ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀN THỊ THU HƢỜNG PHƢƠNG THỨC SO SÁNH
TRONG CA TỪ CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Tạ Văn Thông THÁI NGUYÊN - 2010 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
HÀN THỊ THU HƢỜNG
PHƢƠNG THỨC SO SÁNH
TRONG CA TỪ CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số : 60.22.01
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Tạ Văn Thông
THÁI NGUYÊN - 2010
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai
công bố trong bất kì một công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
HÀN THỊ THU HƢỜNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 8
6. Đóng góp của luận văn 8
7. Bố cục của luận văn
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ
1.1. Khái quát về so sánh 10
1.1.1. Khái niệm “so sánh” 10
1.1.2. Cấu trúc so sánh 12
1.1.3. Các kiểu so sánh 17
1.2. Khái quát về ca từ 20
1.2.1. Khái niệm “ca từ” 20
1.2.2. Ngôn ngữ trong ca từ 21
1.2.3. Hình tƣợng ca từ 23
1.2.4. Chủ thể cảm xúc trong ca từ 24
1.3. Trịnh Công Sơn và những ca khúc của ông 27
1.3.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Trịnh Công Sơn 27
1.3.2. Khái quát về những ca khúc của Trịnh Công Sơn 32
36 Tiểu kết
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - CẤU TRÚC VÀ NGỮ NGHĨA CỦA PHƢƠNG
THỨC SO SÁNH TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN
2.1. Đặc điểm hình thái - cấu trúc của phƣơng thức so sánh trong 38
ca từ Trịnh Công Sơn
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.1.1. Các kiểu cấu trúc so sánh 38
2.1.2. Đặc điểm của yếu tố đƣợc so sánh 49
2.1.3. Đặc điểm của yếu tố so sánh 52
2.1.4. Đặc điểm của các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh 57
2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của phƣơng thức so sánh trong ca từ 59
Trịnh Công Sơn
2.2.1. Đặc điểm của yếu tố đƣợc so sánh 59
2.2.2. Đặc điểm của yếu tố so sánh 66
2.2.3. Mối tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và 71
yếu tố so sánh
Tiểu kết 75
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT
TRONG CA KHÚC TRỊNH CÔNG SƠN
3.1. Phƣơng thức so sánh với hình tƣợng em - ngƣời tình 77
3.2. Phƣơng thức so sánh với hình tƣợng tôi - chủ thể trữ tình 83
3.3. Phƣơng thức so sánh với những chiêm nghiệm về tình yêu 93
3.4. Phƣơng thức so sánh với những chiêm nghiệm về đời ngƣời 100
105 Tiểu kết
KẾT LUẬN 107
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Để nhận thức thế giới khách quan, để hiểu rừ cỏc sự vật hiện tƣợng
với các thuộc tính muôn màu muôn vẻ trong đời sống, con ngƣời thƣờng thực
hiện việc so sánh, nhằm phát hiện ra những thuộc tính đồng nhất và khác biệt
giữa các sự vật hiện tƣợng này, để quy loại và phân biệt chúng với nhau. Có
thể nói, so sánh là một thao tác thƣờng xuyên, có ý thức hoặc vô thức, trong
đời sống hàng ngày của con ngƣời. Đối với văn học nghệ thuật, so sánh đƣợc
xem là một thủ pháp nghệ thuật độc đáo. Nghiên cứu về phép so sánh của một
tác phẩm văn nghệ giúp ta tìm hiểu một cỏch thức quan trọng (trong số các
phép tu từ khác) đƣợc các tác giả dùng để tạo nên ngôn từ nghệ thuật trong
tác phẩm của mình.
Từ xa xƣa, âm nhạc đã là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với
nhân loại, bởi nó đem lại cho con ngƣời những cảm xúc khỏc nhau qua sự
cảm nhận những hình tƣợng nghệ thuật. Việc nghiên cứu âm nhạc nói chung
và ca từ nói riêng là một công việc không đơn giản nhƣng đầy lí thú.
Cũng nhƣ trong các hình thức văn nghệ khác, so sánh trong ca từ rất cần
đƣợc chú ý, về phƣơng thức này góp phần quan trọng trong việc xây dựng hình
tƣợng nghệ thuật và giúp nghệ sĩ đƣa tác phẩm (bài ca) đi vào lòng ngƣời nghe.
1.2. “Ngƣời hát rong qua nhiều thế hệ”, “ngƣời ca thơ”, “ngƣời viết
tình ca hay nhất thế kỉ”…, đó là những từ ngữ ngƣời ta đã dùng để gọi Trịnh
Công Sơn - ngƣời nhạc sĩ mà mỗi khi những ca khúc của ông đƣợc cất lên,
chúng ta đều cảm thấy lòng mình nhƣ lắng lại trong nhịp điệu và tiết tấu du
dƣơng, với một nỗi buồn da diết, để chiêm nghiệm, để nhìn lại mình, để trí
tƣởng tƣợng bay xa đến thế giới của những yêu thƣơng tha thiết, những nỗi
dằn vặt về tình yêu và thân phận con ngƣời. Những ca khúc của ông không
chỉ mang lại một “giọng điệu” riêng, mà cũn thể hiện tớnh nhõn văn sâu sắc.
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ở Việt Nam, chƣa có nhạc sĩ nào tạo dựng đƣợc cho mình một dòng nhạc độc
lập nhƣ Trịnh Công Sơn. Ngƣời ta vẫn thƣờng gọi dòng nhạc của ông với cái
tên bình dị, thân quen, là: “Nhạc Trịnh”.
Trong những năm tháng đất nƣớc chìm trong khói lửa chiến tranh, nhạc
sĩ này đã ôm đàn “hát cho dân tôi nghe”. Những ca khúc của ông đã vƣợt lên
mƣa bom bão đạn, vƣợt lên cảnh “máu xƣơng trập trùng”, xoá nhoà đi cái
gƣơng mặt gớm giếc của cuộc chiến và chinh phục hàng triệu trái tim yêu
nhạc thuộc đủ mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề, và rồi vang mói cho
tới ngày nay. Không chỉ phổ biến trong nƣớc, nhiều ca khúc của ông đã vƣợt
biên giới, đến với các quốc gia khác nhƣ Pháp, Mĩ, Canađa, Nhật Bản…,
đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng và đƣợc đông đảo công chúng đón nhận.
Một trong những yếu tố làm nên sức sống của nhạc Trịnh chính là phần
ca từ và đó cũng là nơi thể hiện sự tài hoa trong sử dụng tiếng Việt của ông.
Nhạc sĩ Văn Cao cho rằng âm nhạc của Trịnh Công Sơn là kết quả của một
cuộc “hôn phối kì diệu” giữa phần ca từ và phần âm nhạc, hai phần này hoà
quyện vào nhau đến mức khó có thể tách rời, làm nên hồn cốt nhạc Trịnh, và
vì thế ông gọi nhạc sĩ họ Trịnh là “ngƣời ca thơ”; Tác giả Hoàng Ngọc Hiến
đánh giá: “Tất cả ca từ của nhạc Trịnh Công Sơn làm thành một tình ca hay
nhất thế kỉ” [45, tr.351]; Nhà nghiên cứu âm nhạc Dƣơng Viết Á cho rằng:
“Ngay cả trong những năm tháng “chia tay” giữa thơ và ca, xét riêng về ca từ,
nhiều nhạc sĩ cần đƣợc gọi thêm là nhà thơ, thậm chí nên đƣợc tuyển chọn
vào các tập thơ của thế kỉ XX: Đặng Thế Phong, Văn Cao, Trịnh Công Sơn…”
[2, tr.226]… Tuy phần ca từ của nhạc Trịnh đƣợc đánh giá cao nhƣ vậy, nhƣng
cho đến nay lại ít có những công trình nghiên cứu chuyờn biệt, đầy đủ và sâu
sắc.
2.3. Đã có rất nhiều bài viết cũng nhƣ các công trình nghiên cứu về
cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn, nhƣng trong một vài
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cụng trỡnh có chú ý đến nghiên cứu ca từ của ông, thỡ việc tìm hiểu một cách
có hệ thống các biện pháp tu từ, trong đó có so sánh, vẫn là vấn đề cũn bỏ
ngỏ.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn và tiến hành
nghiên cứu đề tài: Phƣơng thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Các phƣơng thức biểu hiện của ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm
văn chƣơng, trong đó có phƣơng thức so sánh, đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu
trƣớc đây đề cập tới.
Lịch sử nghiên cứu phƣơng thức so sánh ghi nhận tên tuổi của nhà triết
học, nhà hùng biện lỗi lạc của Hi Lạp là Arisstotle (384 - 322 TCN). Trong
cuốn Thi học, khi trình bày những cách tu từ chủ yếu và phổ dụng, Arisstotle
đã chú ý đến so sánh. Ông xem đây là một trong những biện pháp đƣợc sử
dụng rất phổ biến trong văn chƣơng, đặc biệt rất đắc dụng trong thơ ca nhằm
tăng hiệu quả biểu cảm và giỏ trị thẩm mĩ.
Ở Trung Hoa cổ đại, cùng với ẩn dụ, lí luận về so sánh đƣợc bộc lộ qua
những lời bình giải về hai thể tỉ và hứng trong thơ ca dân gian Trung Quốc.
Trong các công trình nghiên cứu, các học giả Trung Hoa thƣờng dùng khái
niệm “tỉ” và “hứng” khi nói về phƣơng thức nghệ thuật có liên quan đến cách
ví von bóng gió.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu phƣơng thức nghệ thuật này trên quan
điểm ngữ văn học đƣợc kế thừa và phát triển truyền thống bình giảng tác
phẩm văn học Trung Hoa, theo khuynh hƣớng coi đó là thuộc mĩ từ pháp, là
một trong những “phép làm văn”.
Cho đến nay, ở Việt Nam đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu về
các phƣơng thức tu từ, trong đó có so sánh, tiêu biểu là: Đinh Trọng Lạc với
Giáo trình Việt ngữ (Nxb GD, 1964), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng
Việt (Nxb GD, 1996), Phong cách học tiếng Việt (Nxb GD, 1998); Cù Đình
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tú với cuốn Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt (Nxb ĐH&THCN,
1983); Hữu Đạt với cuốn Phong cách học tiếng Việt hiện đại (Nxb
ĐHQGHN, 2001); Nguyễn Thế Lịch với Từ so sánh đến ẩn dụ (T/c Ngụn
ngữ, số 3, 1991); Hoàng Kim Ngọc với cuốn So sỏnh và ẩn dụ trong ca dao
trữ tỡnh (Nxb KHXH, 2009)…
Qua tìm hiểu, có thể nhận thấy trong những công trình nghiên cứu kể
trên, các tác giả đã chỳ trọng đến việc hình thành khái niệm, phân loại và tìm
ra giá trị của các phƣơng thức tu từ nói chung và so sánh nói riêng. Đây là cơ
sở lí thuyết vô cùng quí báu để luận văn có thể tham khảo trƣớc khi đi sâu
nghiên cứu về phƣơng thức so sánh trong ca từ củaTrịnh Công Sơn.
