ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀN THỊ THU HƢỜNG PHƢƠNG THỨC SO SÁNH

TRONG CA TỪ CỦA TRỊNH CÔNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Tạ Văn Thông THÁI NGUYÊN - 2010 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

HÀN THỊ THU HƢỜNG

PHƢƠNG THỨC SO SÁNH

TRONG CA TỪ CỦA TRỊNH CÔNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC

Mã số : 60.22.01

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Tạ Văn Thông

THÁI NGUYÊN - 2010

2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai

công bố trong bất kì một công trình khoa học nào khác.

Tác giả luận văn

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

HÀN THỊ THU HƢỜNG

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề 3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 7

5. Phƣơng pháp nghiên cứu 8

6. Đóng góp của luận văn 8

7. Bố cục của luận văn

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ

1.1. Khái quát về so sánh 10

1.1.1. Khái niệm “so sánh” 10

1.1.2. Cấu trúc so sánh 12

1.1.3. Các kiểu so sánh 17

1.2. Khái quát về ca từ 20

1.2.1. Khái niệm “ca từ” 20

1.2.2. Ngôn ngữ trong ca từ 21

1.2.3. Hình tƣợng ca từ 23

1.2.4. Chủ thể cảm xúc trong ca từ 24

1.3. Trịnh Công Sơn và những ca khúc của ông 27

1.3.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Trịnh Công Sơn 27

1.3.2. Khái quát về những ca khúc của Trịnh Công Sơn 32

36 Tiểu kết

CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - CẤU TRÚC VÀ NGỮ NGHĨA CỦA PHƢƠNG

THỨC SO SÁNH TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

2.1. Đặc điểm hình thái - cấu trúc của phƣơng thức so sánh trong 38

ca từ Trịnh Công Sơn

4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2.1.1. Các kiểu cấu trúc so sánh 38

2.1.2. Đặc điểm của yếu tố đƣợc so sánh 49

2.1.3. Đặc điểm của yếu tố so sánh 52

2.1.4. Đặc điểm của các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh 57

2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của phƣơng thức so sánh trong ca từ 59

Trịnh Công Sơn

2.2.1. Đặc điểm của yếu tố đƣợc so sánh 59

2.2.2. Đặc điểm của yếu tố so sánh 66

2.2.3. Mối tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và 71

yếu tố so sánh

Tiểu kết 75

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT

TRONG CA KHÚC TRỊNH CÔNG SƠN

3.1. Phƣơng thức so sánh với hình tƣợng em - ngƣời tình 77

3.2. Phƣơng thức so sánh với hình tƣợng tôi - chủ thể trữ tình 83

3.3. Phƣơng thức so sánh với những chiêm nghiệm về tình yêu 93

3.4. Phƣơng thức so sánh với những chiêm nghiệm về đời ngƣời 100

105 Tiểu kết

KẾT LUẬN 107

CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.1. Để nhận thức thế giới khách quan, để hiểu rừ cỏc sự vật hiện tƣợng

với các thuộc tính muôn màu muôn vẻ trong đời sống, con ngƣời thƣờng thực

hiện việc so sánh, nhằm phát hiện ra những thuộc tính đồng nhất và khác biệt

giữa các sự vật hiện tƣợng này, để quy loại và phân biệt chúng với nhau. Có

thể nói, so sánh là một thao tác thƣờng xuyên, có ý thức hoặc vô thức, trong

đời sống hàng ngày của con ngƣời. Đối với văn học nghệ thuật, so sánh đƣợc

xem là một thủ pháp nghệ thuật độc đáo. Nghiên cứu về phép so sánh của một

tác phẩm văn nghệ giúp ta tìm hiểu một cỏch thức quan trọng (trong số các

phép tu từ khác) đƣợc các tác giả dùng để tạo nên ngôn từ nghệ thuật trong

tác phẩm của mình.

Từ xa xƣa, âm nhạc đã là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với

nhân loại, bởi nó đem lại cho con ngƣời những cảm xúc khỏc nhau qua sự

cảm nhận những hình tƣợng nghệ thuật. Việc nghiên cứu âm nhạc nói chung

và ca từ nói riêng là một công việc không đơn giản nhƣng đầy lí thú.

Cũng nhƣ trong các hình thức văn nghệ khác, so sánh trong ca từ rất cần

đƣợc chú ý, về phƣơng thức này góp phần quan trọng trong việc xây dựng hình

tƣợng nghệ thuật và giúp nghệ sĩ đƣa tác phẩm (bài ca) đi vào lòng ngƣời nghe.

1.2. “Ngƣời hát rong qua nhiều thế hệ”, “ngƣời ca thơ”, “ngƣời viết

tình ca hay nhất thế kỉ”…, đó là những từ ngữ ngƣời ta đã dùng để gọi Trịnh

Công Sơn - ngƣời nhạc sĩ mà mỗi khi những ca khúc của ông đƣợc cất lên,

chúng ta đều cảm thấy lòng mình nhƣ lắng lại trong nhịp điệu và tiết tấu du

dƣơng, với một nỗi buồn da diết, để chiêm nghiệm, để nhìn lại mình, để trí

tƣởng tƣợng bay xa đến thế giới của những yêu thƣơng tha thiết, những nỗi

dằn vặt về tình yêu và thân phận con ngƣời. Những ca khúc của ông không

chỉ mang lại một “giọng điệu” riêng, mà cũn thể hiện tớnh nhõn văn sâu sắc.

6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ở Việt Nam, chƣa có nhạc sĩ nào tạo dựng đƣợc cho mình một dòng nhạc độc

lập nhƣ Trịnh Công Sơn. Ngƣời ta vẫn thƣờng gọi dòng nhạc của ông với cái

tên bình dị, thân quen, là: “Nhạc Trịnh”.

Trong những năm tháng đất nƣớc chìm trong khói lửa chiến tranh, nhạc

sĩ này đã ôm đàn “hát cho dân tôi nghe”. Những ca khúc của ông đã vƣợt lên

mƣa bom bão đạn, vƣợt lên cảnh “máu xƣơng trập trùng”, xoá nhoà đi cái

gƣơng mặt gớm giếc của cuộc chiến và chinh phục hàng triệu trái tim yêu

nhạc thuộc đủ mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề, và rồi vang mói cho

tới ngày nay. Không chỉ phổ biến trong nƣớc, nhiều ca khúc của ông đã vƣợt

biên giới, đến với các quốc gia khác nhƣ Pháp, Mĩ, Canađa, Nhật Bản…,

đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng và đƣợc đông đảo công chúng đón nhận.

Một trong những yếu tố làm nên sức sống của nhạc Trịnh chính là phần

ca từ và đó cũng là nơi thể hiện sự tài hoa trong sử dụng tiếng Việt của ông.

Nhạc sĩ Văn Cao cho rằng âm nhạc của Trịnh Công Sơn là kết quả của một

cuộc “hôn phối kì diệu” giữa phần ca từ và phần âm nhạc, hai phần này hoà

quyện vào nhau đến mức khó có thể tách rời, làm nên hồn cốt nhạc Trịnh, và

vì thế ông gọi nhạc sĩ họ Trịnh là “ngƣời ca thơ”; Tác giả Hoàng Ngọc Hiến

đánh giá: “Tất cả ca từ của nhạc Trịnh Công Sơn làm thành một tình ca hay

nhất thế kỉ” [45, tr.351]; Nhà nghiên cứu âm nhạc Dƣơng Viết Á cho rằng:

“Ngay cả trong những năm tháng “chia tay” giữa thơ và ca, xét riêng về ca từ,

nhiều nhạc sĩ cần đƣợc gọi thêm là nhà thơ, thậm chí nên đƣợc tuyển chọn

vào các tập thơ của thế kỉ XX: Đặng Thế Phong, Văn Cao, Trịnh Công Sơn…”

[2, tr.226]… Tuy phần ca từ của nhạc Trịnh đƣợc đánh giá cao nhƣ vậy, nhƣng

cho đến nay lại ít có những công trình nghiên cứu chuyờn biệt, đầy đủ và sâu

sắc.

2.3. Đã có rất nhiều bài viết cũng nhƣ các công trình nghiên cứu về

cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn, nhƣng trong một vài

7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cụng trỡnh có chú ý đến nghiên cứu ca từ của ông, thỡ việc tìm hiểu một cách

có hệ thống các biện pháp tu từ, trong đó có so sánh, vẫn là vấn đề cũn bỏ

ngỏ.

Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn và tiến hành

nghiên cứu đề tài: Phƣơng thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

2.1. Các phƣơng thức biểu hiện của ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm

văn chƣơng, trong đó có phƣơng thức so sánh, đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu

trƣớc đây đề cập tới.

Lịch sử nghiên cứu phƣơng thức so sánh ghi nhận tên tuổi của nhà triết

học, nhà hùng biện lỗi lạc của Hi Lạp là Arisstotle (384 - 322 TCN). Trong

cuốn Thi học, khi trình bày những cách tu từ chủ yếu và phổ dụng, Arisstotle

đã chú ý đến so sánh. Ông xem đây là một trong những biện pháp đƣợc sử

dụng rất phổ biến trong văn chƣơng, đặc biệt rất đắc dụng trong thơ ca nhằm

tăng hiệu quả biểu cảm và giỏ trị thẩm mĩ.

Ở Trung Hoa cổ đại, cùng với ẩn dụ, lí luận về so sánh đƣợc bộc lộ qua

những lời bình giải về hai thể tỉ và hứng trong thơ ca dân gian Trung Quốc.

Trong các công trình nghiên cứu, các học giả Trung Hoa thƣờng dùng khái

niệm “tỉ” và “hứng” khi nói về phƣơng thức nghệ thuật có liên quan đến cách

ví von bóng gió.

Ở Việt Nam, việc nghiên cứu phƣơng thức nghệ thuật này trên quan

điểm ngữ văn học đƣợc kế thừa và phát triển truyền thống bình giảng tác

phẩm văn học Trung Hoa, theo khuynh hƣớng coi đó là thuộc mĩ từ pháp, là

một trong những “phép làm văn”.

Cho đến nay, ở Việt Nam đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu về

các phƣơng thức tu từ, trong đó có so sánh, tiêu biểu là: Đinh Trọng Lạc với

Giáo trình Việt ngữ (Nxb GD, 1964), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng

Việt (Nxb GD, 1996), Phong cách học tiếng Việt (Nxb GD, 1998); Cù Đình

8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tú với cuốn Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt (Nxb ĐH&THCN,

1983); Hữu Đạt với cuốn Phong cách học tiếng Việt hiện đại (Nxb

ĐHQGHN, 2001); Nguyễn Thế Lịch với Từ so sánh đến ẩn dụ (T/c Ngụn

ngữ, số 3, 1991); Hoàng Kim Ngọc với cuốn So sỏnh và ẩn dụ trong ca dao

trữ tỡnh (Nxb KHXH, 2009)…

Qua tìm hiểu, có thể nhận thấy trong những công trình nghiên cứu kể

trên, các tác giả đã chỳ trọng đến việc hình thành khái niệm, phân loại và tìm

ra giá trị của các phƣơng thức tu từ nói chung và so sánh nói riêng. Đây là cơ

sở lí thuyết vô cùng quí báu để luận văn có thể tham khảo trƣớc khi đi sâu

nghiên cứu về phƣơng thức so sánh trong ca từ củaTrịnh Công Sơn.

2.2. Sau khi Trịnh Công Sơn mất (1/4/2001), tính đến nay đã có khoảng

trên 10 cuốn sách viết về cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của ông. Cuốn sách

ra đời đầu tiên viết về ngƣời nhạc sĩ vừa quá cố là Trịnh Công Sơn - Một

người thơ ca, một cõi đi về do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thuỵ Kha, Đoàn

Tử Huyến sƣu tầm và biên soạn (Nxb Âm nhạc, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ

Đông Tây, 2001). Sau đó cuốn sỏch này đƣợc bổ sung, biên soạn và tái bản

với tựa đề Một cõi Trịnh Công Sơn (Nxb Thuận Hoá, 2004). Tiếp theo, lần

lƣợt đƣợc phát hành là các sách tập trung các bài viết của nhiều tác giả: Trịnh

Công Sơn - cát bụi lộng lẫy (Nxb Văn hoá, tạp chí Sông Hƣơng, Huế, 2001),

Trịnh Công Sơn - người hát rong qua nhiều thế hệ (Nxb Trẻ, 2004), Trịnh

Công Sơn - rơi lệ ru người (Nxb Phụ nữ, 2006), Trịnh Công Sơn - cuộc đời,

âm nhạc, thơ, hội hoạ và suy tưởng (Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2005)…

Ngoài những tập sách của tập thể tác giả kể trên, còn có những tác phẩm

của cá nhân, đó là: Trịnh Công Sơn - một nhạc sĩ thiên tài của Bửu Ý (Nxb Trẻ,

2003); Trịnh Công Sơn - có một thời như thế của Nguyễn Đắc Xuân (Nxb Văn

học, 2003); Trịnh Công Sơn và cây đàn Lya của hoàng tử bé của Hoàng Phủ

Ngọc Tƣờng (Nxb Trẻ, 2005); Vườn xưa - hành trình âm nhạc Trịnh Công Sơn

của Nguyễn Hữu Thái Hoà (Nxb Trẻ, 2007); Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và

9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những ám ảnh nghệ thuật của Bùi Vĩnh Phúc (Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2008)…

Những cuốn sách này chủ yếu gồm những bài viết của bạn bè, ngƣời

thân, đồng nghiệp, công chúng yêu nhạc và ngƣỡng mộ tài năng của Trịnh

Công Sơn, một số của các nhà báo, và số ít là các nhà nghiên cứu, phê bình

văn học. Những bài viết ấy đều có dung lƣợng nhỏ, chủ yếu là kể về những kỉ

niệm, giai thoại, bày tỏ cảm xúc, ấn tƣợng và tình yêu đối với nhạc sĩ, cảm

nhận đối với từng bài hát, những đồng cảm về thân phận con ngƣời trong

chiến tranh qua những ca khúc phản chiến, những nỗi đau trong tình yêu, và

những phát hiện về triết lí sống trong nhạc Trịnh…Chƣa có nhiều những bài

viết mang tính chất nghiên cứu ca từ dƣới góc độ ngôn ngữ, càng ít gặp những

bài viết nghiên cứu riêng về phƣơng thức so sánh.

Cuốn sách mang tính chuyên luận đầu tiên nghiên cứu về ca từ Trịnh

Công Sơn là cuốn Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật của

Bùi Vĩnh Phúc. Trong cuốn sách này, tác giả đã dành riêng một chƣơng để viết

về nghệ thuật ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn. Đó là cách viết ca khúc nhƣ những

bài thơ, cách dùng những hình ảnh tỉnh lƣợc, những câu bỏ lửng, những nét đối

xứng và những biện pháp tu từ. Trong phần viết về những biện pháp tu từ, tác

giả có đề cập đến biện pháp so sánh nhƣng ông chỉ dừng lại ở việc mô tả biện

pháp này và đƣa ra một số ví dụ minh hoạ, chứ chƣa đi sâu nghiên cứu những

đặc điểm về hình thái cấu trúc, đặc điểm về ngữ nghĩa cũng nhƣ vai trò của so

sánh đối với việc xây dựng hình tƣợng nghệ thuật trong ca khúc Trịnh Công

Sơn.

Ngoài những cuốn sách viết về cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của

Trịnh Công Sơn đã xuất bản kể trên, có thể kể đến những công trình nghiên

cứu mang tính chất chuyên đề về ca từ nhạc Trịnh: Luận văn Thạc sĩ, chuyên

ngành Văn học Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Thuý, Đại học Sƣ phạm

Quy Nhơn (2006) với đề tài Ca từ Trịnh Công Sơn - những ca khúc về tình

yêu và thân phận con người với những mảng nghiên cứu về cuộc đời và sự

10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghiệp, tầm ảnh hƣởng của Trịnh Công Sơn, thân phận con ngƣời và tình yêu

trong ca khúc Trịnh Công Sơn; Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Văn học Việt

Nam của Lê Thị Thu Hiền, Đại học Sƣ phạm Hà Nội (2007) với đề tài Quan

niệm nhân sinh trong ca từ Trịnh Công Sơn, đó đi vào nghiên cứu quan niệm

về cõi sống, về cái chết và về tình yêu của Trịnh Công Sơn; Luận văn Thạc sĩ,

chuyên ngành Lí luận ngôn ngữ của Nguyễn Thị Bích Hạnh, Đại học Sƣ

phạm Hà Nội (2008) với đề tài Hệ thống biểu tượng trong ca từ Trịnh Công

Sơn, đã hệ thống hoá những biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong ca từ Trịnh

Công Sơn, sắp xếp các biểu tƣợng theo những hệ thống nhỏ, từ hệ thống

những biểu tƣợng có chất liệu trực quan đến hệ thống những biểu tƣợng

không có chất liệu trực quan và sự chuyển hoá giữa chúng, từ đó soi chiếu,

giải mã các biểu tƣợng trong hệ thống, gúp phần làm sáng tỏ thế giới tinh thần

của nghệ sĩ (luận văn này mới đây đó xuất bản thành sỏch với nhan đề Biểu

tượng ngôn ngữ trong ca từ của Trịnh Công Sơn, Nxb Khoa học xó hội,

2009)…

Tóm lại, lần theo trình tự thời gian của các cụng trỡnh và bài viết về ca

khúc Trịnh Công Sơn đến nay, chƣa thấy có tài liệu nào nghiên cứu riêng

hoặc nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về phƣơng thức so sánh trong ca từ của

ông.

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn có mục đích tìm hiểu sự thể hiện đa dạng và những vai trò

khác nhau của phƣơng thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn, từ đó

thấy đƣợc phần nào đặc điểm phong cách ngôn ngữ của nhạc sĩ qua các ca

khúc của ông.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Xác định cơ sở lí thuyết chung trong nghiên cứu tu từ học và văn

11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghệ, với một số khái niệm: so sánh, ca từ…, và những vấn đề có liên quan,

để làm điểm tựa nghiên cứu phƣơng thức so sỏnh trong các ca khúc của một

tác giả cụ thể.

- Miêu tả những biểu hiện cụ thể của việc sử dụng phƣơng thức so sánh

về hình thức và ngữ nghĩa, những vai trò của việc sử dụng phƣơng thức này

để xây dựng hình tƣợng nghệ thuật, trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn.

- Từ sự phân tích nói trên, giúp ngƣời đọc hƣớng tới một số nhận xét về

đặc điểm đáng chú ý trong phong cách ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn xét về

phƣơng diện so sỏnh.

4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn đƣợc xác định là ca từ của Trịnh

Công Sơn. Trờn thực tế, ca từ của Trịnh Công Sơn đƣợc công bố trong nhiều

tuyển tập ca khúc khác nhau, nhƣ: Một cõi đi về, Nxb Văn nghệ TPHCM,

1992; Khói trời mênh mông Nxb Văn nghệ TPHCM, 1992; Em còn nhớ hay

em đã quên, Nxb Trẻ, 1993; Những bài ca không năm tháng, Nxb Âm nhạc,

1998… Tuy nhiờn trong luận văn này, sẽ đƣợc chọn làm đối tƣợng khảo sát là

242 văn bản ca từ (không có phần nhạc) đƣợc công bố trong cuốn Trịnh Công

Sơn - vết chân dã tràng của tác giả Ban Mai xuất bản năm 2008 tại Nxb Lao

Động - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây. Văn bản những ca khúc này

đƣợc công bố với sự cho phép của ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh - em gỏi của nhạc sĩ

và là ngƣời thừa kế bản quyền nhạc Trịnh và ông Phạm Văn Đỉnh - Chủ tịch

Hội Văn hoá Trịnh Công Sơn (Pháp) - ngƣời đó sƣu tầm và chỉnh lí thƣ mục

ca khúc Trịnh Công Sơn. Có thể nói đây là nguồn tƣ liệu đáng tin cậy để

nghiên cứu về ca từ Trịnh Công Sơn (Danh mục các ca khúc này đƣợc trình

bày ở cuối luận văn).

Ngoài 242 văn bản ca từ kể trên, đề tài còn dựa vào một thứ “siêu văn

bản” khác. Đó là hoàn cảnh xã hội, không khí thời đại, bầu khí quyển triết

12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

học, chính trị trong đó những ca từ của Trịnh Công Sơn ra đời, và hoàn cảnh,

tâm sự cá nhân của chính nhạc sĩ… Đây có thể đƣợc xem nhƣ những gợi mở

giúp đi sâu hơn vào thế giới ca khỳc Trịnh Công Sơn, trong đó có ca từ với

phƣơng thức so sánh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Các ca khúc của Trịnh Công Sơn có thể đƣợc xét trên nhiều phƣơng

diện. Ngoài sự phân tích từ phƣơng diện âm nhạc và văn học nghệ thuật nói

chung, về phƣơng diện ngôn ngữ học có thể xem xét cỏc ca từ trong ca khúc ở

nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, luận văn này chỉ xin dừng lại ở việc

xem xét một trong các phƣơng thức tu từ, cụ thể là so sánh.

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phƣơng pháp miêu tả

Phƣơng pháp này (với cách phân tích và tổng hợp), đƣợc sử dụng để đi

sâu vào miêu tả và khái quát các kiểu cấu trúc so sánh, chỉ ra các đặc điểm

ngữ nghĩa cùng các vai trò của chúng trong việc xây dựng hình tƣợng nghệ

thuật của ca từ Trịnh Công Sơn.

- Phƣơng pháp thống kê, phân loại

Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để khảo sát, thống kê tần số xuất hiện

và phân loại các kiểu so sánh trong ca từ Trịnh Công Sơn, từ đó làm cơ sở

phân tích, nhận xét, đánh giá những kiểu loại hình thức, đặc trƣng về giá trị

biểu đạt của đối tƣợng nghiên cứu.

- Phƣơng pháp phân tích ngữ nghĩa

Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng khi phân tích mối quan hệ giữa ý nghĩa

bản thể gốc và ý nghĩa có đƣợc do sự liên tƣởng, nghĩa bề mặt ngôn từ với

nghĩa biểu trƣng, của cỏc yếu tố tham gia vào phƣơng thức so sỏnh.

6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Về mặt lí luận:

Đây là lần đầu tiên có một đề tài nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ và sâu sắc

13

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phƣơng thức so sánh trong số các phƣơng thức tu từ dựa trên quan hệ liên

tuởng, đƣợc sử dụng ở ca từ Trịnh Công Sơn. Kết quả của luận văn sẽ là minh

chứng cho khả năng tìm hiểu về giá trị của văn bản nghệ thuật dƣới góc nhìn

ngôn ngữ học, đồng thời góp thêm tƣ liệu và cách nhìn nhận đối với bộ môn Tu

từ học nói chung và nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong cỏc ca khúc nói riêng.

- Về mặt thực tiễn:

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giúp cho những ngƣời quan

tâm đến dũng nhạc Trịnh có cái nhìn đa chiều hơn về giá trị tác phẩm, trong

đó ngoài chiều sâu tƣ tƣởng, thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả, cũn

cú sự tài hoa về tiếng Việt. Đồng thời, nó có thể giúp những ngƣời yêu nhạc

tiếp cận có định hƣớng và dễ dàng hơn với dòng nhạc đƣợc đánh giá là “kén

ngƣời nghe” này, từ đó biết thƣởng thức những cái hay, cái đẹp của nhạc

Trịnh và nhận thức đƣợc một cách sâu sắc những cảm xúc, những triết lí nhân

sinh mà ngƣời nhạc sĩ tài hoa này muốn gửi gắm qua những ca khúc của

mình, cũng nhƣ có cơ sở để hiểu hơn về tiềm năng của tiếng Việt.

7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn bao gồm 3 chƣơng

nhƣ sau:

Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tế

Chƣơng 2: Đặc điểm hình thái - cấu trúc và ngữ nghĩa của phƣơng

thức so sánh trong ca từ Trịnh Công Sơn

Chƣơng 3: Phƣơng thức so sánh với hình tƣợng nghệ thuật trong ca

khúc Trịnh Công Sơn

Phần Phụ lục gồm:

- Danh mục những ca khúc đƣợc khảo sát trong luận văn

- Một số văn bản ca khỳc của Trịnh Công Sơn

- Một số đoạn tản văn của Trịnh Công Sơn

14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Một số hình ảnh và bút tích của Trịnh Công Sơn

CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ

1.1. KHÁI QUÁT VỀ SO SÁNH

1.1.1. Khái niệm so sánh

So sánh là một thao tác của tƣ duy. Đó là thao tác đem sự vật này đối

chiếu với sự vật khác để nhìn thấy nét tƣơng đồng và khác biệt giữa chúng.

Thuật ngữ “so sánh” trong tiếng Việt đƣợc dùng chỉ một biện pháp đƣợc sử

dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Trong Từ điển tiếng Việt do

Hoàng Phê (Chủ biên) có giải thích về “so sánh” theo cách hiểu phổ thông là:

“nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy sự giống nhau, khác nhau hoặc

sự hơn kém”.

Nhìn từ góc độ phong cách học, so sánh là một phƣơng thức phổ biến ở

mọi ngôn ngữ. Vì thế, đây cũng là một trong những vấn đề đƣợc các nhà ngôn

ngữ học quan tâm nghiên cứu: A.Ju.Xtêpannov với Phong cách học tiếng

Pháp (1965), Vinôgradov với Phong cách học tiếng Nga (1969), Môren với

Phong cách học tiếng Pháp (1970)... Những công trình này đƣợc giới thiệu ở

Việt Nam góp phần làm sáng tỏ về mặt lí thuyết và ứng dụng của phƣơng

thức so sánh cũng nhƣ khẳng định giá trị của phƣơng thức này trong sáng tạo

hình tƣợng nghệ thuật.

Phƣơng thức này cũng sớm đƣợc các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học

nƣớc ta đề cập đến. Bắt đầu từ những năm 60 của thế kỉ XX, khi xuất hiện

những công trình nghiên cứu tiếng Việt, so sánh cũng đƣợc nhắc đến trong

các bài giảng về phong cách học.

Có thể kể đến những công trình nghiên cứu có đề cập tới so sánh nhƣ:

Giáo trình Việt ngữ; 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt của Đinh

15

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trọng Lạc; Phong cách học tiếng Việt của Đinh trọng Lạc và Nguyễn Thái

Hoà; Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt của Cù Đình Tú; Phong

cách học tiếng Việt hiện đại của Hữu Đạt...

Trong những công trình kể trên, hầu hết các tác giả đều đƣa ra sự phân

biệt giữa so sánh tu từ và so sánh logic (so sánh luận lí). Theo các tác giả này,

trong so sánh logic, cái đƣợc so sánh và cái so sánh là các đối tƣợng cùng loại và

mục đích của sự so sánh là xác lập sự tƣơng đƣơng giữa hai đối tƣợng. Ví dụ:

- Mặt con cũng tròn như mặt mẹ

- Cô Hoa gầy hơn cô Huệ - Giá trị của (a+b)(a-b) bằng giá trị của a2- b2

So sánh tu từ khác với so sánh logic ở tính hình tƣợng, tính biểu cảm và

tính dị loại (không cùng loại) của sự vật. Ví dụ:

- Tiếng khoan như gió thoảng ngoài

Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa (Nguyễn Du)

- Tình anh như nước dâng cao

Tình em như dải lụa đào tẩm hương (Ca dao)...

Với sự phân biệt nói trên, những khái nệm đuợc đƣa ra trong các giáo

trình phong cách học đều định nghĩa so sánh với tƣ cách là một trong những

biện pháp tu từ ngữ nghĩa.

Trong cuốn Giáo trình Việt ngữ, tác giả Đinh Trọng Lạc đã quan niệm

về so sánh nhƣ sau: “So sánh là định nghĩa sự vật, hiện tƣợng hoặc khái niệm

ở trong ngôn ngữ nghệ thuật thông qua sự so sánh chúng với hiện tƣợng hoặc

khái niệm có cùng dấu hiệu chung. Mục đích so sánh là để cụ thể hoá những

sự vật trừu tƣợng, để ngƣời đọc dễ hiểu, dễ tƣởng tƣợng hơn.”. Ở cuốn giáo

trình này, tác giả chủ yếu tiến hành khảo sát hình thức biểu hiện của so sánh.

Có thể nói, đây chính là một trong những giáo trình đầu tiên của môn Phong

cách học ở Việt Nam.

Tiếp đó, trong 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, tác giả

16

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đinh Trọng Lạc đã có cách nhận diện so sánh tu từ rõ ràng và đầy đủ hơn:

“So sánh tu từ là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó ngƣời ta đối chiếu

hai đối tƣợng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau

hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh

một lối tri giác mới mẻ về đối tƣợng” [25 , tr.154].

Sau này, cỏc tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà ở giáo trình

Phong cách học tiếng Việt cũng đƣa ra định nghĩa về so sánh: “So sánh là

phƣơng thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn

là giữa hai sự vật có một nét tƣơng đồng nào đó, để gợi ra hình ảnh cụ thể,

những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của ngƣời đọc, ngƣời nghe” [24,

tr.190].

Theo tác giả Cù Đình Tú trong Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng

Việt, “so sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tƣợng cùng

có một dấu hiệu chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình

ảnh đặc điểm của một đối tƣợng” [56, tr.272].

Nhƣ vậy, qua nhiều quan niệm của các nhà nghiên cứu đã nêu ở trên,

chúng ta có thể rút ra một vài đặc điểm của phƣơng thức so sánh nhƣ sau:

- So sánh là việc đối chiếu một phƣơng diện nào đó của ít nhất hai sự

vật hiện tuợng

- Những sự vật hiện tƣợng đƣa ra đối chiếu phải khác loại

- Những sự vật hiện tuợng đƣa ra đối chiếu phải có nét tƣơng đồng sâu

xa nào đó trong những ngữ cảnh nhất định mà giác quan có thể nhận biết

đƣợc

- Đối chiếu để tìm ra các nét giống nhau và khác biệt giữa các đối

tƣợng so sánh và đƣợc so sánh

1.2.2. Cấu trúc so sánh

Có nhiều quan niệm khác nhau về cấu trúc so sánh. Theo cỏc tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà trong cuốn giáo

trình Phong cách học tiếng Việt, hình thức đầy đủ nhất của phƣơng thức so sánh gồm 4 yếu tố:

17

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Cái cần đƣợc so sánh, kí hiệu là (A) - Cơ sở so sánh, kí hiệu là (t)

- Từ so sánh, kí hiệu là (tss)

- Cái đƣợc dùng làm chuẩn để so sánh, kí hiệu là (B)

A (t) (tss) B

Cổ tay em trắng nhƣ ngà

Mô hình cấu trúc đầy đủ đƣợc đƣa ra là:

A (t) tss B

Tuy nhiên, trên thực tế, tùy từng trƣờng hợp, ngƣời ta có thể đảo trật tự

so sánh hoặc bớt một số yếu tố trong mô hình. Cụ thể ta có 5 biến thể của mô

hình cấu trúc so sánh trên:

1. Đảo trật tự so sánh: (t) A tss B. Ví dụ:

Chòng chành như nón không quai

Như thuyền không lái như ai không chồng (Ca dao)

2. Bớt cơ sở so sánh: A tss B. Ví dụ:

Ai về ai ở mặc ai

Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh (Ca dao)

3. Bớt từ so sánh: A (t) B. Ví dụ:

Gái thương chồng đương đông buổi chợ

Trai thương vợ nắng quái chiều hôm (Ca dao)

4. Thêm “bao nhiêu”, “bấy nhiêu”

Qua đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu (Ca dao)

5. Dùng là làm từ so sánh: A là B. Ví dụ:

Tình cô là đoá hoa đơn

Bình minh nở để hoàng hôn mà tàn (Nguyễn Bính)

Trong Phong cách học tiếng Việt hiện đại, tỏc giả Hữu Đạt đã đƣa ra

mô hình khái quát của phép so sánh nhƣ sau:

18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

A - X - B

Trong mô hình trên, có thể nhận thấy sự thiếu vắng của yếu tố chỉ

phƣơng diện so sánh. Điều này đã khiến cho cấu trúc so sánh mà tác giả đƣa

ra chỉ có 3 yếu tố. Và biến thể của cấu trúc này chỉ có 2 loại là:

- So sánh không có từ so sánh:

Mô hình: A - B

Biến thể: A - B1, B2...; A1, A2... - B; A1, A2 - B1, B2

Ví dụ:

Bác ngồi đó lớn mênh mông

Trời cao biển rộng, ruộng đồng nước non (Tố Hữu)

- So sánh có từ so sánh:

Mô hình: A - X - B

Biến thể: A - X - B1, B2; A1, B1 - X - B; A1, B1 - X - B1, B2

Ví dụ:

Lũ đế quốc như bầy quỷ sống

Nướng người ăn, nhảy nhót, reo cười (Tố Hữu)

Trong bài viết “Các yếu tố và cấu trúc của so sánh nghệ thuật... đăng

trên Số phụ Tạp chí ngôn ngữ số 1, 1998, cũng giống nhƣ cỏc tỏc giả Đinh

Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà, tỏc giả Nguyễn Thế Lịch đã đƣa ra một cấu

trúc so sánh hoàn chỉnh gồm 4 yếu tố:

- Yếu tố cần so sánh, tức là đƣợc (hay bị) so sánh (YTĐSS) - (A);

- Yếu tố biểu thị thuộc tính của sự vật, nêu rõ phƣơng diện so sánh

(YTPD) - (x);

- Yếu tố thể hiện quan hệ so sánh (YTQH) - (tss);

- Yếu tố đƣợc dùng làm chuẩn để so sánh (YTSS) - (B).

