những lời chào mời có tính chất lừa đảo qua thƣ tín dụng (L/C). Bọn tội phạm
có thể dùng L/C đã có xác nhận để đi lừa đảo trên thị trƣờng quốc tế và ngân hàng
sẽ phải là ngƣời thanh toán cuối cùng.
40
- Phương thức thứ tư: các công ty tại nước ngoài dùng tiền bất hợp pháp phân
chia lòng vòng để xóa dấu vết, sau đó dùng số tiền này để mua cổ phiếu của các
ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam. Sau một thời gian chuyển lợi nhuận từ
hoạt động kinh doanh này ra nước ngoài.
- Phương thức thứ năm: rửa tiền thông qua nghiệp vụ chuyển tiền của NHTM.
Việt Nam hiện có hơn 4 triệu kiều bào đang sinh sống ở trên 100 quốc gia. Hằng
năm, số kiều bào này chuyển về nƣớc một lƣợng lớn ngoại tệ trợ cấp thân nhân
trong nƣớc và đầu tƣ kinh doanh. Lƣợng kiều hối đổ về nƣớc tăng đều qua các năm
và ngày càng trở thành nguồn lực đáng kể cho nền kinh tế. Theo đánh giá của Ngân
hàng thế giới, Việt Nam là một trong 10 nƣớc nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới
trong năm 2012.
Biểu đồ 2.1: Danh sách 10 quốc gia nhận chuyển tiền lớn nhất thế giới năm 2012
Nguồn: World Bank (2013), Migration and Development Brief 20
Theo số liệu báo cáo, lƣợng kiều hối năm 2012 của Việt Nam đạt 10 tỷ đô la,
đứng thứ hai Đông Nam Á và đứng thứ 9 thế giới. Phần lớn lƣợng kiều hối này
đƣợc gửi về nƣớc thông qua hệ thống ngân hàng do các dịch vụ ngân hàng đƣợc cải
tiến. Điều này trái ngƣợc hoàn toàn với những năm trƣớc khi đa phần kiều hối đƣợc
41
giao dịch ở chợ đen. Bên cạnh những mặt tích cực của kiều hối nhƣ hỗ trợ cán cân
thanh toán, làm gia tăng đầu tƣ trong nƣớc, đóng góp xóa đói giảm nghèo, nâng cao
đời sống ngƣời lao động…thì nó cũng có những mặt trái nhƣ: bọn tội phạm lợi dụng
chính sách kiểm soát kiều hối nới lỏng của nhà nƣớc, để chuyển tiền về Việt Nam
phục vụ các hoạt động phạm pháp, cũng nhƣ là thực hiện các hoạt động rửa tiền.
- Phương thức thứ sáu: thông qua việc mở tài khoản tiền gửi tại các NHTM để phục
vụ việc giao dịch chứng khoán. Hiện nay ở Việt Nam, các ngân hàng đều thực hiện
mở tài khoản chứng khoán cho nhà đầu tƣ. Tuy nhiên, nguồn gốc của tiền đƣợc
dùng để chơi chứng khoán chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Việc rửa tiền qua chứng
khoán là việc rất dễ dàng do đặc thù của chứng khoán là mọi ngƣời đều có quyền
mua đi bán lại cổ phiếu và tái đầu tƣ trong khi giá cổ phiếu lại lên xuống thất
thƣờng. Do đó không thể kiểm soát nổi tài sản của ngƣời chơi chứng khoán, đặc
biệt trong bối cảnh hệ thống kiểm soát rửa tiền qua hệ thống ngân hàng còn khá sơ
khai.
Bảng 2.2: Số lƣợng báo cáo giao dịch đáng ngờ thống kê theo phƣơng thức rửa tiền
Phƣơng thức rửa tiền 2009 2010 2011 2012
Phƣơng thức thứ nhất 7 21 22 16
18 34 35 21 Phƣơng thức thứ hai
11 32 38 19 Phƣơng thức thứ ba
3 38 29 11 Phƣơng thức thứ tƣ
48 166 156 80 Phƣơng thức thứ năm
6 35 24 18 Phƣơng thức thứ sáu
Tổng cộng 93 326 304 165
Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
42
Theo bảng tổng hợp trên, trong tổng số 888 báo cáo giao dịch đáng ngờ mà Cục
phòng, chống rửa tiền nhận đƣợc từ năm 2009 đến năm 2012, thì có đến 450 báo
cáo giao dịch đáng ngờ đƣợc thực hiện thông qua nghiệp vụ chuyển tiền giữa các
ngân hàng, chiếm 50.68% số lƣợng báo cáo các giao dịch đáng ngờ. Điều đó cho
thấy hoạt động rửa tiền đƣợc phát hiện chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng. Hiện
nay, ở Việt Nam ngân hàng vẫn là cửa ngõ chính của hoạt động rửa tiền, việc phát
hiện và xử lý hành vi rửa tiền chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng.
2.2.2. Nhận thức của các ngân hàng trong công tác phòng, chống rửa tiền
- Sau một thời gian triển khai công tác phòng, chống rửa tiền, ý thức của các
NHTM trong công tác này đã có những tiến bộ vƣợt bậc. Nhiều ngân hàng đã ban
hành các quy định nội bộ liên quan đến công tác phòng, chống rửa tiền. Việc xây
dựng quy trình kiểm tra, kiểm toán nội bộ, các ngân hàng thƣờng lồng ghép nội
dung kiểm toán việc phòng, chống rửa tiền trong chƣơng trình kiểm toán chung của
ngân hàng. Các ngân hàng cũng đã thƣờng xuyên tổ chức các khóa đào tạo cho các
cán bộ nhằm nâng cao ý thức của đội ngũ cán bộ trong công tác phòng, chống rửa
tiền, hạn chế rủi ro uy tín của ngân hàng. Tuy nhiên, quy trình về phòng, chống rửa
tiền của đa phần các ngân hàng chỉ dừng ở mức tuân thủ, chƣa nhằm làm giảm rủi
ro cho ngân hàng. Việc triển khai thi hành các quy trình, quy định này chỉ thực sự
có ở các ngân hàng lớn có uy tín nhƣ: Vietcombank, Vietinbank, BIDV, ACB,
Sacombank…
- Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, đã có rất nhiều trƣờng hợp nghi
ngờ rửa tiền. Tuy nhiên, hiện nay báo cáo về các giao dịch đáng ngờ đang đƣợc các
bộ phận tác nghiệp bằng phƣơng pháp thủ công, chƣa có hệ thống tự động hỗ trợ
cho nhân viên trong việc xác định các giao dịch đáng ngờ. Ngân sách dành cho việc
đầu tƣ hệ thống công nghệ thông tin phục vụ phòng, chống rửa tiền còn hạn chế do
nhiều ngân hàng chƣa cho rằng đây là vấn đề cấp bách. Vì vậy, các ngân hàng cũng
thiếu sự quan tâm tạo nhận thức về phòng chống rửa tiền, lúng túng trong việc lựa
chọn phần mềm hỗ trợ phòng, chống rửa tiền. Nhiều ngân hàng lại dùng phần mềm
43
phòng, chống rửa tiền sai mục đích, nhƣ để xếp hạng rủi ro tín dụng. Do đó số
lƣợng báo cáo giao dịch đáng ngờ mà các NHTM gửi về Cục phòng, chống rửa tiền
còn hạn chế, chủ yếu mang tính chất đối phó, chƣa phản ánh đúng tình hình thực tế.
2.2.3. Các biện pháp phòng chống rửa tiền chủ yếu đƣợc áp dụng tại các ngân hàng
Sau khi Nghị định 74/2005/NĐ-CP, thông tƣ số 22/2009/TT-NHNN đƣợc ban
hành các NHTM đã nghiêm túc thực hiện các quy định phòng, chống rửa tiền nhƣ
sau:
- Về ban hành quy định, chính sách phòng, chống rửa tiền: Đặc biệt sau khi Luật
phòng, chống rửa tiền đƣợc ban hành ngày 18/06/2012 và có hiệu lực ngày
01/01/2013, hầu hết các ngân hàng đã tiến hành xây dựng và ban hành quy chế nội
bộ về phòng chống rửa tiền, làm căn cứ thực hiện công tác phòng chống rửa tiền tại
đơn vị mình. Quy định nội bộ bao gồm các chính sách, quy trình và thủ tục cơ bản
về phòng, chống rửa tiền. Việc xây dựng quy trình kiểm tra, kiểm toán nội bộ, các
ngân hàng thƣờng lồng ghép nội dung kiểm toán việc phòng, chống rửa tiền trong
chƣơng trình kiểm toán chung, kiểm soát nội bộ của ngân hàng.
- Về việc bố trí cán bộ chịu trách nhiệm phòng, chống rửa tiền: Hiện nay, mỗi
ngân hàng đều đã bố trí một thành viên trong ban điều hành chịu trách nhiệm về tổ
chức, chỉ đạo, kiểm tra việc tuân thủ các quy định của pháp luật về phòng, chống
rửa tiền tại đơn vị và đăng ký thông tin với Cục phòng, chống rửa tiền. Tùy theo
quy mô, mức độ, phạm vi và đặc thù hoạt động của mình, từng ngân hàng thành lập
bộ phận chuyên trách hoặc chỉ định một bộ phận tại trụ sở chính chịu trách nhiệm
về phòng, chống rửa tiền; quy định rõ trách nhiệm của ngƣời phụ trách phòng,
chống rửa tiền và của từng cá nhân, bộ phận trong quá trình tác nghiệp đảm bảo
việc thực hiện quy chế nội bộ về phòng, chống rửa tiền của ngân hàng. Công tác
phòng, chống rửa tiền thƣờng đƣợc các Ngân hàng giao cho Phòng quản lý rủi ro;
Phòng pháp chế; Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ…
44
- Về việc đào tạo nhân viên trong công tác phòng, chống rửa tiền: Các ngân hàng
luôn cử nhân viên tham gia đầy đủ các lớp do NHNN đào tạo. Công tác đào tạo tại
đơn vị thƣờng đƣợc các ngân hàng tổ chức riêng hoặc lồng ghép vào các chƣơng
trình huấn luyện nghiệp vụ chung do tự bản thân các ngân hàng tổ chức cho nhân
viên.
- Về việc lưu trữ, cập nhật số liệu và báo cáo giao dịch đáng ngờ: Các NHTM có
trách nhiệm cập nhật, lƣu trữ thông tin, báo cáo NHNN thƣờng xuyên các giao dịch
có giá trị lớn hoặc khi nghi ngờ tài sản trong giao dịch có nguồn gốc do phạm tội
mà có hoặc liên quan tới rửa tiền. Các NHTM có nhiệm vụ báo cáo đột xuất cho
NHNN khi phát sinh giao dịch với các khách hàng nằm trong “danh sách đen” do
NHNN cung cấp cho từng NHTM. “Danh sách đen” cũng đƣợc các ngân hàng cập
nhật một cách thƣờng xuyên, nhanh chóng. Tuy nhiên, việc phát hiện và chặn lại
các giao dịch đáng ngờ của các NHTM còn nhiều hạn chế, chƣa thật sự thực hiện
tốt, chủ yếu mang tính đối phó.
Hiện nay, hầu hết các NHTM tại Việt Nam đều có phần mềm hệ thống quản lý hồ
sơ khách hàng, khi một nhân viên tao tác trên hệ thống sẽ thấy đƣợc toàn bộ thông
tin về khách hàng một cách chi tiết và đầy đủ.
Mô hình tổ chức phòng, chống rửa tiền tại các NHTM
Tùy theo quy định của mỗi NHTM, các bộ phận có trách nhiệm về công tác
phòng, chống rửa tiền có thể đƣợc tổ chức theo mô hình cụ thể khác nhau song
thông thƣờng bao gồm các cấp và các đơn vị nhƣ sau:
Tại Hội sở, Ban phòng chống rửa tiền gồm:
- Trƣởng ban phòng, chống rửa tiền: chịu trách nhiệm sắp xếp, xây dựng hệ
thống phòng, chống rửa tiền trong toàn ngân hàng; trực tiếp chỉ đạo Bộ phận phòng
chống rửa tiền tại các khối, phòng, ban trung tâm và các bộ phận khác thực hiện
45
công tác phòng, chống rửa tiền; kiểm tra và xử lý các sai phạm trong việc tuân thủ
pháp luật, quy định của ngân hàng về phòng, chống rửa tiền.