2.2. Sau khi Trịnh Công Sơn mất (1/4/2001), tính đến nay đã có khoảng
trên 10 cuốn sách viết về cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của ông. Cuốn sách
ra đời đầu tiên viết về ngƣời nhạc sĩ vừa quá cố là Trịnh Công Sơn - Một
người thơ ca, một cõi đi về do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thuỵ Kha, Đoàn
Tử Huyến sƣu tầm và biên soạn (Nxb Âm nhạc, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ
Đông Tây, 2001). Sau đó cuốn sỏch này đƣợc bổ sung, biên soạn và tái bản
với tựa đề Một cõi Trịnh Công Sơn (Nxb Thuận Hoá, 2004). Tiếp theo, lần
lƣợt đƣợc phát hành là các sách tập trung các bài viết của nhiều tác giả: Trịnh
Công Sơn - cát bụi lộng lẫy (Nxb Văn hoá, tạp chí Sông Hƣơng, Huế, 2001),
Trịnh Công Sơn - người hát rong qua nhiều thế hệ (Nxb Trẻ, 2004), Trịnh
Công Sơn - rơi lệ ru người (Nxb Phụ nữ, 2006), Trịnh Công Sơn - cuộc đời,
âm nhạc, thơ, hội hoạ và suy tưởng (Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2005)…
Ngoài những tập sách của tập thể tác giả kể trên, còn có những tác phẩm
của cá nhân, đó là: Trịnh Công Sơn - một nhạc sĩ thiên tài của Bửu Ý (Nxb Trẻ,
2003); Trịnh Công Sơn - có một thời như thế của Nguyễn Đắc Xuân (Nxb Văn
học, 2003); Trịnh Công Sơn và cây đàn Lya của hoàng tử bé của Hoàng Phủ
Ngọc Tƣờng (Nxb Trẻ, 2005); Vườn xưa - hành trình âm nhạc Trịnh Công Sơn
của Nguyễn Hữu Thái Hoà (Nxb Trẻ, 2007); Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những ám ảnh nghệ thuật của Bùi Vĩnh Phúc (Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2008)…
Những cuốn sách này chủ yếu gồm những bài viết của bạn bè, ngƣời
thân, đồng nghiệp, công chúng yêu nhạc và ngƣỡng mộ tài năng của Trịnh
Công Sơn, một số của các nhà báo, và số ít là các nhà nghiên cứu, phê bình
văn học. Những bài viết ấy đều có dung lƣợng nhỏ, chủ yếu là kể về những kỉ
niệm, giai thoại, bày tỏ cảm xúc, ấn tƣợng và tình yêu đối với nhạc sĩ, cảm
nhận đối với từng bài hát, những đồng cảm về thân phận con ngƣời trong
chiến tranh qua những ca khúc phản chiến, những nỗi đau trong tình yêu, và
những phát hiện về triết lí sống trong nhạc Trịnh…Chƣa có nhiều những bài
viết mang tính chất nghiên cứu ca từ dƣới góc độ ngôn ngữ, càng ít gặp những
bài viết nghiên cứu riêng về phƣơng thức so sánh.
Cuốn sách mang tính chuyên luận đầu tiên nghiên cứu về ca từ Trịnh
Công Sơn là cuốn Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật của
Bùi Vĩnh Phúc. Trong cuốn sách này, tác giả đã dành riêng một chƣơng để viết
về nghệ thuật ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn. Đó là cách viết ca khúc nhƣ những
bài thơ, cách dùng những hình ảnh tỉnh lƣợc, những câu bỏ lửng, những nét đối
xứng và những biện pháp tu từ. Trong phần viết về những biện pháp tu từ, tác
giả có đề cập đến biện pháp so sánh nhƣng ông chỉ dừng lại ở việc mô tả biện
pháp này và đƣa ra một số ví dụ minh hoạ, chứ chƣa đi sâu nghiên cứu những
đặc điểm về hình thái cấu trúc, đặc điểm về ngữ nghĩa cũng nhƣ vai trò của so
sánh đối với việc xây dựng hình tƣợng nghệ thuật trong ca khúc Trịnh Công
Sơn.
Ngoài những cuốn sách viết về cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của
Trịnh Công Sơn đã xuất bản kể trên, có thể kể đến những công trình nghiên
cứu mang tính chất chuyên đề về ca từ nhạc Trịnh: Luận văn Thạc sĩ, chuyên
ngành Văn học Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Thuý, Đại học Sƣ phạm
Quy Nhơn (2006) với đề tài Ca từ Trịnh Công Sơn - những ca khúc về tình
yêu và thân phận con người với những mảng nghiên cứu về cuộc đời và sự
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghiệp, tầm ảnh hƣởng của Trịnh Công Sơn, thân phận con ngƣời và tình yêu
trong ca khúc Trịnh Công Sơn; Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Văn học Việt
Nam của Lê Thị Thu Hiền, Đại học Sƣ phạm Hà Nội (2007) với đề tài Quan
niệm nhân sinh trong ca từ Trịnh Công Sơn, đó đi vào nghiên cứu quan niệm
về cõi sống, về cái chết và về tình yêu của Trịnh Công Sơn; Luận văn Thạc sĩ,
chuyên ngành Lí luận ngôn ngữ của Nguyễn Thị Bích Hạnh, Đại học Sƣ
phạm Hà Nội (2008) với đề tài Hệ thống biểu tượng trong ca từ Trịnh Công
Sơn, đã hệ thống hoá những biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong ca từ Trịnh
Công Sơn, sắp xếp các biểu tƣợng theo những hệ thống nhỏ, từ hệ thống
những biểu tƣợng có chất liệu trực quan đến hệ thống những biểu tƣợng
không có chất liệu trực quan và sự chuyển hoá giữa chúng, từ đó soi chiếu,
giải mã các biểu tƣợng trong hệ thống, gúp phần làm sáng tỏ thế giới tinh thần
của nghệ sĩ (luận văn này mới đây đó xuất bản thành sỏch với nhan đề Biểu
tượng ngôn ngữ trong ca từ của Trịnh Công Sơn, Nxb Khoa học xó hội,
2009)…
Tóm lại, lần theo trình tự thời gian của các cụng trỡnh và bài viết về ca
khúc Trịnh Công Sơn đến nay, chƣa thấy có tài liệu nào nghiên cứu riêng
hoặc nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về phƣơng thức so sánh trong ca từ của
ông.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích tìm hiểu sự thể hiện đa dạng và những vai trò
khác nhau của phƣơng thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn, từ đó
thấy đƣợc phần nào đặc điểm phong cách ngôn ngữ của nhạc sĩ qua các ca
khúc của ông.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lí thuyết chung trong nghiên cứu tu từ học và văn
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghệ, với một số khái niệm: so sánh, ca từ…, và những vấn đề có liên quan,
để làm điểm tựa nghiên cứu phƣơng thức so sỏnh trong các ca khúc của một
tác giả cụ thể.
- Miêu tả những biểu hiện cụ thể của việc sử dụng phƣơng thức so sánh
về hình thức và ngữ nghĩa, những vai trò của việc sử dụng phƣơng thức này
để xây dựng hình tƣợng nghệ thuật, trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn.
- Từ sự phân tích nói trên, giúp ngƣời đọc hƣớng tới một số nhận xét về
đặc điểm đáng chú ý trong phong cách ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn xét về
phƣơng diện so sỏnh.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn đƣợc xác định là ca từ của Trịnh
Công Sơn. Trờn thực tế, ca từ của Trịnh Công Sơn đƣợc công bố trong nhiều
tuyển tập ca khúc khác nhau, nhƣ: Một cõi đi về, Nxb Văn nghệ TPHCM,
1992; Khói trời mênh mông Nxb Văn nghệ TPHCM, 1992; Em còn nhớ hay
em đã quên, Nxb Trẻ, 1993; Những bài ca không năm tháng, Nxb Âm nhạc,
1998… Tuy nhiờn trong luận văn này, sẽ đƣợc chọn làm đối tƣợng khảo sát là
242 văn bản ca từ (không có phần nhạc) đƣợc công bố trong cuốn Trịnh Công
Sơn - vết chân dã tràng của tác giả Ban Mai xuất bản năm 2008 tại Nxb Lao
Động - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây. Văn bản những ca khúc này
đƣợc công bố với sự cho phép của ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh - em gỏi của nhạc sĩ
và là ngƣời thừa kế bản quyền nhạc Trịnh và ông Phạm Văn Đỉnh - Chủ tịch
Hội Văn hoá Trịnh Công Sơn (Pháp) - ngƣời đó sƣu tầm và chỉnh lí thƣ mục
ca khúc Trịnh Công Sơn. Có thể nói đây là nguồn tƣ liệu đáng tin cậy để
nghiên cứu về ca từ Trịnh Công Sơn (Danh mục các ca khúc này đƣợc trình
bày ở cuối luận văn).
Ngoài 242 văn bản ca từ kể trên, đề tài còn dựa vào một thứ “siêu văn
bản” khác. Đó là hoàn cảnh xã hội, không khí thời đại, bầu khí quyển triết
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
học, chính trị trong đó những ca từ của Trịnh Công Sơn ra đời, và hoàn cảnh,
tâm sự cá nhân của chính nhạc sĩ… Đây có thể đƣợc xem nhƣ những gợi mở
giúp đi sâu hơn vào thế giới ca khỳc Trịnh Công Sơn, trong đó có ca từ với
phƣơng thức so sánh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các ca khúc của Trịnh Công Sơn có thể đƣợc xét trên nhiều phƣơng
diện. Ngoài sự phân tích từ phƣơng diện âm nhạc và văn học nghệ thuật nói
chung, về phƣơng diện ngôn ngữ học có thể xem xét cỏc ca từ trong ca khúc ở
nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, luận văn này chỉ xin dừng lại ở việc
xem xét một trong các phƣơng thức tu từ, cụ thể là so sánh.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phƣơng pháp miêu tả
Phƣơng pháp này (với cách phân tích và tổng hợp), đƣợc sử dụng để đi
sâu vào miêu tả và khái quát các kiểu cấu trúc so sánh, chỉ ra các đặc điểm
ngữ nghĩa cùng các vai trò của chúng trong việc xây dựng hình tƣợng nghệ
thuật của ca từ Trịnh Công Sơn.