Theo tác giả, mô hình cấu trúc so sánh hoàn chỉnh là:

YT§SS YTPD YTQH YTSS

19

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mặt tƣơi nhƣ hoa

Đặc điểm của từng yếu tố đƣợc Nguyễn Thế Lịch trình bày cụ thể nhƣ

sau:

a. Yếu tố đƣợc so sánh: về nguyên tắc, bất kì sự vật, hiện tƣợng gì cũng

có thể đem ra so sánh:

- Đƣợc so sánh là ngƣời, sự vật, ví dụ:

Em như cây quế giữa rừng

Thơm tho ai biết ngát lừng ai hay (Ca dao)

- Đƣợc so sánh là hành động, ví dụ:

Thấy anh như thấy mặt trời

Chói chang khó ngó, trao lời khó trao (Ca dao)

- Đƣợc so sánh là thuộc tính, ví dụ:

Trong như tiếng hạc bay qua

Đục như tiếng suối mới sa nửa vời (Nguyễn Du)

b. Yếu tố phƣơng diện so sánh: có vai trò thể hiện thuộc tính của sự vật

mà yếu tố đƣợc so sánh biểu thị, là thuộc tính đƣợc xem nhƣ tiêu biểu của sự

vật mà yếu tố so sánh biểu thị. Khi trong cấu trúc so sánh vắng yếu tố phƣơng

diện thì phải dựa vào liên tƣởng để tìm ra nét tƣơng đồng giữa yếu tố đƣợc so

sánh và yếu tố so sánh, từ đó mới có thể xác định đƣợc là đã thực hiện sự so

sánh về phƣơng diện nào.

c. Yếu tố quan hệ: đƣợc xem là đơn giản nhất trong cấu trúc so sánh,

bao gồm các từ so sánh, từ là và cặp từ hô ứng bao nhiêu...bấy nhiêu.

Các từ so sánh đƣợc dùng phổ biến nhất là: như, tựa, như là, như thể,

chừng như, tựa như, hồ như..., ví dụ:

Cổ tay em trắng như ngà

Con mắt em liếc như là dao cau (Ca dao)

Từ là trong cấu trúc so sánh có giá trị tƣơng đƣơng từ như, nhƣng sắc

thái ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Như có sắc thái giả định, chỉ sự tƣơng đồng

về một khía cạnh nào đó, cảm nhận thiên về chủ quan; là có sắc thái khẳng

20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

định sự đồng nhất hoàn toàn, sự đánh giá có cơ sở khách quan. Ví dụ:

Tình tôi là giọt thuỷ ngân

Dù nghiền chẳng nát, dù lăn vẫn tròn (Ca dao)

Cặp từ hô ứng bao nhiêu...bấy nhiêu, ví dụ:

Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang

Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu (Ca dao)

d. Yếu tố so sánh: đƣợc xem là quan trọng nhất và không thể thiếu của

cấu trúc so sánh vì đó là chuẩn của so sánh, và không có chuẩn thì không

thành so sánh. Sự xuất hiện của yếu tố này là kết quả quá trình quan sát, liên

tƣởng của ngƣời nói. Theo Nguyễn Thế Lịch, yếu tố này có một số cấu trúc sau:

- Nêu lên tên gọi sự vật đƣợc dùng làm chuẩn. Ví dụ: má đào, tóc mây, mũi

dọc dừa, mặt chữ điền, con mắt lá răm, lông mày lá liễu, ngón tay búp măng…

- Miêu tả chi tiết thuộc tính của sự vật đƣợc dùng làm chuẩn, ví dụ:

- Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất dậm hương và rộn tiếng chim (Tố Hữu)

- Tình anh như nước dâng cao

Tình em như dải lụa đào tẩm hương (Ca dao)

- Thể hiện nhiều sự vật khác nhau, ví dụ:

- Hồn tôi giếng ngọt trong veo

Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh (Nguyễn Bính)

- Đôi ta như lửa mới nhen

Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu (Ca dao)

Theo khảo sát của Nguyễn Thế Lịch, không phải cấu trúc so sánh nào

cũng hội tụ cả 4 yếu tố trên, và tác giả đã đƣa ra 4 cấu trúc so sánh không

hoàn chỉnh nhƣ sau:

a. Vắng yếu tố phƣơng diện, ví dụ:

Mẹ già như chuối ba hương

21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Như xôi nếp mật, như đường mía lau (Ca dao)

b. Vắng yếu tố phƣơng diện và yếu tố quan hệ, ví dụ:

Người giai nhân: bến đợi dưới cây già

Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt (Xuân Diệu)

c. Vắng yếu tố đƣợc so sánh, ví dụ:

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi (Hồ Xuân Hƣơng)

Theo tác giả, cấu trúc vắng yếu tố đƣợc so sánh đã tạo ra vô vàn các thành

ngữ so sánh kiểu nhƣ: cao như núi, ngọt như mía lùi, đỏ như son…, giúp cho việc

tiếp nhận trở nên dễ dàng vì phƣơng diện so sánh đƣợc nói thành lời rõ ràng.

d. vắng yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố phƣơng diện, ví dụ:

- Như diều gặp gió

- Như nước vỡ bờ (Thành ngữ)

Tiếp thu những ý kiến kể trên, quan niệm của luận văn về cấu trúc so

sánh nhƣ sau:

Một cấu trúc so sánh hoàn chỉnh bao gồm 4 yếu tố theo mô hình sau:

A + x + tnss + B

(Trong đó:

- A: Yếu tố đƣợc so sánh

- x : Yếu tố phƣơng diện so sánh

- tnss: Yếu tố biểu thị quan hệ so sánh - từ ngữ so sánh

- B: Yếu tố so sánh)

Ví dụ: Tóc trắng như vôi

(A) (x) (tnss) (B)

Bên cạnh mô hình cấu trúc so sánh hoàn chỉnh kể trên, tác giả còn có

thể tạo ra những biến thể bằng việc thêm, bớt hoặc đảo trật tự các yếu tố trong

cấu trúc.

22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1.2.3. Các kiểu so sánh

Tác giả Đào Thản nhìn nhận phép so sánh ở mặt nội dung và phân chia

dựa vào mục đích so sánh. Theo đó, tác giả đã đƣa ra 8 kiểu so sánh nhƣ sau:

- So sánh để giải thích,ví dụ:

Ở nông thôn, nước ví như sông mà chủ nghĩa xã hội như thuyền, nước

sông lên thì thuyền đi lại dễ dàng. (Hồ Chí Minh)

- So sánh để miêu tả,ví dụ:

Ánh nắng tháng năm rát như lửa chàm vào mặt. (Ngô Tất Tố)

- So sánh để đánh giá, ví dụ:

Thế địch như lửa, thế ta như nước. (Hồ Chí Minh)

- So sánh để biểu lộ tình cảm, ví dụ:

Chúng ta hãy phấn đấu như mùa xuân, với nhiệt tình như ánh nắng.

(Hồ Chí Minh)

- So sánh liên tiếp, ví dụ:

Đôi ta như lửa mới nhen

Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu (Ca dao)

- So sánh phát triển, ví dụ:

Thân em như tấm lụa đào

Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai (Ca dao)

- So sánh hơn - kém, ví dụ:

Ngọc nào bằng tay em (Tố Hữu)

- So sánh đặc biệt

Đây là kiểu so sánh mà hai vế đƣợc thể hiện hoàn toàn cân đối về hình

thức và nội dung. Kiểu so sánh này diễn đạt những tình huống hoặc sự kiện

(không dùng để diễn đạt thuộc tính) mà tính cân đối là điều kiện để nhận dạng

sự so sánh. Ví dụ:

23

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Cây khô xuống núi cũng khô

Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo (Ca dao)

Tác giả Hữu Đạt khi phân loại các kiểu so sánh đã dựa vào cả hai tiêu

chí hình thức và nội dung của nó. Theo đó, chúng ta có các kiểu so sánh sau:

- So sánh ngang bằng, ví dụ:

Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ

Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa (Lƣu Quang

Vũ)

- So sánh hơn - kém, ví dụ:

Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thuỷ nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh (Nguyễn Du)

- So sánh bậc cao nhất, ví dụ:

Đại đội thanh niên đi lấp hố bom

Áo em hình như trắng nhất. (Phạm Tiến Duật)

Tựu trung lại, mục đích quan trọng của so sánh là phát hiện ra đƣợc sự

đồng nhất hay khác biệt về các thuộc tính giữa hai sự vật đem ra so sánh. Do

đó, có thể phân chia so sánh thành hai kiểu nhƣ sau:

a. So sánh đồng nhất, bao gồm:

- So sánh tƣơng tự:

So sánh tƣơng tự thƣờng có những từ so sánh như, như là, như thể, tỉ

như, giá như, tựa như, tựa, kém gì, hơn gì, khác gì... mang tính chất giả định,

ví dụ:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai (Ca dao)

24

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- So sánh ngang bằng

Ở kiểu so sánh này thƣờng có các từ so sánh bằng, là... mang tính

khẳng định, ví dụ:

Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con chèo hái mỗi ngày (Đỗ Trung Quân)

b. So sánh dị biệt, bao gồm:

- So sánh dị biệt hơn, gồm:

+ So sánh dị biệt hơn tuyệt đối: thƣờng có những từ so sánh nhất (A),

nhì (B), tam, tứ..., thứ nhất (A), thứ nhì (B)... Thông thƣờng, trong dạng kết

cấu này A, B đƣợc xếp theo thứ tự phân hạng đánh giá, ví dụ:

Nhất canh trì, nhì canh viên, tam canh điền. (Tục ngữ)

Tuy nhiên vẫn có những trƣờng hợp thứ tự này chỉ mang tính ƣớc lệ,

tức là ngƣời sáng tác quan tâm đến vần điệu nhiều hơn là thứ tự mức độ

“quan trọng” của đối tƣợng đƣợc liệt kê. Xếp một đối tƣợng nào đó theo thứ

tự nhất, nhì... còn tuỳ thuộc vào quan nệm chủ quan của ngƣời nói.

+ So sánh dị biệt hơn tƣơng đối: thƣờng có những từ chuyên dụng: hơn,

còn hơn..., ví dụ:

Tốt gỗ hơn tốt nước sơn

Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người (Tục ngữ)

- So sánh dị biệt kém:

Để biểu thị quan hệ so sánh dị biệt kém, ngƣời ta thƣờng dùng các từ so

sánh nhƣ: thua, kém, không bằng, sao bằng, chẳng bằng, không tày..., ví dụ:

Đêm nằm ở dưới bóng trăng

Thương cha, nhớ mẹ không bằng thương em (Ca dao)...

1.2. KHÁI QUÁT VỀ CA TỪ

1.2.1. Khái niệm "ca từ"

Trong âm nhạc, ca từ (lời của bài hỏt) giữ một vai trò quan trọng. Ca từ

25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bổ sung tính cụ thể cho hình tƣợng âm nhạc, hay nói cách khác, nó làm nhiệm

vụ nhƣ là ngƣời hƣớng dẫn, mở đƣờng, “phiên dịch”, dẫn giải cho ngƣời

thƣởng thức bằng thứ ngôn ngữ phổ biến mà con ngƣời đã đƣợc học tập, rèn

luyện, nâng cao từ khi lọt lòng mẹ. Một ngƣời Việt Nam không biết ngoại

ngữ nghe một bài hát bằng tiếng Nga, hay tiếng của một nƣớc khác, cũng coi

nhƣ nghe một bản nhạc không lời, bởi ca từ đó không phải là tiếng Việt mà

ngƣời Việt Nam đã sử dụng thành thạo.

Ca từ mở cửa cho hình tƣợng âm nhạc đi vào lòng ngƣời thƣởng thức.

Sở dĩ nhƣ vậy, vỡ ngụn ngữ (bằng lời) là phƣơng tiện giao tiếp quan trọng

nhất của con ngƣời. Có thể ví ca từ nhƣ đôi cánh nâng hình tƣợng âm nhạc

bay cao hơn, xa hơn. Trên thực tế, có nhiều tác phẩm âm nhạc, phần âm thanh

và phần ca từ tƣơng sinh nhƣ xác với hồn, làm nên sức sống của tác phẩm.

Nhƣng cũng có nhiều tác phẩm, khi bóc tách phần ca từ ra khỏi nền nhạc thì

nó vẫn thấm đẫm chất thơ, và đi vào lòng công chúng bởi tính trữ tình và

những ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà ngƣời nhạc sĩ gửi gắm trong tác phẩm của

mình. Thậm chí, những triết lí trong ca từ còn đƣợc thƣởng thức nhƣ những

câu châm ngôn sống bất hủ hoặc nhƣ những bài thơ. Trong nền âm nhạc Việt

Nam, Trịnh Công Sơn là một hiện tƣợng nhƣ vậy.

Với những vai trò và chức năng kể trên, ca từ là một phần không thể

thiếu trong âm nhạc. Vậy ca từ là gì? Theo Dƣơng Viết Á: “Trong loại hình

nghệ thuật âm nhạc, ngoài phần âm thanh đóng vai trò chính, còn phải dùng

đến ngôn ngữ, nói đúng hơn, đó là phần ngôn ngữ văn học trong âm nhạc (lời

ca trong ca khúc, hợp xƣớng; kịch bản trong nhạc cảnh, nhạc kịch; tên gọi,

tiêu đề của những bài hát, bản nhạc hoặc của từng chƣơng nhạc...). Tất cả

phần ngôn ngữ văn học trong âm nhạc, ta gọi chung trong một khái niệm: Ca

từ” [1, tr.13].

Với khái niệm nêu trên, áp dụng vào đề tài cụ thể nghiên cứu phƣơng

thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn, luận văn giới hạn nghiên cứu

26

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chỉ phần lời trong các ca khúc của ông.

1.2.2. Ngôn ngữ trong ca từ

Ngôn ngữ là chất liệu tạo nên ca từ. Giá trị của ca từ phụ thuộc vào

trình độ sử dụng ngôn ngữ của mỗi nhạc sĩ. Những ca từ có giá trị trƣớc hết

phải chuẩn về từ ngữ, đúng về ngữ pháp, chính xác về cú pháp, rõ ràng, trong

sáng về mặt diễn đạt... Trong nền âm nhạc Việt Nam, những nhạc sĩ có tên

tuổi cũng đồng thời là những ngƣời tạo ra những ca từ có giá trị mẫu mực,

nhƣ: Văn Cao, Huy Du, Đỗ Nhuận, Nguyễn Văn Tý... Họ là những ngƣời góp

phần quan trọng trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và chuẩn hoá nó

để phục vụ sự phát triển của tƣ duy, sự phát triển của trí tuệ con ngƣời Việt Nam.

Ngôn ngữ trong bài hỏt (ca từ) mang những đặc trƣng của ngôn ngữ

văn học, nhất là của ngôn ngữ thơ. Nhƣng thơ chủ yếu là để đọc, trong khi đó

lời ca chủ yếu là để hát và nghe theo giai điệu và tiết tấu nhất định. Rõ ràng

thơ và lời ca có hai cách tác động chủ yếu khác nhau: một bên thƣờng là thị

giác và một bên thƣờng là thính giác. Do sự khác nhau đó, ngôn ngữ trong bài

hỏt có những điểm khác so với ngụn ngữ trong thơ ca. Chẳng hạn:

Trong thơ ca, không nhà thơ nào lại viết liền một đoạn gồm toàn từ ngữ

tƣợng thanh, vì bài thơ viết ra để đọc (hoặc để nghe qua ngƣời khác đọc).

Nhƣng với lời ca, vì để hát lên và để nghe theo giai điệu và tiết tấu của âm

nhạc, một đoạn lời ca chỉ gồm những từ ngữ tƣợng thanh bỗng nhiên lại có

hồn, có sức sống. Sở dĩ có sự khác biệt này là do công cụ, phƣơng tiện diễn tả

chủ yếu của âm nhạc là âm thanh với giai điệu, tiết tấu, hoà thanh... Với

những phƣơng tiện đó, âm nhạc có một khả năng vô cùng to lớn trong việc tái

hiện cuộc sống thông qua thế giới âm thanh. Chính nhờ đặc trƣng này, âm

nhạc cho phép sử dụng những mô phỏng âm thanh trong cuộc sống xã hội và

tự nhiên để phản ánh hiện thực.

Tóm lại, ngôn ngữ trong tỏc phẩm ca từ là ngôn ngữ nghệ thuật đƣợc

chọn lọc, tinh luyện, giàu hình ảnh, nhạc điệu, đƣợc tổ chức một cách đặc thù

27

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhằm phản ánh cô đọng đời sống và biểu thị tinh tế mọi cung bậc tâm trạng

xúc cảm của con ngƣời. Nếu coi âm nhạc là một sản phẩm trí tuệ của nhân

loại thì ca từ là một bộ phận không thể thiếu của sản phẩm đó. Khi soạn ca từ,

ngoài những tình cảm xuất phát từ trái tim, ngƣời nhạc sĩ còn cần có sự đầu tƣ

của trí tuệ để lựa chọn ngôn ngữ một cách tinh tế, làm nên những khúc ca có

giá trị. Có thể nói một trong những giá trị của ca khúc là ở phần ca từ của tác

phẩm.

1.2.3. Hình tƣợng trong ca từ

Cũng nhƣ các loại hình nghệ thuật khác, âm nhạc phản ánh cuộc sống

thông qua hình tƣợng. Từ một ca khúc cho đến một bản giao hƣởng, một vở

nhạc kịch..., với những mức độ khác nhau, đều là những hình tƣợng nghệ thuật

phản ánh hiện thực, những bức tranh về cuộc sống con ngƣời trong một giai

đoạn lịch sử nhất định, thông qua cách nhìn riêng biệt và sự nhạy cảm của nhạc

sĩ.

Hình tƣợng nghệ thuật là một bức tranh vừa cụ thể vừa khái quát về

cuộc sống, về con ngƣời, đƣợc xây dựng bằng những biện pháp nghệ thuật

của nghệ sĩ. Trong ca từ, bức tranh đó đƣợc hiểu là bức tranh về tâm trạng của

những con ngƣời xã hội, và qua bức tranh đó, hoàn cảnh cũng đƣợc phản ánh

một cách sống động, rõ nét. Trong lời ca, tâm trạng có thể gắn với một hoàn

cảnh, một tình huống hoặc một câu chuyện, do đó tác giả vẫn có thể miêu tả,

tƣờng thuật (về cảnh, về việc). Nhƣng cảnh phải đƣợc gắn với tình, việc phải

đƣợc gắn với ngƣời, với cảm xúc. Trong những ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ

Đặng Thế Phong nhƣ Giọt mưa thu hay Con thuyền không bến..., lời ca hầu

nhƣ đều miêu tả (tả cảnh), song mỗi câu, mỗi từ đều trĩu nặng tình ngƣời và

nỗi lòng của “cái tôi” trữ tình.

Muốn có đƣợc sự cảm thông và sự rung động từ phía ngƣời nghe, hình

tƣợng ca từ trong tác phẩm âm nhạc phải có tính điển hình, tức là phải có sự

28

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

liên kết hữu cơ giữa cái riêng và cái chung, sự thống nhất thẩm mĩ giữa cái

cảm tính cụ thể và cái bản chất. Nếu nặng về cái chung, nhẹ về cái riêng, chỉ

thấy cái bản chất mà bỏ rơi cái cảm tính cụ thể, hình tƣợng trong ca từ sẽ trở

thành một chuỗi những khái niệm khô khan. Nhƣng nếu coi nhẹ cái chung mà

nặng về cái riêng, chạy theo cái cá biệt mà không nói lên đƣợc cái phổ biến,

có tính quy luật thì hình tƣợng trong ca từ sẽ trở nên lạc lõng, xa lạ với số

đông, với quần chúng. Vì vậy ngƣời nghệ sĩ phải biết sống thực sự với tình

cảm của con ngƣời thời đại, hoà nhịp đập trái tim mình với quần chúng nhân

dân thì mới sáng tạo đƣợc những tác phẩm nghệ thuật chân chính. Có nhƣ thế,

“cái tôi - nghệ sĩ” mới hoà chung với “cái ta - nhân dân”, cho dù trong trƣờng

hợp nghệ sĩ chỉ nói về cái tôi:

Ai về thủ đô tôi gửi vài lời

Tây Hồ mờ xa là nhà tôi đó

Ai về thành đô tôi gửi vài lời

Cho nhẹ lòng tôi năm tháng không nguôi

(Sẽ về thủ đô - Huy Du)

Đó là tâm trạng riêng của Huy Du: nhớ Hà Nội, nhớ quê hƣơng với biết

bao kỉ niệm. Thế nhƣng ngƣời nghe nhƣ thấy trong đó có nỗi lòng của mình,

bởi: ai xa quê hƣơng mà không nhớ thƣơng, vƣơng vấn; ai là ngƣời Việt Nam

yêu nƣớc đi kháng chiến mà không mong ngày về thủ đô - ngày tƣợng trƣng

cho chiến thắng.

1.2.4. Chủ thể cảm xúc trong ca từ

Chủ thể cảm xúc trong một tác phẩm âm nhạc, trong ca khúc, xét đến

cùng, chính là tác giả của tác phẩm ấy. Nhƣng không phải bao giờ tác giả

cũng “nhập vai” trong tác phẩm để ca hát, yêu thƣơng, căm giận, mơ ƣớc...

Cách thể hiện “cái tôi - tác giả” trong tác phẩm rất phong phú và đa dạng.

Có khi “cái tôi - tác giả” đƣợc biểu hiện trực tiếp trong bài hát, trong ca

từ. Ca khúc Mười năm tổ quốc tôi đã lớn của Hồng Đăng là một ví dụ:

29

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Khi tôi hát ngợi ca đất nước tôi anh dũng tuyệt vời

Đang ngày đêm trên tuyến đầu diệt quân cướp Mỹ

Khi tôi hát ca ngợi Đảng của tôi như ánh mặt trời

Trên đường dài dân tộc tôi đi đến vinh quang...

Tình yêu tha thiết đối với quê hƣơng, niềm tự hào kiêu hãnh về tổ quốc

anh hùng, niềm tin vào tiền đồ tƣơi sáng của đất nƣớc... là những cảm xúc của

tác giả đƣợc biểu hiện trực tiếp trong tác phẩm. Trong trƣờng hợp này, “cái

tôi - nhân vật” trong tác phẩm trùng khít với “cái tôi - tác giả” của nhạc sĩ.

Cũng có khi tác giả không nói đến “cái tôi”, nghĩa là trong lời ca không

có từ tôi nhƣng ngƣời nghe vẫn thấy rõ và xác định đƣợc chủ thể cảm xúc

trực tiếp trong tác phẩm chính là tác giả. Nếu nhƣ trong ca khúc Mười năm tổ

quốc tôi đã lớn (Hồng Đăng), tác giả đồng thời là nhân vật trữ tình trong tác

phẩm, xuất hiện trực tiếp và rõ ràng thì trong ca khúc Cô gái mở đường (Xuân

Giao), nhân vật trữ tình (tác giả) lại ẩn mình đi. Do đó các câu trong ca từ đều

thuộc vào loại có chủ ngữ ẩn. Ví dụ:

Đi giữa trời khuya sao đêm lấp lánh

Tiếng hát ai vang động cây rừng

Phải chăng em cô gái mở đường

Không thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát...

Ca khúc là lời của nhạc sĩ Xuân Giao trò chuyện với những cô gái mở

đƣờng. Tác giả đã bộc lộ tâm tình của mình và thể hiện sự yêu thƣơng, trân

trọng, ngợi ca những ngƣời con gái anh hùng. Trong toàn bộ ca khúc, “cái tôi

- tác giả” không hề xuất hiện nhƣng ta vẫn có thể nhận thấy sự hiện diện của

tác giả. Để thấy rõ hơn điều này, ta có thể viết lại những câu ẩn chủ ngữ thành

những câu có chủ ngữ nhƣ sau:

(Tôi) đi giữa trời khuya sao đêm lấp lánh

Tiếng hát ai vang động cây rừng

Phải chăng em cô gái mở đường

30

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Tôi) không thấy mặt người, (tôi) chỉ nghe tiếng hát...

Ai đi? Ai nghe tiếng hát? Ai lên tiếng hỏi?... Đó có thể chính là “tôi”, là

tác giả Xuân Giao. Ở đây, tác giả cũng là đại diện cho những ngƣời lính trên

đƣờng đi cứu nƣớc, đang trong rừng núi Trƣờng Sơn, với nỗi lòng xốn xang

khi nghe tiếng hát của các cô nữ thanh niên xung phong.

Ta còn có thể bắt gặp một dạng ẩn náu chủ thể cảm xúc khác nữa. Vẫn

là tác giả, đồng thời là nhân vật trữ tình, nhƣng “cái tôi - tác giả” trong tác

phẩm chỉ thấp thoáng hiện lên sau cảnh vật đƣợc nhắc tới. Trong Người Hà

Nội, Nguyễn Đình Thi đã viết:

Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây

Đây lắng hồn núi sông ngàn năm

Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội

Hà Nội mến yêu...

Trong những câu hát trên, cảnh Hà Nội hiện lên với Hồ Gƣơm, Hồng

Hà, Hồ Tây... Nhƣng đó không chỉ đơn thuần là cảnh. Cảnh ở đây quyện chặt

với tình, cảnh hiện lên qua tình. Những cảnh đó không phải đƣợc kể ra mà

đƣợc ca lên, đƣợc hát lên trong sự gắn bó với một giai điệu thiết tha, sâu lắng,

tràn đầy yêu thƣơng.

Có khi “cái tôi - tác giả” lại đựơc biểu hiện thông qua “cái tôi - nhân

vật trữ tình” đƣợc phản ánh trong tác phẩm. Ở đây, tác giả không trực tiếp

xuất hiện, nghĩa là chủ thể cảm xúc của tác phẩm không phải là tác giả, mà là

một nhân vật nào đó. Đó là trƣờng hợp các ca khúc nhƣ: Tôi, người lái xe (An

Chung), Thư ra tiền tuyến (Thái Cơ), Em là hoa Pơ - lang (Đức Minh)...

Ngƣời lái xe, ngƣời vợ ba đảm đang ở hậu phƣơng, cô gái Tây Nguyên… là

những nhân vật trữ tình. Trong những tác phẩm đó, ta bắt gặp trực tiếp tâm

trạng của từng ngƣời, qua tâm trạng của họ, có thể thấy đƣợc thái độ của tác

giả. Đó là lòng yêu thƣơng, thái độ trân trọng và nềm tự hào của tác giả đối

31

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

với phẩm chất cao đẹp của những con ngƣời trực tiếp làm nên lịch sử.

“Cái tôi - nhân vật trữ tình” cũng có lúc biểu hiện bằng “ta”. Trong ca

từ, tuy có nói đến “ta” nhƣng trong trƣờng hợp cụ thể nhất định, lại có nghĩa

là “tôi”. Ca khúc Chưa hết giặc ta chưa về của Huy Du là một ví dụ:

Nghe mênh mông tiếng Bác Hồ dậy non sông

Tuổi xanh ra đi chí anh hùng ta đánh Mỹ

Thề quyết giữ trọn tình đất nước anh em ta ơi

Tự do chính là niềm mơ ước anh em ta ơi

Đời chưa hết giặc là ta chưa về... Trong ca khúc này “ta” của tác giả Huy Du cũng là “tôi” - “cái tôi -

nhân vật trữ tình”. Ca khúc vừa là tâm tình của ngƣời chiến sĩ, vừa là lời “kêu

gọi” sự đồng tình của anh em đồng đội. Đó là một tâm trạng, một lời tự sự,

nhƣng đồng thời là một lời động viên, khích lệ, một lời hiệu triệu - tâm tình,

một lời kêu gọi hát lên từ trái tim.

“Nhƣ vậy, để tìm hiểu chủ thể cảm xúc trực tiếp trong tác phẩm là một

cá nhân hay một tập thể, không chỉ dựa vào một từ “tôi” hay một từ “ta” mà

có thể xác định đƣợc. Vấn đề là phải xem xét cách cảm xúc trong tác phẩm

xuất phát từ góc độ nào, từ cách nhìn, cách nghĩ, cách biểu hiện nào, và còn

phải đặt chủ thể cảm xúc trực tiếp ở tác phẩm ca từ trong mối tƣơng quan với

chất nhạc, với phong cách của tác giả” [1, tr.147].

1.3. TRỊNH CÔNG SƠN VÀ NHỮNG CA KHÚC CỦA ÔNG

1.3.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Trịnh Công Sơn

Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-2-1939 tại Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk

trong một gia đình gốc Huế. Ông là anh cả của 8 ngƣời em trai và gái. Cha

ông là một doanh nhân yêu nƣớc và tham gia chống Pháp. Mẹ ông là một

ngƣời đàn bà nhân hậu, đảm đang và có cảm nhận nghệ thuật rất tinh tế.

Năm 1943, khi Trịnh Công Sơn lên 4 tuổi, gia đình về lại Huế, ở tại

vùng Bến Ngự - một vùng đất xanh tƣơi, bên dòng sông An Cựu, nơi có nhiều

32

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chùa chiền, lăng tẩm. Tiếng chuông chùa và lời kinh thấm vào hồn ông từ tuổi

thơ. Điều đó giúp chúng ta hiểu vì sao những ca từ của ông về sau mang đậm

dấu ấn Thiền, Phật và giàu chất Huế.

Lên trung học, Trịnh Công Sơn học tại trƣờng Lycée Francais, rồi đổi

sang trƣờng Providence (Huế), rồi theo học ban Triết tại trƣờng Chasseloup-

Laubat (Sài Gòn). Ông là một trong những trí thức thấm nhuần văn hoá Pháp

và chịu ảnh hƣởng sâu sắc của nền triết học phƣơng Tây hiện đại ngay từ khi

còn rất trẻ.

Năm 1955, khi ông 15 tuổi, cha ông bị tai nạn giao thông qua đời. Cái

chết đột ngột thảm khốc của ngƣời cha là cú sốc đầu đời, ám ảnh ông thƣờng

trực. Từ đó, ông luôn suy nghĩ về sự sống và cái chết.

Thời niên thiếu, Trịnh Công Sơn là một chàng trai vui vẻ và khoẻ

mạnh, từng giành nhiều giải thƣởng thi đấu thể thao (chạy, cử tạ, judo...).

Điều gì sau đó đã đƣa ông trở thành một nhà thơ - nhạc sĩ “buồn bã và ốm

yếu” trong mắt của nhiều ngƣời?

Năm 1957, Trịnh Công Sơn 18 tuổi, một tai nạn bất ngờ đã thay đổi

cuộc đời ông. Lúc ấy ông đang học trung học, vào một ngày khi đang tập judo

với em trai, ông bị thƣơng nặng ở ngực và phải nằm liệt giƣờng gần hai năm

tại Huế. Trong thời gian nằm dƣỡng bệnh này, ông có nhiều thì giờ rảnh rỗi

để suy nghĩ về kiếp ngƣời và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên. Cũng trong

thời gian này, Trịnh Công Sơn bắt đầu chơi guitare và bắt đầu sáng tác.

Những ca khúc đầu tiên của ông mang tên Sương đêm và Chơi vơi đều chƣa

ấn hành.

