intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phú chữ Hán, những đóng góp mới của Ngô gia cho thể loại_1

Chia sẻ: Nguyen Quynh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

62
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cũng như đối với thơ, trong phú Ngô Thì Sĩ đã dành một phần trân trọng cho những con người bình thường và những vấn đề đời thường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phú chữ Hán, những đóng góp mới của Ngô gia cho thể loại_1

  1. Phú chữ Hán, những đóng góp mới của Ngô gia cho thể loại
  2. C ũng như đ ối với thơ, trong phú Ngô Th ì S ĩ đ ã dành một phần trân trọng cho n hững con người b ình thường và nhữ ng vấn đề đời thường. Tuy vậy nh ưng ngư ời t ài hoa và thành công nh ất về phú trong Ngô gia lại l à Ngô Thì Nhậm. 16 bài phú c ủa ông, đ ược sáng tác từ mùa đông năm Kỷ Hợi (1779) đến tr ước 1800, trong đó t hời gian nào nhiều tâm sự và “việc quan nhàn” ông sáng t ác được nhiều nhất, ví n hư thời gian ẩn lánh ở Thái B ình ông vi ết đến 8 b ài. Có lẽ về số lượng, trong các t ác gia phú thời trung đại, Ngô Thì Nhậm chỉ đứng sau Nguyễn Mộng Tuân (thế kỷ X V), ngư ời đ ã viết đến 41 bài phú (theo Tr ần Thị Kim Anh là 35 bài) (5); nhưng nếu như phú c ủa Nguyễn Mộng Tuân c òn có một số b ài thù ph ụng khô khan, nhàn n hạt, thì trái lại 16 b ài phú c ủa Ngô Thì Nhậm đều có thể xem là giai tác, đ ều đ ược v iết ra bằng tâm huyết. Phú của Ngô Th ì Nhậm phần nhiều đ ược viết theo lối cổ t hể, nhưng lại không c òn đ ậm tính chất của phú cổ, tụng ca vua chúa, triều đại, n hư thời kỳ h ưng th ịnh của thể loại mà phần lớn là đ ể biểu đạt, tỏ b ày những trăn t r ở ưu tư, những suy nghĩ về nhiều vấn đề li ên quan đ ến cuộc đời, số phận kẻ sĩ n hư chính b ản thân tác giả. Có những câu hỏi rất sâu mang tính biểu t ượng về một s ự ho ài nghi: ánh trăng hay là ánh tuy ết, trời đ ã sáng hay còn đ êm, mà cái ý ẩ n sâu p hía sau đó là mối quan hệ giữa vũ trụ với con ng ười, giữa con người với nhau, g iữa c õi tiên với c õi tr ần, giữa kho ảnh khắc và t ồn tại. Nhưng hay nhất của phú N gô Thì Nhậm là những b ài đ ậm chất trữ t ình, ở đ ó có những câu hỏi thể hiện sự k hát khao mong mỏi một người tri kỷ nh ưng thực chất là chờ đợi một minh quân c ó tài đưa đất nước qua c ơn khủng hoảng, những đắn đo về cách hành xử của kẻ sĩ g iữa lúc trời nghiêng đ ất lệch..., và c ả sự mệt mỏi sau khi đ ã đ ạt đến đỉnh cao của t hành công trong s ự nghiệp để trở lại một trạng thái tâm t ư gần như tr ống rỗng... N gô Thì Nhậm đ ược cha dạy phải lập chí ở mức cao nhất - Tr ạng nguyên, T ể t ướng – c ũng có nghĩa là phải đạt đ ược thành công cao nhất tr ên con đư ờng “kinh b ang t ế thế”. Nhưng r ồi chỉ thoáng chốc bể dâu biến đổi, Ngô Th ì Nhậm từ hàng q uan triều đ ược tri ngộ trở thành một tội nhân phải trốn chạy chui lủi! Đạo lý tam c ương ng ũ thường, công tội ân oán, rồi sự h ưng vong c ủa một d òng t ộc, phải lý g iải như thế nào? Ngô Thì Nhậm đem theo bộ K inh Xuân thu , t ìm đ ến tận gốc n hững lý thuyết chính thống để giải đáp những băn khoăn của mình, nh ưng trong
  3. lòng ông vẫn đầy ắp phân vân. Trong hoàn c ảnh lánh ẩn, nhiều lần ông nói đến thú a n nhàn “gặp cảnh ngộ nào vui c ảnh ngộ ấy, với lòng không v ướng mắc gì” ( Lâm T rì phú ), “tiêu dao để lòng luôn thanh th ản” ( Thiên quân thái nhiên phú ), nhưng đ ó lại là điều ông không thể. Tr ước ao Lâm Tr ì, Ngô Thì Chí cho r ằng ao khác b iển, khác sông, không sóng to gió lớn, có thể đem lại cho anh sự b ình yên trong t âm, nhưng Ngô Thì Nhậm th ì không. Tâm tình ông vẫn bộn bề về cái lý đầy v ơi t ròn khuyết, t àn nở lặn mọc, quay dừng... của vũ trụ mênh mang, một mình “ buồn nỗi thánh hiền xa biệt” v à đau đáu về một chữ “thời”. Niềm ho ài vọng “mỹ nhân một phương tr ời”, mong chờ ng ười tri kỷ da diết đến độ trở th ành niềm khắc khoải k hiến ông nhiều lần phải trực tiếp bộc lộ... Phú của Ngô Th ì Nhậm cũng nhiều b ài s ử dụng lố i văn biện luận, ví như ở Vi chi phú ô ng biện luận về một quan niệm, tỏ q uyết tâm đi theo con đ ường mình đ ã chọn bất chấp mọi trở ngại, văn ch ương c ứng cỏi, mạnh mẽ. C òn ở M ộng Thi ên Thai phú lại tr ình bày d ưới hình th ức một g iấc mơ huyễn ảo giàu chất lãng mạn và trong sáng, s ử dụng lối chủ khách tr ò c huyện tâm t ình, b ộc lộ khát vọng và ý chí c ủa một kẻ sĩ đang tuổi tráng ni ên, q uyết đem t ài năng “kinh bang t ế thế”. Bài phú n hư lời tuyên ngôn, Ngô Thì Nhậm k hẳng định dứt khoát lý t ưởng, hướng đi cho con đ ường phía tr ước: Ngô hà năng tiên, Thích diệc bất đáo. Liêu tòng s ự ư k inh t ịch, Cầu vô khiếm hồ danh giáo. (Tôi sao thể thành tiên, Phật, cũng không đắc đạo. Chỉ theo hướng Thi Thư, Khỏi trái điều “ danh giáo”). Và: Uẩn mỹ ngọc dĩ thâm t àng, Tiềm thần long hồ mạc khuy.
  4. Dĩ đài phù tri ngô tử giả, hành ngô t ử chi chí, vận bát cực nhi cán cửu di. (Ngọc tốt dấu kín nơi sâu, Rồng thần lặn không kẻ thấy. Chờ khi người biết đến mình, Chí lớn nọ đem ra vùng vẫy. Giúp tám c ực mà chuy ển xoay, Vỗ chín c õi yên r ường mối). Mộng Thi ên Thai phú vẫn đ ược coi là thuộc loại hay nhất trong phú Việt Nam cổ kim. Thư ởng liên đình phú là bài phú Ngô Thì Nhậm viết sau c ùng. Tác phẩm viết t heo Tao thể nhưng có một sắc thái riêng, vừa mang tính hồi ức vừa tự sự, tự tác giả là nhân vật trung tâm. Tác phẩm thể hiện tâm trạng của một ng ười “trở về” sau khi đã đem toàn tâm huyết sức lực đóng góp cho đất n ước, để rồi c hỉ bâng khuâng với những kỷ niệm nơi đã sống thuở ấu thơ mà không t ìm lại đ ược niềm tin trong sáng nơi cuộc đời. Những ho ài niệm buồn vui về dĩ vãng, những trải nghiệm sâu sắc suốt c uộc đời đầy sóng gió đ ược kể lại với một giọng điệu thâm trầm, và một lối văn trong sáng, giản dị, giàu hình t ượng đã đ em lại sự xúc động cho người đọc. Sau Ngô Thì Nhậm, những bài Tục Thiên thai phú, Hoài Lâm Trì phú c ủa N gô Thì Chí, Đăng Ải Vân phú, Sơn hải kính phú c ủa Ngô Thì Trí, N ông thoại phú, Khê kiều thu vịnh phú c ủa Ngô Thì Hoàng, Hoài hương khế phú c ủa Ngô Thì Hương, T hu ật bệnh phú, Đ iệu mệnh phú, Ủy nông phú c ủa Ngô Thì Du đều là những bài phú có những nội dung thiết thực, thể hiện những suy t ư, lý t ưởng, thân p hận kẻ sĩ và gắn bó với những vấn đề lớn lao của dân của nước. Đó là những bài p hú giàu tính văn chương, có giá tr ị biểu cảm cao, đáng đ ược xếp vào hàng các bài p hú hay, không thua kém những danh tác thuở thịnh thời của phú. Riêng hai bài về đèo H ải Vân (Đăng Ải Vân phú, Tục Ải Vân phú ) c ủa anh em Ngô Thì Nhậm, N gô Thì Trí có thể coi là hai tác phẩm phú duy nhất (?) của văn học trung đại về ngọn
  5. núi vẫn đ ược xem là c ửa ải hùng vĩ, hiểm trở, một vị trí quan trọng trong quân sự, có thể sánh với cửa Hàm Cốc của nhà Tần. N hìn chung, sau thế kỷ XV, vị trí của phú chữ Hán trên văn đàn có ph ần bị p hú Nôm thay thế, càng về những thế kỷ sau c àng có nguy cơ b ị "bỏ rơi". Điều đó có phần nào như một lẽ tất yếu, bởi trong hành trình văn học trung đại, thể loại luôn có tính lịch sử, mỗi giai đoạn có một thể loại thích hợp nhất c ủa mình. Ngay ở Trung Quốc, nơi phát sinh, phú c ũng chỉ là thể loại vương giả của đời Hán, nhưng nói vậy không hẳn là các thế kỷ sau phú không có những giai tác. Thu thanh phú c ủa Âu Dương Tu đời Tống là một ví dụ. Việt Nam trong các thế kỷ XVI, XVII p hú c hữ Hán ít hẳn và dường như không có tác phẩm nổi tiếng. Nhưng N gô gia văn phái đã có công khôi phục lại vị trí của phú trên văn đàn và đem đến những vẻ đẹp mỹ cảm mới cho phú, khiến các văn nhân say mê. Sang đ ầu thế kỷ XIX nhiều đại gia lại tiếp tục thành công về phú, như Nguyễn Văn Siêu, Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông, các bài phú này c ũng thuộc phong cách vừa trữ t ình, vừa tự sự, vừa nghị luận văn chương. Có phải chính Ngô gia đã khởi xướng, góp phần tạo nên một p hong cách mới của phú thời cận đại?
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2