- Phƣơng pháp thống kê, phân loại
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để khảo sát, thống kê tần số xuất hiện
và phân loại các kiểu so sánh trong ca từ Trịnh Công Sơn, từ đó làm cơ sở
phân tích, nhận xét, đánh giá những kiểu loại hình thức, đặc trƣng về giá trị
biểu đạt của đối tƣợng nghiên cứu.
- Phƣơng pháp phân tích ngữ nghĩa
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng khi phân tích mối quan hệ giữa ý nghĩa
bản thể gốc và ý nghĩa có đƣợc do sự liên tƣởng, nghĩa bề mặt ngôn từ với
nghĩa biểu trƣng, của cỏc yếu tố tham gia vào phƣơng thức so sỏnh.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Về mặt lí luận:
Đây là lần đầu tiên có một đề tài nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ và sâu sắc
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phƣơng thức so sánh trong số các phƣơng thức tu từ dựa trên quan hệ liên
tuởng, đƣợc sử dụng ở ca từ Trịnh Công Sơn. Kết quả của luận văn sẽ là minh
chứng cho khả năng tìm hiểu về giá trị của văn bản nghệ thuật dƣới góc nhìn
ngôn ngữ học, đồng thời góp thêm tƣ liệu và cách nhìn nhận đối với bộ môn Tu
từ học nói chung và nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong cỏc ca khúc nói riêng.
- Về mặt thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giúp cho những ngƣời quan
tâm đến dũng nhạc Trịnh có cái nhìn đa chiều hơn về giá trị tác phẩm, trong
đó ngoài chiều sâu tƣ tƣởng, thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả, cũn
cú sự tài hoa về tiếng Việt. Đồng thời, nó có thể giúp những ngƣời yêu nhạc
tiếp cận có định hƣớng và dễ dàng hơn với dòng nhạc đƣợc đánh giá là “kén
ngƣời nghe” này, từ đó biết thƣởng thức những cái hay, cái đẹp của nhạc
Trịnh và nhận thức đƣợc một cách sâu sắc những cảm xúc, những triết lí nhân
sinh mà ngƣời nhạc sĩ tài hoa này muốn gửi gắm qua những ca khúc của
mình, cũng nhƣ có cơ sở để hiểu hơn về tiềm năng của tiếng Việt.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn bao gồm 3 chƣơng
nhƣ sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tế
Chƣơng 2: Đặc điểm hình thái - cấu trúc và ngữ nghĩa của phƣơng
thức so sánh trong ca từ Trịnh Công Sơn
Chƣơng 3: Phƣơng thức so sánh với hình tƣợng nghệ thuật trong ca
khúc Trịnh Công Sơn
Phần Phụ lục gồm:
- Danh mục những ca khúc đƣợc khảo sát trong luận văn
- Một số văn bản ca khỳc của Trịnh Công Sơn
- Một số đoạn tản văn của Trịnh Công Sơn
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Một số hình ảnh và bút tích của Trịnh Công Sơn
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ SO SÁNH
1.1.1. Khái niệm so sánh
So sánh là một thao tác của tƣ duy. Đó là thao tác đem sự vật này đối
chiếu với sự vật khác để nhìn thấy nét tƣơng đồng và khác biệt giữa chúng.
Thuật ngữ “so sánh” trong tiếng Việt đƣợc dùng chỉ một biện pháp đƣợc sử
dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Trong Từ điển tiếng Việt do
Hoàng Phê (Chủ biên) có giải thích về “so sánh” theo cách hiểu phổ thông là:
“nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy sự giống nhau, khác nhau hoặc
sự hơn kém”.
Nhìn từ góc độ phong cách học, so sánh là một phƣơng thức phổ biến ở
mọi ngôn ngữ. Vì thế, đây cũng là một trong những vấn đề đƣợc các nhà ngôn
ngữ học quan tâm nghiên cứu: A.Ju.Xtêpannov với Phong cách học tiếng
Pháp (1965), Vinôgradov với Phong cách học tiếng Nga (1969), Môren với
Phong cách học tiếng Pháp (1970)... Những công trình này đƣợc giới thiệu ở
Việt Nam góp phần làm sáng tỏ về mặt lí thuyết và ứng dụng của phƣơng
thức so sánh cũng nhƣ khẳng định giá trị của phƣơng thức này trong sáng tạo
hình tƣợng nghệ thuật.
Phƣơng thức này cũng sớm đƣợc các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học
nƣớc ta đề cập đến. Bắt đầu từ những năm 60 của thế kỉ XX, khi xuất hiện
những công trình nghiên cứu tiếng Việt, so sánh cũng đƣợc nhắc đến trong
các bài giảng về phong cách học.
Có thể kể đến những công trình nghiên cứu có đề cập tới so sánh nhƣ:
Giáo trình Việt ngữ; 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt của Đinh
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trọng Lạc; Phong cách học tiếng Việt của Đinh trọng Lạc và Nguyễn Thái
Hoà; Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt của Cù Đình Tú; Phong
cách học tiếng Việt hiện đại của Hữu Đạt...
Trong những công trình kể trên, hầu hết các tác giả đều đƣa ra sự phân
biệt giữa so sánh tu từ và so sánh logic (so sánh luận lí). Theo các tác giả này,
trong so sánh logic, cái đƣợc so sánh và cái so sánh là các đối tƣợng cùng loại và
mục đích của sự so sánh là xác lập sự tƣơng đƣơng giữa hai đối tƣợng. Ví dụ:
- Mặt con cũng tròn như mặt mẹ
- Cô Hoa gầy hơn cô Huệ - Giá trị của (a+b)(a-b) bằng giá trị của a2- b2
So sánh tu từ khác với so sánh logic ở tính hình tƣợng, tính biểu cảm và
tính dị loại (không cùng loại) của sự vật. Ví dụ:
- Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa (Nguyễn Du)
- Tình anh như nước dâng cao
Tình em như dải lụa đào tẩm hương (Ca dao)...
Với sự phân biệt nói trên, những khái nệm đuợc đƣa ra trong các giáo
trình phong cách học đều định nghĩa so sánh với tƣ cách là một trong những
biện pháp tu từ ngữ nghĩa.
Trong cuốn Giáo trình Việt ngữ, tác giả Đinh Trọng Lạc đã quan niệm
về so sánh nhƣ sau: “So sánh là định nghĩa sự vật, hiện tƣợng hoặc khái niệm
ở trong ngôn ngữ nghệ thuật thông qua sự so sánh chúng với hiện tƣợng hoặc
khái niệm có cùng dấu hiệu chung. Mục đích so sánh là để cụ thể hoá những
sự vật trừu tƣợng, để ngƣời đọc dễ hiểu, dễ tƣởng tƣợng hơn.”. Ở cuốn giáo
trình này, tác giả chủ yếu tiến hành khảo sát hình thức biểu hiện của so sánh.
Có thể nói, đây chính là một trong những giáo trình đầu tiên của môn Phong
cách học ở Việt Nam.
Tiếp đó, trong 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, tác giả
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đinh Trọng Lạc đã có cách nhận diện so sánh tu từ rõ ràng và đầy đủ hơn:
“So sánh tu từ là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó ngƣời ta đối chiếu
hai đối tƣợng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau
hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh
một lối tri giác mới mẻ về đối tƣợng” [25 , tr.154].
Sau này, cỏc tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà ở giáo trình
Phong cách học tiếng Việt cũng đƣa ra định nghĩa về so sánh: “So sánh là
phƣơng thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn
là giữa hai sự vật có một nét tƣơng đồng nào đó, để gợi ra hình ảnh cụ thể,
những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của ngƣời đọc, ngƣời nghe” [24,
tr.190].
Theo tác giả Cù Đình Tú trong Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng
Việt, “so sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tƣợng cùng
có một dấu hiệu chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình
ảnh đặc điểm của một đối tƣợng” [56, tr.272].
Nhƣ vậy, qua nhiều quan niệm của các nhà nghiên cứu đã nêu ở trên,
chúng ta có thể rút ra một vài đặc điểm của phƣơng thức so sánh nhƣ sau:
- So sánh là việc đối chiếu một phƣơng diện nào đó của ít nhất hai sự
vật hiện tuợng
- Những sự vật hiện tƣợng đƣa ra đối chiếu phải khác loại
- Những sự vật hiện tuợng đƣa ra đối chiếu phải có nét tƣơng đồng sâu
xa nào đó trong những ngữ cảnh nhất định mà giác quan có thể nhận biết
đƣợc
- Đối chiếu để tìm ra các nét giống nhau và khác biệt giữa các đối
tƣợng so sánh và đƣợc so sánh
1.2.2. Cấu trúc so sánh
Có nhiều quan niệm khác nhau về cấu trúc so sánh. Theo cỏc tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà trong cuốn giáo
trình Phong cách học tiếng Việt, hình thức đầy đủ nhất của phƣơng thức so sánh gồm 4 yếu tố:
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Cái cần đƣợc so sánh, kí hiệu là (A) - Cơ sở so sánh, kí hiệu là (t)
- Từ so sánh, kí hiệu là (tss)
- Cái đƣợc dùng làm chuẩn để so sánh, kí hiệu là (B)
A (t) (tss) B
Cổ tay em trắng nhƣ ngà
Mô hình cấu trúc đầy đủ đƣợc đƣa ra là:
A (t) tss B
Tuy nhiên, trên thực tế, tùy từng trƣờng hợp, ngƣời ta có thể đảo trật tự
so sánh hoặc bớt một số yếu tố trong mô hình. Cụ thể ta có 5 biến thể của mô
hình cấu trúc so sánh trên:
1. Đảo trật tự so sánh: (t) A tss B. Ví dụ:
Chòng chành như nón không quai
Như thuyền không lái như ai không chồng (Ca dao)
2. Bớt cơ sở so sánh: A tss B. Ví dụ:
Ai về ai ở mặc ai
Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh (Ca dao)
3. Bớt từ so sánh: A (t) B. Ví dụ:
Gái thương chồng đương đông buổi chợ
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm (Ca dao)
4. Thêm “bao nhiêu”, “bấy nhiêu”
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu (Ca dao)
5. Dùng là làm từ so sánh: A là B. Ví dụ:
Tình cô là đoá hoa đơn
Bình minh nở để hoàng hôn mà tàn (Nguyễn Bính)
Trong Phong cách học tiếng Việt hiện đại, tỏc giả Hữu Đạt đã đƣa ra
mô hình khái quát của phép so sánh nhƣ sau:
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
A - X - B
Trong mô hình trên, có thể nhận thấy sự thiếu vắng của yếu tố chỉ
phƣơng diện so sánh. Điều này đã khiến cho cấu trúc so sánh mà tác giả đƣa
ra chỉ có 3 yếu tố. Và biến thể của cấu trúc này chỉ có 2 loại là:
- So sánh không có từ so sánh:
Mô hình: A - B
Biến thể: A - B1, B2...; A1, A2... - B; A1, A2 - B1, B2
Ví dụ:
Bác ngồi đó lớn mênh mông
Trời cao biển rộng, ruộng đồng nước non (Tố Hữu)
- So sánh có từ so sánh:
Mô hình: A - X - B
Biến thể: A - X - B1, B2; A1, B1 - X - B; A1, B1 - X - B1, B2
Ví dụ:
Lũ đế quốc như bầy quỷ sống
Nướng người ăn, nhảy nhót, reo cười (Tố Hữu)
Trong bài viết “Các yếu tố và cấu trúc của so sánh nghệ thuật... đăng
trên Số phụ Tạp chí ngôn ngữ số 1, 1998, cũng giống nhƣ cỏc tỏc giả Đinh
Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà, tỏc giả Nguyễn Thế Lịch đã đƣa ra một cấu
trúc so sánh hoàn chỉnh gồm 4 yếu tố:
- Yếu tố cần so sánh, tức là đƣợc (hay bị) so sánh (YTĐSS) - (A);
- Yếu tố biểu thị thuộc tính của sự vật, nêu rõ phƣơng diện so sánh
(YTPD) - (x);
- Yếu tố thể hiện quan hệ so sánh (YTQH) - (tss);
- Yếu tố đƣợc dùng làm chuẩn để so sánh (YTSS) - (B).