Tai nạn trên là một cái rủi cho ông về thể xác nhƣng là một cái may cho

nền âm nhạc Việt Nam. Nếu nhƣ không có khúc quanh bất ngờ này, có lẽ ông

đã tiếp tục chơi thể thao, đi học tiếp và không chừng đã trở thành một bác sĩ,

hay kĩ sƣ..., và lịch sử âm nhạc Việt Nam sẽ không bao giờ có đƣợc một nhạc

33

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sĩ tài hoa nhƣ thế.

Ca khúc đƣợc in đầu tiên của Trịnh Công Sơn là bài Ướt mi, sáng tác

vào năm 1958 và công bố vào năm 1959, nói về giọt nƣớc mắt thuần khiết của

một ngƣời con gái.

Sau đó, đầu thập niên 60 của thế kỉ XX là thời kì Trịnh Công Sơn sáng

tác rất nhiều bản nhạc tình đã trở thành những kiệt tác ca khúc Việt Nam. Ở

Huế, thời gian này Trịnh Công Sơn đã rung động trƣớc hình ảnh một thiếu nữ

mảnh mai mang tên Ngô Thị Bích Diễm. Hình ảnh này là nguồn cảm hứng để

ông viết Diễm xưa và rất nhiều ca khúc khác.

Những năm 1962-1964, chiến tranh Việt Nam ngày càng tàn khốc,

thanh niên hầu hết đều bị động viên đi lính. Để hoãn quân dịch, Trịnh Công

Sơn rời Huế thi vào trƣờng Sƣ phạm Quy Nhơn. Ở nơi thành phố biển hiền

hoà, yên tĩnh này, ông đã sáng tác những tình ca nổi tiếng nhƣ Biển nhớ, Nhìn

những mùa thu đi, Nắng thuỷ tinh, Chiều một mình qua phố, Vết lăn trầm, Dã

tràng ca, Cát bụi...

Năm 1964, sau khi tốt nghiệp trƣờng Sƣ phạm Quy Nhơn, ông đƣợc

điều lên Bảo Lộc (Lâm Đồng) dạy học. Thời gian này, cuộc chiến ở Việt Nam

đã trở nên ác liệt. Năm 1965, quân đội Mỹ bắt đầu rầm rộ đổ bộ vào miền

Nam Việt Nam. Phong trào đấu tranh của Phật giáo và sinh viên dâng cao.

Giai đoạn 1965-1972, tâm trạng phản chiến trở thành nguồn cảm hứng

chủ đạo trong sáng tác của Trịnh Công Sơn. Ông bắt đầu sáng tác những bài

hát về thân phận con ngƣời trong chiến tranh, miêu tả cuộc sống đau đớn,

kinh hoàng đầy chết chóc hằng ngày của ngƣời dân, từ những ngƣời mẹ,

ngƣời vợ cho đến cụ già, em bé. Những bài hát của ông là tiếng kêu than

thống thiết của con ngƣời trong cuộc chiến. Tiêu biểu là những nhạc phẩm:

Gia tài của mẹ, Hát trên những xác người, Đàn bò vào thành phố, Người già

34

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

em bé, Người con gái Việt Nam, Tình ca người mất trí...

Vào năm 1965, tại Đà Lạt, Trịnh Công Sơn đã có cuộc gặp gỡ định

mệnh với ca sĩ Khánh Ly - ngƣời sau này đó thể hiện tuyệt vời những nhạc

phẩm của ông.

Cuối năm 1966, buổi ra mắt đầu tiên của ông và Khánh Ly trƣớc công

chúng Sài Gòn là khoảnh sân sau Trƣờng Đại học Văn khoa, với hàng ngàn

sinh viên và trí thức. Bằng chiếc ghi ta thùng đơn giản của ông và giọng ca

huyền thoại Khánh Ly, những bài tự tình quê hƣơng và thân phận con ngƣời

đƣợc hát vang lên và làm thức tỉnh, say đắm hàng ngàn khán giả cuồng nhiệt

đêm đó. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành một hiện tƣợng và rồi trở

thành thần tƣợng của lớp trẻ lúc bấy giờ.

Năm 1969, nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn nổi tiếng khắp thế

giới. Ông đƣợc xem là một Bob Dylan (nhạc sĩ phản chiến số 1 ở Mỹ) của

Việt Nam. Năm 1970, bài Diễm xưa đƣợc vào chung kết cuộc thi các bài hát

nƣớc ngoài ở Nhật, bài Ngủ đi con chiếm giải Đĩa vàng và đã phát hành trên

hai triệu bản.

Trịnh Công Sơn từ đó trở thành “kẻ du ca bất khuất” trên đất nƣớc đầy

bom đạn. Những sáng tác tiếp theo của ông với những ca từ mạnh mẽ trong

tập Kinh Việt Nam hay Ta phải thấy mặt trời, Nhân danh Việt Nam là tiếng

nói kêu gọi hoà bình và thống nhất đất nƣớc.

Tháng 4 năm 1975, chiến tranh chấm dứt, ông là ngƣời đầu tiên lên Đài

Phát thanh Sài Gòn hát vang bài Nối vòng tay lớn, một bài hát nói lên niềm

khao khát hoà bình, thống nhất.

Sau ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ, Trịnh Công Sơn ở lại Việt Nam khi

hầu hết ngƣời thân và bạn bè của ông đã rời đất nƣớc.

Trƣớc ngày 30/4/1975, có nhiều lời mời đƣa ông ra nƣớc ngoài của các

hãng thông tấn quốc tế. Nhƣng ông nói: “Việt Nam là nơi duy nhất tôi có thể

sống và sáng tác. Ở nƣớc ngoài, tôi không nghe ra tiếng nhạc trong đầu mình,

35

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tôi không nghe đƣợc câu thơ tôi viết ra. Tôi thích đi nƣớc ngoài, nhƣng nếu ở

lâu, tôi sẽ khô cạn và chết mất. Hơi ấm của dân tộc Việt Nam giống nhƣ nƣớc

cần thiết cho hoa vậy” (Theo [64, tr.140]).

Thế nhƣng, ở lại đất nƣớc trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, Trịnh Công Sơn

trở thành chứng nhân đồng thời cũng là nạn nhân của những thăng trầm lịch

sử trên mảnh đất thời hậu chiến.

Những năm đầu giải phóng, những ca khúc của Trịnh Công Sơn không

đƣợc phổ biến. Bản thân ông bị "kiểm điểm" bởi có ngƣời cho rằng ụng đã

làm nhạc phản chiến một cách chung chung, không phân biệt đƣợc chiến

tranh xâm lƣợc và chiến tranh giải phóng dân tộc (trong bài Gia tài của mẹ

với câu Hai mươi năm nội chiến từng ngày), thậm chí còn làm nhạc ca ngợi

địch trong bài Cho một người nằm xuống tỏ ý thƣơng tiếc một đại tá không

quân Sài Gòn.

Trong thời hậu chiến, cả nuớc rất khó khăn, và nhƣ bao ngƣời Việt

khác, Trịnh Công Sơn cũng đƣợc đƣa đi lao động sản xuất trên những cánh

đồng đầy bom đạn chƣa tháo gỡ. Thời gian này, ông không thể sáng tác đƣợc,

bởi một ngƣời viết tình ca mang tính triết lí trừu tƣợng nhƣ ông không thể

một sớm một chiều chuyển mạch sáng tác theo một đƣờng hƣớng khác.

Năm 1979, Trịnh Công Sơn từ giã Huế vào Sài Gòn.

Từ những năm 1980, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác lại. Tác phẩm

của ông sau chiến tranh có những bài nổi tiếng nhƣ: Chiều trên quê hương tôi,

Em còn nhớ hay em đã quên, Huyền thoại mẹ, Hà Nội mùa thu, Tiến thoái

lưỡng nan, Tôi ơi đừng tuyệt vọng, Lặng lẽ nơi này, Xin trả nợ người, Lời

thiên thu gọi... Những sáng tác này thƣờng là tình ca, không có bài hát nào

liên quan đến chiến tranh, chủ yếu là những tác phẩm viết cho phim. Những

tác phẩm sau này thƣờng nói lên thân phận con ngƣời, kiếp ngƣời trong cõi

36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tạm, mang đậm chất Thiền.

Năm 1983 và 1990, Trịnh Công Sơn đã hai lần có ý định lấy vợ nhƣng

đều không thành. Và trong tình yêu, ông rốt cuộc vẫn là chàng “lãng tử cô

độc” cho đến cuối đời.

Năm 1992, ngƣời mẹ kính yêu của Trịnh Công Sơn qua đời. Đây là một

mất mát quá lớn với ông. Ông viết: “Khi một ngƣời mất mẹ ở tuổi 50, điều ấy

có nghĩa là không còn gì có thể dàn xếp đƣợc. Cái sa mạc để lại trong lòng

bạn cứ thế mỗi ngày lan rộng ra và cõi lòng bạn thì tan nát nhƣ một cánh đồng

xanh tƣơi vừa trải qua một cơn bão lớn” (Theo [58, tr.9]).

Những năm 90 của thế kỉ XX, sau thời kì đổi mới của đất nƣớc, nhạc

của ông lại đƣợc hát rất nhiều trong các chƣơng trình ca nhạc, chủ yếu là

những bản tình ca. Những bài hát phản chiến của ông, vì một lí do nào đó,

vẫn chƣa đƣợc phép lƣu hành.

Những năm cuối đời, Trịnh Công Sơn thƣờng xuyên bị bệnh, sức khoẻ

giảm sút rõ rệt. Ông qua đời vào ngày 1/4/2001. “Con chim nhỏ hát chơi trên

đầu ngọn lau” không còn nữa, “vết chân dã tràng” in dấu trên cõi trần đúng 62

năm. Ca khúc cuối cùng, đƣợc ông sáng tác trên giƣờng bệnh là bài Biển

nghìn thu ở lại. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ngƣời nhạc sĩ tài hoa này

cũng sẽ “nghìn thu ở lại”.

Năm 2004, Trịnh Công Sơn đƣợc trao “Giải thƣởng Âm nhạc hoà bình

thế giới” vì lí tƣởng hoà bình mà ông đã đấu tranh không mệt mỏi cho hạnh

phúc của nhân loại.

Trong bộ từ điển bách khoa Pháp Le Million tập 8 trang 122 - Genève

1973, tên tuổi của Trịnh Công Sơn đƣợc nhắc đến nhƣ một thi nhân tiêu biểu

của Việt Nam: “... nhiều thi nhân Việt Nam ngày nay đã tìm hơi thở hùng ca

của tổ tiên ngày trƣớc để hát nỗi đau của mình. Trịnh Công Sơn nổi bật giữa

những tài năng trẻ đó. Bài hát của anh tràn ngập thành phố và thôn quê. Trịnh

Công Sơn cất cao tiếng hát thi nhân mà đạn bom không bao giờ dập tắt

37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đƣợc...” (Theo [64, tr.140]).

1.3.2. Khái quát về những ca khúc của Trịnh Công Sơn

Về số lƣợng ca khúc của Trịnh Công Sơn, công chúng thƣờng phỏng

đoán ông đã sáng tác khoảng trên 600 ca khúc. Tuy nhiên đây chỉ là sự phỏng

đoán vì không có những căn cứ cụ thể. Chính Trịnh Công Sơn, lúc sinh thời,

cũng không biết mình đã viết bao nhiêu ca khúc, vì thời chiến tranh sống cuộc

đời trốn tránh, lang bạt, ông không có điều kiện giữ gìn, và những sáng tác ấy

thất lạc khắp nơi.

Năm 1991, cô Yoshii Michiko, một sinh viên ngƣời Nhật làm luận văn

cao học về nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, đã sƣu tầm đƣợc 196 bài

hát, trên cơ sở tài liệu do chính Trịnh Công Sơn cung cấp dựa vào trí nhớ của

tác giả hoặc của các ca sĩ.

Mƣời năm, sau khi Trịnh Công Sơn qua đời năm 2001, những bạn bè

của ông ở trong và ngoài nƣớc đã sƣu tầm những bài hát của ông qua nhiều

nguồn. Ông Phạm Văn Đỉnh - Chủ tịch Hội Văn hoá Trịnh Công Sơn (Pháp)

đã kì công sƣu tầm đƣợc 288 bài, có chú thích năm tháng cẩn thận. Đây có thể

đƣợc coi là thƣ mục bài hát tìm đƣợc nhiều nhất tính đến thời điểm hiện nay.

Nhƣ vậy, căn cứ vào một số cứ liệu và qua quá trình tìm hiểu, có thể

nhận định Trịnh Công Sơn đã sáng tác khoảng hơn 300 ca khúc.

Những ca khúc của Trịnh Công Sơn về thực chất là nhật kí ghi lại

những suy tƣ, chiệm nghiệm của một con ngƣời bình thƣờng về những

khoảnh khắc, cảm xúc, tâm trạng trong nhiều giai đoạn, nhiều hoàn cảnh trải

dài trong suốt cuộc đời của mình. Trịnh Công Sơn từng viết: “Tôi chỉ là tên

hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những

giấc mơ đời hƣ ảo” (Theo [37, tr.223]).

Nhạc Trịnh thƣờng đƣợc xếp thành 3 mảng chính là: Tình yêu, Quê

hƣơng và Thân phận.

Tình yêu là đề tài lớn nhất trong tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Những

38

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bản tình ca chiếm đa số trong danh mục ca khúc của ông. Nhạc tình của Trịnh

Công Sơn đa số là nhạc buồn, thƣờng nói lên tâm trạng buồn chán, cô đơn

nhƣ trong Sương đêm, Uớt mi..., mang nỗi sầu li biệt nhƣ Diễm xưa, Biển

nhớ..., hay nuối tiếc những gì đã qua nhƣ Tình xa, Tình sầu, Tình nhớ, Em còn

nhớ hay em đã quên...

Những bài hát này có giai điệu nhẹ nhàng, thƣờng đƣợc viết với tiết tấu

chậm. Phần lời đƣợc đánh giá cao nhờ đậm chất thơ, bề ngoài mộc mạc nhƣng

rất thâm trầm sâu sắc, đôi khi mang những yếu tố tƣợng trƣng, siêu thực.

Nhạc tình của Trịnh Công Sơn rất phổ biến tại Việt Nam. Nhạc sĩ

Thanh Tùng từng gọi Trịnh Công Sơn là “Ngƣời Việt viết tình ca hay nhất thế

kỉ” [65].

Tiếp theo là mảng ca khúc về quê hƣơng. Mảng này lại chia thành các

ca khúc phản chiến (các tập nhạc Da vàng nổi tiếng thập kỉ 60, 70 trong

phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe) và các ca khúc ngợi ca con ngƣời xây

dựng tái thiết đất nƣớc sau năm 1975 (với những ca khúc nhƣ Em ở nông

trường em ra biên giới, Chiều trên quê hương tôi..., ngoài ra còn có những ca

khúc viết cho thiếu nhi nhƣ Em là hoa hồng nhỏ, Mẹ đi vắng..., và những bài

hát viết cho phim nhƣ Đời gọi em biết bao lần).

Trong mảng ca khúc viết về quê hƣơng, ngƣời ta chú ý nhiều đến

những ca khúc phản chiến mang tính chất chống chiến tranh, ca ngợi hoà

bình. Có thể kể đến những tập ca khúc phản chiến tiêu biểu nhƣ: Ca khúc da

vàng, Kinh Việt Nam, Phụ khúc da vàng...

Cuối cùng là mảng ca khúc về thân phận con ngƣời, đƣợc viết bằng sự

chiêm nghiệm về thân phận mình, thân phận ngƣời và cuộc đời với nội dung

sâu sắc, mang tính triết lí cao, làm nên tính “bác học” và “độc đáo” của nhạc

Trịnh. Những ca khúc tiêu biểu nhƣ: Bốn mùa thay lá, Phôi pha, Một cõi đi

về, Ngẫu nhiên, Tiến thoái lưỡng nan, Như một lời chia tay... Những ca khúc

này thƣờng nói về tính phù du của cuộc sống, của đời ngƣời:

39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Không hẹn mà đến không chờ mà đi

Bốn mùa thay lá thay hoa thay mãi đời ta (Bốn mùa thay lá)

Từ đó tác giả kêu gọi con ngƣời hãy yêu nguời: “hãy yêu nhau đi cho

gạch đá có tin vui” và yêu đời, bởi “cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ”.

Có lẽ ít có dòng nhạc nào có tầm ảnh hƣởng lớn nhƣ nhạc Trịnh. Trong

những năm tháng chiến tranh, nhạc của Trịnh Công Sơn chƣa đƣợc phép lƣu

hành, thế nhƣng những ngƣời lính ở cả hai bên chiến tuyến vẫn say sƣa hát

lên những ca khúc phản chiến, những bản tình ca và những bài tự tình quê

hƣơng, dân tộc của ông. Sau năm 1975, vì một số lí do, nhạc Trịnh Công Sơn

vẫn bị cấm biểu diễn trong một thời gian dài (cho đến cuối những năm 80 đầu

những năm 90 của thế kỉ XX - thời kì mở cửa, nhạc Trịnh Công Sơn mới

chính thức đƣợc phổ biến). Tuy nhiên, trong những năm chính quyền không

cho phép, trên khắp nẻo đƣờng đất nƣớc, từ những nơi núi rừng heo hút cho

đến chốn thị thành, ngƣời dân vẫn nghe và yêu nhạc Trịnh. “Ngày nay, đi đến

bất cứ nơi đâu trên trái đất này, nếu có cộng đồng ngƣời Việt sinh sống, thì

nơi đó có nhạc Trịnh Công Sơn” [33, tr.47].

Hãy nghe những lời phát biểu về tầm ảnh hƣởng của Trịnh Công Sơn

và âm nhạc của ông:

“Nguyễn Trọng Tạo: Ở Việt Nam thế kỷ XX, có hàng vạn ngƣời sáng

tác ca khúc, nhƣng có 3 ngƣời không ai là không biết, đấy là Văn Cao, Phạm

Duy và Trịnh Công Sơn. Trong 3 ngƣời đó, Trịnh Công Sơn là ngƣời ít tuổi

nhất và nhạc phẩm của anh xuất hiện sau đến vài chục năm, nhƣng hơn 500

bài hát của anh đƣợc ngƣời đời say đắm đến cuồng nhiệt đã tạo ra một hiện

tƣợng lạ lùng trong âm nhạc Việt thế kỷ XX. Anh thực sự là Ông Hoàng của

tình ca Việt Nam, nhƣng cũng là một nhạc sĩ “phản chiến”, một nhạc sĩ của

khát vọng hoà bình với cả trăm bài hát trong các tập Kinh Việt Nam và Ca

khúc da vàng.

Ca từ của anh không chỉ giàu chất thơ nhƣ ngƣời ta thƣờng nói, mà đấy

40

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

là những bài thơ thật sự, những bài thơ thấm đẫm triết lý về cuộc sống, về tình

yêu, về sự sinh ra và trở về Cát Bụi của thân phận ngƣời ngắn ngủi” (Theo

[46, tr.461]).

“Hoàng Bình Thi: Nỗi đam mê tình yêu lứa đôi không thay thế đƣợc

những điều lớn lao ở nhạc Trịnh Công Sơn, đó là nỗi đam mê nhận thức đời

sống, đeo đuổi cho đến cùng câu hỏi nghiệt ngã nhất “ta là ai?”. Nhƣ một đời

sống thứ hai đầy cám dỗ, âm nhạc của Trịnh Công Sơn đã khải thị những giá

trị thực của đời ngƣời. Nó chống lại sự xáo mòn, băng hoại. Không dồn đuổi

con ngƣời ta tới một nhịp sống gấp gáp, cũng không làm con ngƣời buông

xuôi trƣớc số phận mà là nhìn nhận một cách chân xác chỗ đứng đúng nghĩa

của con ngƣời.

Có lẽ tình yêu và nỗi đau phận ngƣời là những giá trị lớn nhất mà Trịnh

Công Sơn để lại. Đó là một gia tài đồ sộ đến mức thử giả định nếu không có

Trịnh Công Sơn, nếu không có âm nhạc của ông, đời sống của chúng ta sẽ

nghèo nàn và thảm hại đến nhƣờng nào” (Theo [46, tr.462]).

“Phạm Tuyên: Trong lĩnh vực ca khúc, lời ca có một vị trí hết sức quan

trọng và v mặt này Trịnh Công Sơn thực sự là một nhà thơ. Lời ca anh không

dễ dãi tuỳ tiện, mà luôn luôn ẩn sâu một triết lý về cuộc đời và điều đáng nói

là anh đã tìm đƣợc những giai điệu phù hợp, dung dị, không cầu kỳ, kiểu cách

để thể hiện nội dung đó. Đối với ngƣời sáng tác, có đƣợc một phong cách

riêng là một điều phải phấn đấu. Trịnh Công Sơn không chủ tâm tạo cho mình

một sự khác biệt lập dị, nhƣng bằng tình cảm chân thnàh của mình, anh đã có

đƣợc một phong cách rất riêng đƣợc sự mến mộ của đông đảo công chúng.

Sẽ còn có nhiều công trình nghiên cứu về hàng trăm ca khúc của anh

với những sự đánh giá có thể khác nhau, nhƣng phải khẳng định rằng sự

nghiệp sáng tác của anh đã góp phần xứng đáng vào nền ca khúc Việt Nam

hiện đại” (Theo [46, tr.463])...

41

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

TIỂU KẾT

- Ca từ đƣợc hiểu là ngôn ngữ văn học trong âm nhạc, bao gồm: lời ca

trong ca khúc, hợp xƣớng; kịch bản trong nhạc cảnh, nhạc kịch; tên gọi, tiêu

đề của những bài hát, bản nhạc hoặc của từng chƣơng nhạc… Trong âm nhạc,

ca từ có vai trò rất quan trọng. Nó bổ sung tính cụ thể, nối thêm sức truyền

cảm và mở cửa cho hình tƣợng nghệ thuật đi vào lòng ngƣời thƣởng thức.

- Ngôn ngữ trong ca từ là ngôn ngữ nghệ thuật đƣợc chọn lọc, tinh

luyện, giàu hình ảnh, nhạc điệu, có những đặc trƣng riêng biệt và đƣợc tổ

chức một cách đặc thù nhằm phản ánh cô đọng đời sống và biểu thị tinh tế

mọi cung bậc tâm trạng, cảm xúc của con ngƣời.

- Hình tƣợng trong ca từ là những hình tƣợng nghệ thuật, là bức tranh

tâm trạng, bức tranh cuộc sống của con ngƣời trong một giai đoạn lịch sử nhất

định, đƣợc phản ánh trong ca khúc qua góc nhìn và sự nhạy cảm của nhạc sĩ.

Hình tƣợng trong ca từ có tính điển hình và liên quan chặt chẽ với hình tƣợng

của toàn bộ tác phẩm âm nhạc.

- Chủ thể cảm xúc trong ca từ xét đến cùng chính là tác giả của những

ca từ ấy. Cách thể hiện “cái tôi - tác giả” trong tác phẩm rất phong phú và đa

dạng: có thể đƣợc biểu hiện trực tiếp trong tác phẩm, có thể đƣợc ẩn đi hoặc

thể hiện thông qua những nhân vật trữ tình.

- Một trong những phƣơng thức làm nên vẻ đẹp và nét độc đáo của

ngôn ngữ trong ca từ là so sánh. So sánh là cách sử dụng ngôn ngữ đặc biệt

trong quá trình sáng tạo ngôn từ nghệ thuật nói chung và ngôn ngữ trong ca từ

nói riêng. So sánh là một quá trình của sự nhận thức thế giới khách quan để

phát hiện và chỉ ra sự đồng nhất cũng nhƣ khác biệt về thuộc tính của các sự

vật đặt bên nhau. Trong âm nhạc, phƣơng thức này góp phần tạo nên những

lời ca hấp dẫn, giàu hình ảnh, đồng thời cho thấy một phần phong cách riêng

của tác giả, trong đó có nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn.

- Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ đã ghi lại dấu ấn đậm nét và cũng là

42

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một hiện tƣợng hiếm gặp trong nền âm nhạc Việt Nam. Với những ca khúc về

Quê hƣơng, Tình yêu và Thân phận con ngƣời, Trịnh Công Sơn đã tạo dựng

cho mình một dòng nhạc độc lập, có sức sống và vị trí riêng, đƣợc gọi với cái

tên bình dị, thân quen là Nhạc Trịnh. Những ca khúc của Trịnh Công Sơn có

tầm ảnh hƣởng lớn không chỉ trên lãnh thổ Việt Nam mà còn vƣợt biên giới

đến với những trái tim yêu nhạc ở nhiều nƣớc trên thế giới. Một trong những

yếu tố làm nên sức sống của nhạc Trịnh chính là phần ca từ và đó cũng là nơi

thể hiện sự tài hoa trong sử dụng tiếng Việt của ông, trong đó có sử dụng

43

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phƣơng thức so sánh.

CHƢƠNG 2 ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - CẤU TRÚC VÀ NGỮ NGHĨA CỦA PHƢƠNG THỨC SO SÁNH TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

2.1. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - CẤU TRÚC CỦA PHƢƠNG THỨC SO

SÁNH TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

2.1.1. Các kiểu cấu trúc so sánh

Trong 242 ca khúc đƣợc khảo sát, có 148 bài trong đó Trịnh Công Sơn

sử dụng phƣơng thức so sánh, thể hiện ở 406 lƣợt so sánh, với 13 kiểu cấu

trúc so sánh.

Sau đây là ví dụ và sự phân tích đối với từng kiểu cấu trúc:

- Cấu trúc A + tnss + B, ví dụ:

Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy

Để mắt em cười tựa lá bay (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui)

(Trong đó: A: mắt em cười

tnss: tựa

B: lá bay)

Và các ví dụ khác:

- Tình như đá hoài những chờ mong

Tình vu vơ sao ta muộn phiền (Nhƣ một lời chia tay)

- Trời nước bao la em như là chim én

Em trên xuồng qua rạch rồi lại nối qua sông

(Mênh mông Đồng Tháp)

- Chiều nay em ra phố về

Thấy đời mình là những quán không (Nghe những tàn phai)

- Đời ta có khi tựa lá cỏ

44

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ngồi hát ca rất tự do (Đêm thấy ta là thác đổ)...

Cấu trúc A + tnss + B đƣợc sử dụng 272/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 67%. Với

kiểu so sánh này, tác giả đã đồng nhất hoặc tƣơng tự hoá hai sự vật hiện tƣợng

khác loại (A và B), mặc dù chúng có rất nhiều đặc tính. Cách so sánh mở này

buộc ngƣời nghe phải suy ngẫm và liên tƣởng để chọn ra đặc tính nào (hoặc

những đặc tính nào) là căn bản và đƣợc xem là tồn tại ở hai sự vật hiện tƣợng

khác loại này, để tác giả lấy đó làm căn cứ so sánh.

- Cấu trúc A + x + tnss + B, ví dụ:

Bao nhiêu năm làm kiếp con người

Chợt một chiều tóc trắng như vôi (Cát bụi)

(Trong đó: A: tóc

x: trắng

tnss: như

B: vôi)

Và các ví dụ khác:

- Những hẹn hò từ nay khép lại

Thân nhẹ nhàng như mây (Nhƣ một lời chia tay)

- Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa

Em mướt xanh như ngọc mà tôi có đâu ngờ (Hoa xuân ca)

- Thương ai màu áo trắng

Trong như ánh sao băng (Thƣơng một ngƣời)

- Một chiều kia có em buồn buồn

Thân mong manh như lau sậy hiền (Níu tay nghìn trùng)…

Cấu trúc A + x + tnss + B đƣợc sử dụng 67/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 17%.

Với kiểu so sánh này, tác giả đã nêu ra một sự vật cùng với một đặc tính nhất

định của nó (A+x) để so sánh với một sự vật hiện tƣợng khác loại (B). Cách

so sánh này có tác dụng gợi dẫn ngƣời nghe tới một đặc tính nhất định,

45

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thƣờng là tồn tại hiển nhiên ở sự vật hiện tƣợng so sánh (B). Rốt cuộc sự so

sánh mang lại hiệu quả là gán cho sự vật đƣợc so sánh (A) đặc tính này của B,

trong hoàn cảnh cụ thể của ca khúc.

- Cấu trúc A + B, ví dụ:

- Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa

Em suối kia rất ngọt và tôi đứng hai bờ (Hoa xuân ca)

(Trong đó: A: em

B: suối kia rất ngọt)

Và các ví dụ khác:

- Sen hồng một độ

Em hồng một thủa xuân xanh (Đoá hoa vô thƣờng)

- Đời vẽ tôi tên mục đồng

Rồi vẽ thêm con ngựa hồng

Từ đó tôi lên đường phiêu linh (Chỉ có ta trong một đời)

- Một người ngồi hai mươi năm

Cuộc buồn vui ly rượu đắng (Ngày dài trên quê hƣơng)

- Rồi từ nay em gọi

Tình yêu dấu chim bay (Gọi tên bốn mùa)...

Cấu trúc A + B đƣợc sử dụng 34/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 8,4%. Đây là

kiểu cấu trúc vắng yếu tố phƣơng diện và yếu tố quan hệ, chỉ còn lại yếu tố

đƣợc so sánh (A) và yếu tố so sánh (B) đƣợc đặt dƣới hình thức đối chọi, và

sự liên kết giữa chúng không đƣợc hiển ngôn, chỉ căn cứ vào khả năng liên

tƣởng. Cách so sánh này khiến ngƣời nghe phải tìm ra những đặc tính của A

và những đặc tính của B để rồi tìm ra giao điểm của A và B tức là chọn ra đặc

tính chung nhất của hai đối tƣợng. Không những thế, ngƣời nghe còn phải suy

ngẫm để xác định quan hệ giữa A và B là quan hệ tƣơng tự hay quan hệ ngang

bằng.

- Cấu trúc x + tnss + B, ví dụ:

46

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ngày nay sao buồn thế

Những sáng hay đêm về

Vẫn thấy rất ơ hờ

Bình yên như kiếp đá (Ngày nay không còn bé)

(Trong đó: x: bình yên

tnss: như

B: kiếp đá)

Và các ví dụ khác:

- Một hôm bước chân về giữa chợ

Chợt thấy vui như trẻ thơ (Đêm thấy ta là thác đổ)

- Ôi nhân loại còn người và tôi thôi

Rồi lang thang như mây trời (Xin mặt trời ngủ yên)

- Một mai thức dậy

Chuyện trò với lá cây

Rồi buồn như lá bay (Tình sầu)...

Cấu trúc x + tnss + B đƣợc sử dụng 7/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 1,7%. Với

kiểu so sánh này, A - sự vật hiện tƣợng, thƣờng là chủ thể trữ tình đƣợc giấu

đi, chỉ nêu lên một đặc tính (chẳng hạn là bình yên). Đó là một sự vật hiện

tƣợng phiếm định, đƣợc ngầm hiểu có thể là ngƣời nói, là ngƣời kia, là cả hai,

hoặc ai đó... Là ai hay chẳng là ai cả? Điều đó gợi cho ngƣời nghe sự cảm nhận

rằng ca từ nhƣ lời tự truyện của tác giả, lại nhƣ kể chuyện đời hoặc kể chuyện

của chính ngƣời nghe vậy. Tức là ngƣời nghe có thể chỉ là nghe ngƣời khác kể

chuyện của họ, hoặc nghe kể về câu chuyện của chính mình. Điều đó tạo một

sự liên tƣởng và thành cơ sở của sự đồng cảm giữa ngƣời nghe và tác giả.

- Cấu trúc tnss + B, ví dụ:

Như là chim xa đàn

Giấu nỗi buồn trong cánh

Hẹn hò với giấc mơ (Cánh chim cô đơn)

47

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Trong đó: tnss: như là

B: chim xa đàn)

Và các ví dụ khác:

- Như là những bông hoa trong thành phố này

Tuổi đời mênh mông quá búp non đầu cây

(Tuổi đời mênh mông)

- Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà

Từ những phố kia tôi về (Đêm thấy ta là thác đổ)

- Như là mây giang hồ

Lang thang cùng với gió

Lạc loài nơi chốn xa (Cánh chim cô đơn)...

Cấu trúc tnss + B đƣợc sử dụng 6/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 1,5%. Trong cấu

trúc này, yếu tố so sánh và phƣơng diện so sánh đã đƣợc giấu đi, trở thành mơ

hồ. Ngƣời nghe muốn biết yếu tố so sánh ở đây là ai hay là gì và tác giả dựa

vào phƣơng diện nào để làm cơ sở so sánh thì phải đoán định căn cứ vào văn

cảnh cụ thể, đó là những câu hát đứng trƣớc hoặc sau nó.

