intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phương pháp huy động vốn

Chia sẻ: Le Phuong Thu | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:12

370
lượt xem
103
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Có nhiều phương thức huy động vốn nhưng để hiểu được rõ ràng ta qui về hai cách thức chính đó là huy động vốn thông qua VCSH và huy động vốn thông qua các khoản nợ phải trả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phương pháp huy động vốn

  1. Thực hiện: nhóm 5 Chủ đề 4: Các phương thức huy động vốn và thực trạng huy động vốn ở các Doanh Nghiệp VN hiện nay 1/ Trước hết cần phải hiểu khái niệm về vốn. Trong lịch sử kinh tế- xã hội, đã có rất nhi ều nghiên c ứu v ề v ốn và đ ưa ra nhi ều quan điểm khác nhau. - C.Mac chỉ ra nguồn gốc chủ yếu của tích lũy vốn là lao động th ặng d ư do người lao động sáng tạo ra - Samuelson thì cho rằng: vốn bao gồm hàng hóa lâu bền được sản xuất ra và được sử dụng như đầu vào của quá trình sản xuất - Dưới góc độ doanh nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Khi đưa ra vấn đề “vốn của DN”, khái niệm vốn kinh doanh thường hay được nhắc đến. Vốn kinh doanh được hiểu dưới góc độ chung nhất là được thể hiện dưới dạng giá trị của tài sản dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. 2/ Có nhiều phương thức huy động vốn, nhưng để hiểu được rõ ràng, ta quy về 2 cách thức chính. Đó là huy động vốn thông qua VCSH và huy động vốn thông qua các khoản nợ phải trả. a/ Huy động vốn thông qua tăng VCSH Nguồn vốn CSH là nguồn vốn thuộc sở hữu của từng doanh nghiệp, không có nghĩa vụ phải trả lại cho người khác. Nguồn vốn này tạo điều kiện cho DN quyền tự chủ trong việc đưa ra các quyết định kinh doanh. Tuy nhiên nguồn vốn CSH thường bị hạn chế về quy mô, trong khi để đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng, DN phải không ngừng ra tăng vốn CSH. * Các phương thức để tăng vốn CSH: a/ Thứ nhất, thông qua các khoản lợi nhuận để lại Các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh sẽ thu được lợi nhuận, các DN không sử dụng hết phần lợi nhuận đó, mà giữ lại 1 phần để tái đầu tư. + Ưu điểm: DN có thể chủ động trong kinh doanh, không bị phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài. Với DN tư nhân, lợi nhuận để lại giúp DN có phần vốn CSH lớn hơn, là điều kiện để tăng quy mô hoạt động của DN 1 cách bền vững. Còn với công ty cổ phần, việc này giúp cho các cổ đông sẽ có quyền sở hữu số vốn cổ phần cao hơn trước. +Nhược điểm: Khoản lợi nhuận để lại hàng năm không đáp ứng được nhu cầu lớn về vốn cho DN b/ Thứ hai, phát hành cổ phiếu
  2. Là kênh huy động vốn dài hạn cho DN. Cổ phiếu còn được gọi là chứng khoán vốn, là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với 1 phần vốn cổ phần của DN phát hành. Có thể phát hành 2 loại cổ phiểu chính: cố phiếu thường và cổ phiểu ưu đãi, với những ưu và nhược điểm riêng. - Cổ phiếu thường Ưu điểm: tạo ra nguồn vốn ổn định, lâu dài và tăng được uy tín của DN. Vì: +Không phải chịu gánh nặng về cổ tức ấn định, khi công ty kinh doanh có lãi thấp hoặc muốn tăng vốn, hay đầu tư vào các dự án khác thì có thể thanh toán với cổ tức thấp hơn, hoặc không cần thanh toán nếu được đại hội cổ đông chấp nhận. +Cổ phiếu thường không có kì hạn cố định, không cần hoàn trả nên không tồn tại nguy cơ của việc hoàn vốn. Nhược điểm: +Chi phí huy động tương đối cao +Phân tán quyền kiểm soát của công ty, nên có thể làm giảm lợi ích của các cổ đông. - Cổ phiếu ưu đãi Ưu điểm: +Tránh được việc chia sẻ quyền quản lý, kiểm soát công ty của các cổ đông mới +Việc trả cổ tức ưu đãi không bắt buộc đúng thời hạn, nên nếu DN gặp khó khăn trong việc trả cổ tức thì có thể