- Bộ phận phòng, chống rửa tiền tại Hội sở: đây là đầu mối tiếp nhận danh sách
cảnh báo của Cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, chịu trách nhiệm hƣớng dẫn các
đơn vị thực hiện các báo cáo giao dịch đáng ngờ, báo cáo các giao dịch theo yêu cầu
của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, thực hiện các báo cáo liên quan đến phòng,
chống rửa tiền theo quy định pháp luật; hƣớng dẫn thực hiện quy định pháp luật về
phòng, chống rửa tiền và các công việc khác có liên quan đến phòng, chống rửa tiền
tại ngân hàng.
- Bên cạnh đó còn có sự phối hợp chặt chẽ của các khối, phòng, ban, trung tâm
nhằm: nhận biết các giao dịch thông qua quá trình giao dịch của khách hàng; rà soát
khách hàng, giao dịch của khách hàng liên quan đến danh sách cảnh báo của Cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền theo yêu cầu của Bộ phận phòng, chống rửa tiền; rà
soát và gửi danh sách giao dịch tiền mặt phải báo cáo theo yêu cầu của Trƣởng ban
và Bộ phận phòng chống rửa tiền; thanh tra, kiểm soát những sai phạm trong công
tác phòng chống rửa tiền với Trƣởng ban phòng chống rửa tiền và Bộ phận phòng
chống rửa tiền tại Hội sở; kiểm soát việc tuân thủ theo quy định của pháp luật, quy
định của ngân hàng về phòng chống rửa tiền với Cục phòng, chống rửa tiền.
Tại các chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc:
- Có cán bộ đƣợc chỉ định chịu trách nhiệm tại từng chi nhánh, phòng giao dịch
trên toàn hệ thống ngân hàng.
- Chịu trách nhiệm triển khai các quy định của Bộ phận phòng chống rửa tiền tại
Hội sở về phòng chống rửa tiền tại đơn vị.
- Thực hiện lập, gửi số liệu, báo cáo liên quan đến công tác phòng, chống rủa tiền
tại đơn vị.
- Kiểm tra việc chấp hành các quy định trong phòng, chống rửa tiền tại đơn vị.
46
2.3. Đánh giá kết quả công tác phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc
Với sự nỗ lực to lớn của NHNN, công tác phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng Việt Nam đã đạt đƣợc một số kết quả, cụ thể:
- Chính phủ đã ban hành Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 là cơ sở
pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền tại Việt
Nam, đáp ứng một phần các quy định của các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là
thành viên. Tiếp theo đó là thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về phòng, chống rửa
tiền.
- Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền (nay là Cục phòng, chống rửa tiền) đã
đƣợc thành lập vào ngày 08/07/2005 thuộc NHNN với vai trò là trung tâm quốc gia
trong việc tiếp nhận, phân tích và xử lý thông tin, báo cáo về phòng, chống rửa tiền.
- Hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền của Việt Nam đang ngày càng đƣợc
hoàn thiện. Việt Nam đã có Luật phòng, chống rửa tiền, đã hình sự hóa hành vi rửa
tiền và các văn bản cho phép các cơ quan chức năng điều tra, truy tố, xét xử tội
phạm rửa tiền.
- Phần lớn các ngân hàng đều đã xây dựng quy trình kiểm soát, kiểm toán nội bộ
đảm bảo cho việc phòng, chống rửa tiền có hiệu quả và phù hợp với quy định của
pháp luật hiện hành. Trên cơ sở quy trình nội bộ này, các ngân hàng đã triển khai
thực hiện việc phòng ngừa hoạt động rửa tiền tại tổ chức mình, đảm bảo phát hiện
những giao dịch đáng ngờ. Để thực hiện các biện pháp phòng ngừa, các ngân hàng
đã thực hiện việc bố trí cán bộ chịu trách nhiệm triển khai thực hiện các chính sách,
kế hoạch, quy trình, biện pháp phòng, chống rửa tiền. Đồng thời, các ngân hàng xây
dựng quy trình tìm hiểu, cập nhật thông tin và thủ tục nhận biết khách hàng, lƣu giữ,
báo cáo các giao dịch đã góp phần quan trọng trong việc phát hiện và phòng ngừa
tội phạm rửa tiền.
47
- Thông qua các báo cáo của các NHTM về việc lập các báo cáo giao dịch đáng
ngờ và giao dịch tiền mặt vƣợt ngƣỡng quy định gửi Cục phòng, chống rửa tiền.
Cục phòng, chống rửa tiền đã tiếp nhận thông tin báo cáo từ các ngân hàng để phân
tích, chuyển giao thông tin. Kết quả việc tiếp nhận, phân tích báo cáo giao dịch nhƣ
sau:
Bảng 2.3: Kết quả tiếp nhận, phân tích báo cáo giao dịch đáng ngờ qua các năm
Năm Số báo cáo giao dịch đáng ngờ Số báo cáo chuyển cơ quan Công an
2007 12 4 báo cáo
2008 39 18 báo cáo
2009 93 32 vụ việc liên quan tới 32 báo cáo
2010 326 17 vụ việc liên quan tới 99 báo cáo
2011 304 4 vụ việc liên quan tới 7 báo cáo
2012 165 160 báo cáo
Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
- Việt Nam đã đƣợc kết nạp làm thành viên thứ 33 của Nhóm Châu Á Thái Bình
Dƣơng về phòng, chống rửa tiền và đã đƣợc tổ chức này đánh giá đa phƣơng vào
năm 2009.
- Hoạt động phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam đƣợc sự hỗ trợ kỹ thuật và trợ giúp
xây dựng năng lực phòng chống rửa tiền từ nhiều tổ chức quốc tế đặc biệt là WB,
IMF, ADB.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế
Theo số liệu thống kê, năm 2012 có 160 báo cáo giao dịch đáng ngờ có liên quan
đến hoạt động rửa tiền đƣợc gửi tới cơ quan công an, Việt Nam cho tới nay vẫn
48
chƣa phát hiện một vụ rửa tiền cụ thể nào, chƣa thể đánh giá rửa tiền ở lĩnh vực nào
nhiều. Trên thực tế, hoạt động rửa tiền diễn ra hết sức tinh vi, đa dạng làm cho hoạt
động điều tra của các cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn do hệ thống văn bản
pháp lý về xử lý hành vi này chƣa thực sự hoàn thiện, chế tài chƣa rõ ràng, công tác
kiểm tra, xử lý các hoạt động rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng, đặc biệt là
hoạt động rửa tiền quốc tế liên quan đến các ngân hàng nƣớc ngoài rất khó khăn.
Phức tạp nhất, do đặc thù giao dịch tài chính ở Việt Nam, chủ yếu là tiền mặt trao
tay, các giao dịch, thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ.
Thực tế này khiến việc kiểm tra hoạt động rửa tiền càng trở nên phức tạp tới mức
gần nhƣ không thể thực hiện. Do đó đề tài tập trung phân tích những hạn chế trên ba
mặt chủ yếu: (i) hành lang pháp lý; (ii) các công cụ phòng ngừa trong hệ thống tài
chính, bao gồm cả những quy định pháp lý đối với các định chế tài chính và cơ quan
chức năng có thẩm quyền, cũng nhƣ việc triển khai các quy định đó; (iii) cơ chế
thanh tra, kiểm tra
2.3.2.1. Hành lang pháp lý
Vấn đề phòng, chống rửa tiền đã đƣợc đề cập đến trong điều 251 Bộ Luật Hình sự:
quy định xử lý hành vi rửa tiền với tội danh hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội
mà có; điều 19 của Luật các tổ chức tín dụng năm 1997; Nghị định số 74 của Chính
phủ về phòng chống rửa tiền năm 2005. Các văn bản này tuy đã quy định một số
biện pháp tạm thời trong quá trình phòng, chống rửa tiền nhƣng pháp luật hiện hành
vẫn thiếu các điều khoản cụ thể cho phép các cơ quan điều tra có thẩm quyền thực
hiện phong tỏa và tạm giữ, cũng nhƣ không có luật cụ thể cho phép các quyền để
nhận dạng, lần theo dấu vết và dò tìm nguồn thu tội phạm.
Đến ngày 18/06/2012 Luật phòng, chống rửa tiền mới đƣợc ban hành và đến ngày
01/01/2013 bắt đầu có hiệu lực. Trong thời gian qua, Nghị định 74 và Thông tƣ 22
đƣợc sử dụng nhiều nhất trong công tác phòng chống rửa tiền nói chung và hệ thống
ngân hàng nói riêng. Trong quá trình thực hiện, Nghị định đã bộc lộ một số bất cập,
thiếu sót cần phải đƣợc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao hiệu quả công
49
tác phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam, góp phần minh bạch hóa nền tài chính quốc
gia và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Một số bất cập của Nghị định:
- Nghị định 74 chƣa phải là văn bản pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật của Việt Nam.
- Quy định trong Nghị định 74 chƣa đáp ứng đƣợc các chuẩn mực quốc tế về
phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố. Khái niệm rửa tiền trong Nghị
định và tội rửa tiền đƣợc quy định tại điều 251 Bộ luật Hình sự chƣa đồng nhất và
chƣa đáp ứng đƣợc các quy định tại Công ƣớc Viên và Công ƣớc Palermo.
- Về đối tƣợng phải thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền: theo Nghị định
là các định chế tài chính, các luật sƣ, công ty luật, các tổ chức kinh doanh trò chơi
may rủi, sòng bạc hoặc sổ xố; các tổ chức kinh doanh có khuyến mại lớn đối với
khách hàng; các công ty dịch vụ buôn bán bất động sản có đăng ký kinh doanh. Đối
tƣợng có trách nhiệm phòng, chống rửa tiền chƣa đƣợc mở rộng đối với các văn
phòng hành nghề công chứng và kế toán viên độc lập; chƣa có những quy định về
vấn đề ngân hàng vỏ bọc, tài khoản nặc danh, những ngƣời có ảnh hƣởng chính
trị…
- Các khái niệm, phƣơng thức đƣa ra trong Nghị định và phạm vi triển khai thực
hiện vẫn còn bó hẹp và chƣa đƣợc chuẩn hóa so với chuẩn mực quốc tế, điều này
làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, đặc
biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tƣ và cả lĩnh vực chính trị, ngoại giao.
2.3.2.2. Các công cụ được sử dụng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng
Việc triển khai công tác phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng vẫn còn tồn
tại những mặt hạn chế sau:
50
- Phạm vi triển khai: Mặc dù Nghị định 74 quy định phòng, chống rửa tiền là trách
nhiệm của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức nhƣng thực tế Nghị định này chủ yếu chỉ
áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng, các cơ quan ban ngành, đoàn thể khác không
quan tâm và chú ý đến Nghị định này. Chƣa có sự quan tâm đồng bộ, cùng hợp tác,
đề cao cảnh giác cùng phòng, chống rửa tiền.
- Việc cập nhật, theo dõi thông tin và lƣu trữ hồ sơ khách hàng: đều đƣợc quy định
trong văn bản phòng, chống rửa tiền tại từng ngân hàng. Tuy nhiên, công tác thực
hiện còn sơ sài, các nhân viên giao dịch là ngƣời trực tiếp quan hệ với khách hàng
nhƣng việc tìm hiểu nguồn gốc các khoản tiền gửi, tiền chuyển chƣa nghiêm túc;
danh sách cảnh báo các khách hàng đáng ngờ, “danh sách đen” hầu nhƣ không đƣợc
quan tâm chú ý đúng mức. Ngân hàng chƣa tiến hành phân loại khách hàng, điều
mà các nƣớc trên thế giới thực hiện từ lâu.
- Về báo cáo các giao dịch đáng ngờ và tuân thủ: Nghị định 74 tuy đã quy định các
cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện trách nhiệm báo cáo hoặc cung cấp thông tin về
các giao dịch đáng ngờ song nội dung quy định chƣa thật rõ ràng và do đó phần nào
triệt tiêu động lực báo cáo các giao dịch tiền mặt nghi vấn liên quan tới rửa tiền.