- Cấu trúc A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)...,ví dụ:

Em là phấn thơm cho rừng chút hương

Là lời hát ca cho trần gian (Cho đời chút ơn)

(Trong đó: A: em

tnss1, tnss2: là

B1: phấn thơm cho rừng chút hương

B2: lời hát ca cho trần gian)

Và các ví dụ khác:

- Con chim về đậu bên người

Là thiên sứ đó là tôi cũng chừng (Thiên sứ bâng khuâng)

- Ngủ đời tên đi con như vết thương đau ngủ buồn

Như trùng dương đêm mắt thâm còn nghe ngóng (Vết lăn

48

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trầm)

- Cuộc tình lên cao vút

Như chim mỏi cánh rồi

Như chim xa lìa bầy

Như chim xa lìa trời

Như chim bỏ đường bay (Tình sầu)...

Cấu trúc A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)... đƣợc sử dụng 6/406 lƣợt,

chiếm tỉ lệ 1,5%. Nếu kiểu so sánh A + tss + B chỉ đồng nhất hoặc tƣơng tự

hoá hai sự vật hiện tƣợng khác loại, thì kiểu A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)...

đã đƣa ngƣời nghe tới những khả năng đa dạng hơn và yêu cầu đoán định trên

cơ sở liên tƣởng chọn lọc, liên kết nhiều đặc tính ở nhiều sự vật khác loại.

Điều đó giống nhƣ cách giải câu đố: Các vật vừa giống cái này, lại vừa giống

cái kia, và cái kia nữa..., đó là gì. Cách so sánh một sự vật hiện tƣợng với

nhiều sự vật hiện tƣợng đƣa ngƣời nghe tới một chuỗi liên tƣởng.

- Cấu trúc A + x + B. Ví dụ:

Ôi tóc em dài đêm thần thoại

Vùng tương lai chợt xa xôi

Tuổi xuân ơi sao lạnh dòng máu trong người (Gọi tên bốn mùa)

(Trong đó: A: tóc em

x: dài

B: đêm thần thoại)

Và các ví dụ khác:

- Ngủ đi em da thơm quả ngọt (Em hãy ngủ đi)

- Ngủ đi em tay xanh ngà ngọc (Em hãy ngủ đi)

Cấu trúc A + x + B đƣợc sử dụng 3/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 0,7%. Đây là

49

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

kiểu cấu trúc vắng từ ngữ so sánh. Với kiểu cấu trúc này, ngƣời nghe sẽ phải

đoán định đâu là ranh giới giữa yếu tố đƣợc so sánh, phƣơng diện so sánh và

yếu tố so sánh.

- Cấu trúc tnss + B + A + x, ví dụ:

Như một hòn bi xanh

Trái đất này quay tròn (Nhƣ hòn bi xanh)

(Trong đó: tnss: như

B: một hòn bi xanh

A: trái đất này

x: quay tròn)

Và ví dụ khác:

Như là cơn gió em còn cứ mãi bay đi (Hoa vàng mấy độ)

Cấu trúc tnss + B + A + x đƣợc sử dụng 2/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 0,5%.

Trong kiểu cấu trúc này, vị trí của các yếu tố so sánh đã đƣợc thay đổi: từ so

sánh thay vào vị trí của yếu tố đƣợc so sánh, yếu tố so sánh thay vào vị trí của

phƣơng diện so sánh, yếu tố đƣợc so sánh thay vào vị trí của từ so sánh, yếu

tố phƣơng diện thay vào vị trí của yếu tố so sánh. Với việc đảo trật tự cấu trúc

này, tác giả nhằm nhấn mạnh đến yếu tố phƣơng diện so sánh (bằng cách đặt

nó ở cuối câu).

- Cấu trúc A + x + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2), ví dụ:

Đời sao im vắng

Như đồng lúa gặt xong

Như rừng núi bỏ hoang (Ru ta ngậm ngùi)

(Trong đó: A: đời

x: im vắng

tnss1, tnss2: như

B1: đồng lúa gặt xong

B2: rừng núi bỏ hoang)

50

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Và ví dụ khác:

Ngày ngày tôi nhìn mặt mày anh em

Mịt mùng như đêm như sao bạc mệnh

(Một ngày vinh quang một ngày tuyệt vọng)

Cấu trúc A + x + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2) đƣợc sử dụng 2/406 lƣợt,

chiếm tỉ lệ 0,5%. Tƣơng tự cấu trúc A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)..., cấu

trúc này là cách so sánh một sự vật hiện tƣợng với nhiều sự vật hiện tƣợng.

Nhƣng nếu cấu trúc A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)... vắng cơ sở so sánh thì

trong cấu trúc A + x + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2), tác giả đƣa ra một thuộc

tính đƣợc coi là chung của cả yếu tố đƣợc so sánh và các yếu tố so sánh.

- Cấu trúc A + B1 + B2..., ví dụ:

Em đến bên đời hoa vàng một đoá

Một thoáng hương bay bên trời phố hạ (Hoa vàng mấy độ)

(Trong đó: A: em đến bên đời

B1: hoa vàng một đoá

B2: một thoáng hương bay bên trời phố hạ)

Và ví dụ khác:

Đường nhân loại một đường rất dài

Đường sau này mọi người sẽ tới

Đường tương lai không ai thù ghét ai

Đường lứa đôi (Có những con đƣờng)

Cấu trúc A + B1 + B2 đƣợc sử dụng 2/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 0,5%.

Trong cấu trúc này, một yếu tố đƣợc so sánh đƣợc đặt dƣới hình thức đối

chọi với nhiều yếu tố so sánh. Với cấu trúc này, tác giả đã đƣa ngƣời nghe

đến những liên tƣởng về thuộc tính chung không nói ra giữa yếu tố đƣợc so

sánh và những yếu tố so sánh, hoặc nói cách khác, dùng những yếu tố so sánh

để làm đa dạng hoá các thuộc tính của đối tƣợng đƣợc so sánh dƣới cái nhìn

riêng bệt của ngƣời nói.

- Cấu trúc A1 + A2 + tnss + B, ví dụ:

51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tôi yêu tôi sống như chưa bao giờ (Tôi sẽ nhớ)

(Trong đó: A1: tôi yêu

A2: tôi sống

tnss: như

B: chưa bao giờ)

Và ví dụ khác:

Em về giữa thiên nhiên em cười em nói

Như sóng đùa biển khơi (Tuổi đời mênh mông)

Cấu trúc A1 + A2 + tnss + B đƣợc sử dụng 2/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ

0,5%. Trong cấu trúc này, tác giả đã đƣa ra hai hay nhiều yếu tố đƣợc so sánh

để so sánh với một sự vật hiện tƣợng khác. Ở đây, tác giả đƣa ngƣời nghe đến

sự liên tƣởng đoán định những thuộc tính chung của các yếu tố đƣợc so sánh

và giữa các yếu tố đƣợc so sánh với yếu tố so sánh.

- Cấu trúc A + tnss, ví dụ:

Chiều trên quê hương tôi

Ước bao nhiêu điều đã trôi qua

Có riêng em cuộc đời sẽ nhớ

Nét quê hương nghìn năm vẫn là

(Chiều trên quê hƣơng tôi)

(Trong đó: A: nét quê hương nghìn năm

tnss: là)

Cấu trúc A + tnss đƣợc sử dụng 1/409 lƣợt, chiếm tỉ lệ 0,2%. Đây là

một cách so sánh rất độc đáo của Trịnh Công Sơn. Trong cấu trúc này, yếu tố

so sánh đã đƣợc ngầm ẩn, không đƣợc hiện diện trên văn bản. Nét quê hương

nghìn năm vẫn là. Ngƣời nghe sẽ đặt câu hỏi: Là gì? Cũng nhƣ đã từng đặt

câu hỏi cho những câu bỏ lửng của ông: Có chút bồi hồi trong phút chia ly.

Có những mặt người không yêu là vì. Là vì sao? Hay: Người tình kia mất con

đường về. Và trời kia mất em từ độ. Từ độ nào?... Để trả lời những câu hỏi

52

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

này, ngƣời nghe sẽ phải căn cứ vào nội dung và hoàn cảnh của bài hát và cũng

có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Quay trở lại với cấu trúc so sánh đã

dẫn: ở đây, nét quê hương nghìn năm có thể là tất cả những gì bình dị của

cuộc sống mà tác giả cảm nhận trong buổi chiều trên quê hƣơng. Đó là nét

quê hƣơng nghìn năm vẫn còn nguyên vẹn không phải trên những lăng tẩm

đền đài, những di tích văn hoá mà trên những “con đƣờng lứa đôi”, “những

góc hè phố vui”...- những điều bình dị, thân quen trên quê hƣơng yên bình.

- Cấu trúc A1 + A2 + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2), ví dụ:

Mầm xanh trên những cây già

Màu lá chuối non vườn xưa

Là búp sen con bên hồ

Là ánh nắng mai bên nhà

(Đời sống không già vì có chúng em)

(Trong đó: A1: mầm xanh trên những cây già

A2: màu lá chuối non vườn xưa

tnss1, tnss2: là

B1: búp sen con bên hồ

B2: ánh nắng mai bên nhà)

Cấu trúc A1 + A2 + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2) đƣợc sử dụng 1/409

lƣợt, chiếm tỉ lệ 0,2%. Với kiểu cấu trúc này, tác giả đã đƣa ra liên tiếp hai

yếu tố đƣợc so sánh rồi mới tiếp đến là: từ so sánh và yếu tố so sánh. Ngƣời

nghe sẽ phải ngầm hiểu ở đâyA1 đƣợc so sánh với B1, A2 đƣợc so sánh với

B2, hoặc cả A1 và A2 đƣợc so sánh với B1 và B2 và sẽ phải tìm ra thuộc tính

chung giữa A1 và B1, A2 và B2, hoặc giữa chúng với nhau.

Sự liệt kê các kiểu cấu trúc và số lƣợt cụ thể của các kiểu cấu trúc đƣợc

53

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trình bày trong bảng sau (Bảng 2.1):

STT Kiểu cấu trúc so sánh Số lƣợt Tỉ lệ %

1 A + tnss + B 272 67

2 A + x + tnss + B 67 17

3 A + B 34 8,3

4 x + tnss + B 7 1,6

5 tnss + B 6 1,5

6 A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)... 6 1,5

7 A + x + B 3 0,7

8 tnss + B + A + x 2 0,5

9 A + x + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2) 2 0,5

10 A + B1 + B2... 2 0,5

11 A1 + A2 + tnss + B 2 0,5

12 A + tnss 1 0,2

13 1 0,2 A1 + A2 + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)

Tổng số 406 100

BẢNG 2.1

Một số nhận xét:

- Các kiểu cấu trúc so sánh trong ca từ Trịnh Công Sơn rất đa dạng và

phong phú. Ngoài mô hình cấu trúc so sánh đầy đủ gồm bốn yếu tố (yếu tố

đƣợc so sánh, phƣơng diện so sánh, từ so sánh, yếu tố so sánh), Trịnh Công

Sơn đã tạo ra các mô hình lƣợc bỏ yếu tố, các mô hình đảo trật tự.

- Trong 13 kiểu cấu trúc so sánh đƣợc ông sử dụng, kiểu cấu trúc A +

tnss + B đƣợc ƣa dùng nhất, tiếp đó là các kiểu A + x + tnss + B; A + B. Các

54

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

kiểu cấu trúc còn lại tuy có số lƣợt sử dụng không nhiều (có kiểu cấu trúc chỉ

xuất hiện một hoặc hai lần). Nhƣng chính những biến thể đặc biệt này đã thể

hiện sự biến hoá sinh động và kì thú trong việc sử dụng ngôn từ trong phƣơng

thức so sánh của Trịnh Công Sơn.

2.1.2. Đặc điểm của yếu tố đƣợc so sánh

a. Yếu tố đƣợc so sánh là các từ, bao gồm:

- Danh từ (đêm, quê hương, tình yêu, mẹ, mưa, em, tôi, tóc...), ví dụ:

- Đêm yên như phố cổ

Chút tình duyên xôn xao (Đêm)

- Quê hƣơng là cuộc đời

Những đứa trẻ mồt côi (Nhƣng hôm nay)

- Tình yêu như trái chín

Trên cây rụng rời (Tình sầu)

- Mẹ là gió uốn quanh

Trên đời con thầm lặng (Huyền thoại mẹ)

- Mƣa như từng giọt rượu hờ

Đêm trong thành phố ai chờ đợi ai (Mƣa mùa hạ)...

Yếu tố đƣợc so sánh là danh từ đƣợc sử dụng 176/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ

42%, chủ yếu là những từ chỉ ngƣời và những gì thuộc con ngƣời.

- Động từ (nhìn, lao động, giã từ...), ví dụ:

- Phố em phố nhỏ đỏ đỏ mắt nhìn

Nhìn như muốn khóc khóc giọt đỏ điều (Hạt điều khăn điều)

- Rèn đôi tay

Chắc đôi chân

Lao động là vinh quang

(Khăn quàng thắp sáng bình minh)...

Yếu tố đƣợc so sánh là động từ đƣợc sử dụng 3/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ

55

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

0,75%, đều là những từ chỉ hoạt động của con ngƣời.

- Tính từ (mênh mông, lận đận, buồn...), ví dụ:

- Thằng bé xinh xinh ra đồng giữa ngọ

Thả con diều nhỏ bay giữa mênh mông

Mênh mông là trời bầu trời mênh mông (Ra đồng giữa)

- Tiến thoái lưỡng nan

Đi về lận đận

Ngày nay lận đận

Là giọt hư không (Tiến thoái lƣỡng nan)...

Yếu tố đƣợc so sánh là tính từ đƣợc sử dụng 3/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ

0,75%, thƣờng là những từ chỉ tâm trang, hoàn cảnh của con ngƣời.

b. Yếu tố đuợc so sánh là các đoản ngữ (cụm từ), bao gồm:

- Danh ngữ (đoá hoa vàng mỏng manh cuối trời, đôi môi em, vùng sông

hồ đó, tiếng ru mẹ hát những năm xưa, chuyện ngày xưa ấy, trăm câu nói,

một rừng cờ, những bạn bè...), ví dụ:

- Đoá hoa vàng mỏng manh cuối trời

Như một lời chia tay (Nhƣ một lời chia tay)

- Ngoài phố mùa đông

Đôi môi em là đốm lửa hồng (Ru đời đi nhé)

- Về phía đồi xa rừng xưa đứng kể

Vùng sông hồ đó là nguồn sáng bây giờ (Về giữa Trị An)

- Tiếng ru mẹ hát những năm xƣa

Mãi là lời ca dao bốn mùa (Tình yêu tìm thấy)

- Đi trong hạnh phúc quê nhà

Chuyện ngày xƣa ấy bỗng là chiêm bao

(Hai mƣơi mùa nắng hạ)...

Yếu tố đƣợc so sánh là danh ngữ đƣợc sử dụng 157/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ

39,4%, chủ yếu là những danh ngữ chỉ các sự vật hiện tƣợng cụ thể hoặc trừu

56

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tƣợng.

- Động ngữ (dựng người mới, sống tới, gặp nhau, nằm chết...), ví dụ:

- Dựng ngƣời mới như cây sang mùa

Người vượt tới những trời xa (Dựng lại ngƣời dựng lại nhà)

- Đời cho ta thế hãy cứ sống tới như mọi ai

Mặc dòng sông kia sẽ cuốn đất đá ra biển khơi (Đời cho ta

thế)

- Gặp nhau mừng như bão cát

Quay cuồng trời rộng (Nối vòng tay lớn)...

Yếu tố đƣợc so sánh là động ngữ đƣợc sử dụng 11/398 lƣợt, chiếm tỉ

lệ2,8%, chủ yếu là những động ngữ chỉ hoạt động của con ngƣời.

- Cụm chủ vị (C - V) (tôi đã yêu em, em ra đi, từng người tình bỏ ta đi,

lúa reo mừng, tôi mơ có cuộc tình, người đi, anh nằm xuống...), ví dụ :

- Tôi đã yêu em như trẻ thơ

Đâu biết đôi khi có lìa xa

Yêu trong nỗi đau tình cờ (Trong nỗi đau tình cờ)

- Em ra đi như thoáng gió thầm

Để lại đây thành phố không hồn (Tạ ơn)

- Từng ngƣời tình bỏ ta đi

Như những dòng sông nhỏ (Tình xa)

- Tôi chon nắng đầy chọn cơn mưa tới

Để lúa reo mừng tựa vẫy tay

(Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui)...

Yếu tố đƣợc so sánh là cụm chủ - vị (C - V) đƣợc sử dụng 48/398 lƣợt,

chiếm tỉ lệ 12,1%, thƣờng đƣợc dùng để chỉ những hoạt động của con ngƣời.

Tần số xuất hiện các dạng của yếu tố đƣợc so sánh đƣợc trình bày trong

57

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bảng sau (Bảng 2.2):

Số lƣợng Số lƣợt Tổng số Dạng

176 44.2% danh từ

3 0.75% động từ Từ 182 45,7%

tính từ 3 0.75%

danh ngữ 157 39.4% Đoản ngữ cụm chủ - vị (C - V) 48 12.1% 216 54,3% (cụm từ) động ngữ 11 2.8%

Tổng 398 100%

BẢNG 2.2

Một số nhận xét:

- Trịnh Công Sơn thƣờng dùng các từ (danh từ, động từ, tính từ) và các

đoản ngữ (cụm từ) (danh ngữ, cụm chủ vị (C - V), động ngữ) làm yếu tố đƣợc

so sánh. Tần số xuất hiện của yếu tố đƣợc so sánh là các từ và yếu tố đƣợc so

sánh là các cụm từ là ngang bằng nhau.

- Ở yếu tố đƣợc so sánh là các cụm từ, thƣờng đƣợc dùng là danh ngữ

và cụm C - V, ít dùng động ngữ.

- Ở yếu tố đƣợc so sánh là các từ, thƣờng đƣợc dùng là danh từ, rất ít

trƣờng hợp động từ và tính từ làm yếu tố đƣợc so sánh.

- Sở dĩ để thể hiện yếu tố đƣợc so sánh, thƣờng đƣợc dùng là danh từ

và danh ngữ, ít dùng động từ, tính từ và động ngữ, bởi yếu tố đƣợc so sánh

thƣờng là sự vật hoặc những sự vật với thuộc tính của nó, ít có trƣờng hợp

yếu tố đƣợc so sánh là tính chất hoặc hành động.

2.1.3. Đặc điểm của yếu tố so sánh

a. Yếu tố so sánh là các từ, bao gồm:

- Danh từ (đá, đêm, rơm, lá, nấm, mây, gió, sông, hoa, em, tôi, núi, đèo,

nỗi nhớ, bài thơ...), ví dụ:

- Người chợt nhớ mình như đá

58

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đá lăn vết lăn buồn (Vết lăn trầm)

- Từ đó ta là đêm

Nở đoá hoa vô thường (Đoá hoa vô thƣờng)

- Mẹ cha tóc khô như rơm

Chờ đàn con đã đi bao năm không về (Dân ta vẫn sống)

- Bao tâm hồn xanh như lá

Cùng hân hoan với quê nhà (Đồng dao 2000)

- Khi đất nước tôi thanh bình

Tôi sẽ đi thăm

Tôi sẽ đi thăm nhiều nghĩa địa buồn

Đi xem mộ bia nhiều như nấm (Tôi sẽ đi thăm)...

Yếu tố so sánh là danh từ đƣợc sử dụng 85/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 20,3%,

chủ yếu là những danh từ chỉ những sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên.

- Động từ (than phiền, gặp, lo sợ...), ví dụ:

- Cuộc đời đó nửa đêm tiếng ca lên như than phiền

(Dấu chân địa đàng)

- Giã từ mà vui hơn gặp (Trả lại em)...

Yếu tố so sánh là động từ đƣợc sử dụng 7/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 1,7%,

thƣờng là những động từ chỉ hoạt động của con ngƣời.

- Tính từ (chơi vơi, vô tận...), ví dụ:

- Ngoài hiên mưa rơi rơi

Lòng ai như chơi vơi

Người ơi nước mắt hoen mi rồi (ƣớt mi)

- Đời như vô tận...

Một mình tôi về với tôi (Lặng lẽ nơi này)

Yếu tố so sánh là tính từ đƣợc sử dụng 5/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ1,2%,

thƣờng là những tính từ chỉ tâm trạng và cảm xúc của con ngƣời.

59

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

b. Yếu tố so sánh là các đoản ngữ (cụm từ), bao gồm:

- Danh ngữ (nắng ban mai, một tiếng hát cho nhau, khăn mới thêu, giấc

mộng giữa đời, tia nắng trong không gian xanh tươi, mùa xuân của mẹ, màu

nắng của cha...), ví dụ:

- Một loài chim mới đến

Vui như nắng ban mai (Môi hồng đào)

- Sóng xô trời chiều để nhớ tóc người yêu

Biển lăng yên là một tiếng hát cho nhau (Biển sáng)

- Còn nơi nào biết những chuyện tình

Tựa như chuyện những đoá hoa quỳnh

(Chuyện đoá quỳnh hƣơng)

- Mười năm xưa đúng bên bờ dậu

Đường xanh hoa muối bay rì rào

Có người lòng như khăn mới thêu

(Có một dòng sông đã qua đời)

- Đêm trăng với đèn lồng thay nắng

Em như giấc mộng giữa đời (Tết suối hồng)...

Yếu tố so sánh là danh ngữ đƣợc sử dụng 252/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ

60,1%, chủ yếu là những danh ngữ chỉ những sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới

tự nhên.

- Động ngữ (yêu đồng lúa chín, hẹn chết mai đây, mơ ước được gần với

những nụ hồng, vừa đến nơi chia lìa, vẫy tay...), ví dụ:

- Người con gái Việt Nam da vàng

Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín

(Ngƣời con gái Việt Nam da vàng)

- Còn sống một ngày

Là hẹn chết mai đây (Buồn từng phút giây)

60

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Ngày xưa khi còn bé

Tôi mơ có cuộc tình

Như mơ ƣớc đƣợc gần

Với những nụ hồng ( Ngày nay không còn bé)...

Yếu tố so sánh là động ngữ đƣợc sử dụng 12/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ

2,9%, thƣờng là những động ngữ chỉ hoạt động của con ngƣời.

- Tính ngữ (đã nát nhầu đam mê, im vắng tiếng rơi khô, trẻ ra...), ví dụ:

- Vây quanh bốn phía kinh cầu

Lòng ta như đã nát nhầu đam mê (Lời ở phố về)

- Đời rộng thênh như im vắng tiếng rơi khô (Từng ngày qua)

- Vì có chúng em nên đời sống như trẻ ra

(Đời sống không già vì có chúng em)...

Yếu tố so sánh là tính ngữ đƣợc sử dụng 6/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 1,4%,

thƣờng là những tính ngữ miêu tả tâm trạng và thuộc tính của con ngƣời.

- Cụm chủ - vị (C - V) (cánh vạc về chốn xa xôi, chiếc thoi đưa, từng

viên đá cuội rớt vào lòng bển khơi, cánh chim chìm xuống, bàn chân tiến lên

không ngừng, lá bay...), ví dụ:

- Vai em gầy guộc nhỏ

Như cánh vạc về chốn xa xôi (Nhƣ cánh vạc bay)

- Những đường sông lạch gần xa

Ghe xuồng như chiếc thoi đƣa (Mênh mông Đồng Tháp)

- Những bước chân mềm mại

Đã đi vào đời người

Như từng viên đá cuội

Rớt vào lòng biển khơi (Tình nhớ)

- Vườn cỏ còn xanh

Mặt trời còn lên

Khi bóng anh như cánh chim chìm xuống

61

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Cho một ngƣời nằm xuống)...

Yếu tố so sánh là cụm chủ - vị (C - V) đƣợc sử dụng 52/419 lƣợt,

chiếm tỉ lệ 12,4%, chủ yếu đƣợc dùng để chỉ những hoạt động của thế giới tự

nhiên và con ngƣời.

Tần số xuất hiện các dạng của yếu tố so sánh đƣợc trình bày trong bảng

sau (Bảng 2.3):

Số lƣợng Số lƣợt Tổng số Dạng

85 20.3% danh từ

7 1.7% động từ Từ 97 23.2%

tính từ 5 1.2%

danh ngữ 252 60.1%

cụm chủ - vị (C - V) 52 12.4% Đoản ngữ 322 76.8% (cụm từ) động ngữ 12 2.9%

tính ngữ 6 1.4%

Tổng 419 100%

BẢNG 2.3

Một số nhận xét:

- Trịnh Công Sơn thƣờng dùng các từ (danh từ, động từ, tính từ) và các

đoản ngữ (cụm từ) (danh ngữ, cụm chủ vị (C - V), động ngữ) làm yếu tố so

sánh. Trong đó, yếu tố so sánh là các cụm từ có tần số xuất hiện nhiều hơn

hẳn, bởi yếu tố so sánh thƣờng đƣợc mở rộng bằng việc thêm những chi tiết

miêu tả.

- Ở yếu tố so sánh là các cụm từ, thƣờng đƣợc dùng là danh ngữ và

cụm C - V, ít dùng động ngữ và tính ngữ.

- Ở yếu tố so sánh là các từ, thƣờng đƣợc dùng là danh từ, rất ít trƣờng

62

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hợp động từ và tính từ làm yếu tố so sánh,

- Sở dĩ để thể hiện yếu tố so sánh, thƣờng đƣợc dùng là danh từ và danh

ngữ, ít dùng động từ, tính từ và động ngữ, tính ngữ, bởi yếu tố so sánh thƣờng

là sự vật hoặc những sự vật với thuộc tính của nó, ít có trƣờng hợp yếu tố so

sánh là tính chất hoặc hành động.

2.1.4. Đặc điểm của các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh

a. Các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh

Trong 406 lƣợt so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn, có 8 từ ngữ

biểu thị quan hệ so sánh, với tần số xuất hiện đƣợc trình bày trong bảng sau

(Bảng 2.4):

STT Từ ngữ so sánh Số lƣợt Tỉ lệ %

1 như 221 57,1

2 là 132 34,1

3 tựa 12 3,1

4 như là 9 2,4

5 tựa như 5 1,3

6 hơn 4 1

7 bằng 2 0,5

8 cũng như 2 0,5

387 100 Tổng số

BẢNG 2.4

b. Cách sử dụng từ ngữ so sánh trong các kiểu so sánh

- So sánh ngang bằng: Kiểu so sánh này sử dụng các từ so sánh: là

(132 lƣợt), bằng (2 lƣợt). Ví dụ:

63

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Có khi mưa ngoài trời Là giọt nước mắt em

Đã nương theo vào đời

Làm từng nỗi ưu phiền (Ru đời đi nhé)

- Nắng có hồng bằng đôi môi em

Mưa có buồn bằng đôi mắt em (Nhƣ cánh vạc bay)

- Một ngày tình cờ biết em

Là ngày lạ lùng biết trần gian (Còn thấy mặt ngƣời)...

- So sánh tƣơng tự: Kiểu so sánh này sử dụng các từ ngữ so sánh: như

(221 lƣợt), tựa (12 lƣợt), như là (9 lƣợt), tựa như (5 lƣợt), cũng như (2 lƣợt), ví

dụ:

- Em đã đi chìm khuất đã theo

Em đã nhƣ ngọn gió quạnh hiu (Còn ai với ai)

- Lá khô vì đợi chờ

Cũng nhƣ đời người mãi âm u (Nhƣ cánh vạc bay)

- Từ trên đất này những con người mới

Mọc lên tựa tia nắng giữa chân trời

(Em ở nông trƣờng em ra biên giới)

- Có những chàng trai vì quá yêu biển khơi

Lòng thênh thang tựa nhƣ những áng mây trôi (Biển

sáng)

- Tôi nhƣ là người một hôm quay lại

Vì nghe sa mạc nối dài (Tự tình khúc)...

- So sánh dị biệt hơn: Trong kiểu so sánh này, tác giả chỉ sử dụng từ so

sánh hơn với 4 lƣợt, ví dụ:

- Một sớm thanh bình

Giọng cười em vút cao hơn bình minh

(Cánh đồng hoà bình)

- Một ngày mà lòng vui sướng hơn muôn nghìn năm

(Cánh đồng hoà bình)

Tần số xuất hiện của các từ ngữ so sánh trong các kiểu so sánh đƣợc

64

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trình bày trong bảng sau (Bảng 2.5):

Kiểu Từ ngữ so sánh Số lƣợt Tỉ lệ %

như, tựa, như là, So sánh tƣơng tự 249 64,3 tựa như, cũng như

So sánh ngang bằng là, bằng 134 34,6

So sánh dị biệt hơn hơn 4 1,1

Tổng số 387 100

BẢNG 2.5

Một số nhận xét:

- Yếu tố biểu thị quan hệ so sánh (từ ngữ so sánh) có thể là các từ đơn

tiết (như, là, tựa, hơn, bằng) hoặc cụm từ (như là, tựa như, cũng như), trong

đó thƣờng gặp là các từ đơn tiết (có tần số sử dụng lớn).

- Các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh trong kiểu so sánh tƣơng tự đƣợc

sử dụng với tần số cao nhất (đặc biệt là từ như), tiếp đến là trong kiểu so sánh

ngang bằng (đặc biệt là từ là). Tần số xuất hiện của từ ngữ so sánh trong kiểu

so sánh dị biệt hơn chiếm một số lƣợng rất nhỏ.

- Trong ca từ Trịnh Công Sơn, so sánh tƣơng tự đƣợc sử dụng nhiều

nhất, tiếp theo là so sánh ngang bằng và so sánh dị biệt hơn. Đặc biệt, không

có sự xuất hiện của so sánh dị biệt kém.

2.2. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA PHƢƠNG THỨC SO SÁNH TRONG

CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

2.2.1. Đặc điểm của yếu tố đƣợc so sánh

Yếu tố đƣợc so sánh trong ca từ Trịnh Công Sơn phản ánh thế giới sự

vật, hiện tƣợng trong cái nhìn riêng của tác giả. Trong thế giới ấy, có hai

phạm trù đƣợc nhạc sĩ chú ý và thể hiện trong ca khúc của mình, đặc biệt

trong phƣơng thức so sánh. Đó là: những gì thuộc con ngƣời và những gì bên

ngoài con ngƣời (thế giới tự nhiên, xã hội).

65

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

a. Yếu tố đƣợc so sánh là ngƣời và những gì thuộc con ngƣời

- Yếu tố đƣợc so sánh là các nhân vật trữ tình, đƣợc biểu thị bằng các

từ ngữ: tôi, ta, mình, em, anh, mẹ, Bống, chúng em, anh hùng, những đứa

con... Ví dụ:

- Tôi như con chim bệnh

Thiếu hạnh phúc trần gian

Có những tháng mùa đông

Ngồi khóc rất âm thầm (Nhƣ chim ƣu phiền)

- Tôi vẫn nhìn thấy em

Giữa đám đông xa lạ

Vì em như hoa lá

Giữa thiên nhiên hiền hoà (Em đến từ nghìn xƣa)

- Mẹ là nước chứa chan

Trôi dùm con phiền muôn

Cho đời mãi trong lành

Mẹ chìm dưới gian nan (Huyền thoại mẹ)

- Đừng buồn chi em ta như giọt lệ vô tình

Cười lên em nhé dẫu đau lòng (Xác ta xác thù)

- Lòng tôi có khi mơ hồ

Tưởng mình đang là cơn gió

- Em sẽ là mùa xuân của mẹ

Em sẽ là màu nắng của cha (Em sẽ là hoa hồng nhỏ)...

Yếu tố so sánh là những nhân vật trữ tình đƣợc sử dụng 96/398 lƣợt,

chiếm tỉ lệ 24,1%, trong đó tôi và em là hai nhân vật xuất hiện rất nhiều lần

trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn. Tôi có thể là chính tác giả với sự

thổ lộ, giãi bày những suy nghĩ, tình cảm, những chiêm nghiệm của bản thân,

có khi là sự nói hộ ngƣời nghe qua những ca từ vừa đƣợm màu sắc trữ tình,

66

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lại vừa giàu tính triết lí. Em có thể là những ngƣời tình đã đi qua cuộc đời

nhạc sĩ, cũng có thể là hình ảnh ngƣời tình trong mộng, hoặc là ngƣời phụ nữ

nào đó trong cuộc đời, hoặc đó chỉ là những em nhỏ - những mầm xanh của

đất nƣớc.