lùi sang năm sau, tránh được nguy cơ phá sản của DN +Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi được trả theo mức cố định, không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh nên nếu doanh nghiệp hoạt động trong điều kiện có lợi nhuận triển vọng cao sẽ làm tăng lợi tức cho các cổ đông thường. Nhược điểm: lợi tức cổ phiếu ưu đãi cao hơn cổ phiếu thường và không được trừ vào thu nhập chịu thuế của DN nên chi phí sử dụng cổ phiếu này cao hơn. Tuy nhiên, có hạn chế chung của phát hành cổ phiếu, đó là không phải DN nào cũng có thể phát hành cổ phiếu, chỉ có các công ty cổ phần, hay DNNN chuyển sang cổ phần hóa mới được huy động vốn bằng cách này. => Thực trạng huy động vốn của DN ở VN Về việc huy động vốn thông qua số lợi nhuận để lại phải phụ thuộc vào kết quả kinh doanh và điều lệ công ty của cá biệt từng Dn, ở đây xét đến thực trạng huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu: Câu chuyện vốn vay của các doanh nghiệp hiện trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết khi phải đối mặt với mức lãi 18-19%, thậm chí 20%. Nhiều doanh nghiệp không dám đầu tư sản xuất hoặc nghĩ đến phương án tìm vốn khác, thay vì chú trọng vào vốn vay ngân hàng như trước. Đối phó với áp lực lãi vay, doanh nghiệp lên sàn để huy động vốn đảm bảo hoạt động kinh doanh.
  3. Theo Tiến sĩ Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa quản trị kinh doanh, Đại học Ngân hàng TP HCM: "Năm 2009, khủng hoảng kinh tế khiến việc huy động vốn qua thị trường chứng khoán chỉ khoảng 2,5%. 97,5% còn lại do ngân hàng hỗ trợ. Năm nay, tình hình kinh tế khởi sắc hơn, nhiều doanh nghiệp tận dụng cơ hội này để lên sàn". Một số công ty niêm yết cũng chọn lựa phương án phát hành thêm để tăng vốn. Công ty CP Tập đoàn Hoa Sen (HSG) hồi tháng 2 đã phát hành cổ phiếu riêng lẻ cho nhà đầu tư chiến lược (11,9 triệu) và cho người lao động (1 triệu). Số tiền thu được dùng để huy động vốn mở rộng dự án nhà máy tôn Hoa Sen Phú Mỹ, tái cơ cấu nguồn vốn. Nội tháng 4, sàn TP HCM có gần 30 doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng ký, được chấp thuận, duyệt ngày lên sàn, đồng thời chấp thuận lượng cổ phiếu phát hành thêm vào giao dịch. Chỉ 20 ngày tháng 5, HOSE ghi nhận thêm 12 trường hợp đặt chân lên sàn. Được duyệt phương án về nguyên tắc có Dầu khí miền Trung, Thương nghiệp Cà Mau. 5 đơn vị nộp hồ sơ lần đầu (Đức Long Gia Lai, đường Ninh Hòa, Công ty cổ phần Đệ Tam, Quỹ đầu tư VFA, Công ty cổ phần đầu tư căn nhà mơ ước). Chấp thuận đăng ký cho Đầu tư và khai thách công trình giao thông 584. ITA và HCM niêm yết bổ sung gần 100 triệu cổ phiếu. Ngày cuối tuần (21/5) có thêm 2 cổ phiếu chính thức lên sàn TP HCM (TNT, SPM) với số lượng hơn 20 triệu. Từ đầu năm đến nay, có hơn 60 doanh nghiệp lên sàn, giới chuyên gia dự kiến con số này sẽ còn tăng lên, có thể gấp đôi, ba lần năm ngoái. Hiện tổng số cổ phiếu giao dịch trên hai sàn gần 530 mã. Năm 2009, có tổng số 459 cổ phiếu tại hai Sở giao dịch chứng khoán TP HCM và Hà Nội.(số liệu lấy ngày 22/5/2010) Trên thực tế, việc huy động vốn qua thị trường chứng khoán đã có thời phát triển "cực thịnh" cách đây vài năm. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động sau đó bị nhiều DN sử dụng sai mục đích. Đặc biệt là hiện tượng vốn huy động từ chứng khoán rồi nguồn vốn này lại chảy ngược lên thị trường thay vì đổ vào các dự án sản xuất, kinh doanh như dự kiến ban đầu khiến nhà đầu tư mất lòng tin. Vì vậy sau đó, việc huy động vốn bị "nghẽn" lại, tỷ lệ thành công ít hơn. Bên cạnh đó, việc thị trường sụt giảm mạnh trong 2 năm trở về đây cũng là cản trở không nhỏ cho các DN trong việc huy động vốn qua kênh này. Tuy vậy, theo một chuyên gia chứng khoán tại TP.HCM, việc thị trường tăng, giảm tuy có ảnh hưởng tới việc phát hành của các DN nhưng không quá lớn. Vấn đề là DN có dự án khả thi, kế hoạch kinh doanh tốt và không "tham" phát hành với giá quá cao thì chứng khoán vẫn là kênh huy động hiệu quả. "Ngay trong cả giai đoạn thị trường sụt giảm, nhiều DN vẫn huy động được nguồn vốn lớn. Tôi đã tìm hiểu, các DN có sức khỏe tốt, đề án thực tế hiệu quả thì cổ đông luôn ủng hộ", chuyên gia này nói.