Phần lớn các giao dịch đáng ngờ đều do nhân viên chịu trách nhiệm báo cáo tại Hội
sở gửi báo cáo đi theo yêu cầu của Cục phòng, chống rửa tiền thông qua chƣơng
trình trích lọc số liệu tại Hội sở. Trong quá trình giao dịch với khách hàng, các giao
dịch viên nếu có phát hiện giao dịch đáng ngờ thì giao dịch đó vẫn thực hiện. Các
báo cáo mang tính chất đối phó, làm cho có hơn là chú ý đến tính hiệu quả của nó.
Thực tế, Nghị định 74 đƣợc ban hành và có hiệu lực từ năm 2005 nhƣng đến cuối
năm 2009, Cục phòng, chống rửa tiền mới chỉ nhận đƣợc 144 báo cáo giao dịch
đáng ngờ. Đây là con số khá thấp so với số lƣợng ngân hàng, tiềm năng rửa tiền tại
Việt Nam.
Thực tế hiện nay tại các NHTM Việt Nam, chƣa có một ngân hàng nào có chƣơng
trình tiên tiến phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền. Đa số việc theo dõi khách
hàng nằm trong danh sách rửa tiền đều thực hiện một cách thủ công. Số lƣợng các
51
báo cáo mà các ngân hàng gửi về Cục phòng, chống rửa tiền rất lớn trong khi hệ
thống công nghệ thông tin tại các NHTM cũng nhƣ tại Cục phòng, chống rửa tiền
chƣa thể đáp ứng đƣợc yêu cầu này. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của công tác
phòng, chống rửa tiền, các NHTM lớn tại Việt Nam nhƣ: Vietcombank, ACB,
BIDV đã tiến hành thuê tƣ vấn lựa chọn công nghệ phục vụ công tác phòng, chống
rửa tiền. Tuy nhiên, để có phần mềm hiệu quả có tính ổn định cao, ít phải nâng cấp
thì giá cả khá cao trên 2 triệu USD, trong khi đó các chƣơng trình giao dịch tiên tiến
nhƣ Core Banking T24 đƣợc các ngân hàng triển khai sử dụng hiện nay cũng chỉ có
giá 2,5 – 4 triệu USD.
2.3.2.3. Cơ chế thanh tra, kiểm tra và quản lý, giám sát
- Các cơ quan giám sát chƣa thực hiện cuộc thanh tra phòng, chống rửa tiền nào để
đánh giá hiệu quả của việc thực hiện Nghị định 74. Cục phòng, chống rửa tiền chỉ
tiếp nhận số liệu báo cáo từ các NHTM mà chƣa thực hiện kiểm tra, giám sát việc
tuân thủ. Các ngân hàng khó có thể đánh giá đƣợc đầy đủ do không có các hoạt
động giám sát chính thức về phòng, chống rửa tiền. Ngân hàng chỉ đơn giản nhận
tiền gửi, đầu tƣ của các cá nhân, tổ chức có tiền thông qua các giấy tờ pháp lý hình
thức mà không thể xác định đƣợc ngƣời “chủ” thực sự của các nguồn tiền đó là ai
và cũng không có động cơ và sự ràng buộc về pháp lý để làm điều đó mặc dù trong
pháp luật kinh doanh ngân hàng cũng đề cập đến vấn đề này nhƣng không có hƣớng
dẫn cụ thể cũng nhƣ không có cơ sở để thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát. Mặt
khác, do các ngân hàng đang trong tình trạng “cầu” vốn do đó họ cũng không mặn
mà trong việc truy hỏi nguồn gốc tiền của khách hàng vì có thể làm mất những
khách hàng trung thực, hợp pháp. Tuy nhiên, làm thế nào để ngân hàng có thể nhận
diện các khoản tiền gửi “nghi vấn” và báo lại cho các cơ quan an ninh kinh tế có
liên quan đến việc chống tẩy rửa tiền. Ngoài ra, nghĩa vụ và quyền lợi của ngân
hàng sẽ ra sao trong quá trình phát hiện và xử lý các khoản tiền có nguồn gốc tội
phạm đã đƣợc gửi vào ngân hàng vì chắc chắn khi ngân hàng kinh doanh giúp các
cơ quan chức năng ngăn chặn các khoản tiền bất hợp pháp vào hệ thống tài chính
52
ngân hàng để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia họ đã phải tốn những chi phí và
thiệt hại nhất định. Do đó cũng hạn chế việc thực hiện nghĩa vụ khai báo các nghi
vấn về các giao dịch tại ngân hàng của nhân viên ngân hàng.
- Việc chống rửa tiền tại Việt Nam tập trung chủ yếu qua ngân hàng, các tổ chức
tài chính, các doanh nghiệp. Chƣa xây dựng cơ chế giám sát và khung pháp lý về
phòng, chống rửa tiền đối với khu vực ngoài ngân hàng, làm giảm hiệu lực phòng,
chống rửa tiền của cả nền kinh tế.
- Bên cạnh đó, quy trình kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng vẫn là vấn đề
cần bàn cãi. Các nhân viên kiểm toán làm việc cho ngân hàng, kiểm tra tính tuân thủ
pháp lý của ngân hàng nhƣng vẫn chƣa hoạt động một cách độc lập, việc kiểm tra
thực hiện phòng, chống rửa tiền chƣa thật sự triệt để. Các ngân hàng khó có thể
đánh giá đƣợc đầy đủ do không có hoạt động giám sát chính thức về phòng, chống
rửa tiền.
2.3.2.4. Một số hạn chế khác
- Hiện nay, hầu hết các ngân hàng chƣa xây dựng và thực hiện chƣơng trình đào
tạo nhằm nâng cao nhận thức về công tác phòng, chống rửa tiền một cách đầy đủ.
Công tác đào tạo nhân viên về phòng, chống rửa tiền vẫn còn mang tính chất chung
chung, làm cho có theo quy định của NHNN, chƣa đƣợc triển khai tới mọi nhân
viên. Thực tế tại nhiều đơn vị ở một số bộ phận trực tiếp giao dịch với khách hàng
chƣa nắm đƣợc các quy định và văn bản hƣớng dẫn về phòng, chống rửa tiền, việc
triển khai chỉ mới dừng lại ở mức độ phổ biến.
- Việc ban hành Nghị định 74 về phòng chống rửa tiền là một việc phải thực hiện
theo cam kết quốc tế, nhƣng sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế và tạo tâm lý lo ngại
cho ngƣời dân có tiền gửi tiết kiệm cũng nhƣ các doanh nghiệp, hệ quả có thể thấy
trƣớc là, thay vì gửi tiền vào ngân hàng để hƣởng lãi tiết kiệm thì ngƣời dân sẽ đầu
tƣ vào vàng, đôla Mỹ hoặc bất động sản để đảm bảo bí mật, nguồn kiều hối gửi về
nƣớc vì thế cũng sẽ giảm đi nhanh chóng.
53
- Mặt khác, việc chống rửa tiền hiện nay cũng có những khó khăn mới so với
trƣớc đây là công nghệ rửa tiền đã phát triển đến mức độ toàn cầu hóa với việc sử
dụng các phƣơng thức không chỉ đơn giản nhƣ gửi tiền mặt vào ngân hàng hay đầu
tƣ mà còn có thể sử dụng hệ thống “ảo” thông qua mạng Internet.
2.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại
2.3.3.1. Do khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện
Quá trình xây dựng khuôn khổ pháp lý là một quá trình phức tạp, với sự tham gia
của nhiều cấp, ngành khác nhau. Trong khi đó, việc phòng, chống rửa tiền là khá
mới mẻ ở Việt Nam, rất phức tạp, nhiều vấn đề, nhiều nội dung đƣợc thảo luận
nhiều lần, nhƣng do hiểu biết, nhận thức khác nhau, nên có những quy định không
thể đạt đƣợc sự nhất trí cao, buộc phải quy định chung chung, một số quy định chƣa
đƣợc cụ thể hóa trong hoạt động của các cơ quan pháp luật nên chƣa phát huy đƣợc
năng lực và thẩm quyền của các cơ quan thi hành luật. Cụ thể:
- Nghị định số 74/2005/NĐ-CP đƣợc ban hành ngày 07/06/2005 nhƣng mãi tới
ngày 17/11/2009, NHNN mới ban hành Thông tƣ số 22/2009/TT-NHNN hƣớng dẫn
thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền. Việc chậm ban hành thông tƣ gây ra
không ít khó khăn trong công tác phòng chống rửa tiền, đặc biệt là công tác phòng,
chống rửa tiền tại các NHTM.
- Bên cạnh đó, Nghị định 74 chủ yếu tập trung trong lĩnh vực ngân hàng, trong
khi các lĩnh vực khác có nguy cơ cao nhƣ: sòng bạc, xổ số, cá cƣợc, chứng khoán,
bất động sản…chỉ đƣợc Nghị định nhắc đến, nhƣng không có biện pháp kiểm soát
rửa tiền ở lĩnh vực này.
Tính hiệu quả trong các hoạt động chống rửa tiền tại Việt Nam cơ bản là do thiếu
một khung pháp luật hoàn thiện và một cơ chế kiểm soát đồng bộ, hiệu quả. Thực
tế, do một thời gian dài các quy định về chống tội phạm rửa tiền đƣợc quy định rải
rác tại các văn bản khác nhau, các thiết chế có chức năng đấu tranh chống loại tội
phạm này lại chƣa có một cơ chế hợp tác, phối hợp hiệu quả và chuyên trách.
54
Hiện nay, Luật Phòng chống rửa tiền đã đƣợc ban hành, bắt đầu có hiệu lực từ
01/01/2013 hoàn thiện hệ thống pháp lý về phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam.
2.3.3.2. Do chính sách của các NHTM
- Trƣớc đây, có giai đoạn các NHTM thực hiện việc bổ sung vốn theo yêu cầu của
NHNN trong chƣơng trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Từ đó, dẫn đến nguy cơ
các NHTM dễ dàng chấp nhận việc góp vốn của bất kỳ ai mà không quan tâm đến
nguồn gốc của các khoản vốn đó. Bọn tội phạm có thể lợi dụng đƣa tiền bẩn đầu tƣ
vào ngân hàng và sau một thời gian tiền bẩn lúc này sẽ đƣợc hợp pháp hóa, trở
thành tiền sạch một cách chính đáng. Có trƣờng hợp các cổ đông lớn của ngân hàng
giao dịch với số tiền rất lớn, những khoản tiền này có thể là tiền sạch cũng có thể là
tiền bẩn, các khoản tiền đó có đƣợc báo cáo cho NHNN hay đƣợc lờ đi cũng chƣa
đƣợc điều tra làm rõ.
- Hiện nay, các NHTM tập trung chủ yếu chỉ tiêu huy động vốn tiền gửi, sử dụng
nhiều biện pháp khuyến mãi hấp dẫn để thu hút khách hàng gửi tiền mà không quan
tâm đến nguồn gốc của nó. Một ngân hàng có lẽ sẽ rất vui mừng khi nhận đƣợc một
lƣợng tiền gửi lớn từ công chúng với một mức lãi suất huy động thấp hơn những đối
thủ cạnh tranh khác. Với bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào có tiền bất hợp pháp, họ sẽ
sẵn sàng đầu tƣ vào cả những nơi không sinh lợi cho chúng, miễn sao là tiền bẩn
của chúng đƣợc biến thành tiền sạch càng nhanh càng tốt, và đặc biệt một khi tiền
đƣợc rút ra từ ngân hàng thì hiển nhiên là tiền sạch.