Theo tác giả, mô hình cấu trúc so sánh hoàn chỉnh là:
YT§SS YTPD YTQH YTSS
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mặt tƣơi nhƣ hoa
Đặc điểm của từng yếu tố đƣợc Nguyễn Thế Lịch trình bày cụ thể nhƣ
sau:
a. Yếu tố đƣợc so sánh: về nguyên tắc, bất kì sự vật, hiện tƣợng gì cũng
có thể đem ra so sánh:
- Đƣợc so sánh là ngƣời, sự vật, ví dụ:
Em như cây quế giữa rừng
Thơm tho ai biết ngát lừng ai hay (Ca dao)
- Đƣợc so sánh là hành động, ví dụ:
Thấy anh như thấy mặt trời
Chói chang khó ngó, trao lời khó trao (Ca dao)
- Đƣợc so sánh là thuộc tính, ví dụ:
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời (Nguyễn Du)
b. Yếu tố phƣơng diện so sánh: có vai trò thể hiện thuộc tính của sự vật
mà yếu tố đƣợc so sánh biểu thị, là thuộc tính đƣợc xem nhƣ tiêu biểu của sự
vật mà yếu tố so sánh biểu thị. Khi trong cấu trúc so sánh vắng yếu tố phƣơng
diện thì phải dựa vào liên tƣởng để tìm ra nét tƣơng đồng giữa yếu tố đƣợc so
sánh và yếu tố so sánh, từ đó mới có thể xác định đƣợc là đã thực hiện sự so
sánh về phƣơng diện nào.
c. Yếu tố quan hệ: đƣợc xem là đơn giản nhất trong cấu trúc so sánh,
bao gồm các từ so sánh, từ là và cặp từ hô ứng bao nhiêu...bấy nhiêu.
Các từ so sánh đƣợc dùng phổ biến nhất là: như, tựa, như là, như thể,
chừng như, tựa như, hồ như..., ví dụ:
Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau (Ca dao)
Từ là trong cấu trúc so sánh có giá trị tƣơng đƣơng từ như, nhƣng sắc
thái ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Như có sắc thái giả định, chỉ sự tƣơng đồng
về một khía cạnh nào đó, cảm nhận thiên về chủ quan; là có sắc thái khẳng
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
định sự đồng nhất hoàn toàn, sự đánh giá có cơ sở khách quan. Ví dụ:
Tình tôi là giọt thuỷ ngân
Dù nghiền chẳng nát, dù lăn vẫn tròn (Ca dao)
Cặp từ hô ứng bao nhiêu...bấy nhiêu, ví dụ:
Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu (Ca dao)
d. Yếu tố so sánh: đƣợc xem là quan trọng nhất và không thể thiếu của
cấu trúc so sánh vì đó là chuẩn của so sánh, và không có chuẩn thì không
thành so sánh. Sự xuất hiện của yếu tố này là kết quả quá trình quan sát, liên
tƣởng của ngƣời nói. Theo Nguyễn Thế Lịch, yếu tố này có một số cấu trúc sau:
- Nêu lên tên gọi sự vật đƣợc dùng làm chuẩn. Ví dụ: má đào, tóc mây, mũi
dọc dừa, mặt chữ điền, con mắt lá răm, lông mày lá liễu, ngón tay búp măng…
- Miêu tả chi tiết thuộc tính của sự vật đƣợc dùng làm chuẩn, ví dụ:
- Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất dậm hương và rộn tiếng chim (Tố Hữu)
- Tình anh như nước dâng cao
Tình em như dải lụa đào tẩm hương (Ca dao)
- Thể hiện nhiều sự vật khác nhau, ví dụ:
- Hồn tôi giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh (Nguyễn Bính)
- Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu (Ca dao)
Theo khảo sát của Nguyễn Thế Lịch, không phải cấu trúc so sánh nào
cũng hội tụ cả 4 yếu tố trên, và tác giả đã đƣa ra 4 cấu trúc so sánh không
hoàn chỉnh nhƣ sau:
a. Vắng yếu tố phƣơng diện, ví dụ:
Mẹ già như chuối ba hương
21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Như xôi nếp mật, như đường mía lau (Ca dao)
b. Vắng yếu tố phƣơng diện và yếu tố quan hệ, ví dụ:
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt (Xuân Diệu)
c. Vắng yếu tố đƣợc so sánh, ví dụ:
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi (Hồ Xuân Hƣơng)
Theo tác giả, cấu trúc vắng yếu tố đƣợc so sánh đã tạo ra vô vàn các thành
ngữ so sánh kiểu nhƣ: cao như núi, ngọt như mía lùi, đỏ như son…, giúp cho việc
tiếp nhận trở nên dễ dàng vì phƣơng diện so sánh đƣợc nói thành lời rõ ràng.
d. vắng yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố phƣơng diện, ví dụ:
- Như diều gặp gió
- Như nước vỡ bờ (Thành ngữ)
Tiếp thu những ý kiến kể trên, quan niệm của luận văn về cấu trúc so
sánh nhƣ sau:
Một cấu trúc so sánh hoàn chỉnh bao gồm 4 yếu tố theo mô hình sau:
A + x + tnss + B
(Trong đó:
- A: Yếu tố đƣợc so sánh
- x : Yếu tố phƣơng diện so sánh
- tnss: Yếu tố biểu thị quan hệ so sánh - từ ngữ so sánh
- B: Yếu tố so sánh)
Ví dụ: Tóc trắng như vôi
(A) (x) (tnss) (B)
Bên cạnh mô hình cấu trúc so sánh hoàn chỉnh kể trên, tác giả còn có
thể tạo ra những biến thể bằng việc thêm, bớt hoặc đảo trật tự các yếu tố trong
cấu trúc.
22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1.2.3. Các kiểu so sánh
Tác giả Đào Thản nhìn nhận phép so sánh ở mặt nội dung và phân chia
dựa vào mục đích so sánh. Theo đó, tác giả đã đƣa ra 8 kiểu so sánh nhƣ sau:
- So sánh để giải thích,ví dụ:
Ở nông thôn, nước ví như sông mà chủ nghĩa xã hội như thuyền, nước
sông lên thì thuyền đi lại dễ dàng. (Hồ Chí Minh)
- So sánh để miêu tả,ví dụ:
Ánh nắng tháng năm rát như lửa chàm vào mặt. (Ngô Tất Tố)
- So sánh để đánh giá, ví dụ:
Thế địch như lửa, thế ta như nước. (Hồ Chí Minh)
- So sánh để biểu lộ tình cảm, ví dụ:
Chúng ta hãy phấn đấu như mùa xuân, với nhiệt tình như ánh nắng.
(Hồ Chí Minh)
- So sánh liên tiếp, ví dụ:
Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu (Ca dao)
- So sánh phát triển, ví dụ:
Thân em như tấm lụa đào
Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai (Ca dao)
- So sánh hơn - kém, ví dụ:
Ngọc nào bằng tay em (Tố Hữu)
- So sánh đặc biệt
Đây là kiểu so sánh mà hai vế đƣợc thể hiện hoàn toàn cân đối về hình
thức và nội dung. Kiểu so sánh này diễn đạt những tình huống hoặc sự kiện
(không dùng để diễn đạt thuộc tính) mà tính cân đối là điều kiện để nhận dạng
sự so sánh. Ví dụ:
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cây khô xuống núi cũng khô
Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo (Ca dao)
Tác giả Hữu Đạt khi phân loại các kiểu so sánh đã dựa vào cả hai tiêu
chí hình thức và nội dung của nó. Theo đó, chúng ta có các kiểu so sánh sau:
- So sánh ngang bằng, ví dụ:
Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ
Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa (Lƣu Quang
Vũ)
- So sánh hơn - kém, ví dụ:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh (Nguyễn Du)
- So sánh bậc cao nhất, ví dụ:
Đại đội thanh niên đi lấp hố bom
Áo em hình như trắng nhất. (Phạm Tiến Duật)
Tựu trung lại, mục đích quan trọng của so sánh là phát hiện ra đƣợc sự
đồng nhất hay khác biệt về các thuộc tính giữa hai sự vật đem ra so sánh. Do
đó, có thể phân chia so sánh thành hai kiểu nhƣ sau:
a. So sánh đồng nhất, bao gồm:
- So sánh tƣơng tự:
So sánh tƣơng tự thƣờng có những từ so sánh như, như là, như thể, tỉ
như, giá như, tựa như, tựa, kém gì, hơn gì, khác gì... mang tính chất giả định,
ví dụ:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai (Ca dao)
24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- So sánh ngang bằng
Ở kiểu so sánh này thƣờng có các từ so sánh bằng, là... mang tính
khẳng định, ví dụ:
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con chèo hái mỗi ngày (Đỗ Trung Quân)
b. So sánh dị biệt, bao gồm:
- So sánh dị biệt hơn, gồm:
+ So sánh dị biệt hơn tuyệt đối: thƣờng có những từ so sánh nhất (A),
nhì (B), tam, tứ..., thứ nhất (A), thứ nhì (B)... Thông thƣờng, trong dạng kết
cấu này A, B đƣợc xếp theo thứ tự phân hạng đánh giá, ví dụ:
Nhất canh trì, nhì canh viên, tam canh điền. (Tục ngữ)
Tuy nhiên vẫn có những trƣờng hợp thứ tự này chỉ mang tính ƣớc lệ,
tức là ngƣời sáng tác quan tâm đến vần điệu nhiều hơn là thứ tự mức độ
“quan trọng” của đối tƣợng đƣợc liệt kê. Xếp một đối tƣợng nào đó theo thứ
tự nhất, nhì... còn tuỳ thuộc vào quan nệm chủ quan của ngƣời nói.