- Yếu tố đƣợc so sánh là bộ phận cơ thể con ngƣời, đƣợc biểu thị bằng

các từ ngữ: tóc, da, tay, chân, môi em, tóc em, con mắt người tình, bàn chân

ai, vai em, bờ vai, sợi tóc em bồng, mắt mẹ, tóc mẹ... Ví dụ:

- Bờ vai như giấy mới

Sợ nghiêng hết tình tôi (Thƣơng một ngƣời)

- Môi em là đốm lửa

Cuộc đời đâu biết thế (Ru tình)

- Những con mắt quầng thâm

Xin tươi sáng một lần

Cho con mắt ngƣời tình

Ấm như ngày hỏi han (Những con mắt trần gian)

- Tóc em như trời xưa

Đã qua đi nghìn năm (Ru đời đi nhé)...

Yếu tố đƣợc so sánh là bộ phận cơ thể con ngƣời đƣợc sử dụng 30/398

lƣợt, chiếm tỉ lệ 7,6%, trong đó 2 bộ phận: mắt và môi có tần số xuất hiện

nhều hơn cả. Đây là hai bộ phận có tình biểu tƣợng cao. Đôi mắt trong ca từ

Trịnh Công Sơn vừa là con mắt của thân thể, vừa là con mắt của trái tim, “là

biểu tƣợng của tri giác trí tuệ, là cơ quan thị giác nội tâm, phản chiếu tâm hồn

con ngƣời, đôi mắt của lƣơng tri và nhận thức, cũng là đôi mắt soi thấu chính

bản ngã con ngƣời” [17, tr.84]. Đặc biệt, “mắt em” là một thế giới lung linh kì

ảo, là sự trong sáng và tinh tế của tâm hồn và là hiện thân cho vẻ đẹp nữ tính

đằm thắm. Nếu nhƣ đôi mắt là “cửa sổ của tâm hồn” thì đôi môi là “của sổ đi

vào thế giới nội tâm”. Đôi môi trong ca từ Trịnh Công Sơn “là hình ảnh ƣớc

67

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lệ cho vẻ đẹp của ngƣời con gái, thể hiện khát khao mãnh liệt về tình yêu đôi

lứa, hoặc biểu tƣợng của niềm vui, hạnh phúc, đôi môi còn là biểu tƣợng cho

trái tim, cho tình yêu, cũng có lúc biểu tƣợng cho sức sống, cho tuổi trẻ, và

cao hơn nữa, nó còn là bản sao, là hình ảnh của chính con ngƣời” [17, tr.89].

Đặc bịêt, “môi em” là biểu tƣợng của sức sống, là đốm lửa thắp sáng hạnh

phúc.

- Yếu tố đƣợc so sánh là thế giới nội tâm, tinh thần của con ngƣời, đƣợc

biểu thị bằng các từ ngữ: hồn, hồn mình, buồn mình, lòng, tấm lòng, tấm lòng

em, lòng tôi, lòng ta, lòng em, tình, tình yêu, chút tình... Ví dụ:

- Khi cơn đau chưa dài

Thì tình như chút nắng (Tình nhớ)

- Mười năm sau áo bay đường chiều

Bàn chân trong phố xa lạ nhiều

Có người lòng như nắng qua đèo

(Có một dòng sông đã qua đời)

- Tình yêu như cơn bão

Đi qua địa cầu (Tình sầu)

- Vẫn thấy bên đời có em

Tấm lòng em như lá kia còn xanh (Vẫn có em bên đời)

- Từ trăng xưa là nguyệt

Lòng tôi có đôi khi

Tựa bông hoa vừa mọc

Hân hoan giây xuống thế (Nguyệt ca)

- Đâu ngờ tình như lá úa

Khiến tôi chia lìa từng giấc mơ (Trong nỗi đau tình cờ)...

Yếu tố so sánh là thế giới nội tâm, tinh thần của con ngƣời đƣợc sử

dụng 62 lƣợt, chiếm tỉ lệ 15,6%. Trong đó, lòng, tình, tình yêu đƣợc trở đi trở

lại rất nhiều lần, bởi Trịnh Công Sơn quan niệm: “sống trong đời sống cần có

68

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một tấm lòng” và “sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu”.

- Yếu tố đƣợc so sánh là hành động, phẩm chất của con ngƣời, đƣợc thể

hiện qua các từ ngữ: nhìn, anh nằm xuống, giã từ, yêu quê hương, yêu tự do,

người nằm co, em ra đi, tôi cười, tôi đã yêu em, em đã đến nơi này... Ví dụ:

- Anh nằm xuống như một lần vào viễn du

Đứa con xưa đã tìm về nhà

Đất hoang vu khép lại hẹn hò (Cho một ngƣời nằm xuống)

- Hôm nay tôi nghe

Tôi cuời như đứa bé

Mới lớn lên giữa đời sống kia (Hôm nay tôi nghe)

- Người con gái ngồi mơ thanh bình

Yêu quê hƣơng như đã yêu mình

(Ngƣời con gái Việt Nam da vàng)

- Em đã đến nơi này tựa như cánh én

Dịu dàng trao chút hương hoa mùa xuân (Vẫn có em bên đời)...

Yếu tố đƣợc so sánh là hành động, phẩm chất của con ngƣời đƣợc sử

dụng 52/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ 13,1%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu tố

chỉ hành động, phẩm chất của em và tôi - hai nhân vật trữ tình đƣợc trở đi trở

lại trong rất nhiều ca khúc.

b. Yếu tố đƣợc so sánh là thế giới tự nhiên, xã hội (bên ngoài con

ngƣời)

- Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự

nhiên, đƣợc thể hiện qua các từ ngữ: nắng, mưa, trời, biển, trăng, cỏ cây,

bông hoa, cơn mưa, sương mù, màu nắng, ruộng xanh, con sông, mây xa...Ví

dụ:

- Mƣa như từng giọt rượu hờ

Đêm trong thành phố ai chờ đợi ai (Mƣa mùa hạ)

69

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Con sông là thuyền, mây xa là buồm

Từng giọt sương thu hết mênh mông

Những giọt mưa những nụ hoa

Hẹn hò gặp nhau trước hiên nhà (Bốn mùa thay lá)

- Chiều trên quê hương tôi

Gió đến chơi từ bờ biển xa

Núi đôi khi màu sim tím lạ

Nắng như môi hoàng hôn trên phố (Chiều trên quê hƣơng tôi)

- Biển là em ngọt đắng trùng khơi

Biển nghìn thu ở lại nghìn thu ngậm ngùi (Biển nghìn thu ở

lại)

Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên

đƣợc sử dụng 32/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ 8%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu

tố chỉ hiện tuợng tự nhiên gần gũi, quen thuộc với đời sống con ngƣời nhƣ

mưa, nắng, gió...

- Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng không thuộc thế giới

tự nhiên:

+ Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng cụ thể, thƣờng gặp,

đƣợc biểu hiện qua các từ ngữ: phố, dòng điện, mặt đường, mộ bia, ghe

xuồng, đại bác, một rừng cờ... Ví dụ:

- Dòng điện như dòng sông

Cho đời một tấm lòng

Đi qua những con đuờng

Hẹn hò cùng nhà máy

Chăm lo những đồng xanh (Ƣớc mơ về dòng điện)

- Có mặt đuờng vàng hoa như gấm

Có không gian màu áo bay lên (Em còn nhớ hay em đã quên)

- Trong lòng phố mưa đêm trói chân

70

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Dưới hiên nhìn nuớc dâng tràn

Phố bỗng là dòng sông uốn quanh (Em còn nhớ hay em đã quên)

- Đại bác như kinh không mang lời nguyền

Trẻ thơ quên sống từng đêm nghe ngóng (Đại bác ru đêm)

Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng cụ thể đƣợc sử dụng

51/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ12,8%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu tố chỉ sự

vật hiện tƣợng gần gũi, thân quen với đời sống hàng ngày của con ngƣời.

+ Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng trừu tƣợng, đƣợc thể

hiện qua các từ ngữ: đời, đời mình, đời ta, nghìn trùng, tương lai, tuổi trẻ Việt

Nam, lời hẹn thề, lời ca dạ lan, vùng tuổi xanh, từng lời tà dương, chuyện ngày

xưa ấy, những chuyện tình, một điều giấu kín trong tim con người... Ví dụ:

- Tuổi trẻ Việt Nam nhìn trời sáng phương Đông

Thấy tƣơng lai là những đấu tranh không ngừng (Tuổi trẻ Việt Nam)

- Đường quê hương xin em đừng quên lối

Lời ca dao trên môi là tiếng nói

Mẹ nuôi ta vui theo cùng khóc với

Bắc Nam trung quê hƣơng sẽ có ngày (Hãy nhìn lại)

- Đi trong hạnh phúc quê nhà

Chuyện ngày xƣa ấy bỗng là chiêm bao (Hai mƣơi mùa nắng hạ)

- Đời ta có khi là dốm lửa

Một hôm nhóm trong vườn khuya (Đêm thấy ta là thác đổ)

- Còn gì đâu những môi xưa hồng

Vùng tuổi xanh thoảng bay như gió (Khói trời mênh mông)

Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng trừu tƣợng đƣợc sử

dụng 75/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ 18,8%. Trong đó, đời ( đời mình, đời ta, đời

người) đƣợc sử dụng trong rất nhiều ca khúc, thể hiện sự âu lo và nỗi ám ảnh

của Trịnh Công Sơn về sự ngắn ngủi và tính chất vô thƣờng của cuộc đời.

Tần số xuất hiện của yếu tố đƣợc so sánh theo các phạm trù ngữ nghĩa

71

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đƣợc trình bày trong bảng sau (Bảng 2.6):

Số lƣợt Số lƣợng Tổng số

Trƣờng nghĩa

Nhân vật trữ tình 96 24%

Thế giới nội tâm, tinh thần 62 15,6% Thuộc 240 60,4% con ngƣời Hành động, phẩm chất 52 13,1%

Bộ phận cơ thể 30 7,6%

Không thuộc trừu tƣợng 75 18,8%

thế giới tự Ngoài cụ thể 51 12,8% 158 39,6% nhiên con ngƣời

Thuộc thế giới tự nhiên 32 8%

Tổng 398 100%

BẢNG 2.6

Một số nhận xét:

- Trong ca từ Trịnh Công Sơn, thƣờng gặp các từ ngữ biểu thị yếu tố

đƣợc so sánh thuộc trƣờng nghĩa “con ngƣời”. Trong đó, các từ ngữ biểu thị

yếu tố đƣợc so sánh là những nhân vật trữ tình đƣợc nhạc sĩ sử dụng nhiều

hơn cả, tiếp đó là thế giới nội tâm, tinh thần, rồi đến hành động, phẩm chất và

bộ phận cơ thể của con ngƣời.

- Ở yếu tố đƣợc so sánh thuộc trƣờng nghĩa ngoài con ngƣời, Trịnh

Công Sơn thƣờng chú ý đến những sự vật hiện tuợng trừu tƣợng, tiếp đó là

dùng cách so sánh để miêu tả những sự vật hiện tƣợng cụ thể và thế giới tự

nhiên.

2.2.2. Đặc điểm của yếu tố so sánh

Yếu tố so sánh rất quan trọng trong cấu trúc so sánh, bởi đã có so sánh

thì phải có cái để so sánh. Tìm hiểu trƣờng nghĩa của yếu tố so sánh trong ca

từ Trịnh Công Sơn có thể giúp ngƣời nghe hiểu rõ hơn quan niệm thẩm mĩ,

72

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

quan niệm nhân sinh cũng nhƣ phong cách của tác giả trong việc lựa chọn vật

chuẩn để làm rõ đối tƣợng đƣợc so sánh. Cũng nhƣ ở yếu tố đƣợc so sánh, có

thể gặp ở yếu tố so sánh hai phạm trù đƣợc tác giả chú ý, đó là:

a. Yếu tố so sánh thuộc con ngƣời

- Yếu tố so sánh là những nhân vật trữ tình, đƣợc biểu thị bằng các từ

ngữ: mọi người, tôi, em, tên mục đồng, tên tuyệt vọng, một bọn lai căng, một

lũ bội tình, đứa bé dại khờ, trẻ thơ, trẻ nhỏ, người bệnh... Ví dụ:

- Tôi như mọi ngƣời mong ngày sẽ tới

Nhưng khi về lại thu mình góc tối (Bay đi thầm lặng)

- Một đôi lần đến như ngƣời tình

Để cho trời đất báo tin lành

Vẫn bình yên (Chuyện đoá quỳnh hƣơng)

- Gia tài của mẹ một bọn lai căng

Gia tài của mẹ một lũ bội tình (Gia tài của mẹ)

- Tôi như trẻ nhỏ ngồi bên hiên nhà

Chờ xem thế kỉ tàn phai (Tự tình khúc)...

Yếu tố so sánh là những nhân vật trữ tình đƣợc sử dụng 32/419 lƣợt,

chiếm tỉ lệ 7,6%. Trong đó thƣờng gặp là những yếu tố chỉ những con ngƣời

xã hội.

- Yếu tố so sánh là bộ phận cơ thể con ngƣời, đƣợc biểu thị bằng các từ

ngữ: tóc mẹ, giọt máu, xương máu, giọt nước mắt em, đôi môi em, đôi mắt em,

mặt người... Ví dụ:

- Từ khi có đôi chân vào đời

Mầu hoa lá quen như mặt ngƣời (Tình yêu tìm thấy)

- Hoà bình hoà bình là xƣơng máu

Bao nhiêu triệu người đã dựng lấy hôm nay (Hoà bình là cơm áo)

- Nắng có hồng bằng đôi môi em

73

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mưa có buồn bằng đôi mắt em (Nhƣ cánh vạc bay)...

Yếu tố so sánh là bộ phận cơ thể con ngƣời đƣợc sử dụng 13/419 lƣợt,

chiếm tỉ lệ3,1%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu tố chỉ những bộ phận

trên khuôn mặt.

- Yếu tố so sánh là hành động, đặc tính của con ngƣời, đƣợc biểu thị

bằng các từ ngữ: hẹn chết mai đây, từng ngày lo, muốn khóc, vẫy tay, mơ ước

được gần với những nụ hồng, lòng cố lạnh lùng... Ví dụ:

- Tôi chọn nắng đầy chọn cơn mưa tới

Để lúa reo mừng tựa vẫy tay

- Từng ngày sống

Từng ngày lo (Buồn từng phút giây)

- Tình ngỡ đã quên đi

Như lòng cố lạnh lùng (Tình nhớ)...

Yếu tố so sánh là hành động, đặc tính của con ngƣời đƣợc sử dụng

16/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 3,82%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu tố chỉ

hành động, đặc tính của thế giới nội tâm, tinh thần.

- Yếu tố so sánh là vẻ đẹp thuộc thế giới nội tâm, tinh thần của con

ngƣời, đƣợc thể hiện qua những từ ngữ: nỗi nhớ, bao yêu dấu, chiêm bao,

giấc mộng giữa đời, hạnh phúc ngu ngơ, niềm tin cấy trên lòng anh, mối tình,

hy vọng Việt Nam... Ví dụ:

- Đêm từng đêm bay về

Quê hương là nỗi nhớ (Cánh chim cô đơn)

- Kìa các em thơ ngây

Như giấc mộng giữa đời (Khăn quàng thắp sáng bình minh)

- Đêm ôm vai em nhỏ

Giấc ngủ như chiêm bao (Đêm)...

Yếu tố so sánh là vẻ đẹp thuộc thế giới nội tâm, tinh thần của con ngƣời

đƣợc sử dụng 15/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 3,58%. Trong đó, thƣờng gặp là những

74

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

yếu tố chỉ tình cảm của con ngƣời.

b. Yếu tố so sánh là thế giới tự nhiên, xã hội (bên ngoài con ngƣời)

- Yếu tố so sánh là các sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên phong

phú, đa dạng. Đó là những hiện tƣợng tự nhiên (sương, gió, mây, biển, sông,

sóng, con suối, thác đổ, bình minh, ánh sao băng, mặt trời xa, nắng ban mai,

ánh nắng mai bên nhà, sóng đùa biển khơi, tia nắng trong không gian xanh

tươi...), thế giới động, thực vật gần gũi, thân thuộc (chim, cánh én, loài chim

non muôn mầu, cánh chim cò trắng, chim én, loài thú, cánh vạc, đàn bướm

giữa hồ, nấm, nấm hoang, lá, lá bay, lá cỏ, quả ngọt, hoa, bông hoa, hoa trên

đồng xanh, đoá hoa vông, nụ hồng, hoa lá gữa thiên nhiên hiền hoà, hoa của

Đồng Tháp sen hồng, trái chín trên cây, màu xanh trên địa cầu, phấn thơm

cho rừng chút hương...).Ví dụ:

- Từ đó em là sƣơng

Rụng mát trong bình minh (Đoá hoa vô thƣờng)

- Nhiều đêm thấy ta là thác đổ

Tỉnh ra có khi còn nghe (Đêm thấy ta là thác đổ)

- Tình yêu như biển

Biển rộng hai vai (Lặng lẽ nơi này)

- Màu tím bâng khuâng bên hoa vàng đốm nhỏ

Riêng em là hoa của Đồng Tháp sen hồng

(Mênh mông Đồng Tháp)

- Đời sẽ buồn như một vết thương

Tình sẽ buồn như là nấm hoang (Nhƣ một vết thƣơng)

- Tôi như chim ƣu phiền

Bay về cuối dòng sông

Con sông mang tin buồn

Nằm chờ những đoá hồng (Nhƣ chim ƣu phiền)

- Cuộc tình lên cao vút

Như chim mỏi cánh rồi

75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Như chim xa lìa bầy

Như chim xa lìa trời

Như chim bỏ đƣờng bay (Tình sầu)...

Yếu tố so sánh là các sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên đƣợc sử

dụng 181/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 3,58%. Đặc biệt, chim đƣợc trở đi trở lại rất

nhiều lần với những trạng thái, thuộc tính khác nhau, nói lên tâm sự, nỗi niềm

của nhân vật trữ tình (chim mỏi cánh, chim xa lìa bầy, chim xa lìa trời, chim

bỏ đường bay, chim xa đàn, cánh chim chìm xuống, cánh chim bỏ rừng, con

chim buồn, con chim bệnh, con chim vô vọng, con chim thanh bình...).

- Yếu tố so sánh là những sự vật hiện tƣợng không thuộc thế giới tự nhiên:

+ Yếu tố so sánh là những sự vật, hiện tƣợng cụ thể, thân thuộc, đƣợc

biểu hiện bằng những từ ngữ: một hòn bi xanh, ngà ngọc, lụa mát, quán trọ,

thuyền, buồm, khăn mới thêu, đốm lửa hồng, bài thơ, chiếc thoi đưa, cây đuốc

sáng, từng cánh diều vui, chút vết mực nhoè, những chuyến xe, những đám

đông, những quán không, tàu bay, đồng cháy, ruộng gầy, cuộn gai... Ví dụ:

- Tên anh là cây đuốc sáng

Một vạn cánh chim bay lên trong trời

Hót mãi tình anh (Ngày mai đây bình yên)

- Từ khi trăng là nguyệt

Tôi như từng cánh diều vui (Nguyệt ca)

- Chiều nay em ra phố về

Thấy đời mình là những chuyến xe (Nghe những tàn phai)

- Nhưng hôm nay

Quê hương là tàu bay

Quê hương là đồng cháy

Quê hương là ruộng gầy (Nhƣng hôm nay)...

Yếu tố so sánh là những sự vật hiên tƣợng cụ thể đƣợc sử dụng 90/419

lƣợt, chiếm tỉ lệ 21,5%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu tố chỉ những sự

76

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vật hiện tƣợng thân thuộc với đời sống của con ngƣời.

+ Yếu tố so sánh là những sự vật, hiện tƣợng trừu tƣợng, đƣợc biểu

hiện bằng các từ ngữ: ngại ngùng, ngất ngây, chơi vơi, đời rất lạ, chuyện

những đoá hoa quỳnh, một đường không bến bờ, ngày lạ lùng biết trần gian,

lời mộ địa, điều giấu kín thôi, một lời chia tay, tiếng thở dài, một nỗi đời

riêng... Ví dụ:

- Hôm chợt thấy em đi về bên kia phố

Trong lòng bỗng vui như đời rất lạ (Cho đời chút ơn)

- Người đi quanh thân thế của người

Một trăm năm như tiếng thở dài (Nhƣ tiếng thở dài)

- Tình yêu như nỗi chêt

Cơn đau thật dài (Tình sầu)...

Yếu tố so sánh là những sự vật hiện tƣợng trừu tuợng đƣợc sử dụng

72/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 17,2%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu tố miêu tả

tâm trạng, cảm xúc của con ngƣời.

Tần số xuất hiện của yếu tố so sánh theo các phạm trù ngữ nghĩa đƣợc

trình bày trong bảng sau (Bảng 2.7)

Số lƣợng Số lƣợt Tỉ lệ % Trƣờng nghĩa

Nhân vật trữ tình 32 7,6%

Hành động, đặc tính 16 3,82% Thuộc 76 18,1% con ngƣời Thế giới nội tâm, tinh thần 15 3,58%

Bộ phận cơ thể 13 3,1%

Thuộc thế giới tự nhiên 181 43.2%

Ngoài Không thuộc cụ thể 90 21.5% 343 81,9% con ngƣời thế giới tự 72 17,2% trừu tƣợng nhiên

77

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tổng 419 100%

BẢNG 2.7

Một số nhận xét:

- Các từ ngữ biểu thị yếu tố so sánh chủ yếu thuộc hai trƣờng nghĩa:

con ngƣời và ngoài con ngƣời (thế giới tự nhiên, xã hội). Trong đó, tác giả

hay sử dụng các sự vật hiện tƣợng thuộc trƣờng ngữ nghĩa tự nhiên, xã hội

(bên ngoài con ngƣời) vào làm vật chuẩn để so sánh. Với trƣờng nghĩa này

của yếu tố so sánh, các từ ngữ biểu thị yếu tố so sánh trong ca từ Trịnh Công

Sơn thƣờng chỉ thế giới tự nhiên hết sức quen thuộc và phong phú, đa dạng,

cùng với những sự vật hiện tƣợng trừu tƣợng hoặc cụ thể.

- Trong trƣờng nghĩa con ngƣời, Trịnh Công Sơn tập trung vào những

nhân vật trữ tình, tiếp đó là hành động, phẩm chất; rồi đến thế giới nội tâm,

tinh thần và những bộ phận cơ thể của con ngƣời.

2.2.3. Mối tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu

tố so sánh

Dựa vào hai trƣờng nghĩa ở yếu tố đƣợc so sánh (A) và yếu tố so sánh

(B), có thể nhận thấy giữa hai yếu tố này có những mối tƣơng quan ngữ nghĩa

sau:

a. A thuộc con ngƣời - B ngoài con ngƣời

Đây là mối tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh là những

nhân vật trữ tình; thế giới nội tâm, tinh thần; những hành động, phẩm chất và

bộ phận của cơ thể của con ngƣời, với yếu tố so sánh là: những sự vật hiện

tƣợng thuộc thế giới tự nhiên, những sự vật hiện tƣợng cụ thể hoặc trừu

tƣợng. Ví dụ:

- Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia

Làm hồng chút môi cho em nhờ (Cho đời chút ơn)

- Từ đó em là sƣơng

Rụng mát trong bình minh (Đoá hoa vô thƣờng)

- Thằng bé xinh xinh ra đồng giữa ngọ

78

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Miệng môi hồng đỏ như đoá hoa vông

- Lòng em như suối trên nguồn

Nở những đoá hoa hồng nhung

(Đời sống không già vì có chúng em)

- Tình như nắng vội tắt chiều hôm

Tình không xa nhưng không thật gần (Nhƣ một lời chia tay)...

Tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh thuộc trƣờng nghĩa

con ngƣời và yếu tố so sánh thuộc trƣờng nghĩa ngoài con ngƣời đƣợc sử

dụng 209/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ 52,5%. Trong đó, yếu tố đƣợc so sánh thuờng

là những nhân vật trữ tình (tôi, em, mẹ...); yếu tố so sánh thƣờng là những sự

vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên (mây, gió, sông, mưa, nắng, sương...).

b. A ngoài con ngƣời - B thuộc con ngƣời

Đây là tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh là: sự vật hiện

tƣợng thuộc thế giới tự nhiên, những sự vật hiện tƣợng cụ thể hoặc trừu tƣợng

với yếu tố so sánh là: những nhân vật trữ tình; thế giới nội tâm, tinh thần;

những hành động, phẩm chất và bộ phận của cơ thể của con ngƣời.

- Từ đó hoa là em

Một sớm kia rất hồng

Nở hết trong hoàng hôn

Đợi gió vô thường lên (Đoá hoa vô thƣờng)

- Sƣơng mù tóc mẹ trôi (Bống bồng ơi)

- Ngày mai đây Việt Nam

Là bàn chân tiến lên không ngừng (Ngày mai đây bình yên)

- Trên cánh đồng hoà bình này

Triệu bàn chân đi khai mùa mới

Ruộng lúa reo cười

79

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Vì cỏ cây cũng đau thương như ngƣời (Cánh đồng hoà bình)...

Tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh thuộc trƣờng nghĩa

ngoài con ngƣời với yếu tố so sánh thuộc trƣờng nghĩa con ngƣời đƣợc sử

dụng 39/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ 9,8%. Trong đó, yếu tố đƣợc so sánh thƣờng là

những sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên (hoa, biển, sương, nắng...);

yếu tố so sánh thƣờng là nhân vật trữ tình (em) và những bộ phận của cơ thể

con ngƣời (mắt, môi, tóc)

c. A ngoài con ngƣời - B ngoài con ngƣời

Đây là tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so

sánh đều là những sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên, những sự vật

hiện tƣợng cụ thể hoặc trừu tƣợng

- Một điều giấu kín trong tim con ngƣời

Là điều giấu kín thôi (Một lần thoáng có)

- Từ đó ta nằm đau

Ôi núi cũng như đèo (Đoá hoa vô thƣờng)

Ngày qua không nhìn thấy

Một năm thoáng như mây (Thanh quan ca)

- Bốn mùa như gió bốn mùa như mây

Những dòng sông nối đôi tay về với biển khơi

Đêm chờ ánh sáng mưa đời cơn nắng

Mặt trời lấp lánh trên cao vừa xa vừa gần (Bốn mùa thay lá)

- Từng lời tà dƣơng là lời mộ địa

Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe (Một cõi đi về)

- Tuổi trẻ Việt Nam là hầm hố trông gai (Tuổi trẻ Việt Nam)...

Tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh đều

thuộc trƣờng nghĩa ngoài con ngƣời đƣợc đƣợc sử dụng 113/398 lƣợt, chiếm

80

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tỉ lệ 28,4%. Trong đó, tƣơng quan giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh

đều là những sự vật hiện tƣợng trừu tƣợng chiếm một tỉ lệ khá cao. Đây cũng

là một trong những lí do làm nên sự “khó hiểu” của ca từ Trịnh Công Sơn.

d. A thuộc con ngƣời - B thuộc con ngƣời

Đây là tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so

sánh đều là những nhân vật trữ tình; thế giới nội tâm, tinh thần; những hành

động, phẩm chất và bộ phận của cơ thể của con ngƣời

- Tôi như trẻ nhỏ tìm nơi nƣơng tựa

Mà sao vẫn cứ lạc loài (Tự tình khúc)

- Đừng tuyệt vọng em ơi đừng tuyệt vọng

Em là tôi và tôi cũng là em (Tôi ơi đừng tuyệt vọng)

- Có chén rượu chờ trong quán đêm đêm

Có những bạn bè xanhh như ngƣời bệnh

Có tiếng cười và tiếng khóc mênh mông (Bay đi thầm lặng)

Tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh đều

thuộc trƣờng nghĩa con ngƣời đƣợc đƣợc sử dụng 37/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ

9,3%. Trong đó, thƣờng gặp là tƣơng quan giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố

so sánh đều là những nhân vật trữ tình.

Tần số xuất hiện của các tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so

sánh và yếu tố so sánh đƣợc trình bày trong bảng sau (Bảng 2.8)

STT Mối tƣơng quan Số lƣợt Tỉ lệ %

1 A thuộc con ngƣời – B ngoài con ngƣời 209 52,5

2 A ngoài con ngƣời – B ngoài con ngƣời 113 28,4

3 A ngoài con ngƣời – B thuộc con ngƣời 39 9,8

4 A thuộc con ngƣời – B ngoài con ngƣời 37 9,3

Tổng số 398 100

81

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

BẢNG 2.8

Một số nhận xét:

Trịnh Công Sơn thƣờng đem những gì thuộc con ngƣời (các nhân vật

trữ tình; thế giới nội tâm, tinh thần; các bộ phận cơ thể; hành động, phẩm

chất) so sánh với những gì ngoài con ngƣời (thế giới tự nhiên, các sự vật hiện

tƣợng cụ thể hoặc trừu tƣợng). Với cách so sánh này, Trịnh Công Sơn đã chú

ý đặc biệt tới con ngƣời với sự phức tạp của tâm trạng, nỗi niềm, đông thời

mang đến những liên tƣởng, những khám phá và cảm nhận mới mẻ và thú vị

về con ngƣời, khiến cho những ca khúc của ông giống nhƣ những câu chuyện

hấp dẫn về con ngƣời, về những cuộc đời và thân phận. Đó phần lớn là những

chuyện buồn. Đây cũng là lí do tại sao khi lắng nghe ca khúc của Trịnh Công

Sơn, mỗi chúng ta nhƣ tìm thấy chính mình trong đó.

TIỂU KẾT

Trong qua trình sáng tạo ngôn từ nghệ thuật, so sánh có thể đƣợc coi là

phƣơng thức biểu cảm đặc biệt. Phƣơng thức này xuất hiện trong ca từ Trịnh

Công Sơn với nhiều kiểu loại đa dạng, góp phần thể hiện cá tính sáng tạo

riêng của nhạc sĩ về mặt hình thái cấu trúc cũng nhƣ về mặt ngữ nghĩa.

Về mặt hình thái cấu trúc, ta gặp 13 kiểu cấu trúc so sánh, trong đó kiểu

cấu trúc A + tnss + B chiếm số lƣợng nhiều nhất. Sử dụng cấu trúc thiếu cơ sở

so sánh này, Trịnh Công Sơn đã dành cho ngƣời nghe một sự tự do liên tƣởng

để tìm ra những nét giống nhau giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh, từ

đó phát hiện ra đặc điểm của đối tƣợng đƣợc so sánh theo chiều hƣớng liên

tƣởng của mình.

Với 13 kiểu cấu trúc, Trịnh Công Sơn đã tạo ra những biến thể rất độc

đáo bên cạnh những kiểu cấu trúc cơ bản, thể hiện phong cách riêng của ông

trong việc sử dụng ngôn từ để thể hiện phƣơng thức so sánh trong ca từ.

Trịnh Công Sơn sử dụng 8 từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh, trong đó

các từ ngữ sử dụng trong kiểu so sánh tƣơng tự (như, tựa, tựa như, như là,

82

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cũng như) xuất hiện với tần số cao nhất, tiếp theo là các từ ngữ sử dụng trong

kểu so sánh ngang bằng (là, bằng). Tần số xuất hiện của từ ngữ so sánh trong

kiểu so sánh dị biệt hơn chiếm một số lƣợng rất nhỏ.

Yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh đƣợc Trịnh Công Sơn tạo lập

trong cấu trúc so sánh thƣờng là kết cấu danh ngữ và cụm C - V, ít dùng động

ngữ và tính ngữ; từ loại danh từ đƣợc tác giả dùng nhiều hơn tính từ và động

từ.

Về mặt ngữ nghĩa, ở yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh, Trịnh Công

Sơn sử dụng hai trƣờng nghĩa đối lập: thuộc con ngƣời và ngoài con ngƣời.

Trong đó, yếu tố đƣợc so sánh thƣờng thuộc trƣờng nghĩa thuộc con ngƣời,

yếu tố so sánh thƣờng thuộc trƣờng nghĩa ngoài con ngƣời.

Trong mối tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so

sánh, mối tƣơng quan giữa A thuộc con ngƣời và B ngoài con ngƣời chiếm tỉ

lệ cao nhất, tiếp đó là A ngoài con ngƣời - B ngoài con ngƣời, A ngoài con

83

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngƣời - B thuộc con ngƣời, A thuộc con ngƣời - B thuộc con ngƣời.