- Việc thực hiện giám sát và báo cáo giao dịch đáng ngờ làm cho ngƣời dân và
doanh nghiệp có thu nhập chân chính lo ngại, thậm chí không muốn giao dịch với
ngân hàng và có cảm giác tài sản của mình luôn bị theo dõi. Hệ quả có thể nhìn thấy
trƣớc là, thay vì gửi tiền vào ngân hàng để hƣởng lãi tiết kiệm thì ngƣời dân sẽ đầu
tƣ vào vàng, đô la Mỹ hay bất động sản để đảm bảo bí mật, nguồn kiều hối gửi về
nƣớc vì thế cũng sẽ giảm đi nhanh chóng. Còn các doanh nghiệp sẽ ƣu tiên phƣơng
thức thanh toán bằng tiền mặt để khỏi bị “nhòm ngó” mỗi khi giao dịch qua ngân
hàng với giá trị lớn. Bản thân các NHTM cũng rất miễn cƣỡng khi phải tuân thủ
55
hoàn toàn, một phần vì lo ngại sẽ mất khách và tổng giá trị giao dịch của một khách
hàng đạt 200 – 500 triệu đồng phải báo cáo là khối lƣợng vô cùng lớn.
- Trong năm 2011 hoạt động xuất nhập khẩu chiếm tới 200 tỷ USD, năm 2012
doanh số xuất nhập khẩu chuyển ra và chuyển vào để phục vụ cho hoạt động xuất
khẩu và nhập khẩu khoảng 228 tỷ USD. Doanh số hoạt động xuất nhập khẩu chuyển
tiền ra vào Việt Nam là rất lớn, có thể là nơi ẩn náu của hoạt động rửa tiền. Thực tế
việc hậu kiểm trong vấn đề thanh toán quốc tế - chuyển tiền xuất nhập khẩu cũng rất
hạn chế. Các NHTM quan tâm nhiều đến khoản phí họ thu đƣợc trong hoạt động
xuất nhập khẩu, cho nên có tình trạng có chứng từ là họ thanh toán ngay, nhƣng sau
đó hàng hóa có vào Việt Nam hay không thì chúng ta thấy không kiểm tra đƣợc.
Hoặc hàng lậu, ma túy vào, nhƣng cuối cùng hợp thức hóa thông qua các hợp đồng
thanh toán xuất nhập khẩu đó.
2.3.3.3. Do nền kinh tế Việt Nam còn sử dụng tiền mặt là phổ biến
- Nền kinh tế tiền mặt của Việt Nam hiện cũng là điều kiện thuận lợi cho các hoạt
động rửa tiền. Tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong lƣu thông đã giảm dần qua các năm
nhƣng nhìn chung vẫn còn khá cao so với các nƣớc phát triển chỉ tiêu này ở mức 1
con số.
- Phần lớn các tội phạm rửa tiền tại Việt Nam đều thích tiền mặt bởi nó dễ dàng
tiêu xài, dễ ẩn danh, các cơ quan chức năng khó kiểm soát. Các hình thức rửa tiền
đơn giản nhất ở Việt Nam thƣờng là mua ô tô, vàng, nhà, đất, đồ cổ, vé số trúng
thƣởng…Các khoản thanh toán bằng tiền mặt rất nhiều nhƣ thanh toán giữa các cá
nhân, tổ chức với nhau; các khoản cho vay lớn tại các ngân hàng; các giao dịch bất
động sản; mua bán vàng bạc đá quý diễn ra ở thị trƣờng tự do... Không chỉ có tiền
mặt VNĐ mà vàng, đô la Mỹ cũng đƣợc sử dụng rộng rãi trong việc mua bán các
loại hàng hóa, tài sản có giá trị lớn. Việc mua bán các tài sản, hàng hóa nhƣ nhà
cửa, đất đai, xe cộ với giá trị tƣơng đƣơng hàng tỷ đồng, hàng trăm, hàng ngàn
lƣợng vàng, hàng trăm ngàn USD không phải là chuyện hiếm. Các giao dịch nhƣ
thế đều đƣợc xã hội mặc nhiên thừa nhận, hơn nữa còn tỏ ra thuận lợi, nhanh chóng.
56
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ tiền mặt lƣu thông trong tổng phƣơng tiện thanh toán (%)
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thƣờng niên của NHNN qua các năm
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Trong chƣơng 2, luận văn tập trung phân tích thực trạng rửa tiền, công tác phòng,
chống rửa tiền qua ngân hàng trong thời gian qua. Từ đó, đƣa ra những kết quả đạt
đƣợc, những mặt tích cực cũng nhƣ những mặt hạn chế, bất cập trong công tác
phòng, chống rửa tiền đang diễn ra thông qua hệ thống ngân hàng. Và để giải quyết
triệt để những tồn tại này, đòi hỏi chúng ta phải có hệ thống giải pháp hiệu quả, cụ
thể những giải pháp này nhƣ thế nào sẽ đƣợc đề cập đến trong chƣơng 3 của luận
văn.
57
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
3.1. Dự báo tình hình rửa tiền trong thời gian tới và định hƣớng phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
3.1.1. Dự báo tình hình rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
3.1.1.1. Dự báo tình hình quốc tế
Tình trạng rửa tiền qua các ngân hàng trên thế giới ngày càng gia tăng. Hàng năm
có tới nhiều tỷ USD tiền bất hợp pháp từ các vụ gian lận trong xây dựng, kinh
doanh bất hợp pháp, buôn bán ma túy, vũ khí, cá cƣợc thể thao, cờ bạc và nguồn tài
chính của các tổ chức khủng bố… đƣợc chuyển qua ngân hàng để đƣợc hợp pháp
hóa. Ngân hàng dần dần trở thành nơi bọn tội phạm tìm đến rửa tiền với các ƣu
điểm nhƣ chi phí thấp, số lƣợng tiền rửa lớn, tiền đảm bảo sạch hơn so với các hệ
thống khác. Bên cạnh đó, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật công nghệ, các
giao dịch tài chính, mua bán hàng hóa, thanh toán các hợp đồng hầu hết sẽ đƣợc
thực hiện thông qua hệ thống tài chính ngân hàng. Qua đó, có thể nói hệ thống ngân
hàng đang phải đối mặt với những nguy cơ rất lớn, nguy cơ bị bọn tội phạm tìm đến
để rửa tiền.
3.1.1.2. Dự báo tình hình Việt Nam
- Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới, ngày càng
có nhiều công ty nƣớc ngoài đến Việt Nam làm ăn, sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt là
từ năm 2007, nƣớc ta trở thành thành viên chính thức của WTO, các giao dịch về
thƣơng mại, tài chính, xuất nhập khẩu ngày càng tăng. Chuyển tiền kiều hối của bà
con Việt kiều định cƣ nƣớc ngoài và của những lao động Việt Nam xuất khẩu lao
động đƣợc khuyến khích ngày càng nhiều về số lƣợng và giá trị. Thị trƣờng du lịch
ngày càng mở rộng, lƣợng khách quốc tế ra vào Việt Nam ngày càng nhiều. Mở
rộng ra thế giới, chúng ta đón đƣợc ngọn gió lành nhƣng cùng có những ngọn gió
độc vào, ảnh hƣởng đến sức khỏe của nền kinh tế, đó là các giao dịch tài chính
“bẩn” trong đó có các vụ buôn bán ma túy xuyên quốc gia, hoặc các đối tác nƣớc
58
ngoài sử dụng nguồn tiền bất hợp pháp và đầu tƣ, kinh doanh ở nƣớc ta với mục
tiêu rửa tiền hoặc chuyển tiền cho các tổ chức, cá nhân trong nƣớc với âm mƣu lật
đổ chế độ, làm mất ổn định chính trị nƣớc ta. Còn trong nƣớc tình trạng trốn thuế,
buôn lậu, tham nhũng, sản xuất và buôn bán hàng giả, các vụ đầu cơ trên thị trƣờng
chứng khoán, bất động sản, vàng ngày càng gia tăng. Các đối tƣợng đƣợc hƣởng lợi
cũng đã thông qua các hoạt động hợp pháp nhƣ gửi tiền vào ngân hàng, đầu tƣ vào
chứng khoán, vàng, bất động sản, một số khác chuyển tiền gửi sang các nhà băng
nƣớc ngoài nơi có luật bí mật ngân hàng… Tình trạng đó đã đe dọa an ninh chính
trị, kinh tế trong nƣớc và đặc biệt làm giảm uy tín của nƣớc ta trƣớc con mắt của
bạn bè quốc tế.
- Theo nhận định của Cơ quan Phòng chống ma túy và tội phạm Liên Hợp Quốc
(UNODC), Việt Nam dễ bị tội phạm rửa tiền tìm đến do nền kinh tế sử dụng nhiều
tiền mặt, cùng với hoạt động thƣơng mại và đầu tƣ ngày càng gia tăng. Cơ quan này
cảnh báo, nếu không có biện pháp nhanh và hiệu quả để đối phó với rửa tiền thì tội
phạm và tham nhũng sẽ gia tăng, ảnh hƣởng đến lĩnh vực tài chính ngân hàng. Nếu
để cho dòng tài chính phi pháp này chảy vào, sớm muộn gì nền kinh tế và hệ thống
tài chính tiền tệ quốc gia cũng sẽ bị ảnh hƣởng xấu. Ngoài ra, nó còn làm mất uy tín
của quốc gia và do đó làm giảm đi những cơ hội tăng trƣởng từ nguồn đầu tƣ nƣớc
ngoài và các nhà đầu tƣ không còn thấy cơ hội để đầu tƣ vào quốc gia đó nữa.
- Trƣớc tình hình đó, ngành ngân hàng gặp nhiều cơ hội nhƣ có thể nâng cao tính
cạnh tranh, nâng cao trình độ quản trị điều hành ở các ngân hàng…và cũng phải đối
mặt với không ít những khó khăn, thách thức nhƣ: công nghệ còn tƣơng đối lạc hậu,
hiệu quả điều hành thấp, năng lực cạnh tranh yếu, tạo nhiều khe hở cho bọn tội
phạm tấn công vào hệ thống tài chính ngân hàng còn non yếu để thực hiện hành vi
rửa tiền thông qua: hoạt động đầu tƣ nƣớc ngoài, thanh toán bằng hình thức thƣ tín
dụng, kiều hối, chuyển tiền…
- Việc tăng vốn điều lệ đối với các NHTM theo quy định của NHNN, cùng với xu
hƣớng cổ phần hóa tại các ngân hàng trong nƣớc ngày càng tăng cao, tạo nhiều kẻ
59
hở cho các nhà đầu tƣ có nguồn vốn bất hợp pháp thực hiện đầu tƣ với mục đích rửa
tiền. Điều này tạo ra một rủi ro rất lớn cho các ngân hàng đối với nguy cơ bị liên lụy
trong các vụ án kinh tế, ảnh hƣởng đến uy tín ngân hàng. Bên cạnh đó, nguồn gốc
thu nhập để mua cổ phiếu của khách hàng trên thị trƣờng chứng khoán chƣa đƣợc
các ngân hàng quan tâm đúng mức. Do vậy, việc “tiền bẩn” đƣợc tẩy rửa trên thị
trƣờng chứng khoán thông qua ngân hàng là hoàn toàn có thể, và rủi ro về uy tín
xảy ra đối với ngân hàng là tất yếu. Hầu hết các NHTM trong nƣớc có quy mô nhỏ
chƣa nhận thức hết đƣợc tác hại của rửa tiền đối với ngân hàng mình và nếu nhận ra
đƣợc vấn đề thì cũng hết sức boăn khoăn về biện pháp phòng, chống rửa tiền nên
những ngân hàng này hoàn toàn có khả năng bị bọn tội phạm tìm đến rửa tiền.
Từ những dự báo trên, chúng ta đã có một bức tranh tổng thể về nguy cơ rửa tiền
xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam trong thời gian tới là rất cao. Để đẩy lùi nguy cơ này,
cần phải có một hệ thống giải pháp thích hợp dựa trên chiến lƣợc phát triển dịch vụ
ngân hàng và dự báo tình hình rửa tiền ở Việt Nam.
3.1.2. Định hƣớng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống NHTM Việt Nam
Việt Nam trở thành thành viên thứ 33 của APG, Chính phủ Việt Nam cam kết thi
hành theo đúng các điều khoản phòng, chống rửa tiền, đặc biệt là phải thực thi 40
khuyến nghị của FATF. Điều này có nghĩa là Việt Nam vừa tuân thủ theo các quy
định quốc tế vừa phải để cho FATF giám sát và theo dõi cơ chế chống rửa tiền một
cách chặt chẽ và cũng nhƣ phải đƣợc các cơ quan độc lập khác đánh giá, xem xét.