  4. => Việc huy động vốn qua kênh chứng khoán nếu khơi thông hiệu quả sẽ giảm tải cung vốn cho hệ thống ngân hàng và mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn cực lớn cho các DN nói riêng và nền kinh tế nói chung. Tuy gặp phải rào cản chỉ có công ty cổ phần hoặc các DNNN chuyển sang cổ phần hóa mới được phát hành chứng khoán song đây là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thị trường hiện nay, vì vậy huy động vốn thông qua cách thức này đang phát huy hiệu quả rõ rệt. b/ Huy động vốn thông qua các khoản nợ phải trả: Để huy động bổ sung nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp trong khi việc tăng nguồn vốn chủ sở hữu là có hạn thì việc sử dụng các khoản nợ phải trả là cần thiết. Sau đây là các một số khoản vay chính. Thứ nhất: Tín dụng thương mại * Khái niệm: Là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các doanh nghiệp thông qua hình thức mua bán chịu hàng hóa, trong đó người cho vay chính là người bán chịu hàng hóa. Lúc này người mua được chiếm dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất địnhphụ thuộc vào hợp đồng mua bán chịu. * Công cụ : Thường sử dụng thương phiếu do người mua hoặc người bán lập dưới dạng vô danh hoặc hữu danh. *Ưu điểm: - Tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh do DN sẽ vay trực tiếp bằng nguyên vật liệu và số lượng có thể thay đổi mỗi kỳ khi ký hợp đồng. - Tăng nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm do đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn. - Giúp doanh nghiệp mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. - Chủ động khi huy động vốn: chủ động về thời gian, số lượng, nhà cung ứng. - Huy động nhanh chóng dễ dàng. - Không phải chịu sự giám sát của ngân hàng, các cơ quan nhà nước. - Ngoài ra, đối với doang nghiệp làm chủ nợ: có thể vay ngân hàng thông qua hình thức chiết khấu thương phiếu( bán hoặc cầm cố). * Nhược điểm: - Hạn chế về quy mô tín dụng: Số lượng mua chịu,khả năng của nhà cung ứng. - Hạn chế về đối tượng vay mượn. - Hạn chế về không gian vay mượn. - Hạn chế về thời gian vay mượn do chu kỳ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau và thường bị hạn chế về thời gian vay. - Phụ thuộc vào quan hệ sản xuất kinh doanh trên thị trườn. - Có thể gặp rủi ro khi buộc phải thay đổi nhà cung ứng và phụ thuộc nhiều vào sự đúng hẹn, uy tín của nhà cung ứng. - Dễ gặp rủi ro dây chuyền. => Thực trạng huy động vốn của DN ở VN:
  5. Trong xu thế cạnh tranh thương trường khốc liệt như hiện nay, lợi thế sẽ thuộc về người bán hang với các chính sách giá cả và cho nợ lâu dài. Thế nên việc cho nợ lâu dài trở thành điều tất yêu trong xu thế phát triển của thị trường. Như vậy, DN mua chịu hang hóa có thể coi hình thức tín dụng thương mại này là một kênh huy động vốn với thời hạn nhất định theo hợp đồng. Tín dụng thương mại ngày càng phổ biến do nhu cầu thu hút khách hang của DN bán chịu. Đây là xu thế tất yêu của thị trường, Dn mua chịu có thời gian sử dụng vốn của bạn hang Thứ hai: Thuê tài chính *Khái niệm: Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng giữa bên thuê và bên cho thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê. *Các hình thức: - Trực tiếp: máy móc, trang