CHƢƠNG 3 PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT TRONG CA KHÚC TRỊNH CÔNG SƠN

3.1. PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI HÌNH TƢỢNG EM - NGUỜI TÌNH

... Từng người tình bỏ ta đi

Như những dòng sông nhỏ

Ôi những dòng sông nhỏ

Lời hẹn thề là những cơn mưa (Tình xa)

Đã có không ít những dòng sông nhỏ đi qua cuộc đời Trịnh Công Sơn

và ở lại trong những ca khúc của ông. Chính những dòng sông nhỏ - những

ngƣời tình ấy đã cho ông cảm nhận một cách sâu sắc những mầu nhiệm của

cuộc sống và cũng là nguồn cảm hứng bất tận để ông viết lên những bản tình

ca còn mãi với thời gian.

Trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn, chúng ta thƣờng bắt gặp

hình ảnh của những ngƣời phụ nữ. Đó có thể là những ngƣời cụ thể, có tên

tuổi nhƣ Diễm (Diễm xƣa), Nguyệt (Nguyệt ca) hay Quỳnh Hƣơng (Quỳnh

hƣơng)..., và đó cũng có thể là em - một ngƣời con gái nào đó, một ngƣời tình

trong sự mơ mộng... Tất cả đều đƣợc Trịnh Công Sơn nâng niu, trân trọng

trong những ca khúc của mình.

Bức chân dung em đƣợc Trịnh Công Sơn khắc hoạ không phải bằng những

màu sắc, đƣờng nét của hội hoạ mà bằng hàng loạt các câu trúc so sánh:

Tóc em:

- Ôi tóc em dài đêm thần thoại (Gọi tên bốn mùa)

- Tóc em như trời xưa

Đã qua đi ngàn năm (Ru em từng ngón xuân nồng)

Hàng mi em:

84

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ngủ đi em mi cong cỏ mượt (Em hãy ngủ đi)

Mắt em:

- Mưa có buồn bằng đôi mắt em (Em hãy ngủ đi)

- Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy

Để mắt em cười tựa lá bay

(Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui)

Màu mắt em:

Màu nắng hay là màu mắt em (Nắng thuỷ tinh)

Giọt nƣớc mắt em:

Có khi mưa ngoài trời

Là giọt nước mắt em

Đã nương theo vào đời

Làm từng nỗi ưu phiền (Ru đời đi nhé)

Môi em:

- Ngoài phố mùa đông

Đôi môi em là đốm lửa hồng (Ru đời đi nhé)

- Nắng có hồng bằng đôi môi em (Nhƣ cánh vạc bay)

- Môi em là đốm lửa

Cuộc đời đâu biết thế (Ru tình)

- Ngủ đi em đôi môi lửa cháy (Em hãy ngủ đi)

Nụ cƣời em:

Nụ cười em như tia nắng trong không gian xanh tươi

(Em đến cùng mùa xuân)

Vai em:

- Bờ vai như giấy mới

Sợ nghiêng hết tình tôi (Thƣơng một ngƣời)

- Ngủ đi em đôi vai lụa mát (Em hãy ngủ đi)

- Vai em gầy guộc nhỏ

85

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Như cánh vạc về chốn xa xôi (Nhƣ cánh vạc bay)

Tay em:

Ngủ đi em tay xanh ngà ngọc (Em hãy ngủ đi)

Da em:

Ngủ đi em da thơm quả ngọt (Em hãy ngủ đi)

Thân hình em:

Một ngày kia có em buồn buồn

Thân mong manh như lau sậy hiền (Níu tay nghìn trùng)

Bức chân dung của em đƣợc Trịnh Công Sơn vẽ lên bằng vẻ đẹp cao

quý của thiên nhiên. Em nhƣ hoà tan vào nắng gió, vào cỏ cây hoa lá. Trong

những nét khắc hoạ kể trên, Trịnh Công Sơn tập trung miêu tả nhiều hơn vào

môi em và vai em.

Đôi môi em thƣờng đƣợc Trịnh Công Sơn so sánh với lửa, bởi môi em

cũng có màu đỏ của lửa và cũng có sự nóng bỏng của lửa - sự nóng bỏng

đƣợc cảm nhận bằng tâm hồn. Giữa cái lạnh lẽo và cô đơn của mùa đông

ngoài phố, của cuộc đời, đôi môi em là đốm lửa - là hơi ấm, là ánh sáng, là

niềm vui sống, là khát vọng hạnh phúc:

- Ngoài phố mùa đông

Đôi môi em là đốm lửa hồng (Ru đời đi nhé)

- Môi em là đốm lửa

Cuộc đời đâu biết thế (Ru tình)

Ngoài đôi môi lửa cháy, em trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn

thƣờng có đôi vai gầy:

Vai em gầy guộc nhỏ

Như cánh vạc về chốn xa xôi (Nhƣ cánh vạc bay)

Vai em đã đƣợc Trịnh Công Sơn so sánh với hình ảnh cánh vạc về chốn

xa xôi, vừa nổi bật nét gầy guộc, bé nhỏ của đôi vai em, vừa gợi lên một điều

86

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gì đó nhƣ xót xa, tội nghiệp của kiếp hồng nhan giữa cuộc đời.

Không chỉ miêu tả hình dáng gầy guộc, bé nhỏ của đôi vai em, Trịnh

Công Sơn còn dành những hình ảnh so sánh để làm nổi bật những thuộc tính

của đôi vai ấy - một đôi vai mát nhƣ lụa (Ngủ đi em đôi vai lụa mát) và trong

trắng, tinh khôi nhƣ trang giấy mới (Bờ vai như giấy mới).

Kế thừa truyền thống của văn chƣơng bác học mang tính công thức và

ƣớc lệ, Trịnh Công Sơn cũng lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của

ngƣời phụ nữ nhƣ: da thơm quả ngọt, mi cong cỏ mượt... Nhƣng bên cạnh đó,

trong ca từ của ông có những cách nói độc đáo đáng chú ý. Trong nhiều ca

khúc của Trịnh Công Sơn, ngƣời phụ nữ đã trở thành chuẩn mực của cái đẹp,

để thiên nhiên lấy làm cái so sánh:

Nắng có hồng bằng đôi môi em

Mưa có buồn bằng đôi mắt em (Nhƣ cánh vạc bay)

Hay: Gió sẽ mừng vì tóc em bay

Cho mây hờn ngủ quên trên vai (Nhƣ cánh vạc bay)

Qua những hình ảnh so sánh độc đáo mới lạ, em đã hiện lên trong

những ca khúc của Trịnh Công Sơn thật đẹp - một vẻ đẹp mong manh, thanh

thoát, hƣ ảo, rất gần mà cũng rất xa. Vẻ đẹp ấy đã khiến cho biết bao chàng

trai si tình (đƣợc gọi chung là tôi) xin làm đá cuội và lăn theo gót hài.

Trong nhạc Trịnh Công Sơn, em luôn đƣợc tôn vinh bằng những hình

ảnh so sánh đẹp đẽ. Em là hoa vàng rực rỡ (Hoa vàng mấy độ), là suối kia rất

ngọt (Hoa xuân ca), là cây non mới đến (Rừng xanh xanh mãi), là một thoáng

hương bay bên trời phố hạ (Hoa vàng mấy độ), là phấn thơm cho rừng chút

hương, là lời hát ca cho trần gian (Cho đời chút ơn), là chim trắng giữa trống

đồng bước ra, là hoa lá giữa thiên nhiên hiền hoà (Em đến từ nghìn xƣa)...

Với Trịnh Công Sơn, em có một ý nghĩa quan trọng trong nhạc và trong

đời. Em đã cho tôi bầu trời, cho tôi yêu thêm loài người, dạy tôi biết xa gần...

nhƣng em không ở lại cùng tôi đến trọn cuộc đời:

87

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Như là cơn gió em còn cứ mãi bay đi (Hoa vàng mấy độ)

Trong những tình khúc của Trịnh Công Sơn, “chữ em không đi sóng

đôi một cặp ngọt ngào với chữ anh... chỉ em với tôi, em với ta, nhƣ thử hai

ngƣời yêu là hai ngƣời ở trọ gần nhau” [46, tr.311]. Phải chăng vì là hai

ngƣời ở trọ gần nhau nên tôi luôn là ngƣời ở lại còn em luôn là ngƣời ra đi.

Với tôi, em là ngọn gió quạnh hiu, là chút mây phù du, là sƣơng khuya rụng

mát trong bình minh…, là những gì mong manh, dễ tan biến và thoáng qua

trong đời, để một ngày nào đó, tôi đã phải thốt lên:

Em cứ bay trong đời dịu dàng như cơn gió

Em cứ bay nhưng đừng bỏ lại tôi một mình (Hoa xuân ca)

Em trong ca khúc của Trịnh Công Sơn là hình tƣợng nghệ thuật về

những thiếu nữ buồn, xanh xao, với vóc dáng mảnh mai, mong manh, đôi vai

gầy, tóc xoã bay ngang trời... mờ mờ ảo ảo, nhƣ một bức tranh phi thực.

Những ngƣời phụ nữ ấy đã đi qua cuộc đời Trịnh Công Sơn, mang đến cho

ông thật nhiều hạnh phúc nhƣng cũng để lại không ít niềm đau. Nhƣng cho dù

đƣợc hƣởng hạnh phúc hay phải gánh chịu khổ đau, Trịnh Công Sơn vẫn luôn

nâng niu, trân trọng hết thảy những ngƣời phụ nữ mình từng quen biết trong

đời.

Để xây dựng hình tƣợng nghệ thuật em, nhạc sĩ đã sử dụng phƣơng

thức so sánh với những yếu tố đƣợc so sánh (A) và những yếu tố so sánh (B)

đƣợc trình bày trong bảng sau (Bảng 3.1):

A - (phƣơng diện so STT tnss B sánh)

1 em mây hoang đƣờng sớm chiều qua

2 em suối kia rất ngọt

3 em cây non mới đến

4 em là phấn thơm cho rừng chút hƣơng

88

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

5 em là lời hát ca cho trần gian

6 em ngọn gió quạnh hiu nhƣ

một chút mây phù du đã thoáng qua 7 em là đời ta

8 em sƣơng rụng mát trong bình minh là

9 em chim trắng giữa trống đồng bƣớc ra nhƣ

10 em hoa lá giữa thiên nhiên hiền hoà nhƣ

11 em ra đi thoáng gió thầm nhƣ

12 em còn cứ mãi bay đi nhƣ là cơn gió

hoa vàng một đóa 13 em đến bên đời một thoáng hƣơng bay bên trời phố hạ

em cứ bay trong đời - 14 cơn gió nhƣ dịu dàng

15 em - mƣớt xanh ngọc nhƣ

16 vết thƣơng khô tên em là

17 trời xƣa đã qua đi ngàn năm tóc em nhƣ

18 đốm lửa môi em là

19 đốm lửa hồng đôi môi em là

20 tia nắng trong không gian xanh tƣơi nụ cƣời em nhƣ

21 vai em-gầy guộc nhỏ cánh vạc về chốn xa xôi nhƣ

22 giọng cƣời em-vút cao hơn bình minh

23 mắt em cƣời tựa lá bay

24 đôi môi lửa cháy

25 đôi vai lụa mát

26 bờ vai nhƣ giấy mới

27 mi - cong cỏ mƣợt

28 tay - xanh ngà ngọc

89

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

29 da - thơm quả ngọt

30 thân - mong manh nhƣ lau sậy hiền

31 mƣa ngoài trời giọt nƣớc mắt em là

32 nắng - hồng đôi môi em bằng

33 mƣa - buồn đôi mắt em bằng

34 sen hồng một độ em hồng một thủa xuân xanh

35 sen buồn một mình em buồn đền trọn mối tình

BẢNG 3.1

(Ghi chú: Dấu ngoặc đơn (...) trong (phương diện so sánh) chỉ khả năng

"có" hoặc "không").

3.2. PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI HÌNH TƢỢNG TÔI - CHỦ THỂ

TRỮ TÌNH

Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ thấm nhuần nền văn hoá lãng mạn Pháp

từ thủa nhỏ. Vì vậy cái tôi, cái bản ngã của ông đƣợc khẳng định và bộc lộ rõ

nét trong nhiều ca khúc.

Trong nhiều ca khúc của Trịnh Công Sơn, tôi (ta, mình) có thể là sự

hiện thân của chính tác giả để tự sự, nói lên những suy tƣ, trăn trở và bộc lộ

những tâm trạng, cảm xúc của mình, ví dụ:

Tôi như là người ngồi trong đêm dài

Nhìn tôi đang quá ngậm ngùi (Tự tình khúc)

Hay: Ta mang cho em một chút buồn

Vì ta như sóng lênh đênh (Quỳnh hƣơng)

Tôi (ta, mình) cũng có thể đại diện cho một thế hệ, một lớp ngƣời của

xã hội trong một hoàn cảnh nhất định, với những số phận và tâm trạng khác

nhau. Ví dụ:

Tôi có người yêu chết trận Chu Prong

90

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tôi có người yêu bỏ xác trôi sông (Tình ca của ngƣời mất trí)

Ở đây, tôi là những cô gái, là những ngƣời có ngƣời yêu, ngƣời thân

chết trận.

Hay một ví dụ khác:

Ta phải thấy mặt trời

Sáng trên quê hương này đầy loài người (Ta phải thấy mặt

trời)

Ở đây, ta là thế hệ thanh niên yêu nƣớc quyết tranh đấu để dành lại hoà

bình cho quê hƣơng.

Trong phần này, xin chủ yếu tập trung tìm hiểu tôi trong những ca khúc

của Trịnh Công Sơn với tƣ cách là chủ thể trữ tình, là sự nhập vai của chính

tác giả, đƣợc thể hiện với nhiều tâm trạng và cảm xúc qua lời tự sự. Qua

phƣơng thức so sánh, tôi sẽ đƣợc tìm hiểu dƣới ba khía cạnh: Với cuộc đời,

tôi là một kẻ cô đơn; Với quê hƣơng, tôi là một kẻ lạc loài; Với tình yêu, tôi là

một kẻ bị phụ tình.

Trịnh Công Sơn có một gia đình đông anh em, có nhiều ngƣời tình và

rất đông bạn bè. Thế nhƣng, ông lại là một khối cô đơn. Cho dù có những lúc

gặp gỡ bạn bè, nói cƣời xôn xao ngoài phố, nhƣng khi trở lại với riêng mình

và bất giác thu mình trong góc tối, ông lại chỉ thấy tất cả những niềm vui,

những nụ cƣời giữa phố chợ kia cũng giống nhƣ những lá khô rụng rơi lả tả:

Tôi như mọi người mong ngày sẽ tới

Nhưng khi về lại thu mình góc tối

Trong tôi rụng đầy bao nhiêu nụ cười (Bay đi thầm lặng)

Trịnh Công Sơn “thích ngồi yên lặng nhìn trời đất và suy tƣởng về

những điều mình chƣa giải đáp đƣợc cho chính bản thân mình” [65]. Cái cảm

giác trơ troi lẻ loi một mình luôn thƣờng trực trong con ngƣời ông, gần nhƣ

gắn liền với bản chất của ông. Nhƣ ông thổ lộ: “Đây không phải là một mặc

cảm. Tôi nghĩ đúng hơn là một cái gì đó thuộc về bẩm sinh. Sinh ra là một thứ

91

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mầm mống lẻ loi mọc lên trong thân phận làm ngƣời. Và vì vậy không cần

phải đối phó, phải phản ứng gì cả. Nó là tôi, tôi là nó. Tất cả đã quyện vào

nhau làm thành một số phận. Và điều quan trọng là tôi hoàn toàn thanh thản

trong số phận đó. Và tôi có phát hiện một điều là càng ở giữa đám đông tôi

càng thấy lẻ loi” (Theo [59, tr.7]):

Tôi như người ngây dại

Giữa đám đông bạn bè

Quanh đây là tiếng cười

Lòng sao không vui với (Ngậm ngùi riêng ta)

Là ngƣời muốn sống hết mình và hết lòng yêu thƣơng cuộc đời, Trịnh

Công Sơn luôn quan sát cuộc sống dƣới lăng kính màu hồng và gắng điểm tô

cho cuộc sống thành một khu vƣờn địa đàng thật nhiều hoa thơm quả ngọt.

Nhƣng khi đã có nhiều trải nghiệm và nhận thấy hạnh phúc bấy lâu chỉ là

hạnh phúc ngu ngơ, ông lại thu mình, trở về với một cuộc sống bình lặng,

buồn bã, lặng câm nhƣ kiếp đá:

Ngày nay thôi đành nhé

Tôi như đá nặng nề

Trong giây phút tình cờ rớt xuống mịt mù

(Ngày nay không còn bé)

Trong thế giới của riêng mình, có những lúc Trịnh Công Sơn mơ hồ

tưởng mình đang là cơn gió, là chiếc bóng phai mờ, là chút vết mực nhoè...

Có khi ông thấy mình nhƣ con chim bé nhỏ, tội nghiệp, một đời mỏi cánh tìm

kiếm thiên đƣờng nhƣng thất vọng và “đành thôi quên lãng”:

Tôi như con chim buồn

Bay về lúc chiều hôm

Thôi quên đi thiên đường

Một đời tôi mãi tìm (Nhƣ chim ƣu phiền)

Con chim ấy âu sầu chở buồn đau giữa ánh nắng chiều:

Tôi như con chim chiều

92

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mang đầy nắng quạnh hiu

Trên đôi vai u sầu

Tìm về nơi cuối đèo (Nhƣ chim ƣu phiền)

Và có lúc, Trịnh Công Sơn thấy mình là ngọn đèn nhỏ thắp lên cho

riêng mình:

Tôi như ngọn đèn từng đêm vơi cạn

Lửa lên thắp một niềm riêng (Tự tình khúc)

Nỗi cô đơn đã đeo đẳng Trịnh Công Sơn đến tận cuối cuộc đời. Nhƣng

chính nhờ sự cô đơn này, ông đã lắng nghe đƣợc cuộc đời, cảm nhận đƣợc

những hiện tƣợng thiên nhiên và xã hội rõ ràng hơn. Ông không trốn vào nỗi

đau của riêng mình và không lánh đời, mà trải lòng ra với đời, với ngƣời, đón

nhận và chấp nhận:

Dù đến rồi đi

Tôi cũng xin tạ ơn người

Tạ ơn đời tạ ơn ai

Đã cho tôi còn những ngày

Quên kiếp sống lẻ loi (Tạ ơn)

Trịnh Công Sơn không chỉ cô đơn giữa cuộc đời mà còn là một kẻ lạc

loài ngay trên chính quê hƣơng của mình.

Tự nhận mình là một “công dân ngoại hạng”, trong cuộc chiến tranh

trên quê hƣơng mình, ông đi giữa hai làn đạn và hát lên những khúc ca về quê

hƣơng, tình yêu và thân phận con ngƣời. Ở ông, chúng ta bắt gặp một thái độ

không nhập cuộc. Ông đã sống lang thang nhƣ một kẻ vô gia cƣ, vô định trú

trong thời kì trốn lính. Ông là ngƣời đi lạc trong một thành phố tƣởng là quen

thân lắm nhƣng thực ra Trịnh Công Sơn không thuộc về một nơi nào hết:

Tôi như là người lạc trong đô thị

Một hôm đi về biển khơi (Tự tình khúc)

Trong những năm tháng tăm tối của chiến tranh, giữa những thù oán,

chia lìa, Trịnh Công Sơn thấy mình nhƣ con chim nhỏ bơ vơ, lạc loài, không

93

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

biết bay về đâu:

Tôi như con chim nhỏ

Bay về rất ngẩn ngơ

Trên nhân gian chia lìa

Lòng đầy những oán thù (Nhƣ chim ƣu phiền) Quê hƣơng luôn là nơi con ngƣời trở về để tìm sự bình an, sự gần gũi,

gắn bó và thân quen. Thế nhƣng chốn xưa quê nhà với Trịnh Công Sơn sao xa

lạ quá:

Tôi như người xa lạ

Giữa chốn xưa quê nhà (Ngậm ngùi riêng ta)

Ông thấy mình là đứa bé bị bỏ rơi, ngồi nhìn thế kỉ qua đi, đi tìm mà

không thấy đƣợc nơi nƣơng tựa:

Tôi như trẻ nhỏ ngồi bên hiên nhà

Chờ xem thế kỉ tàn phai

Tôi như trẻ nhỏ tìm nơi nương tựa

Mà sao vẫn cứ lạc loài (Tự tình khúc)

Lạc loài giữa chốn quê nhà, nhƣng Trịnh Công Sơn đã yêu quê hƣơng

bằng một trái tim giàu lòng nhân ái. Ông đã đau nỗi đau của quê hƣơng trong

cảnh mặt quê hương tan nát từng giờ, đã vui niềm vui của quê hƣơng khi đất

nước tôi thanh bình. Và còn gì đáng trân trọng hơn thế khi ông tâm sự:

Mỗi ngày tôi chọn ngồi thật yên

Nhìn rõ quê hương và nghĩ lại mình

Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống

Vì đất nước cần một trái tim

(Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui)

Cô đơn giữa cuộc đời, lạc loài giữa quê hƣơng, Trịnh Công Sơn tìm

đến tình yêu để mong có đƣợc niềm an ủi. Nhƣng trong tình yêu, ông luôn là

kẻ bị phụ tình.

94

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trịnh Công Sơn luôn yêu hết mình và hết lòng với ngƣời mình yêu:

Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia

Làm hồng chút môi cho em nhờ (Cho đời chút ơn)

Trong tình yêu, ông đã đƣợc hƣởng những niềm hạnh phúc ngọt ngào

nhƣng đồng thời cũng phải trải qua không ít đắng cay. Khi đắm chìm trong

niềm hạnh phúc của một nguời yêu và đƣợc yêu, ông thấy lòng mình như

khăn mới thêu - đẹp đẽ và mới mẻ:

Mười năm xưa đứng bên bờ dậu

Đường xanh hoa muối bay rì rào

Có người lòng như khăn mới thêu

(Có một dòng sông đã qua đời)

Thế nhƣng, khi ngƣời yêu bỏ đi và đi mãi, ông thấy nhƣ dòng sông kia đã

qua đời, cũng nhƣ trong lòng ông có một điều gì đó đã đổ vỡ. Để rồi muời năm

sau gặp lại, trong lòng chỉ còn một chút gì đó nhạt nhoà, yếu ớt như nắng qua đèo:

Mười năm sau áo bay đường chiều

Bàn chân trong phố xa lạ nhiều

Có người lòng như nắng qua đèo

(Có một dòng sông đã qua đời)

Với Trịnh Công Sơn, ngƣời tình luôn đƣợc ông trân trọng và ngợi ca.

Khi em là những gì đẹp đẽ, thánh thiện, là tất cả những gì mà tôi mơ ƣớc, em

mang đến cho tôi niềm vui của những cánh diều no gió, niềm hân hoan của

những bông hoa vừa mọc:

Từ khi trăng là nguyệt

Tôi như từng cánh diều vui...

Từ trăng xưa là nguyệt

Lòng tôi có đôi khi

Tựa bông hoa vừa mọc

95

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hân hoan giây xuống thế (Nguyệt ca)

Nhƣng khi em đã thay lòng, khi tôi nhận rõ gƣơng mặt “xanh lòng tàn

phai” của em, tôi hoá thân thành giọt nắng ngoài kia, tuy có vẻ hững hờ nhƣng

trăn trở, khổ đau:

Từ trăng thôi là nguyệt

Tôi như giọt nắng ngoài kia (Nguyệt ca)

Sự thay lòng của em đã tạo thành một hố buồn thăm thẳm trong lòng tôi,

khiến tôi thấy mình nhƣ đứa bé dại khờ, nhƣ đƣờng phố kia đã quên tên mình:

- Từ trăng thôi là nguyệt

Tôi như đường phố nhiều tên (Nguyệt ca)

- Rằng em thôi là nguyệt

Tôi như đứa bé dại khờ (Nguyệt ca)

Luôn bị ám ảnh bởi sự phụ rẫy, có lúc Trịnh Công Sơn tự ủi mình:

Hãy cứ vui chơi cuộc đời

Dù ngày mai em như chim bay

Bỏ quên đây một người

Hát bên đời gian dối

Dù ta như con đường dài vắng người

(Hãy cứ vui nhƣ mọi ngày)

Với rất nhiều ngƣời khác, bị phụ tình là một bi kịch tình yêu, nhƣng với

Trịnh Công Sơn, bi kịch ấy lại là sự thăng hoa của một tâm hồn thánh thiện và nhân

ái:

Yêu em yêu thêm tình phụ

Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ (Ru em)

Cô đơn, lạc loài, bị phụ tình, cuối cùng Trịnh Công Sơn mơ ƣớc trở về

với hồn nhiên, trở về với cội nguồn, với quê nhà nằm sâu trong tiềm thức của

ông:

Tôi con chim thanh bình

Mơ được sống hồn nhiên

96

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Như hoa trên đồng xanh

Một sớm kia rất hồng (Nhƣ chim ƣu phiền)

Ông muốn trở về với thật thà, với khờ dại, với ngây ngô của một đứa

bé mới lớn lên giữa đời sống kia:

Hôm nay tôi nghe

Tôi cười như đứa bé

Mới lớn lên giữa đời sống kia (Hôm nay tôi nghe)

Trịnh Công Sơn quan niệm: “Sống là sống với ngƣời khác và muốn có

cảm thông chúng ta phải luôn luôn diễn đạt mình”. Và ông thổ lộ: “Trong

những cách diễn đạt bằng tiếng nói, bằng chữ viết, và nhiều phƣơng tiện khác,

tôi thấy tâm hồn mình có khuynh hƣớng nghiêng về phía ca khúc. Trên mảnh

đất nghệ thuật nhỏ nhắn này, tôi tìm thấy tự do và tôi nghĩ rằng ở đây tôi có

thể bày tỏ đƣợc với ngƣời khác về những niềm vui nỗi buồn của cuộc sống”

(Theo [46, tr.477]). Trong ca khúc, qua nhân vật tôi, Trịnh Công Sơn đã “diễn

đạt mình” bằng nhiều phƣơng thức, trong đó có so sánh.

Tôi với những tâm trạng, nỗi niềm, cảm xúc phong phú thƣờng đƣợc

Trịnh Công Sơn thể hiện bằng cấu trúc so sánh vắng yếu tố phƣơng diện.

Trong cấu trúc này, tôi giữ vai trò yếu tố đƣợc so sánh. Yếu tố so sánh là

những sự vật hiện tƣợng thuộc trƣờng nghĩa con ngƣời hoặc ngoài con ngƣời.

Những sự vật hiện tƣợng này thƣờng đƣợc Trịnh Công Sơn nói rõ bằng việc

thêm những chi tết miêu tả. Vì vậy có thể không cần nói ra thuộc tính chung

làm cơ sở so sánh nhƣng chúng ta vẫn có thể hiểu đƣợc những tâm trạng, cảm

xúc, nỗi niềm của tôi. Ví dụ:

Tôi như con chim bệnh

Thiếu hạnh phúc trần gian

Có những tháng mùa đông

Ngồi khóc rất âm thầm (Nhƣ chim ƣu phiền)

Ở đây, yếu tố đƣợc so sánh là tôi, yếu tố đƣợc so sánh là con chim +

97

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những chi tiết miêu tả (bệnh, thiếu hạnh phúc trần gian, có những tháng mùa

đông ngồi khóc rất âm thầm). Những chi tiết này đã nói lên tình cảnh ốm yếu,

bất hạnh, cô đơn, lạnh lẽo của tôi.

Nhƣ vậy, qua phƣơng thức so sánh (với yếu tố so sánh đƣợc mở rộng),

Trịnh Công Sơn đã “diễn đạt mình” và nhận đƣợc sự cảm thông của rất nhiều

ngƣời yêu nhạc của ông, mến mộ tài năng và trân trọng tấm lòng của ông với

đời.

Để xây dựng hình tƣợng nghệ thuật tôi, nhạc sĩ đã sử dụng phƣơng thức

so sánh với những yếu tố đƣợc so sánh (A) và những yếu tố so sánh (B) đƣợc

trình bày trong bảng sau (Bảng 3.2):

A tnss B - (yếu tố mở rộng) STT

giọt nắng kia - làm hồng chút môi cho tôi nhƣ 1 em nhờ

tôi nhƣ nguời ngây dại giữa đám đông bạn bè 2

tôi nhƣ ngƣời xa lạ giữa chốn xƣa quê nhà 3

đá nặng nề - trong giây phút tình cờ rớt tôi nhƣ 4 xuống mịt mù

tôi nhƣ từng cánh diều vui 5

tôi nhƣ giọt nắng ngoài kia 6

tôi nhƣ đứa bé dại khờ 7

tôi nhƣ đƣờng phố nhiều tên 8

con chim nhỏ - bay về rất ngẩn ngơ trên tôi nhƣ 9 nhân gian chia lìa - lòng đầy những oán thù

tôi nhƣ chim xa lạ - đứng nhìn những ngày qua 10

tôi nhƣ con chim buồn - bay về lúc chiều hôm 11

98

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

con chim bệnh - thiếu hạnh phúc trần tôi nhƣ 12 gian - có những tháng mùa đông ngồi

khóc rất âm thầm

13 tôi nhƣ chim ƣu phiền - bay về cuối dòng sông

con chim chiều - mang đầy nắng quạnh 14 tôi nhƣ hiu trên đôi vai u sầu - tìm về nơi cuối đèo

15 tôi nhƣ mọi ngƣời - mong ngày sẽ tới

trẻ nhỏ - ngồi bên hiên nhà - chờ xem 16 tôi nhƣ thế kỉ tàn phai

trẻ nhỏ - tìm nơi nƣơng tựa - mà sao 17 tôi nhƣ vẫn cứ lạc loài

Ngƣời lạc trong đô thị - một hôm đi về 18 tôi nhƣ là biển khơi

ngƣời một hôm quay lại vì nghe sa mạc 19 tôi nhƣ là nối dài

ngƣời ngồi trong đêm dài - nhìn tôi 20 tôi nhƣ là đang quá ngậm ngùi

đƣờng về - mở ra đô thị - chờ chân 21 tôi nhƣ thiên hạ về vui

nụ cƣời nở trên môi ngƣời - phòng khi 22 tôi nhƣ nhân loại biếng lƣời

ngọn đèn - từng đêm vơi cạn - lửa lên 23 tôi nhƣ thắp một niềm riêng

nụ hồng - nhiều khi ƣu phiền - chờ tôi 24 tôi nhƣ rã cánh một lần

25 tôi chiếc bóng phai mờ là

26 tôi chút vết mực nhoè là

99

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

con chim thanh bình - mơ đƣợc sống 27 tôi hồn nhiên nhƣ hoa trên đồng xanh một

sớm kia rất hồng

con chim vô vọng - linh hồn rất mong manh 28 tôi

tên mục đồng 29 tôi

tên tuyệt vọng 30 tôi

cây chƣa già 31 tôi

tôi cƣời nhƣ đứa bé mới lớn lên giữa đời sống kia 32

tôi mơ có cuộc tình nhƣ mơ ƣớc đƣợc gần với những nụ hồng 33

tôi yêu tôi sống nhƣ bao ngƣời 34

bông hoa vừa mọc - hân hoan giây lòng tôi 35 tựa xuống thế

36 ta là thác đổ

37 ta là đêm - nở đoá hoa vô thƣờng

38 ta nhƣ con đƣờng dài vắng ngƣời

39 ta nhƣ sóng lênh đênh

40 lòng ta nhƣ đã nát nhầu đam mê

41 lòng ta tựa nhƣ vắng ai

42 mình là cơn gió

BẢNG 3.2

(Ghi chú: Dấu ngoặc đơn (...) trong (yếu tố mở rộng) chỉ khả năng "có"

hoặc "không).

3.3. PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI NHỮNG CHIÊM NGHIỆM VỀ

TÌNH YÊU

“Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu

hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dƣỡng tình yêu để tình

yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời”(Theo [38, tr.145]. Suốt

cuộc đời mình, Trịnh Công Sơn đã “nuôi dƣỡng tình yêu” bằng những lời ca

100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đƣợc cất lên từ một trái tim khao khát yêu thƣơng.

Qua ca khúc, bằng phƣơng thức so sánh, Trịnh Công Sơn đã mang đến

cách nhìn mới mẻ về tình yêu, miêu tả sinh động những cung bậc khác nhau

của tình yêu và ca ngợi giá trị vĩnh hằng của tình yêu.

Trƣớc hết, Trịnh Công Sơn đã mang đến cách nhìn mới mẻ về tình yêu

qua sử dụng những hình ảnh độc đáo trong so sánh.