Nhƣ vậy, hoạt động phòng, chống rửa tiền hiện nay cần phải theo định hƣớng phát
triển sau:
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về chống rửa tiền theo tiêu chuẩn quốc tế. Có hiệu
quả trong việc ngăn ngừa tội phạm lợi dụng hệ thống tài chính, nâng cao chất lƣợng
quản lý rủi ro của các định chế tài chính. Tăng cƣờng sự phát triển hệ thống tài
chính Việt Nam và hội nhập toàn cầu.
60
- Phát triển một hệ thống giám sát các dòng vốn, cải thiện các báo cáo vƣợt
ngƣỡng và các báo cáo giao dịch đáng ngờ, tăng cƣờng hợp tác và chia sẻ thông tin
giữa các cơ quan phòng, chống rửa tiền và nâng cao năng lực của các cơ quan điều
tiết tài chính, lập pháp, hành pháp trong việc phát hiện, điều tra và chống tội phạm.
- Ngăn chặn, chống tội phạm rửa tiền bằng cách tham gia hiệu quả hơn trong hợp
tác quốc tế với mục tiêu xây dựng một mạng lƣới quốc tế phòng chống rửa tiền hiệu
quả hơn, đặc biệt là trong mục tiêu chống rửa tiền xuyên quốc gia và các hoạt động
tài trợ khủng bố.
- Tham gia các tổ chức quốc tế về chống rửa tiền một cách tích cực hơn, nhằm
phát triển và cải thiện các khuôn khổ phòng, chống rửa tiền quốc tế.
3.2. Các nhóm giải pháp phòng, chống rửa tiền qua hệ thống NHTM Việt Nam
Qua nghiên cứu cho thấy, hoạt động rửa tiền qua ngân hàng của bọn tội phạm rất
đa dạng, phức tạp, qua nhiều công đoạn. Vì vậy, vấn đề phòng, chống rửa tiền
không chỉ là hoạt động riêng của bất kỳ ngân hàng nào mà là sự phối hợp chặt chẽ
của nhiều ngành, giữa NHNN và các NHTM, giữa các phòng ban trong nội bộ
NHTM. Để công tác phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam qua hoạt động ngân hàng
một cách hiệu quả, cần chú ý một số giải pháp sau:
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với Nhà nƣớc
3.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp
Để nâng cao toàn diện chất lƣợng công tác phòng, chống rửa tiền, hƣớng tới đáp
ứng các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực này, một trong những nhiệm vụ cấp bách
cần đƣợc triển khai ngay chính là việc hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống
rửa tiền. Khung pháp lý này cần tập trung vào một số lĩnh vực nhƣ:
- Triển khai các biện pháp ngăn chặn có hiệu lực
- Tăng cƣờng yêu cầu về thu nhập và quản lý thông tin khách hàng
61
- Gia tăng hiệu lực của các báo cáo về giao dịch đáng ngờ
- Tăng cƣờng công tác quản lý và giám sát.
Việt Nam đã ban hành Luật phòng, chống rửa tiền từng bƣớc đáp ứng yêu cầu của
quá trình hội nhập và tuân thủ các cam kết quốc tế. Từ đó nâng cao đƣợc uy tín của
Việt Nam, tránh tâm lý e ngại cho nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nƣớc kinh doanh ở nƣớc ngoài.
Tuy nhiên công tác triển khai luật đến nay chƣa đạt hiệu quả vì chƣa có nghị định,
thông tƣ mới hƣớng dẫn. Do đó hoạt động phòng, chống rửa tiền vẫn đƣợc thực
hiện dựa vào Nghị định 74 và thông tƣ 22 ban hành trƣớc đó. Với các quy định
mang tính định tính nhƣ hiện nay nên việc giám sát, báo cáo các giao dịch đáng ngờ
có dấu hiệu rửa tiền trong hoạt động ngân hàng đang trở nên khó thực hiện, mỗi nơi
thực hiện một kiểu. Vì vậy, để ngăn chặn hành vi rửa tiền, NHNN cần phối hợp với
các bộ, ngành nhanh chóng trình nghị định hƣớng dẫn Luật phòng, chống rửa tiền
để Chính phủ ban hành.
3.2.1.2. Hạn chế thanh toán tiền mặt
Ở Việt Nam, thanh toán bằng tiền mặt còn rất phổ biến trong nền kinh tế. Tiền mặt
vẫn là phƣơng tiện thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực doanh nghiệp và
chiếm đại đa số trong các giao dịch thanh toán của khu vực dân cƣ. Việc sử dụng
tiền mặt quá lớn trong thanh toán ở nƣớc ta hiện nay là điều kiện lý tƣởng của tội
phạm rửa tiền. Vì vậy, vấn đề hạn chế sử dụng tiền mặt trong thanh toán là yêu cầu
bức thiết đặt ra để hạn chế nạn rửa tiền. Khuyến khích sử dụng thanh toán bằng tiền
điện tử, mọi hoạt động tài chính của mỗi ngƣời sẽ đƣợc quản lý chặt chẽ và dễ dàng
hơn. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng đó, Nhà nƣớc cũng đã đƣa ra nhiều biện pháp
để hạn chế lƣợng tiền mặt trong thanh toán nhƣng vẫn chƣa đem lại kết quả nhƣ
mong đợi. Sau đây là một đề xuất đối với Chính phủ trong việc khuyến khích phát
triển thanh toán không dùng tiền mặt:
62
- Bổ sung, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và các cơ chế chính sách hạn chế thanh
toán tiền mặt. Các cơ chế, chính sách thanh toán không dùng tiền mặt phải đƣợc
chỉnh sửa, thay thế cho đồng bộ, đầy đủ đặc biệt là những vấn đề liên quan đến
thanh toán điện tử và thƣơng mại điện tử để có thể phù hợp với thông lệ quốc tế và
nhu cầu ngƣời sử dụng.
- Nâng cao chất lƣợng và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Xây dựng các phƣơng
án miễn, giảm thuế nhập khẩu để giảm nhẹ gánh nặng đầu tƣ cho các đơn vị đầu tƣ
trang thiết bị phục vụ hoạt động thanh toán.
- Phát triển thanh toán điện tử với nhiều sản phẩm, dịch vụ mới đa dạng, an toàn,
thuận tiện. Xây dựng các phƣơng án miễn giảm thuế giá trị gia tăng đối với các
thanh toán qua ngân hàng, xây dựng cơ chế tính phí dịch vụ thanh toán hợp lý đối
với các giao dịch thanh toán liên ngân hàng. Trên cơ sở đó tác động tới toàn bộ cơ
cấu tính phí của các tổ chức tín dụng nhằm tạo lập một mức phí hợp lý cho khách
hàng, nhằm khuyến khích sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, dần dần
thay đổi thói quen thanh toán tiền mặt trong dân cƣ.
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, hƣớng dẫn trong toàn xã hội. Đối với
một số giao dịch có giá trị lớn nhƣ: chuyển nhƣợng quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở, mua bán ô tô…Khi tiến hành đăng ký chuyển quyền sử dụng, sở hữu thì
bắt buộc phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng.
- Đẩy mạnh các giải pháp hỗ trợ khác nhƣ đẩy mạnh hợp tác quốc tế để nhận đƣợc
sự hỗ trợ, tƣ vấn kỹ thuật; tăng cƣờng phối hợp giữa các cơ quan, ngành trong việc
triển khai các giải pháp; tăng cƣờng nâng cao chất lƣợng cán bộ, đặc biệt là cán bộ
tham gia xây dựng chính sách, tăng cƣờng kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động
thanh toán trong nền kinh tế.
63
3.2.1.3. Tăng cường công tác phòng, chống các loại tội phạm, đặc biệt là tội
phạm tham nhũng
Để công tác phòng, chống rửa tiền đạt hiệu quả thì việc phòng, chống các loại tội
phạm nguồn nhƣ: ma túy, buôn lậu, trốn thuế… và đặc biệt là tham nhũng cần phải
đƣợc quan tâm đúng mức. Sau đây là một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả
phòng, chống tham nhũng, qua đó đẩy lùi hoạt động rửa tiền:
- Thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà
nƣớc. Tăng cƣờng cải cách hành chính thông qua việc đơn giản hóa, công khai hóa
các thủ tục hành chính, áp dụng phƣơng thức quản lý theo cơ chế “một cửa”.
- Cần có những cơ chế kiểm soát chặt chẽ nguồn thu nhập của công chức, nhất là
đối với số công chức có vai trò lãnh đạo, quản lý. Quy định công chức phải kê khai
tài sản, nhằm giúp các cơ quan chức năng kiểm soát đƣợc tài sản của cán bộ, công
chức. Trong trƣờng hợp xảy ra tham nhũng, nếu công chức không chứng minh đƣợc
nguồn gốc tài sản của mình thì đó là tài sản do tham nhũng mà có.
- Coi trọng công tác giáo dục nhận thức, đạo đức liêm chính cho mọi ngƣời dân,
nhất là đội ngũ cán bộ công chức. Đƣa nội dung phòng, chống tham nhũng vào
giảng dạy trong các trƣờng học để giáo dục ngay từ nhỏ về đạo đức trong sáng, lối
sống lành mạnh, cách ứng xử văn minh, lịch thiệp đối với thế hệ trẻ; Đẩy mạnh
công tác tuyên truyền về tham nhũng cũng nhƣ hậu quả, tác hại của nó đến mọi
ngƣời dân để ngƣời dân nhận diện đƣợc các hành vi tham nhũng, có thái độ lên án
và tinh thần kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Ban hành các văn bản quy
định cụ thể về đạo đức của cán bộ công chức đặc biệt là những viên chức cao cấp
trong từng ngành, từng lĩnh vực, qua đó nâng cao hiệu quả của công tác phòng,
chống tham nhũng.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên sâu cho hoạt động phòng, chống tham nhũng:
Những cán bộ phòng, chống tham nhũng phải tinh thông nghiệp vụ, có phƣơng
pháp, cách thức tổ chức phù hợp; thƣờng xuyên học tập, trao đổi, tích lũy kinh
64
nghiệm. Đặc biệt, cán bộ phòng, chống tham nhũng phải có bản lĩnh vững vàng,
dám đƣơng đầu với những thế lực bao che cho tham nhũng; phải kiên nhẫn, đừng để
mất tinh thần sớm. Đảm bảo mức thu nhập cao cho cán bộ, công chức để hạn chế
tình trạng tham nhũng.
- Sử dụng sức mạnh của ngƣời dân, các tổ chức xã hội trong việc phát hiện, tố giác
các hành vi tham nhũng. Công tác phòng, chống tội phạm chỉ thành công khi có sự
tham gia đông đảo của quần chúng bởi quần chúng luôn là các nguồn thông tin vô
tận có giá trị liên quan đến các vụ việc tham nhũng. Xây dựng cơ chế, chính sách
bảo vệ ngƣời tố giác, góp phần khuyến khích, động viên ngƣời dân tham gia phòng,
chống tham nhũng.
3.2.2. Nhóm giải pháp đối với NHNN
3.2.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng, chống rửa tiền
- Luật phòng, chống rửa tiền đã đƣợc ban hành và công tác phòng, chống rửa tiền
đã đƣợc các Bộ, ngành, đơn vị, địa phƣơng tích cực triển khai thực hiện. Tuy nhiên,
để tạo ra phong trào sâu rộng trong xã hội thì cần thiết phải triển khai công tác
tuyên truyền, phổ biến cho các tầng lớp nhân dân và vận động toàn dân cùng tham
gia vào công tác này. Thƣờng xuyên phát động các chiến dịch gia tăng sự hiểu biết
của cộng đồng về phòng, chống rửa tiền. Cụ thể là cần phải tuyên truyền cho ngƣời
dân hiểu về giao dịch phải báo cáo, đó là việc các ngân hàng ghi lại và báo cáo về
các giao dịch nhƣ là một nghiệp vụ nội bộ của ngân hàng. Các thông tin này nằm
trong nội bộ ngân hàng và vẫn đƣợc đảm bảo bí mật và chỉ đƣợc cung cấp cho cơ
quan có thẩm quyền khi có yêu cầu.