thiết bị do chính doanh nghiệp lựa chọn và thỏa thuận với công ty cho thuê để mua tài sản đúng nhãn hàng mình cần. - Thuê tài sản mua bằng vốn vay cũng là một hình thức thuê tài chính khác dễ bắt gặp. Trong hình thức này có sự tham gia của 3 bên: bên đi thuê, bên cho thuê và nhà cho vay. Ở đây, nghĩa vụ của doanh nghiệp đi thuê không có gì thay đổi, chỉ khác là bên cho thuê đã sử dụng hợp đồng cho thuê để thế chấp cho nhà cho vay nhằm đảm bảo cho một khoản vay nào đó. - Ngoài ra, thuê tài chính còn có một hình thức khá phổ biến trong lĩnh vực bất động sản nữa là hình thức bán và thuê lại. Công ty cho thuê tài chính sẽ mua tài sản của doanh nghiệp, trả cho doanh nghiệp một khoản tiền mặt rồi cho doanh nghiệp thuê lại tài sản đó. *Ưu điểm: - Cho thuê tài chính cho phép bạn sử dụng linh hoạt đồng vốn của mình vào mục đích khác, nhằm mang lại lợi ích nhiều hơn thay vì phải đầu tư vốn để mua tài sản cố định, giúp bạn tận dụng được cơ hội kinh doanh. - Sử dụng cho thuê tài chính sẽ không làm ảnh hưởng tới hạn mức tín dụng của doanh nghiệp khi doanh nghiệp đi vay vốn ngân hàng. - Cho thuê tài chính có phương thức thanh toán tiền thuê linh hoạt phù hợp với chu chuyển vốn của doanh nghiệp. - Phí thuê tài chính được hạch toán vào giá thành sản phẩm giúp doanh nghiệp giảm nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước. - Sử dụng tài sản thuê không nhất thiết phải có tài sản thế chấp.
  6. - Cho thuê tài chính giúp bạn có nhiều cơ hội chủ động trong lựa chọn thiết bị, dễ dàng đổi mới công nghệ, tiếp cận và sử dụng những máy móc, thiết bị hiện đại nhất.., từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tận dụng được cơ hội kinh doanh. *Nhược điểm: vốn điều lệ thấp Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, sau 11 năm có mặt, thị trường cho thuê tài chính Việt Nam chỉ có 12 công ty được thành lập dưới các hình thức sở hữu khác nhau. Vốn điều lệ trung bình của một doanh nghiệp cho thuê tài chính là 150 tỉ đồng - rất nhỏ so với vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại (hiện là 3.000 tỷ đồng). Và hiện có nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. => Thực trạng huy động vốn của DN ở VN: Thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không mấy quan tâm đến loại hình dịch vụ này, nguyên nhân có thể là vì: - Doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn hạn chế; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh nghiệp còn yếu. - Giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...) hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng. Như vậy, nếu tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay ngân hàng, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm... của bên cho thuê phải bỏ ra. - Hành lang pháp lý về cho thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định cần phải được luật hóa. Các quy định về sở hữu, về tổ chức, hoạt động, vốn điều lệ... trong các văn bản còn nhiều vấn đề phải bàn. Ví dụ như quy định về vốn điều lệ là 50 tỉ đồng đối với công ty trong nước và 5 triệu USD đối với công ty nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không phù hợp. Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật khi quy định về cho thuê tài chính đã không phân định triệt để các khái niệm liên quan đến sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình cho thuê tài chính, giá trị cho thuê tối đa... gây cản trở đối với hoạt động cho thuê tài chính. Thứ ba: Tín dụng ngân hang *Khái niệm: Tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng chủ yếu nhằm vào 3 mục đích: +Đầu tư vào tài sản cố định: máy móc thiết bị, công trình nhà xưởng... +Bổ xung thêm vốn lưu động. +Phục vụ các dự án.
  7. *Các hình thức: Cầm cố, thế chấp tài sản,thông qua bên thứ 3 để bảo lãnh cho mình hoặc vay dưới hình thức trả góp... *Ưu điểm: - Đây là một hình thức huy động vốn khá nhanh,có thể giảm bớt được chi phí giao dịch. - Tính linh hoạt cao do trong quá trình vay doanh nghiệp có thể thỏa thuận lại với ngân hàng. - Đối với doanh nghiệp lớn: + Tập trung được nguồn vốn lớn cùng một lúc do có tài sản thế chấp lớn, có uy tín với ngân hàng... +Mức độ rủi ro thấp hơn các doanh nghiệp nhỏ: Đến kỳ thanh toán doanh nghiệp không trả được nợ sẽ được ngân hàng gia hạn, các DNNN sẽ được nhà nước trả hộ... - Doanh nghiệp nhỏ: Nhà nước đang có rất nhiều chính sách để doanh nghiệp nhỏ có thể tiếp cận với nguồn vốn này. *Nhược điểm: - Bị động trong quá trình vay vì số lượng tiền vay là bao nhiêu còn phụ thuộc vào quyết định từ phía ngân hàng. - Các điều kiện cho vay khá chặt chẽ,doanh nghiệp chịu sự giám sát của ngân hàng trong quá trình sử dụng vốn vay: có sử dụng đúng mục đích hay không,việc trả nợ gốc và lãi có đúng kì hạn cam kết hay không... => Thực trạng huy động vốn của DN ở VN: Nguồn vốn vay ngân hang ở VN hiện vẫn được xem như kênh huy động vốn chủ yếu và quan trọng nhất đối với các Dn Sau khi vượt đáy suy thoái cùng với gói kích cầu 4%/năm, chúng ta đang áp dụng lãi suất cho vay thoả thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn theo thông tư 07 cảu NHNN đã fóp phần cởi trói cho trần lãi suất Trong điều kiện ko còn gói hỗ trợ lãi suất, các DN phải bỏ ra chi phí cao hơn để tiếp cận với nguồn vốn vay ngân hang DN vừa và nhỏ chiếm tới 90% trong tổng số 400.000 DN ở VN hiện nay song việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hang đối với những DN này lại là cả 1 thách thức. Một DN cho biết trong 10 năm này chưa thể tiếp cận nguồn vốn vay ngân hang. Ông Lưu Ngọc Trung -Giám đốc công ty Từ Minh cho biết công ty mình là khách hàng lâu năm của một ngân hàng lớn nhưng chưa từng được NH ưu ái các điều kiện vay vốn. Vì sao với những khách hàng thân thiết và có lịch sử giao dịch tốt, NH lại không nới lỏng điều kiện cho vay, ông Trung nêu vấn đề. Theo điều tra của Cục phát triển SMES - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ có 1/3 DNVVN có khả năng tiếp cận nguồn vốn NH; 1/3 khó tiếp cận và 1/3 không tiếp cận được. Trong số DN tại VN không tiếp cận được vốn vay NH thì 80% không đáp ứng đủ điều kiện cho vay.