Thế hệ của Trịnh Công Sơn có tuổi bằng với tuổi của chiến tranh. Ngay

từ khi còn rất trẻ, chiến tranh đã trở thành nỗi ám ảnh thƣờng trực trong tâm

trí ông. Ông đã sáng tác rất nhiều ca khúc về thân phận con ngƣời trong chiến

tranh, miêu tả cuộc sống kinh hoàng đầy chết chóc hàng ngày của ngƣời dân.

Cái khốc liệt, dữ dội của chiến tranh cũng đƣợc Trịnh Công Sơn đƣa vào

những bản tình ca của mình bằng những hình ảnh so sánh mới lạ và độc đáo.

Có lẽ chƣa có ai chiến tranh hoá tình yêu qua ca từ tác phẩm tài tình

nhƣ Trịnh Công Sơn. Ông là ngƣời đƣa không khí chiến tranh vào tình yêu và

nâng đề tài này lên đỉnh cao của nghệ thuật. Đại thi hào Hy Lạp - Homère

từng nói: chỉ có hai chuyện đáng nói trên đời này thôi, là chiến tranh và tình

yêu. Trịnh Công Sơn đã may mắn đƣợc lịch sử và số phận ban tặng cảm hứng

từ cả “hai chuyện đáng nói trên đời” ấy. Trong ca khúc Tình sầu, ông đã so

sánh tình yêu với hàng loạt những hình ảnh về chiến tranh: Tình yêu như trái

phá con tim mù loà (nhƣ sức công phá của đại bác); Tình yêu như vết cháy

trên da thịt người (nhƣ thƣơng tích của lửa hoặc bom cháy); Tình yêu như đốt

sáng con tim tật nguyền (nhƣ ánh sáng và sức thiêu đốt của hoả châu); Tình

yêu như nỗi chết cơn đau thật dài (nhƣ cái chết dễ dàng, chết thật tình cờ

trong chiến tranh, để lại những nỗi đau không dễ nguôi ngoai).

Với những ca từ này, ngƣời nghe cảm nhận đƣợc sự dữ dội , khốc liệt

của chiến tranh và cũng là sự dữ dội, khốc liệt của tình yêu. Giữa tình yêu và

những hình ảnh về chiến tranh đƣợc đem ra so sánh tƣởng nhƣ chẳng liên

101

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

quan đến nhau và không có gì tƣơng đồng, nhƣng nếu lắng tâm hồn mình lại

và suy ngẫm thì ta thấy sự so sánh ấy là hoàn toàn có thể. Đó là trƣờng hợp

của câu mở đầu ca khúc Tình sầu:

Tình yêu như trái phá

Con tim mù loà (Tình sầu)

Trong chiến tranh, đạn đại bác (trái phá) có sức mạnh ghê gớm của loại

vũ khí hạng nặng, đem lại sự đổ vỡ, huỷ diệt và cả cái chết, “những cái chết

không báo trƣớc nhƣng cũng nhuốm đầy đủ màu sắc tai ƣơng của một kiếp

nạn” [64]. Vậy mà trong ca khúc, đích nhằm đến của trái phá lại là một đối

tƣợng đã mất khả năng nhận thức lí tính để ẩn náu trƣớc hiểm hoạ, là con tim

mù loà... Vâng, trái tim đã mù loà vì tình yêu, và trƣớc tình yêu, nó đã có một

nhịp đập khác.

Tình yêu mang đến những cảm xúc về sự hiểm nguy bất trắc, nhƣng

cũng có lúc mang đến những vị ngọt và trái chín:

- Tình yêu như thương áo

Quen hơi ngọt ngào (Tình sầu)

- Tình yêu như trái chín

Trên cây rụng rời (Tình sầu)

Vị ngọt của tình yêu đƣợc diễn tả bằng những hình ảnh so sánh thật

đơn sơ, bình dị nhƣng vẫn có một cái gì đó cô đơn, lẻ loi, buồn tủi. Nhƣ ngƣời

tình đã đi xa rồi, chỉ còn lại hơi ấm quen thuộc trên chiếc áo để lại mà thôi.

Cũng nhƣ trái chín trên cây rụng rời, sao mà xót xa, tội nghiệp đến vậy!

Thứ hai là, qua so sánh, Trịnh Công Sơn đã thể hiện một cách sinh

động và giàu hình ảnh những cung bậc khác nhau của tình yêu.

Tình yêu trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn là một thứ tình cảm

có tính nhị nguyên, tức là luôn mang trong nó những trạng thái, những thuộc

tính đối lập (xa/gần; rộng/hẹp; trầm/reo vui; mật ngọt/mật đắng...):

Tình xa như trời

102

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tình gần như khói mây (Tình sầu)

Tình xa như trời - một sự so sánh hoàn toàn hợp lí vì không ai có đƣợc

tình yêu trọn vẹn, cũng nhƣ trời kia xa lắm, có ai mà với tới. Nhƣng Tình gần

như khói mây thì là một sự bất ngờ của lời ca đƣợc tác giả mang đến cho

ngƣời nghe. Tại sao lại gần như khói mây? Khói mây thì có ai mà nắm bắt

đƣợc bởi nó mong manh, dễ tan biến và luôn thay hình đổi dạng. Phải chăng đó

cũng chính là một đặc tính của tình yêu - không ai nắm giữ đƣợc tình yêu

trong tay mình cho dù nó đang ở thật gần. Nhƣ Trịnh Công Sơn từng nói:

“Tình yêu tự đến và tự đi, không cần ai dìu dắt. Nó hoàn toàn tự do. Muốn

giam cầm nó thì nó sẽ bay đi. Muốn thả nó bay đi có khi nó ở lại” (Theo [37,

tr.25]).

Tình trầm như bóng cây

Tình reo vui như nắng (Tình sầu)

Ở câu thứ nhất, với sự so sánh tình nhƣ bóng cây và với cơ sở so sánh

là trầm, tác giả đã diễn tả một trạng thái của tình yêu: đứng yên, lặng lẽ và mờ

nhạt. Câu thứ hai, trái lại, diễn tả một trạng thái hoàn toàn khác: Tình yêu

đƣợc nhân cách hoá thành một thực thể sống động đầy hứng khởi với hành

động reo vui và đƣợc so sánh với nắng, bởi nắng vốn mang màu sắc tƣơi sáng

nên thƣờng đƣợc nhắc đến nhƣ dấu hiệu của niềm vui. Trong ca từ Trịnh

Công Sơn, nắng thƣờng đƣợc dùng nhƣ một hình ảnh biểu trƣng, chỉ niềm vui

hiếm hoi nơi “cõi tạm”, và niềm vui ấy cũng hiếm hoi trong những bản tình ca

vốn mang nặng nỗi buồn và ƣu tƣ của ông.

Tình yêu là mật ngọt nhƣng cũng có thể là mật đắng:

Tình yêu mật ngọt

Mật ngọt trên môi

Tình yêu mật đắng

Mật đắng trong đời (Lặng lẽ nơi này)

Tình yêu bao dung, độ lƣợng nhƣng cũng ích kỷ, hẹp hòi:

103

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tình yêu như biển

Biển rộng hai vai...

Tình yêu như biển

Biển hẹp tay người (Lặng lẽ nơi này)

Hay một trạng thái khác của tình yêu, trong một sự liên tƣởng kì lạ hơn:

Cuộc tình lên cao vút

Như chim mỏi cánh rồi.

Như chim xa lìa bầy.

Như chim xa lìa trời.

Như chim bỏ đường bay (Tình sầu)

Đây là một cấu trúc so sánh hết sức độc đáo, không chỉ vì một A (yếu

tố đƣợc so sánh) đƣợc đem ra so sánh với nhiều B (Yêú tố so sánh) mà còn vì

sự đối lập giữa A và B: cuộc tình lên cao vút (hƣớng đi lên) đƣợc so sánh với

chim mỏi cánh, chim xa lìa bầy, chim xa lìa trời, chim bỏ đường bay (hƣớng

đi xuống). ở đây, sự say đắm, nồng nàn khi tình yêu đạt đến độ thăng hoa lại

đƣợc so sánh với những trạng thái mệt mỏi và chia lìa. Phải chăng khi cuộc

tình lên cao vút cũng chính là dự báo cho sự mất mát chia lìa? Điều này đã trở

thành nỗi ám ảnh với ngƣời nhạc sĩ, bởi vậy cấu trúc so sánh này đã trở đi trở

lại hai lần trong ca khúc Tình sầu, thể hiện sự lo lắng, bất an của Trịnh Công

Sơn trƣớc một cuộc tình không may.

Thứ ba là, bằng so sánh, Trịnh Công Sơn đã ca ngợi giá trị vĩnh hằng

của tình yêu.

Tình yêu trong nhạc Trịnh Công Sơn luôn là tình yêu gắn liền với nỗi

bất hạnh, khắc khoải, chia lìa. Những ngƣời tình đến rồi đi và để lại cho ông

những vết thƣơng không dễ hàn gắn và những nỗi đớn đau chẳng thể nguôi

ngoai. Ngay đến tuổi thọ của những chuyện tình cũng chẳng dài lâu, chỉ mong

manh như nắng và thoảng như gió vội:

- Tình mong manh như nắng

104

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tình còn đầy không em (Tình sầu)

- Có chút tình thoảng như gió vội

Tôi chợt nhìn ra tôi (Nhƣ một lời chia tay)

Tình yêu cũng là thứ tình cảm dễ đổi thay (Tình như lá bỗng vàng bỗng

xanh - Tạ ơn) và khiến ngƣời ta phải chờ mong trong khắc khoải, mỏi mòn

những điều vu vơ chẳng bao giờ có đƣợc:

Tình như đá hoài những chờ mong

Tình vu vơ sao ta muộn phiền (Nhƣ một lời chia tay)

Thế nhƣng, Trịnh Công Sơn vẫn tâm niệm: “Có ngƣời yêu thì hạnh

phúc, có ngƣời yêu thì đau khổ, nhƣng dù đau khổ hay hạnh phúc thì con

ngƣời vẫn muốn yêu. Tình yêu vì thế mà tồn tại. Con ngƣời không thể sống

mà không yêu” (Theo 42, tr.24])

Trịnh Công Sơn đã kết lại ca khúc Tình sầu bằng một hình ảnh so sánh

đầy ý nghĩa:

Tình cho nhau môi ấm

Một lần là trăm năm (Tình sầu)

Lời thổ lộ bất chợt này đã xoá đi những bất an, bất trắc, những giằng

xé, giày vò trong tình yêu để chỉ còn lại cái giá trị vĩnh hằng của nó. Dù chỉ

một lần thôi, có thể ngắn, có thể dài, có thể là mật ngọt, có thể là mật đắng

nhƣng một lần ấy là trăm năm, là cả đời ngƣời, để ông luôn trân trọng và biết ơn.

Để mang đến cách nhìn mới mẻ về tình yêu, miêu tả sinh động những

cung bậc khác nhau của tình yêu và ca ngợi giá trị vĩnh hằng của tình yêu,

Trịnh Công Sơn thƣờng so sánh tình yêu với những cái bên ngoài con ngƣời

(những hiện tƣợng tự nhiên, những sự vật hiện tƣợng cụ thể hoặc trừu tƣợng).

Chẳng hạn:

Tình yêu như vết cháy

Trên da thịt người (Tình sầu)

Ở đây, cơ sở so sánh, tức nét tƣơng đồng giữa cái đƣợc so sánh là tình

105

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

yêu và cái so sánh là vết cháy trên da thịt người đã đƣợc ẩn giấu đi. Vết cháy

trên da thịt người là một vết thƣơng làm cho ngƣời ta đau đớn, xót xa. Trịnh

Công sơn đã từng phát biểu: Tình yêu có thể là một bông hoa, cùng lúc có thể

là một tai nạn. Khi tình yêu là một tai nạn, chắc hẳn sẽ để lại những vết

thƣơng. Và có vết thƣơng nào lại không xót xa, đau đớn! Trịnh Công Sơn đã

cụ thể hoá nỗi đau của vết thƣơng lòng bằng nỗi đau của vết thƣơng trên thể

xác. Nhạc sĩ đã dành cho ngƣời nghe cả một khoảng trời để suy ngẫm, liên

tƣởng, từ đó tìm ra nét tƣơng đồng giữa hai đối tƣợng ở hai vế: yếu tố đƣợc so

sánh và yếu tố so sánh. Qua đó phát hiện ra đặc điểm của đối tƣợng đƣợc so

sánh. Đây cũng là một trong những yếu tố khiến cho nhạc Trịnh trở thành một

dòng nhạc “kén nguời nghe”.

Để thể hiện những chiêm nghiệm về tình yêu, nhạc sĩ đã sử dụng

phƣơng thức so sánh với những yếu tố đƣợc so sánh (A) và những yếu tố so

sánh (B) đƣợc trình bày trong bảng sau (Bảng 3.3):

A - (phƣơng diện so STT tnss B - (yếu tố mở rộng) sánh)

tình yêu 1 nhƣ biển - biển rộng hai vai

tình yêu 2 nhƣ biển - biển hẹp tay ngƣời

tình yêu 3 nhƣ trái phá com tim mù loà

tình yêu 4 nhƣ vết cháy trên da thịt ngƣời

tình yêu 5 nhƣ nỗi chết cơn đau thật dài

tình yêu 6 nhƣ cơn bão đi qua địa cầu

tình yêu 7 nhƣ trái chín trên cây rụng rời

tình yêu 8 nhƣ thƣơng áo quen hơi ngọt ngào

tình yêu 9 nhƣ đốt sáng con tim tật nguyền

tình yêu 10 mật ngọt - mật ngọt trên môi

tình yêu 11 mật đắng - mật đắng trong đời

106

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tình yêu 12 dấu chim bay

13 tình ta nhƣ núi rừng cúi đầu

14 tình nhƣ nắng - vội tắt chiều hôm

15 tình nhƣ đá - hoài những chờ mong

16 tình nhƣ chút nắng

17 chút tình - thoảng nhƣ gió vội

18 tình - buồn nhƣ là nấm hoang

19 tình - xa nhƣ trời

20 tình - gần nhƣ khói mây

21 tình - trầm nhƣ bóng cây

22 tình - reo vui nhƣ nắng

23 tình - mong manh nhƣ nắng

24 tình ngỡ đã quên đi nhƣ lòng cố lạnh lùng

nhƣ chim mỏi cánh rồi

nhƣ chim xa lìa bầy 25 cuộc tình lên cao vút nhƣ chim xa lìa trời

nhƣ chim bỏ đƣờng bay

26 một lần yêu thƣơng một đời bão nổi

BẢNG 3.3

(Ghi chú: Dấu ngoặc đơn (...) trong (phương diện so sánh) và (yếu tố

mở rộng) chỉ khả năng "có" hoặc "không).

3.4. PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI NHỮNG CHIÊM NGHIỆM VỀ

ĐỜI NGƢỜI

Giáo lí nhà Phật giải thích: Tất cả mọi sự vật trên đời đều lƣu chuyển

và biến dịch, không có gì là thƣờng trụ, bất biến cả. Bất cứ một sự vật hiện

tƣợng nào trên đời cũng phải trải qua 4 thời kì: “sinh - trụ - dị - diệt”. “Sinh”

107

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

là sinh ra. “Trụ” là tồn tại, phát triển một thời gian. “Dị” là biến đổi. “Diệt” là

tan biến mất. “Sinh - trụ - dị - diệt”, đó là quy luật chung của vạn vật. Cuộc

đời mỗi con ngƣời cũng không nằm ngoài quy luật ấy...

Sinh ra trong một gia đình theo Phật giáo và gắn bó với xứ Huế - nơi có

nhiều chùa chiền, lăng tẩm, ngay từ khi còn rất trẻ, Trịnh Công Sơn đã thấm

nhuần những giáo lí nhà Phật. Và hơn ai hết, ông ý thức rất rõ ràng tính vô

thƣờng và sự hữu hạn của đời ngƣời. Trịnh Công Sơn luôn cho rằng cuộc đời

này chỉ là “cõi tạm” và vòng đời một con ngƣời với thời gian trăm năm chỉ là

một cuộc lƣu trú ngắn ngủi trên thế giới thực tại này:

Người đi quanh thân thế của người

Một trăm năm như tiếng thở dài (Nhƣ tiếng thở dài)

Trong những ca từ mang đậm mầu sắc Phật giáo của Trịnh Công Sơn,

có thể nhận thấy nỗi ám ảnh của ông về sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời ngƣời.

Qua rất nhiều ca khúc, Trịnh Công Sơn đã nói lên nhận thức ấy qua hàng loạt

cấu trúc so sánh.

Trong cõi vô thuỷ, vô chung của trời đất, đời ngƣời chỉ nhẹ như mây khói,

nhƣ chiếc lá vàng rơi rụng lúc thu sang (Đời nhẹ như lá thu - Cánh chim cô

đơn).

Đời ngƣời giống nhƣ đốm lửa: bé nhỏ, mong manh, dễ tàn, dễ tắt:

Đời ta có khi là đốm lửa

Một hôm nhóm trong vườn khuya (Đêm thấy ta là thác đổ)

Trải qua một kiếp phù du, khi chạm đến bến bờ, đến ranh giới của cuộc đời,

khi tuổi xuân đã già, con ngƣời chợt ngộ ra một điều: đời người như gió qua:

Ôi phù du

Từng tuổi xuân đã già

Một ngày kia đến bờ

Đời người như gió qua (Phôi pha)

Ngoài sự ngắn ngủi, hữu hạn, Trịnh Công Sơn còn có những chiêm

108

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghiệm mới mẻ về đời ngƣời sau những chiều trở về từ một con phố nào đó.

Đời ngƣời là con nước trôi, trôi mãi về một nơi vô định:

Chiều nay em ra phố về

Thấy đời mình là con nước trôi (Nghe những tàn phai)

Đời ngƣời là những chuyến xe đi về trong “cõi tạm” để rồi một ngày

nào đó, một chuyến xe tựa như vừa đến nơi chia lìa:

Chiều nay em ra phố về

Thấy đời mình là những chuyến xe (Nghe những tàn phai)

Đời ngƣời có thể là những đám đông huyên náo, ồn ào, khi con ngƣời

sống giữa ngƣời thân, bạn bè...:

Chiều nay em ra phố về

Thấy đời mình là những đám đông (Nghe những tàn phai)

Đời ngƣời cũng có thể là những quán không trống trải, vắng lặng, khi

con ngƣời sống trong thế giới của riêng mình:

Chiều nay em ra phố về

Thấy đời mình là những quán không (Nghe những tàn phai)

Khi đắm chìm trong nỗi cô đơn, con ngƣời mới cảm nhận hết sự im

vắng của cuộc đời:

Đời sao im vắng

Như đồng lúa gặt xong

Như rừng núi bỏ hoang (Ru ta ngậm ngùi)

Trong nỗi cô đơn, Trịnh Công Sơn đã đẩy đến tận cùng sự đối lập giữa

cái hữu hạn của đời ngƣời với cái vô hạn của cuộc đời để làm nổi bật tính chất

phù du của kiếp ngƣời:

Trời cao đất rộng

Một mình tôi đi...

Đời như vô tận...

109

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Một mình tôi về với tôi (Lặng lẽ nơi này)

Ý thức đƣợc sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời ngƣời và cảm nhận rõ ràng

sự vắng lặng của cuộc đời, Trịnh Công Sơn luôn bị ám ảnh bởi cái chết, bởi

sự vắng bóng của con ngƣời trong cuộc đời. Ông từng tâm sự: “Càng sống nhiều

ta càng thấy cái chết dễ dàng đến với bất cứ một ai. Chết quá dễ mà sống thì quá

khó. Hôm qua gặp nhau đấy, ngày mai lại mất nhau. Sống thì có hẹn hò hôm này

hôm mai. Chết thì chẳng bao giờ có một cuộc hẹn hò nào trƣớc”. (Theo [37,

tr.37]). Trong cuộc đời con ngƣời, sự sống và cái chết luôn kề sát nhau:

- Còn sống một ngày

Là hẹn chết mai đây (Buồn từng phút giây)

- Sống có bao năm vui vui buồn buồn người người ngợm ngợm

Sống chết mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non

(Giọt lệ thiên thu)

Con ngƣời từ cõi hƣ vô đến với cuộc đời để sống trọn một kiếp ngƣời,

rồi một chều chợt giật mình xót xa:

Bao nhiêu năm làm kiếp con người

Chợt một chều tóc trắng như vôi

Lá úa trên cao rụng đầy

Cho trăm năm vào chết một này (Cát bụi)

Đời ngƣời - một khái niệm rất trừu tƣợng đã đƣợc Trịnh Công Sơn so

sánh với những sự vật hiện tƣợng cụ thể, gần gũi (lá thu, đốm lửa, gió qua,

mây khói, con nước trôi, những quán không, những đám đông, những chuyến

xe…). Với sự so sánh này, Trịnh Công Sơn đã làm nổi bật sự hữu hạn, thoáng

chốc của kiếp ngƣời. Với việc ý thức rõ ràng tính chất ngắn ngủi, vô thƣờng

của thời gian trong “cõi tạm”, của cuộc đời mỗi con ngƣời, Trịnh Công Sơn

“không dồn đuổi con ngƣời ta tới một nhịp sống gấp gáp, cũng không làm con

ngƣòi buông xuôi trƣớc số phận mà là nhìn nhận một cách chân xác chỗ đứng

đúng nghĩa của con ngƣời” (Theo [46, tr.462]). Ông động viên mọi ngƣời:

110

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hãy yêu ngày tới

Dù quá mệt kiếp người

Còn cuộc đời ta cứ vui

Dù vắng bóng ai (Để gió cuốn đi)

Ông kêu gọi con ngƣời “phải sống hết mình trong mỗi sát na của hiện

tại”, bởi: Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ (Mƣa hồng).

Để thể hiện những chiêm nghiệm về đời ngƣời, nhạc sĩ đã sử dụng

phƣơng thức so sánh với những yếu tố đƣợc so sánh (A) và những yếu tố so

111

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sánh (B) đƣợc trình bày trong bảng sau (Bảng 3.4):

A - (phƣơng diện so STT tnss B sánh)

đời ta 1 tựa lá cỏ

đốm lửa một hôm nhóm trong đời ta 2 là vƣờn khuya

đời mình 3 là những chuyến xe

đời mình 4 là những đám đông

đời mình 5 là những quán không

đời mình 6 là con nƣớc trôi

đời ngƣời 7 nhƣ gió qua

đời 8 nhƣ vô tận

đời - nhẹ 9 nhƣ lá thu

đời - nhẹ 10 nhƣ mây khói

đời - buồn 11 nhƣ chiều hôm có cơn mƣa rào

đời - buồn 12 nhƣ chiều đông nắng lên nƣơng dâu

đời - buồn 13 nhƣ một vết thƣơng

nhƣ đồng lúa gặt xong đời - im vắng 14 nhƣ rừng núi bỏ hoang

15 lá khô vì đợi chờ cũng nhƣ đời ngƣời mãi âm u

nắng vàng phai 16 nhƣ một nỗi đời riêng

thiên thu 17 là một đƣờng không bến bờ

một trăm năm 18 nhƣ tiếng thở dài

19 nhƣ sống chết - mong manh thân cỏ hèn mọc đầy núi non

20 là còn sống một ngày hẹn chết mai đây

112

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

BẢNG 3.4

(Ghi chú: Dấu ngoặc đơn (...) trong (phương diện so sánh) chỉ khả năng

"có" hoặc "không).

TIỂU KẾT

So sánh là một trong những phƣơng thức quan trọng trong việc xây

dựng hình tƣợng nghệ thuật ở ca từ của Trịnh Công Sơn, đặc biệt là em và tôi

- hai hình tƣợng đƣợc trở đi trở lại trong rất nhiều ca khúc. Phuơng thức này

cũng đƣợc sử dụng để thể hiện một cách sâu sắc những chiêm nghiệm của tác

giả về tình yêu và đời ngƣời.

Em là hình tƣợng chung của những ngƣời phụ nữ đã đi qua cuộc đời

Trịnh Công Sơn và trở thành nguồn cảm hứng để ông viết lên những bản tình

ca bất hủ. Bằng phƣơng thức so sánh, Trịnh Công Sơn đã vẽ lên bức chân

dung của em với vẻ đẹp liêu trai, mong manh, vừa có thật vừa hƣ ảo. Vẻ đẹp

của em có lúc đƣợc Trịnh Công Sơn so sánh với vẻ đẹp cao quý của thiên

nhiên, cũng có lúc vẻ đẹp ấy trở thành chuẩn mực để thiên nhiên lấy làm cái

so sánh.

Qua phƣơng thức so sánh, trong ca từ của Trịnh Công Sơn, hình tƣợng

tôi chính là sự nhập vai của tác giả để nói lên những tâm trạng, và nỗi niềm

của mình. Để “diễn đạt mình”, Trịnh Công Sơn thƣờng sử dụng cấu trúc so

sánh có yếu tố so sánh đƣợc mở rộng bằng những chi tiết miêu tả. Với những

yếu tố so sánh này, chúng ta có thể thấu hiểu phần nào những tâm trạng, cảm

xúc và nỗi lòng của hình tƣợng tôi: với cuộc đời, tôi là một kẻ cô đơn đến

cùng cực; với quê hƣơng, tôi là một kẻ lạc loài; với tình yêu, tôi là một kẻ bị

phụ tình. Cô đơn, lạc loài, bị phụ tình, nhƣng tôi luôn sống giữa cuộc đời

bằng một trái tim yêu đời và yêu ngƣời tha thiết.

Có ngƣời đã nhận xét, Trịnh Công Sơn đã yêu nhƣ một ngƣời trẻ và

chiêm nghiệm về tình yêu nhƣ một ngƣời đã thấu lẽ tử sinh. Trong những bản

tình ca của mình, bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, mới lạ, Trịnh Công

113

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Sơn đã mang đến cho ngƣời nghe những cảm nhận mới mẻ về tình yêu, dẫn

dắt họ trải qua những cung bậc cảm xúc khác nhau của tình yêu, và cuối cùng,

khiến họ đồng tình với tác giả: dù hạnh phúc hay khổ đau, thì con ngƣời cũng

không thể sống mà không yêu.

Qua những ca từ mang đậm mầu sắc Phật giáo của Trịnh Công Sơn khi

ông thể hiện những chiêm nghiệm về đời ngƣời, với sự so sánh đời ngƣời -

một khái niệm trừu tƣợng với những sự vật hiện tƣợng cụ thể, gần gũi, có thể

nhận thấy tác giả luôn ý thức rất rõ ràng về sự ngắn ngủi và hữu hạn của đời

ngƣời. Từ sự ý thức ấy, ông trân trọng từng giây phút đƣợc có mặt trên cõi đời

và luôn tâm niệm: sống cho tròn đầy sự có mặt và chết cho ngập tràn cõi hƣ

114

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không.

KẾT LUẬN

1. Việc xác định các cơ sở lí thuyết và miêu tả một phần thực tế (với

những nét khái quát về ca từ, so sánh, cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của

Trịnh Công Sơn) là điểm tựa để nghiên cứu ca từ của Trịnh Công Sơn dƣới

góc độ ngôn ngữ học, với phƣơng thức so sánh.

Đến với nghệ thuật nhƣ một sự ngẫu nhiên của số phận, nhƣng Trịnh

Công Sơn đã tạo dựng cho mình một dòng nhạc độc lập, có sức sống và vị trí

riêng. Lắng nghe nhạc của ụng, chúng ta thấy đƣợc cái khốc liệt của chiến

tranh qua những ca khúc phản chiến, sự hữu hạn của đời ngƣời qua những ca

khúc về thân phận, và những cung bậc khác nhau của tình yêu qua những bản

tình ca, đồng thời cảm nhận đƣợc lòng yêu đời và yêu ngƣời tha thiết của

ngƣời nghệ sĩ đã sống giữa cuộc đời và đến với nghệ thuật bằng trái tim đầy

lòng nhân ái. Một trong những yếu tố làm nên sức sống của nhạc Trịnh chính

là phần ca từ (đƣợc hiểu là phần ngôn ngữ văn học trong âm nhạc), và đó

cũng là nơi thể hiện sự tài hoa trong sử dụng tiếng Việt của ông, trong đó có

phƣơng thức so sánh.

So sánh là một trong những phƣơng thức làm nên vẻ đẹp và nét độc đáo

của ngôn ngữ nghệ thuật. Theo quan niệm của tu từ học, đây là phƣơng thức

dùng để đối chiếu hai đối tƣợng khác loại, không hoàn toàn đồng nhất với

nhau mà có thể chỉ có một nét giống nhau, thậm chí chỉ có một mối liên hệ

sâu xa nào đó, nhằm gợi ra những hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ

trong nhận thức của ngƣời đọc, ngƣời nghe, và nhằm diễn tả bằng hình ảnh

một lối tri giác mới mẻ về đối tƣợng đƣợc đem ra so sánh. Đây cũng chính là

115

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phƣơng thức đƣợc sử dụng phổ biến trong ca từ của Trịnh Công Sơn.

2. Trong ca từ của Trịnh Công Sơn, phƣơng thức so sánh xuất hiện với

nhiều kiểu loại đa dạng, góp phần thể hiện cá tính sáng tạo riêng về ngụn từ

nghệ thuật của nhạc sĩ xột về mặt hình thái cấu trúc cũng nhƣ về mặt ngữ

nghĩa.

Về mặt hình thái cấu trúc, ta gặp 13 kiểu cấu trúc so sánh, trong đó kiểu

cấu trúc A + tnss + B chiếm số lƣợng nhiều nhất. Sử dụng cấu trúc thiếu cơ

sở so sánh này, Trịnh Công Sơn đã dành cho ngƣời nghe một sự tự do liên

tƣởng để tìm ra những nét giống nhau giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so

sánh, từ đó phát hiện ra đặc điểm của đối tƣợng đƣợc so sánh theo chiều

hƣớng liên tƣởng của mình.

Trong số 8 từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh, các từ ngữ sử dụng trong

kiểu so sánh tƣơng tự (như, tựa, tựa như, như là, cũng như) có tần số xuất

hiện cao nhất, tiếp theo là các từ ngữ sử dụng trong kiểu so sánh ngang bằng

(là, bằng). Tần số xuất hiện của từ ngữ so sánh trong kiểu so sánh dị biệt hơn

chỉ chiếm một số lƣợng rất nhỏ.

Yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh đƣợc Trịnh Công Sơn sử dụng

trong cấu trúc so sánh thƣờng là kết cấu danh ngữ và cụm C - V, ít dùng động

ngữ và tính ngữ; từ loại danh từ đƣợc tác giả dùng nhiều hơn tính từ và động từ.

- Về mặt ngữ nghĩa, ở yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh, Trịnh

Công Sơn sử dụng hai trƣờng nghĩa đối lập: thuộc con ngƣời và ngoài con

ngƣời. Trong đó, yếu tố đƣợc so sánh thƣờng thuộc trƣờng nghĩa thuộc con

ngƣời, yếu tố so sánh thƣờng thuộc trƣờng nghĩa ngoài con ngƣời.

Trong mối tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh (A) và yếu

tố so sánh (B), thƣờng gặp là tƣơng quan giữa A thuộc con ngƣời - B ngoài

con ngƣời, tiếp đó là A ngoài con ngƣời - B ngoài con ngƣời. Tƣơng quan

giữa A ngoài con ngƣời - B thuộc con ngƣời và A thuộc con ngƣời - B thuộc

116

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

con ngƣời chiếm một số lƣợng nhỏ.

3. Hình tƣợng nghệ thuật là một bức tranh vừa cụ thể vừa khái quát về

cuộc sống, về con ngƣời, đƣợc nghệ sĩ xây dựng nên và thể hiện bằng nhiều

cách, trong đó so sánh là một trong những phƣơng thức quan trọng. Trong

những ca khúc của Trịnh Công Sơn, phƣơng thức so sánh góp phần không

nhỏ trong việc xây dựng những hình tƣợng nghệ thuật để lại ấn tƣợng sâu sắc

trong lòng ngƣời nghe, đặc biệt là em và tôi - hai hình tƣợng đƣợc trở đi trở

lại trong rất nhiều ca khúc. Phƣơng thức này cũng đƣợc sử dụng để thể hiện

một cách sâu sắc những chiêm nghiệm của tác giả về tình yêu và đời ngƣời.