- NHNN cần phối hợp với Hiệp hội ngân hàng mở các lớp tập huấn về công tác
phòng, chống rửa tiền cho cán bộ nhân viên ngân hàng, để có những giải thích kịp
thời cho khách hàng, tránh tâm lý e ngại của khách hàng khi đến giao dịch với ngân
hàng.
65
3.2.2.2. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công tác
phòng, chống rửa tiền
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin chính là mấu chốt trong phòng, chống rửa
tiền. Tuy nhiên, ngân sách dành cho việc đầu tƣ công nghệ thông tin còn hạn chế.
Do đó, hệ thống công nghệ thông tin cần đồng bộ hóa và nâng cấp tại các ngân hàng
theo hƣớng đáp ứng quy định của pháp luật, phân tích giao dịch, khách hàng, hỗ trợ
sàng lọc, nhận biết khách hàng, báo cáo, lƣu trữ thông tin…
- NHNN cần đi đầu trong việc đầu tƣ, nhận sự hỗ trợ về kỹ thuật của các tổ chức
nƣớc ngoài, sử dụng hiệu quả các phần mềm phát hiện và ngăn chặn các giao dịch
đáng ngờ. Tuyển chọn đội ngũ nhân viên giỏi, sẵn sàng trả mức lƣơng tƣơng xứng
để chuyển biến, phát triển phần mềm trong nƣớc cũng nhƣ ứng dụng các phần mềm
nƣớc ngoài phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam.
- Cục phòng, chống rửa tiền cần phải đƣợc đầu tƣ, trang bị hệ thống công nghệ
thông tin hiện đại để có thể thu thập, phân tích thông tin về các giao dịch phải báo
cáo, các giao dịch đáng ngờ từ các ngân hàng một cách nhanh chóng và kịp thời. Từ
đó, có thể phát hiện chính xác, nhanh chóng những giao dịch có nguy cơ rửa tiền,
đƣa ra cảnh báo với các NHTM và chuyển dữ liệu cho cơ quan điều tra.
3.2.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các NHTM
- Tính đến nay, hầu hết các NHTM đều đã ban hành quy định nội bộ về phòng,
chống rửa tiền nhƣng chỉ có một số ngân hàng lớn mới thực sự triển khai quy định
này. Nguyên nhân là do NHNN chƣa ban hành quy chế giám sát việc tuân thủ các
quy định về phòng, chống rửa tiền. Việc ban hành quy chế giám sát sẽ giúp cho Cơ
quan thanh tra và Cục phòng, chống rửa tiền chủ động trong việc thanh tra, giám sát
các NHTM. Từ đó đƣa ra các biên pháp hữu hiệu yêu cầu các ngân hàng thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định về phòng, chống rửa tiền. Bên cạnh đó, NHNN cần đƣa
tiêu chí tuân thủ các quy định về phòng, chống rửa tiền vào trong bộ tiêu chuẩn
đánh giá xếp hạng các NHTM, cũng nhƣ là cho phép thực hiện các nghiệp vụ thanh
66
toán quốc tế, phê duyệt mở rộng mạng lƣới, chi nhánh các ngân hàng này. Đối với
các ngân hàng không tuân thủ cần có một số giải pháp cụ thể nhƣ:
+) Các ngân hàng không tuân thủ các quy định của NHNN về thành lập hệ thống
phòng, chống rửa tiền tại ngân hàng nhƣ: chƣa ban hành quy định nội bộ về phòng,
chống rửa tiền; chƣa thành lập bộ phận chống rửa tiền hoặc không tổ chức tập huấn
công tác phòng chống rửa tiền cho nhân viên… NHNN sẽ yêu cầu ngân hàng thực
hiện trong một thời gian nhất định; nếu chậm trễ sẽ có văn bản nhắc nhở; trong
trƣờng hợp nghiêm trọng có quyền ra quyết định xử lý kỹ luật ngƣời đứng đầu:
Tổng giám đốc, Trƣởng ban phòng chống rửa tiền tại Hội sở…
+) Các ngân hàng không thực hiện báo cáo, lƣu trữ thông tin khách hàng theo yêu
cầu của NHNN nhƣ: không thực hiện nghĩa vụ nhận biết khách hàng, lƣu trữ hồ sơ,
tài liệu về giao dịch đã thực hiện; không thực hiện báo cáo các giao dịch đáng ngờ;
cố tình thực hiện giao dịch với các tài khoản ẩn danh, vô danh hoặc với khách hàng
không có giấy tờ chứng minh danh tính của họ; vi phạm các quy định về bảo mật,
tiết lộ thông tin, từ chối, ngăn cản công tác kiểm tra, điều tra chống rửa
tiền…NHNN cho phép NHTM sửa chữa các sai phạm đó trong thời gian nhất định;
trong trƣờng hợp nghiêm trọng có thể áp dụng mức phạt tiền đối với ngân hàng và
cá nhân chịu trách nhiệm. NHNN cần quy định mức phạt vi phạm hành chính với số
tiền hợp lý đủ sức răn đe đối với những trƣờng hợp không thực hiện nghiêm chỉnh
các biện pháp phòng, chống rửa tiền.
- Công tác phòng, chống rửa tiền tại các NHTM phải đƣợc thanh tra, giám sát
thƣờng xuyên. NHNN giữ vai trò trung tâm, làm đầu mối để các ngân hàng thƣờng
xuyên trao đổi thông tin về tình hình tội phạm rửa tiền tại các ngân hàng. Từ đó,
NHNN tiếp nhận đƣợc các ý kiến phản hồi của các NHTM trong việc thực hiện các
biện pháp phòng chống rửa tiền và là cơ hội để các ngân hàng trao đổi kinh nghiệm
với nhau, hạn chế các hành vi lợi dụng hệ thống ngân hàng để thực hiện hành vi rửa
tiền.
67
3.2.2.4. Tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong nước và quốc tế về
phòng, chống rửa tiền
- Hoạt động rửa tiền thực chất là tội phạm phái sinh của các loại tội phạm khác.
Chính vì vậy, việc phòng, chống loại tội phạm này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa
NHNN với các bộ, ngành khác nhƣ Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Công thƣơng, Bộ
Tƣ pháp, Bộ Xây dựng... trong việc hƣớng dẫn, kiểm tra chấp hành các biện pháp
phòng chống rửa tiền của các tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý. Đặc biệt, cần có sự
phối hợp đồng bộ và hiệu quả giữa ngành ngân hàng và công an trong việc thực
hiện phòng, chống rửa tiền nhƣ:
+) Cần có sự trao đổi thông tin với nhau: Cục phòng, chống rửa tiền thƣờng
xuyên cập nhật “danh sách đen” từ Bộ Công an, để cung cấp danh sách cho ngân
hàng theo dõi, đánh giá. Bộ Công an căn cứ vào các báo cáo giao dịch đáng ngờ
đƣợc gửi từ Cục phòng, chống rửa tiền, tiến hành điều tra, báo cáo kết quả.
+) Cục phòng, chống rửa tiền, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an và các cơ
quan có liên quan nên cộng tác nghiên cứu các loại hình rửa tiền, chia sẻ phƣơng
pháp, kinh nghiệm để công tác phòng, chống rửa tiền đạt hiệu quả.
- Trong hoạt động phòng chống tội phạm rửa tiền, hợp tác quốc tế đóng vai trò
quan trọng vì đây là loại tội phạm thƣờng đƣợc thực hiện ở nhiều quốc quốc gia và
liên quan đến tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia. Đấu tranh phòng chống loại tội
phạm này phải có sự hợp tác, phối hợp giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới.
Hợp tác quốc tế về phòng chống tội phạm rửa tiền thể hiện trƣớc hết ở việc tham
gia, ký kết các điều ƣớc quốc tế là những văn bản pháp lý có hiệu lực chung giữa
các quốc gia thành viên. Từ đó, hợp tác trên những lĩnh vực cụ thể nhƣ trao đổi
thông tin, dẫn độ tội phạm, tịch thu tài sản, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơ sở vật
chất… Thông qua việc trao đổi này, cơ quan điều tra của các quốc gia liên quan
68
giúp nhau phát hiện và hoàn thiện hồ sơ để xử lý các băng nhóm tội phạm xuyên
quốc gia.
3.2.3 Nhóm giải pháp đối với các NHTM
3.2.3.1. Xây dựng quy định nội bộ và thành lập bộ phận chuyên trách về phòng,
chống rửa tiền
- Để có thể đảm bảo công tác phòng, chống rửa tiền trong hệ thống ngân hàng có
hiệu quả, giảm thiểu rủi ro cũng nhƣ bảo vệ lợi ích cổ đông, các ngân hàng cần xây
dựng chính sách, quy định nội bộ, quy trình hƣớng dẫn cách thức thực hiện công tác
phòng, chống rửa tiền. Sau khi Luật phòng, chống rửa tiền ra đời, đến nay hầu hết
các ngân hàng đã ban hành đƣợc quy trình nội bộ về phòng, chống rửa tiền nhƣng
công tác triển khai thực hiện vẫn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức nên hiệu quả
phòng, chống rửa tiền tại các NHTM, đặc biệt là các ngân hàng quy mô nhỏ vẫn còn
hạn chế. Để nâng cao hiệu quả phòng, chống rửa tiền, một trong những biện pháp
quan trọng là các NHTM cần phải triển khai thực hiện quy trình nội bộ phòng,
chống rửa tiền một cách nghiêm chỉnh.
- Hiện nay, tại hầu hết các NHTM đều đã thành lập bộ phận chuyên trách về
phòng, chống rửa tiền tuy nhiên hoạt động vẫn chƣa thực sự đạt hiệu quả. Chính vì
vậy, cần phải xúc tiến thành lập một bộ phận chuyên trách về phòng, chống rửa tiền
hoạt động hiệu quả, đúng nghĩa chuyên xử lý phân tích báo cáo, thu thập dữ liệu
giao dịch, tổng hợp mọi thông tin về những giao dịch đáng ngờ báo cáo Ban lãnh
đạo ngân hàng nghiên cứu xử lý. Từ đó có thể tổng hợp báo cáo gửi Cục phòng,
chống rửa tiền và đề xuất các biện pháp khác liên quan đến công tác phòng, chống
rửa tiền.
- Mỗi chi nhánh, phòng giao dịch, các công ty trực thuộc các NHTM cần có cán
bộ chịu trách nhiệm phòng, chống rửa tiền tại đơn vị để nhanh chóng cập nhật, phản
hồi báo cáo giao dịch đáng ngờ về Hội sở chính. Việc hỗ trợ và nhận thức rủi ro về
phòng, chống rửa tiền từ Ban lãnh đạo cũng là một điều kiện tiên quyết cho một hệ
69
thống phòng , chống rửa tiền thành công, do vậy mỗi NHTM cần có một lãnh đạo
phụ trách về phòng, chống rửa tiền.
- Ngoài ra, kiểm soát tuân thủ thực hiện phòng, chống rửa tiền không thể thiếu bộ
phận kiểm tra kiểm soát tính tuân thủ, thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, quy định
về phòng chống rửa tiền. Thành lập bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động
chuyên trách trực thuộc Tổng giám đốc bao gồm Phòng Kiểm tra nội bộ tại Hội sở
chính và Phòng Kiểm tra nội bộ tại các chi nhánh. Thông qua hoạt động của bộ máy
kiểm tra kiểm toán nội bộ, ngân hàng giám sát việc chấp hành các quy định của
pháp luật, quy định của NHNN và các cơ quan có thẩm quyền cũng nhƣ các quy
trình nghiệp vụ, hoạt động kinh doanh và các quy định nội bộ khác của các bộ phận
trong ngân hàng nhằm phòng chống việc lợi dụng hệ thống ngân hàng để rửa tiền.
3.2.3.2. Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng
Nhận biết khách hàng là tất cả các thủ tục cần thiết nhằm nắm bắt những thông tin
có liên quan tới cá nhân, tổ chức có giao dịch tiền tệ hay tài sản khác với ngân hàng,
nhằm hiểu biết khách hàng của ngân hàng, khách hàng đến giao dịch với ngân hàng
là khách hàng thuộc đối tƣợng nào, khu vực cƣ trú nào và mang lại rủi ro nào cho
ngân hàng… Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng cần gồm một số nội dung
sau:
Nhận dạng khách hàng
- Ngân hàng cần phải xác định đƣợc ai là khách hàng thật sự của ngân hàng, xác
minh xem liệu khách hàng đang giao dịch với ngân hàng cho nhu cầu của chính
mình hay cho ngƣời khác. Nhân viên ngân hàng khi giao dịch với khách hàng cần
biết rõ khách hàng mình là ai, làm lĩnh vực gì, nguồn tiền đó từ đâu ra và sử dụng
có hợp pháp hay không? Thời gian thích hợp cho việc nhận dạng là khi tiếp nhận
mới khách hàng, khi một số nội dung thông thƣờng trên giấy tờ của khách hàng bị
thay đổi đáng kể hoặc khi có sự thay đổi trên tài khoản so với hoạt động thông
thƣờng của khách hàng. Cần phải xây dựng chính sách nhận biết khách hàng rõ
70
ràng, các thông tin về khách hàng đƣợc lƣu trữ đầy đủ, là cơ sở để ngân hàng có thể
quản lý tốt mối quan hệ với khách hàng.
- Việc nhận dạng khách hàng còn bao gồm việc chú ý đến những khách hàng
không thƣờng xuyên nhƣng đã giao dịch với số tiền lớn, vƣợt ngƣỡng cho phép theo
quy định của NHNN hoặc khi nhân viên giao dịch thấy có bất cứ sự nghi ngờ nào
về khách hàng, khi đó cần phải báo cáo với cấp có thẩm quyền cao hơn để xử lý kịp
- “Hiểu đƣợc những vấn đề mấu chốt của khách hàng” là nguyên tắc hàng đầu
thời.
trong kinh doanh của ngân hàng để vừa phòng chống rủi ro cũng nhƣ để phục vụ
ngân hàng tốt nhất. Vì vậy, ngân hàng cần thu thập thông tin và tìm hiểu khách hàng
kỹ lƣỡng trên tất cả các hoạt động nghiệp vụ then chốt của ngân hàng, từ nghiệp vụ
tín dụng, bảo lãnh, nhận tiền gửi, thanh toán... Ngân hàng cần phải liên hệ chặt chẽ
với các cơ quan chức năng nhƣ: trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN, cơ
quan Công an để chủ động nắm bắt thông tin về khách hàng. Hiện nay, một số
NHTM Việt Nam đã hoàn thiện Module CIF quản lý hồ sơ khách hàng để bất kỳ lúc
nào truy cập vào hệ thống sẽ có bức tranh toàn diện về khách hàng với những thông
tin đầy đủ, chi tiết và thƣờng xuyên đƣợc cập nhật.
Chấp nhận khách hàng
- Các ngân hàng cần phải xây dựng những quy định chấp nhận khách hàng một
cách rõ ràng, bao gồm miêu tả cụ thể các loại khách hàng có thể gây ra rủi ro cao
hơn mức bình thƣờng cho ngân hàng. Khi xây dựng những quy định này, các yếu tố
nhƣ: lý lịch, quốc tịch, chức danh… và các tài khoản có liên quan cần phải đƣợc
xem xét. Các ngân hàng cần phải xây dựng những quy định chấp nhận khách hàng
- “Hiểu đƣợc mục đích của khách hàng khi đến ngân hàng”: các NHTM luôn có bộ
theo mức độ rủi ro và đòi hỏi theo dõi sâu rộng hơn.
phận tƣ vấn, chăm sóc khách hàng để khách hàng bày tỏ những nguyện vọng của
mình khi giao dịch với ngân hàng. Theo đó, ngân hàng có thể kiểm tra chặt chẽ mục
71
đích sử dụng các giao dịch của ngân hàng. Ví dụ, đối với hoạt động tín dụng, cần
giám sát các khoản vay khách hàng thông qua việc theo dõi sát sao hoạt động đầu tƣ
kinh tế của doanh nghiệp trong từng giai đoạn trƣớc, trong và sau khi cho vay. Từ
đó, ngân hàng có thể kiểm soát đƣợc các khoản cho vay của ngân hàng, hạn chế
việc sử dụng vốn vay vào các mục đích bất hợp pháp. Đối với các khoản tiền gửi,
trong quá trình tƣ vấn, ngân hàng sẽ hiểu rõ đƣợc nguồn gốc khoản tiền đó cũng
nhƣ hình thức đầu tƣ của khoản tiền để tiện theo dõi, quản lý.
Quản lý thường xuyên các tài khoản và các giao dịch
- Đối với tất cả các tài khoản, các ngân hàng phải có chƣơng trình phát hiện ra
những dấu hiệu bất thƣờng hay đáng ngờ trong hoạt động. Ngoài các dấu hiệu giao
dịch đáng ngờ đƣợc quy định, ngân hàng cần xem xét các giao dịch đáng ngờ nhƣ:
số điện thoại cá nhân hoặc cơ quan của khách hàng không thể kết nối đƣợc hoặc
không có số máy này sau khi mở tài khoản thực hiện giao dịch. Khách hàng thƣờng
xuyên đổi tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn với tổng giá trị một lần đổi lớn.
Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển tiền đƣợc thực hiện bởi một cá nhân hay tổ
chức liên quan đến hoạt động bất hợp pháp mà thông tin đại chúng đã đăng tải.
- Xây dựng mẫu thu thập thông tin khách hàng là điều tối cần thiết, vừa đáp ứng
yêu cầu của pháp luật, vừa đáp ứng nhu cầu quản lý của ngân hàng, giảm thiểu rủi
ro. Đối với những trƣờng hợp mở tài khoản đặc biệt chú trọng: xác định mục đích
mở tài khoản của khách hàng: mở tài khoản để làm gì, để chuyển tiền hay nhận tiền
chuyển đến, nguồn tiền nhận đến từ những nguồn nào…Cần lƣu ý khi phát hiện
khách hàng có những dấu hiệu đáng ngờ thì nhân viên giao dịch hỏi thêm về quốc
gia khách hàng chuyển tiền đến hay nhận tiền từ đâu, có nằm trong danh sách cảnh
báo của NHNN hay không, báo cáo cho cơ quan phòng, chống rửa tiền.
- Luôn theo dõi sát sao mục đích của các khoản chuyển tiền để tránh hiện tƣợng
hợp thức hoá các khoản tiền bất hợp pháp vào ngân hàng. Bọn tội phạm thƣờng rửa
tiền qua ngân hàng thông qua hình thức chuyển tiền, các giao dịch chuyển tiền có
72
giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một khoản trong một thời gian ngắn
hoặc ngƣợc lại, hoặc tiền đƣợc chuyển lòng vòng qua nhiều tài khoản. Vì vậy, ngân
hàng cần có bộ phận quản lý và xử lý thông tin nằm trong Trung tâm chuyển tiền để
có thể theo dõi mục đích các khoản chuyển tiền, đề phòng sự lợi dụng của bọn tội
phạm.
Quản lý rủi ro
- Các NHTM cần xây dựng ma trận rủi ro rửa tiền để đánh giá rủi ro, kiểm soát các
rủi ro đã đƣợc xác định, đánh giá tần suất xảy ra, mức độ ảnh hƣởng và xếp hạng rủi
ro. Phân khúc khách hàng với các mức độ rủi ro từ thấp đến cao: mức độ rủi ro thấp,
mức độ rủi ro trung bình, mức độ rủi ro cao dựa trên các thông tin khách hàng (họ
tên, nghề nghiệp, độ tuổi, quốc tịch…), sản phẩm/dịch vụ, kênh giao dịch, vị trí địa
lý nơi khách hàng cƣ trú hoặc có trụ sở chính. Những khách hàng có mức độ rủi ro
thấp thƣờng là nhân viên làm công ăn lƣơng có thu nhập đƣợc chi trả qua tài khoản
ở ngân hàng, ngƣời buôn bán lẻ... Những khách hàng có mức độ rủi ro cao thƣờng
là ngƣời buôn bán bất động sản, buôn bán qua biên giới, kinh doanh sòng bạc, trò
chơi có thƣởng, kinh doanh qua mạng internet, khách hàng có quốc tịch nằm trong
danh sách đen FATF, những nhân vật có ảnh hƣởng chính trị và những ngƣời thân
của họ, cá nhân có tổng tài sản cao, các tổ chức phi lợi nhuận…cần đƣợc chú ý đặc
biệt, phải theo dõi thƣờng xuyên. Khi phát hiện khách hàng có mức độ rủi ro cao
cần áp dụng thêm các biện pháp nhận biết tăng cƣờng nhƣ:
Đối với khách hàng cá nhân:
▪ Xác thực thông tin do khách hàng cung cấp
▪ Tìm hiểu nguồn gốc tiền và tài sản của khách hàng
▪ Tăng cƣờng giám sát hành vi giao dịch và quan hệ kinh doanh của khách hàng
▪ Xác định khách hàng có thực hiện kinh doanh trên danh nghĩa cá nhân, tổ chức
hoặc chủ sở hữu hƣởng lợi khác không?
73
Đối với khách hàng tổ chức:
▪ Yêu cầu cung cấp báo cáo tài chính gần nhất
▪ Xác thực thông tin: kiểm tra số điện thoại cố định, địa chỉ trụ sở doanh nghiệp,
xác thực tài liệu qua các cơ quan quản lý nhà nƣớc…
▪ Xác thực khách hàng có thực hiện kinh doanh trên danh nghĩa cá nhân, tổ chức
hoặc chủ sở hữu hƣởng lợi khác không?
▪ Thu thập thông tin liên quan đến giao dịch đang thực hiện, các hoạt động kinh
doanh, nguồn gốc tài sản của khách hàng.
- Các ngân hàng cần nhận biết đƣợc các dấu hiệu rửa tiền trong từng hoạt động
kinh doanh, giao dịch, trong từng sản phẩm dịch vụ nhƣ: dấu hiệu nhận biết rửa tiền
trong hoạt động kế toán giao dịch, tín dụng, tài trợ thƣơng mại, chứng khoán, kinh
doanh thẻ…
3.2.3.3. Ứng dụng công nghệ thông tin, thiết lập phần mềm phòng, chống rửa
tiền
- Trong thời đại công nghệ, việc ứng dụng công nghệ thông tin chính là mấu chốt
trong phòng, chống rửa tiền. Tuy nhiên, thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin
vào phòng, chống rửa tiền ở các NHTM còn nhiều hạn chế. Nhất là sự thiếu quan
tâm tới đào tạo, nâng cao nhận thức về phòng, chống rửa tiền, cán bộ công nghệ
thông tin chƣa hiểu rõ về phòng, chống rửa tiền, lúng túng trong việc lựa chọn phần
mềm hỗ trợ phòng chống rửa tiền. Ngân sách dành cho việc đầu tƣ hệ thống công
nghệ thông tin còn hạn chế. Với những ngân hàng đã triển khai hệ thống công nghệ
thông tin phục vụ phòng, chống rửa tiền thì chủ yếu quan tâm tới mục tiêu đảm bảo
an toàn giao dịch.
- Do đó, những yêu cầu đối với hệ thống công nghệ thông tin là cần đồng bộ hóa
và nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin tại các ngân hàng theo hƣớng đáp ứng
quy định của pháp luật, phân tích giao dịch của khách hàng, hỗ trợ sàng lọc, nhận
74
biết khách hàng, báo cáo, lƣu trữ thông tin…Ngân hàng cần đầu tƣ phần mềm phục
vụ công tác phòng, chống rửa tiền có thể tích hợp với hệ thống core banking để lấy
thông tin khách hàng, tích hợp thông tin của khách hàng đã giao dịch trong các hệ
thống khác; có thể lọc tách dữ liệu nằm trong mức giao dịch phải báo cáo, tạo nhiều
loại báo cáo theo các tiêu chí khác nhau; có khả năng cảnh báo đối với các khách
hàng nằm trong “danh sách đen”, phân loại tài khoản theo mức độ rủi ro.