+ So sánh dị biệt hơn tƣơng đối: thƣờng có những từ chuyên dụng: hơn,
còn hơn..., ví dụ:
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người (Tục ngữ)
- So sánh dị biệt kém:
Để biểu thị quan hệ so sánh dị biệt kém, ngƣời ta thƣờng dùng các từ so
sánh nhƣ: thua, kém, không bằng, sao bằng, chẳng bằng, không tày..., ví dụ:
Đêm nằm ở dưới bóng trăng
Thương cha, nhớ mẹ không bằng thương em (Ca dao)...
1.2. KHÁI QUÁT VỀ CA TỪ
1.2.1. Khái niệm "ca từ"
Trong âm nhạc, ca từ (lời của bài hỏt) giữ một vai trò quan trọng. Ca từ
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bổ sung tính cụ thể cho hình tƣợng âm nhạc, hay nói cách khác, nó làm nhiệm
vụ nhƣ là ngƣời hƣớng dẫn, mở đƣờng, “phiên dịch”, dẫn giải cho ngƣời
thƣởng thức bằng thứ ngôn ngữ phổ biến mà con ngƣời đã đƣợc học tập, rèn
luyện, nâng cao từ khi lọt lòng mẹ. Một ngƣời Việt Nam không biết ngoại
ngữ nghe một bài hát bằng tiếng Nga, hay tiếng của một nƣớc khác, cũng coi
nhƣ nghe một bản nhạc không lời, bởi ca từ đó không phải là tiếng Việt mà
ngƣời Việt Nam đã sử dụng thành thạo.
Ca từ mở cửa cho hình tƣợng âm nhạc đi vào lòng ngƣời thƣởng thức.
Sở dĩ nhƣ vậy, vỡ ngụn ngữ (bằng lời) là phƣơng tiện giao tiếp quan trọng
nhất của con ngƣời. Có thể ví ca từ nhƣ đôi cánh nâng hình tƣợng âm nhạc
bay cao hơn, xa hơn. Trên thực tế, có nhiều tác phẩm âm nhạc, phần âm thanh
và phần ca từ tƣơng sinh nhƣ xác với hồn, làm nên sức sống của tác phẩm.
Nhƣng cũng có nhiều tác phẩm, khi bóc tách phần ca từ ra khỏi nền nhạc thì
nó vẫn thấm đẫm chất thơ, và đi vào lòng công chúng bởi tính trữ tình và
những ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà ngƣời nhạc sĩ gửi gắm trong tác phẩm của
mình. Thậm chí, những triết lí trong ca từ còn đƣợc thƣởng thức nhƣ những
câu châm ngôn sống bất hủ hoặc nhƣ những bài thơ. Trong nền âm nhạc Việt
Nam, Trịnh Công Sơn là một hiện tƣợng nhƣ vậy.
Với những vai trò và chức năng kể trên, ca từ là một phần không thể
thiếu trong âm nhạc. Vậy ca từ là gì? Theo Dƣơng Viết Á: “Trong loại hình
nghệ thuật âm nhạc, ngoài phần âm thanh đóng vai trò chính, còn phải dùng
đến ngôn ngữ, nói đúng hơn, đó là phần ngôn ngữ văn học trong âm nhạc (lời
ca trong ca khúc, hợp xƣớng; kịch bản trong nhạc cảnh, nhạc kịch; tên gọi,
tiêu đề của những bài hát, bản nhạc hoặc của từng chƣơng nhạc...). Tất cả
phần ngôn ngữ văn học trong âm nhạc, ta gọi chung trong một khái niệm: Ca
từ” [1, tr.13].
Với khái niệm nêu trên, áp dụng vào đề tài cụ thể nghiên cứu phƣơng
thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn, luận văn giới hạn nghiên cứu
26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chỉ phần lời trong các ca khúc của ông.
1.2.2. Ngôn ngữ trong ca từ
Ngôn ngữ là chất liệu tạo nên ca từ. Giá trị của ca từ phụ thuộc vào
trình độ sử dụng ngôn ngữ của mỗi nhạc sĩ. Những ca từ có giá trị trƣớc hết
phải chuẩn về từ ngữ, đúng về ngữ pháp, chính xác về cú pháp, rõ ràng, trong
sáng về mặt diễn đạt... Trong nền âm nhạc Việt Nam, những nhạc sĩ có tên
tuổi cũng đồng thời là những ngƣời tạo ra những ca từ có giá trị mẫu mực,
nhƣ: Văn Cao, Huy Du, Đỗ Nhuận, Nguyễn Văn Tý... Họ là những ngƣời góp
phần quan trọng trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và chuẩn hoá nó
để phục vụ sự phát triển của tƣ duy, sự phát triển của trí tuệ con ngƣời Việt Nam.
Ngôn ngữ trong bài hỏt (ca từ) mang những đặc trƣng của ngôn ngữ
văn học, nhất là của ngôn ngữ thơ. Nhƣng thơ chủ yếu là để đọc, trong khi đó
lời ca chủ yếu là để hát và nghe theo giai điệu và tiết tấu nhất định. Rõ ràng
thơ và lời ca có hai cách tác động chủ yếu khác nhau: một bên thƣờng là thị
giác và một bên thƣờng là thính giác. Do sự khác nhau đó, ngôn ngữ trong bài
hỏt có những điểm khác so với ngụn ngữ trong thơ ca. Chẳng hạn:
Trong thơ ca, không nhà thơ nào lại viết liền một đoạn gồm toàn từ ngữ
tƣợng thanh, vì bài thơ viết ra để đọc (hoặc để nghe qua ngƣời khác đọc).
Nhƣng với lời ca, vì để hát lên và để nghe theo giai điệu và tiết tấu của âm
nhạc, một đoạn lời ca chỉ gồm những từ ngữ tƣợng thanh bỗng nhiên lại có
hồn, có sức sống. Sở dĩ có sự khác biệt này là do công cụ, phƣơng tiện diễn tả
chủ yếu của âm nhạc là âm thanh với giai điệu, tiết tấu, hoà thanh... Với
những phƣơng tiện đó, âm nhạc có một khả năng vô cùng to lớn trong việc tái
hiện cuộc sống thông qua thế giới âm thanh. Chính nhờ đặc trƣng này, âm
nhạc cho phép sử dụng những mô phỏng âm thanh trong cuộc sống xã hội và
tự nhiên để phản ánh hiện thực.
Tóm lại, ngôn ngữ trong tỏc phẩm ca từ là ngôn ngữ nghệ thuật đƣợc
chọn lọc, tinh luyện, giàu hình ảnh, nhạc điệu, đƣợc tổ chức một cách đặc thù
27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhằm phản ánh cô đọng đời sống và biểu thị tinh tế mọi cung bậc tâm trạng
xúc cảm của con ngƣời. Nếu coi âm nhạc là một sản phẩm trí tuệ của nhân
loại thì ca từ là một bộ phận không thể thiếu của sản phẩm đó. Khi soạn ca từ,
ngoài những tình cảm xuất phát từ trái tim, ngƣời nhạc sĩ còn cần có sự đầu tƣ
của trí tuệ để lựa chọn ngôn ngữ một cách tinh tế, làm nên những khúc ca có
giá trị. Có thể nói một trong những giá trị của ca khúc là ở phần ca từ của tác
phẩm.
1.2.3. Hình tƣợng trong ca từ
Cũng nhƣ các loại hình nghệ thuật khác, âm nhạc phản ánh cuộc sống
thông qua hình tƣợng. Từ một ca khúc cho đến một bản giao hƣởng, một vở
nhạc kịch..., với những mức độ khác nhau, đều là những hình tƣợng nghệ thuật
phản ánh hiện thực, những bức tranh về cuộc sống con ngƣời trong một giai
đoạn lịch sử nhất định, thông qua cách nhìn riêng biệt và sự nhạy cảm của nhạc
sĩ.
Hình tƣợng nghệ thuật là một bức tranh vừa cụ thể vừa khái quát về
cuộc sống, về con ngƣời, đƣợc xây dựng bằng những biện pháp nghệ thuật
của nghệ sĩ. Trong ca từ, bức tranh đó đƣợc hiểu là bức tranh về tâm trạng của
những con ngƣời xã hội, và qua bức tranh đó, hoàn cảnh cũng đƣợc phản ánh
một cách sống động, rõ nét. Trong lời ca, tâm trạng có thể gắn với một hoàn
cảnh, một tình huống hoặc một câu chuyện, do đó tác giả vẫn có thể miêu tả,
tƣờng thuật (về cảnh, về việc). Nhƣng cảnh phải đƣợc gắn với tình, việc phải
đƣợc gắn với ngƣời, với cảm xúc. Trong những ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ
Đặng Thế Phong nhƣ Giọt mưa thu hay Con thuyền không bến..., lời ca hầu
nhƣ đều miêu tả (tả cảnh), song mỗi câu, mỗi từ đều trĩu nặng tình ngƣời và
nỗi lòng của “cái tôi” trữ tình.
Muốn có đƣợc sự cảm thông và sự rung động từ phía ngƣời nghe, hình
tƣợng ca từ trong tác phẩm âm nhạc phải có tính điển hình, tức là phải có sự
28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
liên kết hữu cơ giữa cái riêng và cái chung, sự thống nhất thẩm mĩ giữa cái
cảm tính cụ thể và cái bản chất. Nếu nặng về cái chung, nhẹ về cái riêng, chỉ
thấy cái bản chất mà bỏ rơi cái cảm tính cụ thể, hình tƣợng trong ca từ sẽ trở
thành một chuỗi những khái niệm khô khan. Nhƣng nếu coi nhẹ cái chung mà
nặng về cái riêng, chạy theo cái cá biệt mà không nói lên đƣợc cái phổ biến,
có tính quy luật thì hình tƣợng trong ca từ sẽ trở nên lạc lõng, xa lạ với số
đông, với quần chúng. Vì vậy ngƣời nghệ sĩ phải biết sống thực sự với tình
cảm của con ngƣời thời đại, hoà nhịp đập trái tim mình với quần chúng nhân
dân thì mới sáng tạo đƣợc những tác phẩm nghệ thuật chân chính. Có nhƣ thế,
“cái tôi - nghệ sĩ” mới hoà chung với “cái ta - nhân dân”, cho dù trong trƣờng
hợp nghệ sĩ chỉ nói về cái tôi:
Ai về thủ đô tôi gửi vài lời
Tây Hồ mờ xa là nhà tôi đó
Ai về thành đô tôi gửi vài lời
Cho nhẹ lòng tôi năm tháng không nguôi
(Sẽ về thủ đô - Huy Du)
Đó là tâm trạng riêng của Huy Du: nhớ Hà Nội, nhớ quê hƣơng với biết
bao kỉ niệm. Thế nhƣng ngƣời nghe nhƣ thấy trong đó có nỗi lòng của mình,
bởi: ai xa quê hƣơng mà không nhớ thƣơng, vƣơng vấn; ai là ngƣời Việt Nam
yêu nƣớc đi kháng chiến mà không mong ngày về thủ đô - ngày tƣợng trƣng
cho chiến thắng.
1.2.4. Chủ thể cảm xúc trong ca từ
Chủ thể cảm xúc trong một tác phẩm âm nhạc, trong ca khúc, xét đến
cùng, chính là tác giả của tác phẩm ấy. Nhƣng không phải bao giờ tác giả
cũng “nhập vai” trong tác phẩm để ca hát, yêu thƣơng, căm giận, mơ ƣớc...
Cách thể hiện “cái tôi - tác giả” trong tác phẩm rất phong phú và đa dạng.
Có khi “cái tôi - tác giả” đƣợc biểu hiện trực tiếp trong bài hát, trong ca
từ. Ca khúc Mười năm tổ quốc tôi đã lớn của Hồng Đăng là một ví dụ:
29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Khi tôi hát ngợi ca đất nước tôi anh dũng tuyệt vời
Đang ngày đêm trên tuyến đầu diệt quân cướp Mỹ
Khi tôi hát ca ngợi Đảng của tôi như ánh mặt trời
Trên đường dài dân tộc tôi đi đến vinh quang...
Tình yêu tha thiết đối với quê hƣơng, niềm tự hào kiêu hãnh về tổ quốc
anh hùng, niềm tin vào tiền đồ tƣơi sáng của đất nƣớc... là những cảm xúc của
tác giả đƣợc biểu hiện trực tiếp trong tác phẩm. Trong trƣờng hợp này, “cái
tôi - nhân vật” trong tác phẩm trùng khít với “cái tôi - tác giả” của nhạc sĩ.
Cũng có khi tác giả không nói đến “cái tôi”, nghĩa là trong lời ca không
có từ tôi nhƣng ngƣời nghe vẫn thấy rõ và xác định đƣợc chủ thể cảm xúc
trực tiếp trong tác phẩm chính là tác giả. Nếu nhƣ trong ca khúc Mười năm tổ
quốc tôi đã lớn (Hồng Đăng), tác giả đồng thời là nhân vật trữ tình trong tác
phẩm, xuất hiện trực tiếp và rõ ràng thì trong ca khúc Cô gái mở đường (Xuân
Giao), nhân vật trữ tình (tác giả) lại ẩn mình đi. Do đó các câu trong ca từ đều
thuộc vào loại có chủ ngữ ẩn. Ví dụ:
Đi giữa trời khuya sao đêm lấp lánh
Tiếng hát ai vang động cây rừng
Phải chăng em cô gái mở đường
Không thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát...
Ca khúc là lời của nhạc sĩ Xuân Giao trò chuyện với những cô gái mở
đƣờng. Tác giả đã bộc lộ tâm tình của mình và thể hiện sự yêu thƣơng, trân
trọng, ngợi ca những ngƣời con gái anh hùng. Trong toàn bộ ca khúc, “cái tôi
- tác giả” không hề xuất hiện nhƣng ta vẫn có thể nhận thấy sự hiện diện của
tác giả. Để thấy rõ hơn điều này, ta có thể viết lại những câu ẩn chủ ngữ thành
những câu có chủ ngữ nhƣ sau:
(Tôi) đi giữa trời khuya sao đêm lấp lánh
Tiếng hát ai vang động cây rừng
Phải chăng em cô gái mở đường
30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Tôi) không thấy mặt người, (tôi) chỉ nghe tiếng hát...
Ai đi? Ai nghe tiếng hát? Ai lên tiếng hỏi?... Đó có thể chính là “tôi”, là
tác giả Xuân Giao. Ở đây, tác giả cũng là đại diện cho những ngƣời lính trên
đƣờng đi cứu nƣớc, đang trong rừng núi Trƣờng Sơn, với nỗi lòng xốn xang
khi nghe tiếng hát của các cô nữ thanh niên xung phong.
Ta còn có thể bắt gặp một dạng ẩn náu chủ thể cảm xúc khác nữa. Vẫn
là tác giả, đồng thời là nhân vật trữ tình, nhƣng “cái tôi - tác giả” trong tác
phẩm chỉ thấp thoáng hiện lên sau cảnh vật đƣợc nhắc tới. Trong Người Hà
Nội, Nguyễn Đình Thi đã viết:
Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây
Đây lắng hồn núi sông ngàn năm
Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội
Hà Nội mến yêu...
Trong những câu hát trên, cảnh Hà Nội hiện lên với Hồ Gƣơm, Hồng
Hà, Hồ Tây... Nhƣng đó không chỉ đơn thuần là cảnh. Cảnh ở đây quyện chặt
với tình, cảnh hiện lên qua tình. Những cảnh đó không phải đƣợc kể ra mà
đƣợc ca lên, đƣợc hát lên trong sự gắn bó với một giai điệu thiết tha, sâu lắng,
tràn đầy yêu thƣơng.
Có khi “cái tôi - tác giả” lại đựơc biểu hiện thông qua “cái tôi - nhân
vật trữ tình” đƣợc phản ánh trong tác phẩm. Ở đây, tác giả không trực tiếp
xuất hiện, nghĩa là chủ thể cảm xúc của tác phẩm không phải là tác giả, mà là
một nhân vật nào đó. Đó là trƣờng hợp các ca khúc nhƣ: Tôi, người lái xe (An
Chung), Thư ra tiền tuyến (Thái Cơ), Em là hoa Pơ - lang (Đức Minh)...
Ngƣời lái xe, ngƣời vợ ba đảm đang ở hậu phƣơng, cô gái Tây Nguyên… là
những nhân vật trữ tình. Trong những tác phẩm đó, ta bắt gặp trực tiếp tâm
trạng của từng ngƣời, qua tâm trạng của họ, có thể thấy đƣợc thái độ của tác
giả. Đó là lòng yêu thƣơng, thái độ trân trọng và nềm tự hào của tác giả đối
31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
với phẩm chất cao đẹp của những con ngƣời trực tiếp làm nên lịch sử.
“Cái tôi - nhân vật trữ tình” cũng có lúc biểu hiện bằng “ta”. Trong ca
từ, tuy có nói đến “ta” nhƣng trong trƣờng hợp cụ thể nhất định, lại có nghĩa
là “tôi”. Ca khúc Chưa hết giặc ta chưa về của Huy Du là một ví dụ:
Nghe mênh mông tiếng Bác Hồ dậy non sông
Tuổi xanh ra đi chí anh hùng ta đánh Mỹ
Thề quyết giữ trọn tình đất nước anh em ta ơi
Tự do chính là niềm mơ ước anh em ta ơi
Đời chưa hết giặc là ta chưa về... Trong ca khúc này “ta” của tác giả Huy Du cũng là “tôi” - “cái tôi -
nhân vật trữ tình”. Ca khúc vừa là tâm tình của ngƣời chiến sĩ, vừa là lời “kêu
gọi” sự đồng tình của anh em đồng đội. Đó là một tâm trạng, một lời tự sự,
nhƣng đồng thời là một lời động viên, khích lệ, một lời hiệu triệu - tâm tình,
một lời kêu gọi hát lên từ trái tim.
“Nhƣ vậy, để tìm hiểu chủ thể cảm xúc trực tiếp trong tác phẩm là một
cá nhân hay một tập thể, không chỉ dựa vào một từ “tôi” hay một từ “ta” mà
có thể xác định đƣợc. Vấn đề là phải xem xét cách cảm xúc trong tác phẩm
xuất phát từ góc độ nào, từ cách nhìn, cách nghĩ, cách biểu hiện nào, và còn
phải đặt chủ thể cảm xúc trực tiếp ở tác phẩm ca từ trong mối tƣơng quan với
chất nhạc, với phong cách của tác giả” [1, tr.147].
1.3. TRỊNH CÔNG SƠN VÀ NHỮNG CA KHÚC CỦA ÔNG
1.3.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Trịnh Công Sơn
Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-2-1939 tại Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
trong một gia đình gốc Huế. Ông là anh cả của 8 ngƣời em trai và gái. Cha
ông là một doanh nhân yêu nƣớc và tham gia chống Pháp. Mẹ ông là một
ngƣời đàn bà nhân hậu, đảm đang và có cảm nhận nghệ thuật rất tinh tế.
Năm 1943, khi Trịnh Công Sơn lên 4 tuổi, gia đình về lại Huế, ở tại
vùng Bến Ngự - một vùng đất xanh tƣơi, bên dòng sông An Cựu, nơi có nhiều
32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chùa chiền, lăng tẩm. Tiếng chuông chùa và lời kinh thấm vào hồn ông từ tuổi
thơ. Điều đó giúp chúng ta hiểu vì sao những ca từ của ông về sau mang đậm
dấu ấn Thiền, Phật và giàu chất Huế.
Lên trung học, Trịnh Công Sơn học tại trƣờng Lycée Francais, rồi đổi
sang trƣờng Providence (Huế), rồi theo học ban Triết tại trƣờng Chasseloup-
Laubat (Sài Gòn). Ông là một trong những trí thức thấm nhuần văn hoá Pháp
và chịu ảnh hƣởng sâu sắc của nền triết học phƣơng Tây hiện đại ngay từ khi
còn rất trẻ.
Năm 1955, khi ông 15 tuổi, cha ông bị tai nạn giao thông qua đời. Cái
chết đột ngột thảm khốc của ngƣời cha là cú sốc đầu đời, ám ảnh ông thƣờng
trực. Từ đó, ông luôn suy nghĩ về sự sống và cái chết.
Thời niên thiếu, Trịnh Công Sơn là một chàng trai vui vẻ và khoẻ
mạnh, từng giành nhiều giải thƣởng thi đấu thể thao (chạy, cử tạ, judo...).
Điều gì sau đó đã đƣa ông trở thành một nhà thơ - nhạc sĩ “buồn bã và ốm
yếu” trong mắt của nhiều ngƣời?
Năm 1957, Trịnh Công Sơn 18 tuổi, một tai nạn bất ngờ đã thay đổi
cuộc đời ông. Lúc ấy ông đang học trung học, vào một ngày khi đang tập judo
với em trai, ông bị thƣơng nặng ở ngực và phải nằm liệt giƣờng gần hai năm
tại Huế. Trong thời gian nằm dƣỡng bệnh này, ông có nhiều thì giờ rảnh rỗi
để suy nghĩ về kiếp ngƣời và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên. Cũng trong
thời gian này, Trịnh Công Sơn bắt đầu chơi guitare và bắt đầu sáng tác.
Những ca khúc đầu tiên của ông mang tên Sương đêm và Chơi vơi đều chƣa
ấn hành.
Tai nạn trên là một cái rủi cho ông về thể xác nhƣng là một cái may cho
nền âm nhạc Việt Nam. Nếu nhƣ không có khúc quanh bất ngờ này, có lẽ ông
đã tiếp tục chơi thể thao, đi học tiếp và không chừng đã trở thành một bác sĩ,
hay kĩ sƣ..., và lịch sử âm nhạc Việt Nam sẽ không bao giờ có đƣợc một nhạc
33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sĩ tài hoa nhƣ thế.
Ca khúc đƣợc in đầu tiên của Trịnh Công Sơn là bài Ướt mi, sáng tác
vào năm 1958 và công bố vào năm 1959, nói về giọt nƣớc mắt thuần khiết của
một ngƣời con gái.
Sau đó, đầu thập niên 60 của thế kỉ XX là thời kì Trịnh Công Sơn sáng
tác rất nhiều bản nhạc tình đã trở thành những kiệt tác ca khúc Việt Nam. Ở
Huế, thời gian này Trịnh Công Sơn đã rung động trƣớc hình ảnh một thiếu nữ
mảnh mai mang tên Ngô Thị Bích Diễm. Hình ảnh này là nguồn cảm hứng để
ông viết Diễm xưa và rất nhiều ca khúc khác.
Những năm 1962-1964, chiến tranh Việt Nam ngày càng tàn khốc,
thanh niên hầu hết đều bị động viên đi lính. Để hoãn quân dịch, Trịnh Công
Sơn rời Huế thi vào trƣờng Sƣ phạm Quy Nhơn. Ở nơi thành phố biển hiền
hoà, yên tĩnh này, ông đã sáng tác những tình ca nổi tiếng nhƣ Biển nhớ, Nhìn
những mùa thu đi, Nắng thuỷ tinh, Chiều một mình qua phố, Vết lăn trầm, Dã
tràng ca, Cát bụi...
Năm 1964, sau khi tốt nghiệp trƣờng Sƣ phạm Quy Nhơn, ông đƣợc
điều lên Bảo Lộc (Lâm Đồng) dạy học. Thời gian này, cuộc chiến ở Việt Nam
đã trở nên ác liệt. Năm 1965, quân đội Mỹ bắt đầu rầm rộ đổ bộ vào miền
Nam Việt Nam. Phong trào đấu tranh của Phật giáo và sinh viên dâng cao.
Giai đoạn 1965-1972, tâm trạng phản chiến trở thành nguồn cảm hứng
chủ đạo trong sáng tác của Trịnh Công Sơn. Ông bắt đầu sáng tác những bài
hát về thân phận con ngƣời trong chiến tranh, miêu tả cuộc sống đau đớn,
kinh hoàng đầy chết chóc hằng ngày của ngƣời dân, từ những ngƣời mẹ,
ngƣời vợ cho đến cụ già, em bé. Những bài hát của ông là tiếng kêu than
thống thiết của con ngƣời trong cuộc chiến. Tiêu biểu là những nhạc phẩm:
Gia tài của mẹ, Hát trên những xác người, Đàn bò vào thành phố, Người già
34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
em bé, Người con gái Việt Nam, Tình ca người mất trí...
Vào năm 1965, tại Đà Lạt, Trịnh Công Sơn đã có cuộc gặp gỡ định
mệnh với ca sĩ Khánh Ly - ngƣời sau này đó thể hiện tuyệt vời những nhạc
phẩm của ông.
Cuối năm 1966, buổi ra mắt đầu tiên của ông và Khánh Ly trƣớc công
chúng Sài Gòn là khoảnh sân sau Trƣờng Đại học Văn khoa, với hàng ngàn
sinh viên và trí thức. Bằng chiếc ghi ta thùng đơn giản của ông và giọng ca
huyền thoại Khánh Ly, những bài tự tình quê hƣơng và thân phận con ngƣời
đƣợc hát vang lên và làm thức tỉnh, say đắm hàng ngàn khán giả cuồng nhiệt
đêm đó. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành một hiện tƣợng và rồi trở
thành thần tƣợng của lớp trẻ lúc bấy giờ.
Năm 1969, nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn nổi tiếng khắp thế
giới. Ông đƣợc xem là một Bob Dylan (nhạc sĩ phản chiến số 1 ở Mỹ) của
Việt Nam. Năm 1970, bài Diễm xưa đƣợc vào chung kết cuộc thi các bài hát
nƣớc ngoài ở Nhật, bài Ngủ đi con chiếm giải Đĩa vàng và đã phát hành trên
hai triệu bản.
Trịnh Công Sơn từ đó trở thành “kẻ du ca bất khuất” trên đất nƣớc đầy
bom đạn. Những sáng tác tiếp theo của ông với những ca từ mạnh mẽ trong
tập Kinh Việt Nam hay Ta phải thấy mặt trời, Nhân danh Việt Nam là tiếng
nói kêu gọi hoà bình và thống nhất đất nƣớc.
Tháng 4 năm 1975, chiến tranh chấm dứt, ông là ngƣời đầu tiên lên Đài
Phát thanh Sài Gòn hát vang bài Nối vòng tay lớn, một bài hát nói lên niềm
khao khát hoà bình, thống nhất.
Sau ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ, Trịnh Công Sơn ở lại Việt Nam khi
hầu hết ngƣời thân và bạn bè của ông đã rời đất nƣớc.
Trƣớc ngày 30/4/1975, có nhiều lời mời đƣa ông ra nƣớc ngoài của các
hãng thông tấn quốc tế. Nhƣng ông nói: “Việt Nam là nơi duy nhất tôi có thể
sống và sáng tác. Ở nƣớc ngoài, tôi không nghe ra tiếng nhạc trong đầu mình,
35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tôi không nghe đƣợc câu thơ tôi viết ra. Tôi thích đi nƣớc ngoài, nhƣng nếu ở
lâu, tôi sẽ khô cạn và chết mất. Hơi ấm của dân tộc Việt Nam giống nhƣ nƣớc
cần thiết cho hoa vậy” (Theo [64, tr.140]).
Thế nhƣng, ở lại đất nƣớc trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, Trịnh Công Sơn
trở thành chứng nhân đồng thời cũng là nạn nhân của những thăng trầm lịch
sử trên mảnh đất thời hậu chiến.
Những năm đầu giải phóng, những ca khúc của Trịnh Công Sơn không
đƣợc phổ biến. Bản thân ông bị "kiểm điểm" bởi có ngƣời cho rằng ụng đã
làm nhạc phản chiến một cách chung chung, không phân biệt đƣợc chiến
tranh xâm lƣợc và chiến tranh giải phóng dân tộc (trong bài Gia tài của mẹ
với câu Hai mươi năm nội chiến từng ngày), thậm chí còn làm nhạc ca ngợi
địch trong bài Cho một người nằm xuống tỏ ý thƣơng tiếc một đại tá không
quân Sài Gòn.
Trong thời hậu chiến, cả nuớc rất khó khăn, và nhƣ bao ngƣời Việt
khác, Trịnh Công Sơn cũng đƣợc đƣa đi lao động sản xuất trên những cánh
đồng đầy bom đạn chƣa tháo gỡ. Thời gian này, ông không thể sáng tác đƣợc,
bởi một ngƣời viết tình ca mang tính triết lí trừu tƣợng nhƣ ông không thể
một sớm một chiều chuyển mạch sáng tác theo một đƣờng hƣớng khác.
Năm 1979, Trịnh Công Sơn từ giã Huế vào Sài Gòn.
Từ những năm 1980, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác lại. Tác phẩm
của ông sau chiến tranh có những bài nổi tiếng nhƣ: Chiều trên quê hương tôi,
Em còn nhớ hay em đã quên, Huyền thoại mẹ, Hà Nội mùa thu, Tiến thoái
lưỡng nan, Tôi ơi đừng tuyệt vọng, Lặng lẽ nơi này, Xin trả nợ người, Lời
thiên thu gọi... Những sáng tác này thƣờng là tình ca, không có bài hát nào
liên quan đến chiến tranh, chủ yếu là những tác phẩm viết cho phim. Những
tác phẩm sau này thƣờng nói lên thân phận con ngƣời, kiếp ngƣời trong cõi
36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tạm, mang đậm chất Thiền.
Năm 1983 và 1990, Trịnh Công Sơn đã hai lần có ý định lấy vợ nhƣng
đều không thành. Và trong tình yêu, ông rốt cuộc vẫn là chàng “lãng tử cô
độc” cho đến cuối đời.
Năm 1992, ngƣời mẹ kính yêu của Trịnh Công Sơn qua đời. Đây là một
mất mát quá lớn với ông. Ông viết: “Khi một ngƣời mất mẹ ở tuổi 50, điều ấy
có nghĩa là không còn gì có thể dàn xếp đƣợc. Cái sa mạc để lại trong lòng
bạn cứ thế mỗi ngày lan rộng ra và cõi lòng bạn thì tan nát nhƣ một cánh đồng
xanh tƣơi vừa trải qua một cơn bão lớn” (Theo [58, tr.9]).