  8. Rõ ràng là, giữa DNVVN và các ngân hàng vẫn còn một khoảng cách mà có lẽ không bên nào muốn. Hiện nay, ngân hàng được thành lập nhiều hơn trước, nên khách hàng luôn được ưu ái, những điều khoản vay nói chung đã cởi mở hơn trước rất nhiều, thì việc tồn tại một khoảng cách như thế là một nghịch lý. Ngoài ra còn có những vướng mắc khác làm NH ngại cho DN vay như năng lực vốn sở hữu hiện tại của DN quá nhỏ so với nhu cầu vốn tự có; ngành nghề kinh doanh chuyên biệt, không phổ biến; tài sản bảo đảm,… Có một thực tế tồn tại là việc trao đổi thông tin giữa DN và NH chưa thật sự rõ ràng. Một phần do DN có tâm lý ngại hỏi, còn bộ phận tư vấn của NH thì còn thiếu sự nhiệt tình. Như vậy, khoảng cách khó có thể rút ngắn để tạo sự thuận lợi cho người vay dễ tiếp cận vốn của NH. Thêm một nguyên nhân khiến DN khó tiếp cận nguồn vốn NH là do DN chọn những trụ sở chính của NH để giao dịch. Những nơi này thường rất đông khách hàng chờ đợi, trong đó có DN quy mô lớn thường được ưu tiên trước. Ông Đỗ Minh Toàn - Phó tổng giám đốc ngân hàng ACB đưa ra lời khuyên: Theo TS Phạm Minh Trí, Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế và Quản lý TP HCM : Chúng ta đang vận hành nền kinh tế với nguồn vốn quá đắt (14-18%/ năm và cao hơn). Có thể nói với mức lãi suất cao nhất thế giới này, ko DN trong nước nào có thể cạnh tranh nổi với bất kì đối thủ cạnh tranh nào, trong và ngoài nứơc, trong khi lãi suất cho vay ở nhiều nước hiện nay, để khuyến khích đầu tư, mức lãi suất chỉ là 0-0,25% (Mỹ, Nhật, các nước Châu Âu). Tuy nhiên các ngân hang cho rằng nếu ko như vậy thì họ ko thể tồn tại bởi ngân hang trên thực tế cũng chính là 1 DN. Trong thời gian vừa qua, lãi suất huy động tiền đồng có chiều hướng nhích nhẹ, các ngân hang lí giải là để nâng cao sức cạnh tranh và thu hút thêm vốn, chuẩn bị tốt “cung” đón “cầu” gia tăng trong nửa cuối năm, song mặt bằng lãi suất cho vay dù đã giảm ( so với đầu thnág 5, lãi suất cho vay ngắn hạn đã giảm 1-1,5%/năm) nhưng tâm lí khách hang doanh nghịêp vẫn kì vọng giảm thêm (tăng trưởng dư nợ trong tháng 5 ko mấy khả quan hơn so với những tháng trước đó) Vì vậy hiện nay, nhiều DN chuyển sang vay ngoại tệ do lãi suất thấp hơn vay tiền đồng, hiện cho vay đô la Mỹ với lãi suất phổ biến từ 5,5 -7%/ năm trong khi đó, vay tiền đồng phải chịu lãi suất thực 15-18%/ năm Một số DN cho rằng điều quan trọng trong thời điểm sau suy thoái này ko phải là vấn đề lãi suất nữa mà quan trọng làm thế nào tiếp cận được nguồn vốn. Như vậy, việc tiếp cận vay vốn ngân hang của DN vẫn còn nhiều rào cản song đây là kênh huy động vốn có thể nói là phổ biến nhất tại VN hiện nay và chính phủ cũng đang nỗ lực góp phần tích cực để DN được tiếp cận với nguồn vốn này. Từ ngày 1/5/2010, các ngân hang sẽ đồng loạt giảm lãi suất cho vay 0,5-1%/ năm theo chỉ đạo của Chính phủ tại nghị quyết 18/NQ-CP, theo đó lãi suất cho vay VND tối đa là 13%/ năm. (thông tin đươc đưa ra ngày 28/4) Đã có ý kiến đề xuất triển khai gói kích thích kinh tế bổ sung sau hiệu quả cảu gói kích cầu năm 2009, theo đó mức hỗ trợ lãi suất có thể là 2-3%. Như vậy các Dn cũng đang được hưởng những cải cách của CP trong việc vay vốn ngân hang, có thể tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn này để các DN thích nghi dần với việc vượt qua khó khăn thời kì hậu khủng hoảng. Thứ 4.Phát hành trái phiếu
  9. *Khái niệm: Trái phiếu là bút toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi ích đòi nợ hợp pháp của người sở hữu trái phiếu đối với tài sản của tổ chức phát hành. *Phân loại trái phiếu: - Trái phiếu có lãi suất cố định. - Trái phiếu có lãi suất thả nổi. - Trái phiếu có thể thu hồi. - Trái phiếu có thể chuyển đổi. - Trái phiếu kèm quyền mua cổ phiếu. - Trái phiếu có tài sản đảm bảo. - Trái phiếu không có tài sản đảm bảo. *Ưu điểm: - Chi phí phát hành tương đối thấp ( so với phát hành cổ phiếu ). - Khoản thu nhập của doanh nghiệp được thanh toán trước thuế thu nhập nên có thể tiết - kiệm hơn so với thanh toán sau thuế. - Đảm bảo quyền khống chế doanh nghiệp do không bị phân tán quyền kiểm soát. - Có thể sử dụng như một đòn bẩy tài chính *Nhược điểm: - Độ mạo hiểm tương đối cao do đến hạn doanh nghiệp phải thanh toán mặc dù có thể doanh nghiệp đang gặp khó khăn. - Điều kiện phát hành khá nghiêm ngặt. - Số lượng vốn huy động có hạn. => Thực trạng huy động vốn của DN ở VN: Từ những tháng cuối năm 2009 đến nay, khi tình hình kinh tế có dấu hiệu phục hồi, nhiều DN đã tìm đến kênh trái phiếu để thu hút vốn, phục vụ cho mục đích thực hiên dự án, đầu tư mở rông sx kinh doanh. Trong thời điểm hậu khủng hoảng hiện nay, mặc dù nhiều DN đã được vay vốn hỗ trợ lãi suất, tuy nhiên đây chỉ là nguồn vốn có tnh chất rất ngắn hạn, cho nên bài toán huy động vốn tiếp tục được đặt ra, trong đó hu động qua phát hành trái phiếu là kênh quan trọng và có nhiều ưu thế. Giải pháp phát hành trái phiếu đang được các DN áp dụng dưới nhiều hình thức đa dạng. Trong bối cảnh lạm phát, chứng khoản đóng băng, tiền tệ bị siết chặt như hiện nay, phát hành trái phiếu được xem như giải pháp tối ưu cho các DN thiếu vốn. Điển hình vài VD: “Ngày 26-5 vừa qua, Tổng Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam (Vinaconex) đã thông báo phát hành thành công 2.000 tỉ đồng trái phiếu với mệnh
  10. giá 1 tỉ đồng/trái phiếu, lãi suất năm đầu tiên là 14%/năm, các năm tiếp theo sẽ bằng trung bình cộng lãi suất gửi tiết kiệm của 4 ngân hàng thương mại là Agribank, BIDV, Vietinbank và Vietcombank cộng với 3,5%/năm. Theo công bố của công ty thì số tiền thu được sẽ dùng vào việc tài trợ các dự án trọng đi ểm và tăng quy mô vốn hoạt động của doanh nghiệp.” Nhiều doanh nghiệp hiện chọn hình thức trái phiếu chuyển đổi để phát hành, khi loại hình này đang được nhiều nhà đầu tư quan tâm vì có tính thanh khoản cao. Chính vì vậy nhiều doanh nghiệp có uy tín, thương hiệu lớn đã đẩy mạnh phát hành như tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, tập đoàn VinCom… Không chỉ các doanh nghiệp lớn phát hành trái phiếu để phục vụ cho hoạt động sản xuất,kinh doanh, các ngân hàng cũng tìm vốn qua kênh trái phiếu trong thời gian qua. Cụ thể như Vietinbank ngày 26-5 công bố chính thức phát hành 6.000 tỉ đồng trái phiếu dài hạn năm 2010 theo hình thức riêng lẻ với kỳ hạn 2 năm, lãi suất 12,5%/năm. Trước đó, nhiều ngân hàng khác như Techcombank, LienVietbank, ABBank…cũng đã thực hiện thành công các đợt phát hành trái phiếu. Điểm chung của các đợt phát hành trái phiếu của doanh nghiệp và ngân hàng gần đây là mức lãi suất mỗi năm đều vượt trần cho phép của lãi suất huy động (11,5%/năm), vì vậy đa phần các đơn vị phát hành không khó khăn nhiều để huy động được vốn. Mức lãi trái phiếu trong năm đầu tiên của các doanh nghiệp đa phần dao động từ 14-16%. Lãi suất hấp dẫn, cao hơn tiền gửi tiết kiệm đã khiến nhiều người chọn đầu tư vào trái phiếu. Tuy vậy, với mệnh giá có khi lên đến 1 tỉ đồng/trái phiếu và nhiều công ty phát hành trái phiếu riêng lẻ cho cổ đông chiến lược, thì đây chưa phải là kênh đầu tư phổ biến. Trong thời gian vừa qua, đa