Bằng so sánh, Trịnh Công Sơn đã vẽ lên bức chân dung em với vẻ đẹp

mong manh, vừa có thật vừa hƣ ảo. Đây cú thể cũng chính là hình tƣợng

chung của những ngƣời phụ nữ đã đi qua cuộc đời Trịnh Công Sơn và trở

thành nguồn cảm hứng để ông viết lên những bản tình ca bất hủ.

Qua xem xét phƣơng thức so sánh, chúng ta có thể thấu hiểu phần nào

những tâm trạng, cảm xúc và nỗi lòng của hình tƣợng tôi - một hiện thân của

chính tác giả: Với cuộc đời, tôi là một kẻ cô đơn đến cùng cực; với quê

hƣơng, tôi là một kẻ lạc loài; với tình yêu, tôi là một kẻ bị phụ tình. Thế

nhƣng, tôi luôn sống giữa cuộc đời bằng một trái tim yêu đời và yêu ngƣời tha

thiết.

Cũng qua những hình ảnh so sánh độc đáo, mới lạ trongg ca khúc,

ngƣời nghe sẽ có đƣợc những cảm nhận mới mẻ về tình yêu, đƣợc dẫn dắt qua

những cung bậc khác nhau của tình yêu, và cuối cùng, đồng tình với tác giả:

con ngƣời luôn khao khát yêu và đƣợc yêu, dù khổ đau hay hạnh phúc.

Sự ngắn ngủi và hữu hạn của đời ngƣời đƣợc thể hiện trong rất nhiều ca

khúc của Trịnh Công Sơn, bằng sự so sánh đời ngƣời - một khái niệm rất trừu

tƣợng với những sự vật hiện tƣợng cụ thể. Với việc ý thức rõ ràng tính chất

ngắn ngủi, vô thƣờng của thời gian trần thế, của cuộc đời mỗi con ngƣời, Trịnh

Công Sơn trân trọng từng giây phút đƣợc có mặt trên cõi đời, và luôn động viên

117

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mọi ngƣời hãy sống hết mình, bởi cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ.

4. Kết quả của việc nghiên cứu phuơng thức so sánh trong ca từ của

Trịnh Công Sơn là minh chứng cho khả năng tìm hiểu giá trị của văn bản

nghệ thuật dƣới góc nhìn ngôn ngữ học. Đồng thời, nó có thể giúp những

ngƣời yêu nhạc Trịnh tiếp cận có định hƣớng và dễ dàng hơn với dòng nhạc

đƣợc đánh giá là “kén ngƣời nghe” này. Để có thể hiểu đầy đủ và sâu sắc hơn về

ca từ của Trịnh Công Sơn, cần tiếp tục nghiên cứu ở những khía cạnh khác nữa:

những câu bỏ lửng, sự sắp xếp các đơn vị từ ngữ, những nét đối xứng, các lớp từ

ngữ, các kiểu câu, lối xƣng gọi... Ngoài phƣơng thức so sánh, cũng cần tìm hiểu

thêm về các phƣơng thức tu từ khác: ẩn dụ, tƣợng trƣng, nhân hoá, hoán dụ...

Tác giả luận văn này hi vọng sẽ có dịp tiếp tục xem xét các khía cạnh trên, để có

cơ hội hiểu rõ hơn nữa phong cách ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn, ngƣời mà,

nhƣ ông đó tự phỏc thảo chõn dung: “Qua ca khỳc, tụi đã đến gần và đã đi xa

những chuyện tình, đã tham dự những nỗi hân hoan của đời ngƣời và cũng đã

118

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gánh nhẹ giùm những phiền muộn”...

119

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN

Hàn Thị Thu Hƣờng (2010), “Phƣơng thức so sánh trong ca khúc Tình sầu

của Trịnh Công Sơn”, T/c Ngôn ngữ và Đời sống, số 8 (178) - 2010, tr.24-29.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

120

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1. Dƣơng Viết Á (2005), Ca từ trong âm nhạc Việt Nam, Nxb Viện õm nhạc, H.

2. Dƣơng Viết Á (2005), Âm nhạc Việt Nam từ góc nhìn văn hoá, tập 1, Nxb

Hà Nội, H.

3. Jean Chevalier Alaingheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hoá thế

giới, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

4. Diệp Quang Ban (2003), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb GD, H.

5. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng, từ ghép, đoản ngữ),

Nxb ĐHQG, H.

6. Đỗ Hữu Châu (1962), Giáo trình Việt ngữ, tập 2, Nxb GD, H.

7. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb GD, H.

8. Hà Châu (1966), “Cách so sánh trong ca dao ngày nay”, T/c Văn học, số 9.

9. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2006), Cơ sở ngôn

ngữ học và tiếng Việt, Nxb GD, H.

10. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb GD, H.

11. Hữu Đạt (1981), “Thủ pháp so sánh trong ca dao và thơ hiện đại”, Văn

nghệ, số 5.

12. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan (1998), Cơ sở tiếng Việt, Nxb GD, H.

13. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐHQG, H.

14. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb ĐHQG, H.

15. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb GD, H.

16. Hoàng Văn Hành (1976), Về bản chất của thành ngữ so sánh tiếng Việt,

T/c Ngôn ngữ, số 1, tr 11-19.

17. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2009), Biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ của

Trịnh Công Sơn, Nxb Khoa học xã hội, H.

18. Lê thị Thu Hiền (2007), Quan niệm nhân sinh trong ca từ Trịnh Công

Sơn, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn - Chuyên ngành Văn học Việt Nam,

ĐHSPHN.

19. Đỗ Đức Hiểu và các tác giả khác (2004), Từ điển Văn học, Nxb Thế giới, H. 20. Nguyễn Hữu Thái Hoà và những ngƣời bạn (2007), Vườn xưa - hành

trình âm nhạc Trịnh Công Sơn, Nxb Trẻ, H.

21. Đinh Ngọc Hoa (1998), So sánh tu từ trong tác phẩm của Nam Cao trước

121

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Cách mạng, Ngữ học trẻ 98, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, HN.

22. Lƣu Quý Khƣơng (2003), “So sánh logic và so sánh tu từ”, T/c Ngôn ngữ,

số 16.

23. Đinh Trọng Lạc (1964), Giáo trình Việt ngữ, tập 3, Nxb GD, H.

24. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hoà (2004), Phong cách học

tiếng Việt, Nxb GD, H.

25. Đinh Trọng Lạc (2005), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt,

Nxb GD, H.

26. Nguyễn Thế Lịch (1988), “Các yếu tố và cấu trúc so sánh nghệ thuật

tiếng Việt” (số phụ của T/c Ngôn ngữ), số 1.

27. Nguyễn Thế Lịch (1991), “Từ so sánh đến ẩn dụ”, T/c Ngôn ngữ, số 3.

28. Nguyễn Thế Lịch (1998), “Về các tính chất của ngôn ngữ nghệ thuật”,

T/c Ngôn ngữ, số 4.

29. Nguyễn Thế Lịch (2001), “Cấu trúc so sánh trong tiếng Việt”, T/c Ngôn

ngữ, số 7 & 9.

30. Trần Thị Thuỳ Linh (2008), Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu

thuyết của Chu Lai và Lê Lựu, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, Đại học

Quốc gia Hà Nội.

31. Nguyễn Thị Loan (2009), Quan niệm mĩ học trong ca từ và văn xuôi

Trịnh Công Sơn, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSPHN.

32. Đoàn Tiến Mạnh (2000) “Cấu trúc của vế chuẩn so sánh tu từ (qua cứ liệu

văn xuôi)”, Kỷ yếu Ngữ học trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, H.

33. Ban Mai (2008), Trịnh Công Sơn - vết chân dã tràng, Nxb Lao động -

Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, H.

34. Hoàng Kim Ngọc (2009), So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình, Nxb

KHXH, H.

35. Lê Thị Nhƣ Nguyệt (2009), So sánh và ẩn dụ tu từ trong thơ Xuân Quỳnh,

Luận văn thạc sĩ Ngữ văn - Chuyên ngành Ngôn ngữ, ĐHSP Thái Nguyên. 36. Nhiều tác giả (2001), Trịnh Công Sơn - Cát bụi lộng lẫy, Nxb Văn hoá,

tạp chí Sông Hƣơng, Huế.

37. Nhiều tác giả (2004), Trịnh Công Sơn - người hát rong qua nhiều thế hệ,

122

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nxb Trẻ, H.

38. Nhiều tác giả (2005), Trịnh Công Sơn - cuộc đời - âm nhạc - thơ - hội hoạ

và suy tưởng, Nxb Văn hoá Sài Gòn, TP Hồ Chí Minh.

39. Hoàng Phê (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

40. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt (câu), Nxb GD, H.

41. Bùi Vĩnh Phúc (2008), Trịnh Công sơn - Ngôn ngữ và những ám ảnh

nghệ thuật, Nxb Văn hoá Sài Gòn, TP Hồ Chớ Minh.

42. Lê Minh Quốc (2006), Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người, Nxb Phụ nữ, H.

43. Nguyễn Quang Sáng (1990), Paris - tiếng hát Trịnh Công Sơn, Nxb Tác

phẩm mới.

44. Fedinand De Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb

Khoa học xã hội, H.

45. Nguyễn Trọng Tạo - Nguyễn Thuỵ Kha - Đoàn Tử Huyến (2001), Trịnh

Công Sơn - Một người thơ ca - một cõi đi về, Nxb Âm nhạc, Trung tâm

văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, H.

46. Nguyễn Trọng Tạo - Nguyễn Thuỵ Kha - Đoàn Tử Huyến (2004), Một

cõi Trịnh Công Sơn, Nxb Thuận Hoá.

47. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb

KHXH, H

48. Nguyễn Thanh (1974), “Bƣớc đầu tìm hiểu lối so sánh trong cách nói,

cách viết của Hồ Chủ Tịch”, T/c Ngôn ngữ, số 2.

49. Nguyễn Quý Thành (2000), “Cấu trúc ngữ pháp - ngữ nghĩa của những

câu tục ngữ Việt có dạng “A là B”, Kỷ yếu Ngữ học trẻ, Hội Ngôn ngữ

học Việt Nam, H.

50. Bùi Đức Thao (2002), “Về phép so sánh trong tiếng Việt”, Kỷ yếu Ngữ

học trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, H.

51. Thích Giác Thiện (2007), Vô thường, Nxb Tổng hợp TPHCM, TP Hồ Chí Minh.

52. Hoàng Tá Thích (2007), Như những dòng sông (Tản mạn về nhạc sĩ Trịnh

Công Sơn), Nxb Văn nghệ, H.

53. Trần Thị Chung Toàn (1983), “Thang độ phép so sánh và sự phủ định”,

T/c Ngôn ngữ, số 2.

54. Nguyễn Đức Tồn (1990), “Chiến lƣợc liên tƣởng - so sánh trong giao tiếp

123

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của ngƣời Việt Nam”, T/c Ngôn ngữ, số 3.

55. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hoá dân tộc của ngôn ngư và tư

duy, Nxb KHXH, H.

56. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc đểm tu từ tếng Việt, Nxb ĐH

& THCN, H.

57. Bùi Tất Tƣơm (1997), Giáo trình cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb

GD, H.

58. Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng (2005), Trịnh Công Sơn và cây đàn Lya của

hoàng tử bé, Nxb trẻ, H.

59. Tạp chí Thời Văn, số 2 (đặc tuyển về Trịnh Công Sơn và giới trẻ), Nxb

Văn nghệ, 2005.

60. Bùi Khắc Việt (1978), “Về tính biểu trƣng của thành ngữ so sánh trong

tiếng Việt”, T/c Ngôn ngữ, số 1.

61. Trần Quốc Vƣợng (chủ biên) (2008), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb GD, H

62. Nguyễn Đắc Xuân (2003), Trịnh Công Sơn - Có một thời như thế, Nxb

Văn học, H.

63. Nguyễn Nhƣ ý, Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc Lê (2003),

Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb GD, H.

64. Bửu ý (2003), Một nhạc sĩ thiên tài, Nxb Trẻ, H.

124

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

65. http:// www.tcs-home.org.

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

DANH MỤC NHỮNG CA KHÚC

ĐƢỢC KHẢO SÁT TRONG LUẬN VĂN

1. Ai ngoài cánh cửa

2. Bài ca dành cho những xác ngƣời

3. Bay đi thầm lặng

4. Bên đời hiu quạnh

5. Bến sông

6. Biển nghìn thu ở lại

7. Biển nhớ

8. Biển sáng

9. Biết đâu nguồn cội

10. Bốn mùa thay lá

11. Bống bồng ơi

12. Bống không là bống

13. Buồn từng phút giây

14. Ca dao mẹ

15. Cánh chim cô đơn

16. Cánh đồng hoà bình

17. Cát bụi

18. Chỉ có ta trong một đời

19. Chiếc lá thu phai

20. Chiều một mình qua phố

21. Chiều trên quê hƣơng tôi

22. Chìm dƣới cơn mƣa

23. Chính chúng ta phải nói

24. Cho đời chút ơn

25. Cho một ngƣời nằm xuống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

26. Cho quê hƣơng mỉm cƣời

27. Chờ nhìn quê hƣơng sáng chói

28. Chuyện đoá quỳnh hƣơng

29. Chƣa mất niềm tin

30. Chƣa mòn giấc mơ

31. Có một dòng sông đã qua đời

32. Có một ngày nhƣ thế

33. Có nghe đời nghiêng

34. Có những con đƣờng

35. Cỏ xót xa đƣa

36. Còn ai với ai

37. Còn có bao ngày

38. Con đƣờng mùa xuân

39. Con mắt còn lại

40. Còn thấy mặt ngƣời

41. Còn tuổi nào cho em

42. Cúi xuống thật gần

43. Cũng sẽ chìm trôi

44. Cuối cùng cho một tình yêu

45. Dã tràng ca

46. Dân ta vẫn sống

47. Dấu chân địa đàng

48. Diễm xƣa

49. Du mục

50. Dựng lại ngƣời dựng lại nhà

51. Đại bác ru đêm

52. Để gió cuốn đi

53. Đêm

54. Đêm bây giờ đêm mai

55. Đếm thấy ta là thác đổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

56. Đi mãi trên đƣờng

57. Đi tìm quê hƣơng

58. Đoá hoa vô thƣờng

59. Đoản khúc thu Hà Nội

60. Đời cho ta thế

61. Đợi có một ngày

62. Đời gọi em biết bao lần

63. Đôi mắt nào mở ra

64. Đời sống không già vì có chúng em

65. Đốm lửa hồng

66. Đồng dao 2000

67. Đồng dao hoà bình

68. Đừng mong ai, đừng nghi ngại

69. Đƣờng xa vạn dặm

70. Em còn nhớ hay em đã quên

71. Em đã cho tôi bầu trời

72. Em đến cùng mùa xuân

73. Em đến từ nghìn xƣa

74. Em đi bỏ lại con đƣờng

75. Em đi trong chiều

76. Em hãy ngủ đi

77. Em là hoa hồng nhỏ

78. Em ở nông trƣờng em ra biên giới

79. Gần nhƣ niềm tuyệt vọng

80. Gia tài của mẹ

81. Giọt lệ thiên thu

82. Giọt nƣớc cành sen

83. Gọi đời lên mau

84. Gọi tên bốn mùa

85. Góp lá mùa xuân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

86. Hạ trắng

87. Hai mƣơi mùa nắng hạ

88. Hành ca

89. Hành hƣơng trên đồi cao

90. Hạt điều khăn điều

91. Hát trên những xác ngƣời

92. Hãy cố nhƣ

93. Hãy cứ vui nhƣ mọi ngày

94. Hãy đi cùng nhau

95. Hãy khóc đi em

96. Hãy nhìn lại

97. Hãy nói giùm tôi

98. Hãy yêu nhau đi

99. Hoa vàng mấy độ

100. Hoa xuân ca

101. Hoà bình là cơm áo

102. Hôm nay tôi nghe

103. Huế Sài Gòn Hà Nội

104. Huyền thoại mẹ

105. Khăn quàng thắp sáng bình minh

106. Khói trời mênh mông

107. Lại gần với nhau

108. Lặng lẽ nơi này

109. Lời buồn thánh

110. Lời của dòng sông

111. Lời mẹ ru

112. Lời ở phố về

113. Lời ru đêm

114. Lời thiên thu gọi

115. Mẹ đi vắng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

116. Mênh mông Đồng Tháp

117. Môi hồng đào

118. Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui

119. Một buổi sáng mùa xuân

120. Một cõi đi về

121. Một lần thoáng có

122. Một ngày nhƣ mọi ngày

123. Một ngày vinh quang một ngày tuyệt vọng

124. Mùa áo quan

125. Mùa hè đến

126. Mùa phục hồi

127. Mƣa hồng

128. Mƣa mùa hạ

129. Mừng sinh nhật

130. Muôn trùng biển ơi

131. Nắng thuỷ tinh

132. Này em có nhớ

133. Ngậm ngùi riêng ta

134. Ngẫu nhiên

135. Ngày dài trên quê hƣơng

136. Ngày mai đây bình yên

137. Ngày nay không còn bé

138. Ngày về

139. Nghe những tàn phai

140. Nghe tiếng muôn trùng

141. Ngọn lửa

142. Ngọn lửa vĩnh cửu ở Matxcơva

143. Ngủ đi con

144. Ngụ ngôn mùa đông

145. Ngƣời con gái Việt Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

146. Ngƣời già em bé

147. Ngƣời mẹ Ô Lý

148. Ngƣời về bỗng nhớ

149. Nguyệt ca

150. Nhân danh Việt Nam

151. Nhìn những mùa thu đi

152. Nhớ mùa thu Hà Nội

153. Nhƣ cánh vạc bay

154. Nhƣ chim ƣu phiền

155. Nhƣ hòn bi xanh

156. Nhƣ một lời chia tay

157. Nhƣ một vết thƣơng

158. Nhƣ tiếng thở dài

159. Những ai còn là Việt Nam

160. Những con mắt trần gian

161. Những giọt máu trổ bông

162. Những giọt mƣa khuya

163. Nhƣng hôm nay

164. Níu tay nghìn trùng

165. Nối vòng tay lớn

166. Nƣớc mắt cho quê hƣơng

167. Ở trọ

168. Ông tiên vui

169. Phôi pha

170. Phúc âm buồn

171. Quê hƣơng nặng đau

172. Quỳnh hƣơng

173. Ra đồng giữa ngọ

174. Rồi nhƣ đá ngây ngô

175. Rơi lệ ru ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

176. Ru đời đã mất

177. Ru đời đi nhé

178. Ru em

179. Ru em từng ngón xuân nồng

180. Ru ta ngậm ngùi

181. Ru tình

182. Rừng xanh xanh mãi

183. Rừng xƣa đã khép

184. Sao mắt mẹ chƣa vui

185. Sẽ còn ai

186. Sóng về đâu

187. Ta đi dựng cờ

188. Tạ ơn

189. Ta phải thấy mặt trời

190. Ta quyết phải sống

191. Ta thấy gì đêm nay

192. Tết suối hồng

193. Thành phố mùa xuân

194. Thanh quan ca

195. Thiên sứ bâng khuâng

196. Thủa bống là ngƣời

197. Thƣơng một ngƣời

198. Tiến thoái lƣỡng nan

199. Tiếng ve gọi hè

200. Tình ca của ngƣời mất trí

201. Tình khúc Ơ - Bai

202. Tình nhớ

203. Tình sầu

204. Tình xa

205. Tình xót xa vừa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

206. Tình yêu tìm thấy

207. Tôi biết tôi yêu

208. Tôi đã mất

209. Tôi đang lắng nghe

210. Tôi ơi đừng tuyệt vọng

211. Tôi ru em ngủ

212. Tôi sẽ đi thăm

213. Tôi sẽ nhớ

214. Trả lại em

215. Trong mỗi đời riêng

216. Trong nỗi đau tình cờ

217. Tự tình khúc

218. Từng ngày qua

219. Tuổi đá buồn

220. Tuổi đời mênh mông

221. Tuổi trẻ Việt Nam

222. Tƣởng rằng đã quên

223. Ƣớc mơ về dòng điện

224. Ƣớt mi

225. Vẫn có em bên đời

226. Vẫn nhớ cuộc đời

227. Vàng phai trƣớc ngõ

228. Về giữa Trị An

229. Về thăm mái trƣờng xƣa

230. Về trong suối nguồn

231. Vết lăn trầm

232. Vì bé ngoan

233. Vì tôi cần thấy em yêu đời

234. Việt Nam ơi hay vùng lên

235. Vƣờn xƣa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

236. Xa dấu mặt trời

237. Xác ta xác thù

238. Xanh lòng tàn phai

239. Xin cho tôi

240. Xin mặt trời ngủ yên

241. Xin trả nợ ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

242. Yêu dấu tan theo

PHỤ LỤC 2

MỘT SỐ VĂN BẢN CA KHÚC CỦA TRỊNH CÔNG SƠN

TÌNH SẦU

1. Tình yêu nhƣ trái phá

Con tim mù lòa

Một mai thức dậy

Chợt hồn nhƣ ngất ngây

Chợt buồn trong mắt nai

Rồi tình vui trong mắt

Rồi tình mềm trong tay

Tình yêu nhƣ vết cháy

Trên da thịt ngƣời

Tình xa nhƣ trời

Tình gần nhƣ khói mây

Tình trầm nhƣ bóng cây

Tình reo vui nhƣ nắng

Tình buồn làm cơn say

Cuộc tình lên cao vút

Nhƣ chim mỏi cánh rồi

Nhƣ chim xa lìa bầy

Nhƣ chim xa lìa trời

Nhƣ chim bỏ đƣờng bay

Tình yêu nhƣ trái chín

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trên cây rụng rời

Một mai thức dậy

Chuyện trò với lá cây

Rồi buồn nhƣ lá bay

Một giòng sông nƣớc cuốn

Một cuộc tình không may

Tình yêu nhƣ thƣơng áo

Quen hơi ngọt ngào

Rời nhau hôm nào

Hồn mình nhƣ vá khâu

Buồn mình nhƣ lũng sâu

Rồi tình trong im tiếng

Rồi tình ngoài hƣ hao

2. Tình yêu nhƣ nỗi chết

Cơn đau thật dài

Tình khâu môi cƣời

Hình hài xƣa đã thay

Mặn nồng xƣa cũng phai

Tình chia nhau gian dối

Tình đày tình đôi nơi

Tình yêu nhƣ cơn bão

Đi qua địa cầu

Tình thắp cơn sầu

Tình dìu qua hố sâu

Tình vời lên núi cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Rồi trong cơn yêu dấu

Tình đày tình xa nhau

Cuộc tình lên cao vút

Nhƣ chim mỏi cánh rồi

Nhƣ chim xa lìa bầy

Nhƣ chim xa lìa trời

Nhƣ chim bỏ đƣờng bay

Tình yêu cho anh đến

Bên cơn muộn phiền

Tình đi âm thầm

Nghìn trùng nhƣ vết sƣơng

Lạnh lùng nhƣ dấu chim

Tình mong manh nhƣ nắng

Tình còn đầy không em

Tình yêu nhƣ đốt sáng

Con tim tật nguyền

Tình lên êm đềm

Vội vàng nhƣng chóng quên

Rộn ràng nhƣng biến nhanh

Tình cho nhau môi ấm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Một lần là trăm năm.

NHƢ CÁNH VẠC BAY

Nắng có hồng bằng đôi môi em

Mƣa có buồn bằng đôi mắt em

Tóc em từng sợi nhỏ

Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh

Gió sẽ mừng vì tóc em bay

Cho mây hờn ngủ quên trên vai

Vai em gầy guộc nhỏ

Nhƣ cánh vạc về chốn xa xôi

Nắng có còn hờn ghen môi em

Mƣa có còn buồn trong mắt trong

Từ lúc đƣa em về

Là biết xa nghìn trùng

Suối đón từng bàn chân em qua

Lá hát từ bàn tay thơm tho

Lá khô vì đợi chờ

Cũng nhƣ đời ngƣời mãi âm u

Nơi em về ngày vui không em

Nơi em về trời xanh không em

Ta nghe nghìn giọt lệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Rớt xuống thành hồ nƣớc long lanh.

TỰ TÌNH KHÚC

1. Tôi nhƣ trẻ nhỏ ngồi bên hiên nhà

Chờ xem thế kỉ tàn phai

Tôi nhƣ trẻ nhỏ tìm nơi nƣơng tựa

Mà sao vẫn cứ lạc loài

Tôi nhƣ là ngƣời lạc trong đô thị

Một hôm đi về biển khơi

Tôi nhƣ là ngƣời một hôm quay lại

Vì nghe sa mạc nối dài

Đừng nghe tôi nói lời tăm tối

Đùng tin tôi nhé vì tiếng cƣời

Đôi khi một ngƣời dƣờng nhƣ chờ đợi

Thật ra đang ngồi thảnh thơi

Tôi nhƣ là ngƣời ngồi trong đêm dài

Nhìn tôi đang quá ngậm ngùi

Một hôm buồn ra ngắm giòng sông

Một hôm buồn lên núi nằm xuống

2. Tôi đi tìm ngày tìm đêm lâu dài

Một hôm thấy đƣợc đời tôi

Tôi yêu mọi ngƣời cỏ cây muôn loài

Làm sao yêu hết cuộc đời

Tôi nhƣ đƣờng về mở ra đô thị

Chờ chân thiên hạ về vui

Tôi nhƣ nụ cƣời nở trên môi cƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phòng khi nhân loại tiếng cƣời

Tìm tôi đi nhé đừng bối rối

Đừng mang gƣơm giáo vào với đời

Tôi nhƣ ngọn đèn từng đêm vơi cạn

Lửa lên thắp một niềm riêng

Tôi nhƣ nụ hồng nhiều khi ƣu phiền

Chờ tôi rã cánh một lần

Một hôm buồn ra ngắm giòng sông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Một hôm buồn lên núi nằm xuống.

PHỤ LỤC 3

MỘT SỐ ĐOẠN TẢN VĂN CỦA TRỊNH CÔNG SƠN

Phác thảo chân dung tôi

Mỗi sáng, nhìn vào mặt gƣơng, lại thấy thêm rất nhiều những sợi tóc

bạc…

Thủa ấy, tôi là một đứa bé thích ca hát. Mƣời tuổi biết solfège, chép lại

những bài hát yêu thích đóng thành tập, chơi đàn mandolin và sáo trúc. Mƣời

hai tuổi có cây đàn guitar đầu tiên trong đời và từ đó sử dụng guitar nhƣ một

phƣơng tiện quen thuộc để đệm cho chính mình hát.

Tôi không đến với âm nhạc nhƣ một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã

viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc

bên trong… Đó là những năm 1956 - 1957, thời của những giấc mộng ngổn

ngang, của những giấc mộng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mƣớt

nhƣ trái quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhƣng tuyệt nhiên trong tôi

không hề gợi lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ...

Dạo ấy ba tôi đã mất, mẹ tôi ở xa, tôi một mình giữa Sài Gòn này phải

tự quyết định mọi chuyện về đời mình. Cái gánh đời tuổi tác còn quá nhẹ. Có

lúc tôi đã bỏ dở cái trò lãng mạn viết lách này với nỗi ám ảnh ngu ngốc

“xƣớng ca vô loài”. Tôi trằn trọc đêm này qua đêm khác, ray rứt ngày này qua

tháng nọ. Nhƣng càng cố lãng quên thì tiếng hát trong tôi càng vang lên rõ rệt,

tràn ngập cả lúc đứng ngồi, cả trong giấc ngủ.

Dần dà những năm về sau, mới bắt đầu hình thành trong tôi một quan

niệm rõ rệt: Sống là sống với ngƣời khác và muốn có cảm thông chúng ta phải

luôn luôn diễn đạt mình. Trong những cách diễn đạt bằng tiếng nói, bằng chữ

viết và nhiều phƣơng tiện khác, tôi thấy tâm hồn mình có khuynh hƣớng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghiêng về phía ca khúc. Trên mảnh đất nghệ thuật nhỏ nhắn này, tôi tìm thấy

tự do và tôi nghĩ rằng ở đây tôi có thể bày tỏ đƣợc với ngƣời khác về những

niềm vui nỗi buồn của cuộc sống.

Nhìn lại quãng đƣờng mình đã đi, tôi cảm thấy không có gì phải ân

hận. Tôi vẫn là đứa trẻ thơ trong nghệ thuật, lòng còn tràn đầy cảm hứng. Tôi

vẫn còn ham mê học hỏi quanh mình và còn đủ hào hứng mở ra những cuộc

đối thoại, độc thoại với cây cỏ thiên nhiên, với con ngƣời qua ca khúc dƣới

ánh sáng hiền hoà nhân hậu của những ngày tôi đang sống.

Phải chờ đến lúc soi gƣơng nhìn thấy tóc không còn mang màu xanh cũ

nữa, mới nhận ra hết nỗi khát khao đƣợc yêu thƣơng mãi mãi con ngƣời và

cuộc sống. Yêu thƣơng con ngƣời cũng là yêu thƣơng tiếng hát bởi vì tiếng

hát mang trong nó tâm hồn con ngƣời. Tiếng hát sẽ mọc lên cây xanh tƣơi

trong cuộc đời này nhƣ những cây tử đinh hƣơng mọc tràn thơm tho trên

những cánh đồng vô tận.

Với ca khúc, tôi là ngƣời tình của thiên nhiên, là ngƣời bạn của những

em bé. Qua ca khúc, tôi đã đến gần và đã đi xa những chuyện tình, đã tham dự

những nỗi hân hoan của đời ngƣời và cũng đã gánh nhẹ giùm những phiền

muộn.

Ca khúc là đời sống thứ hai sau cái thân thể mà cha mẹ đã sinh thành...

Cuộc sống không thể thiếu tình yêu

Ngƣời ta nói trên trái đất không có gì ở ngoài qui luật cả. Nhƣng tình

yêu cũng có lúc là một ngoại lệ. Tình yêu có lúc nâng bổng con ngƣời nhƣng

cũng lắm lúc nhấn chìm kẻ háo hức. Tôi không tin những ngƣời quá lạc quan

khi nói về tình yêu bằng thể khẳng định. Ngƣời ta có thể tin rằng mình đƣợc

yêu và cũng có thể hiểu nhầm mình không đƣợc yêu. Tôi không thể nói về

một vấn đề mà chính bản thân mình cũng chƣa hiểu hết. Chƣa hiểu hết là nói

theo kiểu đại ngôn chứ thật sự là hoàn toàn không thể hiểu. Nếu có một ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nào đó thách thức tôi một trò chơi nghịch ngợm thì tôi sẽ mang tình yêu ra mà

đánh đố. Tôi e, không ai dám tự xƣng mình am tƣờng hết nội dung phong phú

và quá phức tạp của tình yêu. Có ngƣời yêu thì hạnh phúc; có ngƣời yêu thì

đau khổ. Nhƣng dù đau khổ hay hạnh phúc thì con ngƣời vẫn muốn yêu. Tình

yêu vì thế mà tồn tại. Con ngƣời không thể sống mà không yêu. Hàng nghìn

năm nay con ngƣời dã sống và đã yêu - yêu thật lòng chứ không phải giả. Thế

mà đã có không biết bao nhiêu là tình yêu giả. Cái giả mà rất thật trong đời.

Sự giả trá đó lúc biết đƣợc thì khổ lòng nhau biết bao nhiêu mà kể. Ngƣời giả,

ngƣời thật nhìn nhau lúc bấy giờ ngỡ ngàng không biết thế nào nói đƣợc.

Ngƣời thật thì nằm bệnh, ngƣời giả thì nói, cƣời huyên thuyên. Đời sống vốn

không bất công. Ngƣời giả trong tình yêu thế nào cũng thiệt. Ngƣời thật thế

nào cũng đƣợc đền bù.

Tình yêu thời nào cũng có. Nhƣng có tình yêu kết thúc bi thảm đến độ

có khi con ngƣời không dám yêu. Yêu mà khổ quá thì yêu làm gì. Có ngƣời

đã nói nhƣ vậy.

Tôi đã có dịp đứng trên hai mặt của tình yêu và dù sao chăng nữa, tôi vẫn

muốn giữ lại trong lòng một ý nghĩa bền vững: “Cuộc sống không thể thiếu tình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

yêu”.

PHỤ LỤC 4

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VÀ BÚT TÍCH CỦA TRỊNH CÔNG SƠN

Trịnh Công Sơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trịnh Công Sơn và Khánh Ly

Sáng tác của Trịnh Công Sơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn