
PHƯƠNG PHÁP THĂM KHÁM MỘT
NGƯỜI BỆNH MẮC BỆNH MÁU – PHẦN 1
Thăm khám một người bệnh mắc bệnh máu cũng như thăm khám một người bệnh
có bệnh nội khoa nói chung gồm hai phần chính: phương pháp thăm khám lâm
sàng và phương pháp thăm khám bằng các xét nghiệm.
Phương pháp lâm sàng
Các xét nghiệm máu
PHƯƠNG PHÁP LÂM SÀNG
I. BỆNH SỬ VÀ TIỀN SỬ.
Cũng giống như các bệnh án thuộc các loại bệnh khác, nhưng ở đây chúng ta cần
chú ý những điểm sau đây:
1. Nghề nghiệp:
- Đặc biệt hỏi những nghề nghiệp tiếp xúc nhiều với những hoá chất như chỉ,
benzen, toluen… hoặc tiếp xúc với các chất phóng xạ, quang tuyến X như các

nhân viên phòng điện quang, công nhân các viện nghiên cứu phòng xạ là một
trong những nguyên nhân chủ yếu của các bệnh máu ác tính: các bệnh bạch huyết,
bệnh thiếu máu không hồi phục.
- Nghề nghiệp tiếp xúc với phân tươi như trồng rau bón bằng phân bắc, rất dễ mắc
giun móc câu, là một trong những nguyên nhân gây thiếu máu nhiều.
2. Các loại thuốc đã dùng.
Một số thuốc như cloroxit, quinin, sedocmit, các thuốc an thần, các thuốc chống
ung thư, các hócmon, do cơ chế ngộ độc hoặc dị ứng, có thể gây ra các bệnh về
máu như chảy máu dưới da hay nội tạng, suy tuỷ… nhiều khi trong quá trình điều
trị một bệnh về máu bằng các thuốc kể trên có những biến chứng làm ta rất khó
phân biệt đó là biến chứng của bản thân bệnh hay do thuốc. Thí dụ đang điều trị
bệnh bạch huyết kinh bằng các thuốc hoá học, người bệnh bị chảy máu nhiều. Lúc
đó rất khó phân biệt là chảy máu do thuốc hay chỉ là đợt cấp diễn của bệnh huyết
kinh. Do đó cần hỏi tỉ mỉ các thuốc đã dùng hoặc đang dùng, liều lượng và nhất là
cố gắng tìm mối liên quan giữa dùng thuốc với sự xuất hiện các triệu chứng.
3. Tiền sử:
- Bản thân: chú ý đến tiền sử chảy máu như chảy máu cam, máu lợi, máu chảy lâu
cầm mỗi khi va chạm nhỏ hoặc khi tiêm, chích, nhổ răng, cắt amidan… Hỏi những
rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ, đặc biệt hiện tượng rong kinh, băng huyết, tiền sử

chửa đẻ, nhất là những lần sẩy thai liên tiếp làm nghĩ đến sự không hợp yếu tố Rh
trong máu.
- Gia đình: trước một người bệnh mắc bệnh về máu, phải hỏi tình trạng sức khoẻ,
bệnh tật của anh chị em ruột, cô dì chú bác. Hỏi xem trong gia đình, họ hàng gần,
có người nào mắc những bệnh tương tự như người bệnh.
- Trong một số trường hợp nghi ngờ, hỏi người bệnh chưa đủ mà phải mời gia
đình người bệnh đến để thăm khám và làm các xét nghiệm cần thiết. Có như vậy
mới phát hiện được một số bệnh về máu có tính chất gia truyền có thể đặt vấn đề
điều trị và nhất là hướng dẫn cách phòng bệnh cho cả gia đỉnh đó.
II. KHÁM THỰC THỂ
Cũng như các bệnh nói chung ở đây cần chú ý đến:
1. Màu sắc do và niêm mạc.
2. Phát hiện các nốt chảy máu dưới da dưới mọi hình thái:
Chấm, mảng, cục máu. Chú ý đến điều kiện xuất hiện, địa điểm và mối liên hệ của
chảy máu với các triệu chứng toàn thân như sốt, nổi hạch.
3. Tìm các biểu hiện khác ngoài da:

Như ngứa, ban đỏ, rối loạn sắc tố, tìm các u nhỏ hoặc lớn, các hạt nổi dưới da. Nấu
cần có thể làm sinh thiết các hạt và u này để xem vi thể.
4. Thăm khám kỹ các cơ quan có tổ chức gần giống như máu:
Hạch, gan, lách. Amidan. Chú ý phát hiện các hạch ở sau như trung thất, trong ổ
bụng.
Khám lâm sàng các bệnh nói chung hay trong các bệnh về máu nói riêng phải toàn
diện và rất thận trọng. Nó cho ta những triệu chứng đáng tin cậy, ít phụ thuộc vào
sự sai lạc do kỹ thuật tiến hành. Tuy nhiên, khám lâm sàng chưa đầy đủ và còn
nhiều nhược điểm, vì không phát hiện những tổn thương của các tế bào máu về
hình thể, chức phận, không thăm khám được cơ quan tạo huyết chủ yếu là tuỷ
xương, nguồn của hầu hết các bệnh về máu.
Vì những lý do trên, các thăm khám cận lâm sàng trong các bệnh về máu đóng
một vai trò rất quan trọng, nhiều khi có tính chất quyết định.
CÁC XÉT NGHIỆM MÁU
I. Hồng cầu.
1. Tế bào học.
1.1. Số lưỢng hồng cầu:

Là xét nghiệm cơ bản nhất. Lấy máu đầu ngón tay người bệnh lúc đói.
Bình thường ở người lớn, trong một mm3 máu có từ 3,7 – 4 triệu hồng cầu. Những
thay đổi trong khoảng 400.000 là những giới hạn của nhầm lẫn không có giá trị
bệnh lý.
Dưới 3.500.000 hồng cầu, coi như thiếu máu. Trên 5.000.000 hồng cầu, coi như đa
hồng cầu, một bệnh tiên phát hoặc thứ phát sau các bệnh tiên thiên, thiếu oxy kinh
diễn, ở trên cao.
1.2. Hình thái hồng cầu:
Băng phương pháp đàn máu và nhuộm May-Grun-Wald-Giemsa, bình thường
hồng cầu tròn, màu hồng giữa hơi sáng hơn.
Bệnh lý: trong một số bệnh thiếu máu, hồng cầu thay đổi, nhiều hình thể khác
nhau (đa hình thể) như hình vợt, hình dấu phẩy, hình quả lê.
1.3. Kích thước:
Đường kính trung bình của hồng cầu là 7 mm, dày 2 mm, thể tích là 88 mm3
Kích thước hồng cầu có thể thay đổi:
- Không đồng đều: hồng cầu to nhỏ khác nhau.
- Hồng cầu bé: d=4 -6 mm. thể tích dưới 80 mm3