phần doanh nghiệp và ngân hàng phát hành trái phiếu chủ yếu là các đơn vị lớn Tuy vậy, việc phát hành trái phiếu hiện chưa thực sự rộng rãi trong các doanh nghiệp niêm yết vì còn một số những yêu cầu như phải có thời gian hoạt động tối thiểu là 1 năm, có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán, kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi và có phương án phát hành trái phiếu được tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông qua Đặc biệt đối với DN BĐS, Trong bối cảnh thị trường BĐS hiện nay, để tránh tình trạng “đóng băng” và nguy cơ các doanh nghiệp BĐS lâm vào phá sản, thì việc các chủ đầu tư phát hành trái phiếu doanh nghiệp là một trong những cách huy động nguồn vốn tốt nhất. Thời gian qua, điểm tựa tài chính cho thị trường BĐS Việt Nam còn quá yếu, gần như duy nhất chỉ biết vay vốn từ ngân hàng mà không có một kênh huy động nào khác. Chính vì vậy khi xảy ra sự cố, các doanh nghiệp BĐS lao đao, thị trường lập tức rối loạn khiến nhiều người vô cùng lo lắng và ảnh hưởng đến sự tăng trưởng bền vững của thị trường còn non trẻ này. Chính vì vậy việc tạo ra nhiều kênh
  11. huy động vốn khác nhau sẽ khiến thị trường BĐS chủ động và đứng vững hơn trước mọi biến cố. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh BĐS đang tỏ ra rất hào hứng với phương thức huy động vốn kiểu này. “Một trong những doanh nghiệp đầu tiên đưa kênh huy động vốn này vào khai thác là Công ty cổ phần Vincom. Để huy động vốn phục vụ cho việc thi công dự án khu đất vàng ở quận 1, Vincom đã phát hành thành công 1.000 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp” Phương pháp này được đánh giá là khá hiệu quả trong việc huy  động vốn hiện nay, mặc dù đã được áp dụng khá lâu ở các quốc gia khác, hiện tại phát hành trái phiếu DN đang dần trở nên phổ biến hơn với các DN Vn. Thứ 5.Tín phiếu Là giấy chứng nhận nợ ngắn hạn do công ty phát hành để huy động nợ ngắn hạn đáp ứng cho thiếu hụt vốn tạm thời. Muốn huy động thông qua hình thức này các công ty thường phải có uy tín rất cao mới có hy vọng huy động vốn rẻ hơn so với đi vay từ ngân hàng. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam không huy động vốn thông qua hình thức này. Hình thức này khá phổ biến ở Mỹ, đặc biệt là các doanh nghiệp có uy tín trên thị trường. => Thực trạng huy động vốn của DN ở VN: Phương pháp này áp dụng thường đối với các Dn có uy tín cao trên thị trường, hiện nay, các DN Vn ko sử dụng hình thức này mà họ chủ yếu vẫn là đi vay ngân hang hoặc vay có bảo đảm. Việc vay vốn có thông qua các tổ chức bảo đảm cho các DN có điều kiện tín dụng dưới chuẩn đang được phát triển song nó vẫn chỉ phát huy chủ yếu cho các DN lơn, có uy tín cao, còn lại bộ phận DN vừa và nhỏ vẫn gặp khó khăn với hình thức này Một số hình thức huy động vốn khác * Huy động vốn từ bạn bè, người than: Nhiều Dn hiện coi đây là kênh huy động giải quyết vấn đề tinh thế cho bài toán về vốn. * Mở thị trường cầm cố, thế chấp: Thị trường này đang phát triển cả về mức độ sơ cấp và thứ cấp, có sự hỗ trợ và tham gia kinh doanh của nhiều tổ chức tài chính * Huy động vốn từ khách hang: * Liên doanh, lien kết các Dn trong và ngoài nước: Bên cạnh những hình thức huy động vốn trong nước thì hình thức liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài cũng được coi là phương thức hữu hiệu để giải quyết bài toán khó khăn về vốn hiện nay. Tuy nhiên việc lien kết với nước ngoài thì thường áp dụng vơí các DN lớn, có tiềm lực.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2