Phần mềm phòng, chống rửa tiền cần có các module chính nhƣ sau:
Khai báo thông tin khách hàng
+) Khai báo thông tin khách hàng giao dịch lần đầu
+) Chỉnh sửa thông tin khách hàng
+) Chọn loại khách hàng cá nhân, tổ chức, trong nƣớc, nƣớc ngoài
Thiết lập, đánh giá rủi ro khách hàng theo từng cấp độ
+) Thiết lập các loại rủi ro, mức độ rủi ro
+) Chỉnh sửa, cập nhật loại rủi ro, mức độ rủi ro
+) Phân loại rủi ro theo các nghiệp vụ giao dịch; quốc gia khách hàng cƣ trú
Thiết lập các giới hạn giao dịch
+) Thiết lập giới hạn giao dịch cho mỗi lần giao dịch, trong tuần, tháng, quý,
năm
+) Cài đặt các mức cảnh báo theo mức độ rủi ro (cao, trung bình, thấp)
+) Cập nhật danh sách “đen” do các cơ quan chức năng cung cấp
+) Hiển thị danh sách cho phép kiểm tra khách hàng, ngƣời thụ hƣởng, chỉnh
sửa, cập nhật thông tin đã khai báo
75
+) Đánh giá các rủi ro rửa tiền ở cả hai cấp độ là tài khoản và khách hàng
Tạo báo cáo
+) Báo cáo các giao dịch đáng ngờ
+) Tự động cảnh báo khách hàng khi nhập thông tin vào hệ thống
+) Báo cáo cảnh báo các giao dịch theo mức độ rủi ro
+) Báo cáo theo yêu cầu của NHNN, cơ quan quản lý
3.2.3.4. Đào tạo nguồn nhân lực trong công tác phòng, chống rửa tiền
- Tất cả các NHTM cần phải có chƣơng trình đào tạo về phòng, chống rửa tiền để
nhân viên am hiểu quy trình phòng, chống rửa tiền. Nội dung cốt lõi trong công tác
đào tạo phòng, chống rửa tiền là đào tạo theo dõi, nhận biết, cập nhật thông tin về
khách hàng. Đội ngũ nhân viên mới cần phải đƣợc trang bị về kiến thức, tầm quan
trọng của các chính sách nhận biết khách hàng và những yêu cầu cơ bản tại ngân
hàng. Đối với những cán bộ làm việc ở các bộ phận khác nhau cần phải có những
chƣơng trình và thời gian đào tạo một cách phù hợp. Qua đó, nhân viên sẽ thực hiện
việc xem xét kỹ lƣỡng đối với khách hàng có rủi ro cao, kịp thời phát hiện các giao
dịch đáng ngờ để hạn chế rủi ro ngân hàng.
- Công tác tuyển dụng cần căn cứ trên đạo đức, chuyên môn, kinh nghiệm và năng
lực tƣ duy. Trong đó, đạo đức và năng lực tƣ duy là hai yếu tố quan trọng hơn cả.
Đạo đức tốt quyết định hành vi và mục đích hành động. Năng lực tƣ duy có khả
năng đáp ứng sự thích nghi với hoạt động đa dạng và luôn phát triển của hệ thống
ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. Cần đặc biệt quan tâm đào tạo và
nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, cán bộ ngân hàng không những có phẩm chất
đạo đức tốt mà còn giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ.
76
- Ngân hàng cần phải có chế độ lƣơng thƣởng hợp lý, đảm bảo cho nhân viên đáp
ứng đƣợc nhu cầu cuộc sống, từ đó sẽ giúp hạn chế tham nhũng hoặc tránh tình
trạng bị mua chuộc, tiếp tay cho bọn tội phạm thực hiện các hành vi rửa tiền.
3.2.3.5. Một số giải pháp khác
- NHTM cần lựa chọn các ngân hàng (ngân hàng phát hành, ngân hàng xác
nhận…) có uy tín, có tình hình tài chính lành mạnh, tuân thủ các quy định quốc tế
về rửa tiền là đối tác trong hoạt động thanh toán quốc tế để tránh việc lợi dụng mở
L/C và các phƣơng thức tài trợ thƣơng mại khác nhằm chuyển tiền giữa các quốc
gia. Ngân hàng cần tránh, hạn chế quan hệ với các ngân hàng mà bị FATF phân loại
vào “các nƣớc và vùng lãnh thổ không tuân thủ”, ảnh hƣởng đến uy tín của bản thân
các NHTM.
- Tăng cƣờng công tác hậu kiểm trong các giao dịch thanh toán quốc tế - chuyển
tiền thanh toán xuất nhập khẩu. Sau khi nhận đƣợc bộ chứng từ yêu cầu thanh toán
ngân hàng cần phải kiểm tra, theo dõi hàng hóa đã nhận đƣợc hay chƣa. Ngân hàng
yêu cầu nhà nhập khẩu bổ sung tờ khai hải quan và các chứng từ khác sau khi hoàn
tất thủ tục nhận hàng. Đây là thao tác giúp hạn chế tình trạng bọn tội phạm lợi dụng
mở LC “ma” với yêu cầu về chứng từ đơn giản để ngƣời thụ hƣởng là đồng bọn của
chúng có thể dễ dàng xuất trình chứng từ yêu cầu thanh toán, tiền đƣợc chuyển ra
nƣớc ngoài mà không gặp trở ngại nào.
- Thông thƣờng bọn tội phạm thƣờng rửa tiền thông qua các giao dịch xuyên quốc
gia bằng tiền mặt nhƣ thuê ngƣời vận chuyển qua biên giới, sau đó đổi tiền tại các
quầy đổi tiền ở các nƣớc sở tại. Để góp phần hạn chế rửa tiền thông qua hình thức
này, ngân hàng cần nổ lực đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt thông
qua việc khuyến khích các tổ chức kinh tế cá nhân thanh toán qua thẻ, mở tài khoản
miễn phí cho các cá nhân, tổ chức kinh tế, mở rộng mạng lƣới ATM.
77
- Hợp tác chặt chẽ với các bộ phận thuộc ngân hàng, NHNN, cơ quan công an
cũng nhƣ các ngành hữu quan để xử lý các giao dịch có dấu hiệu phạm pháp liên
quan đến rửa tiền.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Trong chƣơng 3, luận văn đề cập những dự báo về tình hình rửa tiền tại Việt Nam
trong thời gian tới cùng với những định hƣớng về phòng, chống rửa tiền của nhà
nƣớc. Từ đó đƣa ra các nhóm giải pháp theo phạm vi và chức năng của cơ quan Nhà
nƣớc, NHNN và các NHTM. Các giải pháp về phòng, chống rửa tiền này không độc
lập mà luôn hỗ trợ nhau. Chính vì vậy, để hoạt động phòng, chống rửa tiền có hiệu
quả thì nên có sự phối hợp giữa các ban ngành, các cấp dƣới sự chỉ đạo thống nhất
của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền để cùng thực hiện.
78
KẾT LUẬN
Rửa tiền là vấn nạn toàn cầu, tác động đến hầu hết các nƣớc trên thế giới. Các tổ
chức tội phạm rửa tiền đang tìm ra những thủ đoạn mới, chuyển hoạt động rửa tiền
đến các nƣớc có hệ thống kiểm soát tài chính còn hạn chế, trong đó có Việt Nam.
Khi càng hội nhập sâu thì nguy cơ dẫn đến rửa tiền càng lớn và tinh vi hơn mặc dù
cho đến nay Việt Nam chƣa có con số cụ thể nào thống kê về quy mô và tính
nghiêm trọng do hoạt động rửa tiền gây ra. Nhƣng điều đó không có nghĩa là Việt
Nam không có rửa tiền, không chịu bất cứ rủi ro nào do rửa tiền mang lại. Nhằm
góp phần hạn chế những rủi ro này, luận văn đã hoàn thành những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
Một là, luận văn đã hệ thống lại những vấn đề cơ bản về rửa tiền nói chung và
rửa tiền qua ngân hàng nói riêng: các khái niệm, các quy trình, phƣơng thức rửa
tiền, tác động của rửa tiền đến nền kinh tế xã hội cũng nhƣ kinh nghiệm phòng,
chống rửa tiền của một số nƣớc trên thế giới.
Hai là, luận văn đã phân tích thực trạng rửa tiền và công tác phòng, chống rửa tiền
qua ngân hàng trong thời gian qua. Từ đó, nêu ra những mặt còn tồn tại, hạn chế cần
phải giải quyết trong thời gian tới.
Ba là, luận văn đã đƣa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống
rửa tiền qua hệ thống ngân hàng, đó là sự kết hợp đồng bộ những giải pháp thuộc về
nhà nƣớc, NHNN và NHTM.
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên sự tham khảo các tài liệu, sách báo, tạp chí về
rửa tiền; hoạt động phòng, chống rửa tiền trên thế giới và Việt Nam. Do hạn chế về
thời gian, tƣ liệu nghiên cứu cùng với kiến thức có hạn nên luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tác giả rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp từ
Quý thầy cô và các anh chị quan tâm để luận văn đƣợc hoàn chỉnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. ADB (2007), Chính sách chống tham nhũng tại Châu Á – Thái Bình Dương, Hà
Nội.
2. Chính phủ (2005), Nghị định số 74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền, Hà
Nội.
3. Lê Xuân Hiền (2010), Phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế TP HCM, HCM.
4. Liên Hiệp Quốc (1988), Công ước Viên về chống buôn lậu ma túy tổng hợp và
các chất hướng thần, Vienna.
5. Liên Hiệp Quốc (2000), Công ước Palermo về chống tội phạm có tổ chức,
Palermo.
6. Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo (2005), “Rửa tiền trở ngại cho phát triển
kinh tế”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số 186), HCM.
7. Nguyễn Đức Lam (2012), “Chống rửa tiền- kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế
giới”, Tạp chí Thông tin khoa học lập pháp, (số 4), Hà Nội.
8. Nguyễn Minh Phƣơng, Đặng Thế Tùng (2011), “Kiều hối và phòng chống rửa
tiền qua kiều hối”, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, (số 113), Hà Nội.
9. NHNN Việt Nam (2009), Thông tư số 22/2009/TT-NHNN Hướng dẫn thực hiện
các biện pháp phòng, chống rửa tiền, Hà Nội.
10. NHNN Việt Nam (2011), Báo cáo Tổng kết 6 năm thi hành Nghị định
74/2005/NĐ-CP về phòng, chống rửa tiền, Hà Nội.
11. Trần Huy Hoàng, Trần Thị Phƣơng Lan (2006), “Phòng chống rửa tiền ở Việt
Nam”, Tạp chí kinh tế phát triển, (số 186), HCM.
12. Trần Thị Hoài Thu (2013), “Nguy cơ bị lợi dụng rửa tiền, tài trợ khủng bố từ hệ
thống chuyển tiền ngầm và hành lang pháp lý điều chỉnh”, Tạp chí ngân hàng, (số
16), Hà Nội.
13. Paul Allan Schott (2007), Hướng dẫn tham khảo về chống rửa tiền và chống tài
trợ cho khủng bố, NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội.
14. Phạm Huy Hùng (2011), “Giải pháp phòng chống rửa tiền tại các ngân hàng
thƣơng mại Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (số 21), Hà Nội.
15. Quốc hội (2012), Luật Phòng, chống rửa tiền, Hà Nội.
16. Văn Tạo, Kim Anh (2010), “Phòng, chống rửa tiền kinh nghiệm của các nƣớc
và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng, (số 1), Hà Nội.
17. Vƣơng Tịnh Mạch (2009), Phòng chống rửa tiền ở Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế, HCM.
Tiếng Anh
18. Development Prospects Group, World Bank (2013), Outlook for Remittance
Flows 2013- Migration and Development Brief 20, USA.
19. UN (1988), Convention Against Illicit Traffic In Narcotic Drugs And
Psychotropic Substances, Vienna.
20. UN (2000), Convention Against Transnational Organized Crime, Palermo.