Những năm 90 của thế kỉ XX, sau thời kì đổi mới của đất nƣớc, nhạc
của ông lại đƣợc hát rất nhiều trong các chƣơng trình ca nhạc, chủ yếu là
những bản tình ca. Những bài hát phản chiến của ông, vì một lí do nào đó,
vẫn chƣa đƣợc phép lƣu hành.
Những năm cuối đời, Trịnh Công Sơn thƣờng xuyên bị bệnh, sức khoẻ
giảm sút rõ rệt. Ông qua đời vào ngày 1/4/2001. “Con chim nhỏ hát chơi trên
đầu ngọn lau” không còn nữa, “vết chân dã tràng” in dấu trên cõi trần đúng 62
năm. Ca khúc cuối cùng, đƣợc ông sáng tác trên giƣờng bệnh là bài Biển
nghìn thu ở lại. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ngƣời nhạc sĩ tài hoa này
cũng sẽ “nghìn thu ở lại”.
Năm 2004, Trịnh Công Sơn đƣợc trao “Giải thƣởng Âm nhạc hoà bình
thế giới” vì lí tƣởng hoà bình mà ông đã đấu tranh không mệt mỏi cho hạnh
phúc của nhân loại.
Trong bộ từ điển bách khoa Pháp Le Million tập 8 trang 122 - Genève
1973, tên tuổi của Trịnh Công Sơn đƣợc nhắc đến nhƣ một thi nhân tiêu biểu
của Việt Nam: “... nhiều thi nhân Việt Nam ngày nay đã tìm hơi thở hùng ca
của tổ tiên ngày trƣớc để hát nỗi đau của mình. Trịnh Công Sơn nổi bật giữa
những tài năng trẻ đó. Bài hát của anh tràn ngập thành phố và thôn quê. Trịnh
Công Sơn cất cao tiếng hát thi nhân mà đạn bom không bao giờ dập tắt
37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đƣợc...” (Theo [64, tr.140]).
1.3.2. Khái quát về những ca khúc của Trịnh Công Sơn
Về số lƣợng ca khúc của Trịnh Công Sơn, công chúng thƣờng phỏng
đoán ông đã sáng tác khoảng trên 600 ca khúc. Tuy nhiên đây chỉ là sự phỏng
đoán vì không có những căn cứ cụ thể. Chính Trịnh Công Sơn, lúc sinh thời,
cũng không biết mình đã viết bao nhiêu ca khúc, vì thời chiến tranh sống cuộc
đời trốn tránh, lang bạt, ông không có điều kiện giữ gìn, và những sáng tác ấy
thất lạc khắp nơi.
Năm 1991, cô Yoshii Michiko, một sinh viên ngƣời Nhật làm luận văn
cao học về nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, đã sƣu tầm đƣợc 196 bài
hát, trên cơ sở tài liệu do chính Trịnh Công Sơn cung cấp dựa vào trí nhớ của
tác giả hoặc của các ca sĩ.
Mƣời năm, sau khi Trịnh Công Sơn qua đời năm 2001, những bạn bè
của ông ở trong và ngoài nƣớc đã sƣu tầm những bài hát của ông qua nhiều
nguồn. Ông Phạm Văn Đỉnh - Chủ tịch Hội Văn hoá Trịnh Công Sơn (Pháp)
đã kì công sƣu tầm đƣợc 288 bài, có chú thích năm tháng cẩn thận. Đây có thể
đƣợc coi là thƣ mục bài hát tìm đƣợc nhiều nhất tính đến thời điểm hiện nay.
Nhƣ vậy, căn cứ vào một số cứ liệu và qua quá trình tìm hiểu, có thể
nhận định Trịnh Công Sơn đã sáng tác khoảng hơn 300 ca khúc.
Những ca khúc của Trịnh Công Sơn về thực chất là nhật kí ghi lại
những suy tƣ, chiệm nghiệm của một con ngƣời bình thƣờng về những
khoảnh khắc, cảm xúc, tâm trạng trong nhiều giai đoạn, nhiều hoàn cảnh trải
dài trong suốt cuộc đời của mình. Trịnh Công Sơn từng viết: “Tôi chỉ là tên
hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những
giấc mơ đời hƣ ảo” (Theo [37, tr.223]).
Nhạc Trịnh thƣờng đƣợc xếp thành 3 mảng chính là: Tình yêu, Quê
hƣơng và Thân phận.
Tình yêu là đề tài lớn nhất trong tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Những
38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bản tình ca chiếm đa số trong danh mục ca khúc của ông. Nhạc tình của Trịnh
Công Sơn đa số là nhạc buồn, thƣờng nói lên tâm trạng buồn chán, cô đơn
nhƣ trong Sương đêm, Uớt mi..., mang nỗi sầu li biệt nhƣ Diễm xưa, Biển
nhớ..., hay nuối tiếc những gì đã qua nhƣ Tình xa, Tình sầu, Tình nhớ, Em còn
nhớ hay em đã quên...
Những bài hát này có giai điệu nhẹ nhàng, thƣờng đƣợc viết với tiết tấu
chậm. Phần lời đƣợc đánh giá cao nhờ đậm chất thơ, bề ngoài mộc mạc nhƣng
rất thâm trầm sâu sắc, đôi khi mang những yếu tố tƣợng trƣng, siêu thực.
Nhạc tình của Trịnh Công Sơn rất phổ biến tại Việt Nam. Nhạc sĩ
Thanh Tùng từng gọi Trịnh Công Sơn là “Ngƣời Việt viết tình ca hay nhất thế
kỉ” [65].
Tiếp theo là mảng ca khúc về quê hƣơng. Mảng này lại chia thành các
ca khúc phản chiến (các tập nhạc Da vàng nổi tiếng thập kỉ 60, 70 trong
phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe) và các ca khúc ngợi ca con ngƣời xây
dựng tái thiết đất nƣớc sau năm 1975 (với những ca khúc nhƣ Em ở nông
trường em ra biên giới, Chiều trên quê hương tôi..., ngoài ra còn có những ca
khúc viết cho thiếu nhi nhƣ Em là hoa hồng nhỏ, Mẹ đi vắng..., và những bài
hát viết cho phim nhƣ Đời gọi em biết bao lần).
Trong mảng ca khúc viết về quê hƣơng, ngƣời ta chú ý nhiều đến
những ca khúc phản chiến mang tính chất chống chiến tranh, ca ngợi hoà
bình. Có thể kể đến những tập ca khúc phản chiến tiêu biểu nhƣ: Ca khúc da
vàng, Kinh Việt Nam, Phụ khúc da vàng...
Cuối cùng là mảng ca khúc về thân phận con ngƣời, đƣợc viết bằng sự
chiêm nghiệm về thân phận mình, thân phận ngƣời và cuộc đời với nội dung
sâu sắc, mang tính triết lí cao, làm nên tính “bác học” và “độc đáo” của nhạc
Trịnh. Những ca khúc tiêu biểu nhƣ: Bốn mùa thay lá, Phôi pha, Một cõi đi
về, Ngẫu nhiên, Tiến thoái lưỡng nan, Như một lời chia tay... Những ca khúc
này thƣờng nói về tính phù du của cuộc sống, của đời ngƣời:
39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Không hẹn mà đến không chờ mà đi
Bốn mùa thay lá thay hoa thay mãi đời ta (Bốn mùa thay lá)
Từ đó tác giả kêu gọi con ngƣời hãy yêu nguời: “hãy yêu nhau đi cho
gạch đá có tin vui” và yêu đời, bởi “cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ”.
Có lẽ ít có dòng nhạc nào có tầm ảnh hƣởng lớn nhƣ nhạc Trịnh. Trong
những năm tháng chiến tranh, nhạc của Trịnh Công Sơn chƣa đƣợc phép lƣu
hành, thế nhƣng những ngƣời lính ở cả hai bên chiến tuyến vẫn say sƣa hát
lên những ca khúc phản chiến, những bản tình ca và những bài tự tình quê
hƣơng, dân tộc của ông. Sau năm 1975, vì một số lí do, nhạc Trịnh Công Sơn
vẫn bị cấm biểu diễn trong một thời gian dài (cho đến cuối những năm 80 đầu
những năm 90 của thế kỉ XX - thời kì mở cửa, nhạc Trịnh Công Sơn mới
chính thức đƣợc phổ biến). Tuy nhiên, trong những năm chính quyền không
cho phép, trên khắp nẻo đƣờng đất nƣớc, từ những nơi núi rừng heo hút cho
đến chốn thị thành, ngƣời dân vẫn nghe và yêu nhạc Trịnh. “Ngày nay, đi đến
bất cứ nơi đâu trên trái đất này, nếu có cộng đồng ngƣời Việt sinh sống, thì
nơi đó có nhạc Trịnh Công Sơn” [33, tr.47].
Hãy nghe những lời phát biểu về tầm ảnh hƣởng của Trịnh Công Sơn
và âm nhạc của ông:
“Nguyễn Trọng Tạo: Ở Việt Nam thế kỷ XX, có hàng vạn ngƣời sáng
tác ca khúc, nhƣng có 3 ngƣời không ai là không biết, đấy là Văn Cao, Phạm
Duy và Trịnh Công Sơn. Trong 3 ngƣời đó, Trịnh Công Sơn là ngƣời ít tuổi
nhất và nhạc phẩm của anh xuất hiện sau đến vài chục năm, nhƣng hơn 500
bài hát của anh đƣợc ngƣời đời say đắm đến cuồng nhiệt đã tạo ra một hiện
tƣợng lạ lùng trong âm nhạc Việt thế kỷ XX. Anh thực sự là Ông Hoàng của
tình ca Việt Nam, nhƣng cũng là một nhạc sĩ “phản chiến”, một nhạc sĩ của
khát vọng hoà bình với cả trăm bài hát trong các tập Kinh Việt Nam và Ca
khúc da vàng.
Ca từ của anh không chỉ giàu chất thơ nhƣ ngƣời ta thƣờng nói, mà đấy
40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
là những bài thơ thật sự, những bài thơ thấm đẫm triết lý về cuộc sống, về tình
yêu, về sự sinh ra và trở về Cát Bụi của thân phận ngƣời ngắn ngủi” (Theo
[46, tr.461]).
“Hoàng Bình Thi: Nỗi đam mê tình yêu lứa đôi không thay thế đƣợc
những điều lớn lao ở nhạc Trịnh Công Sơn, đó là nỗi đam mê nhận thức đời
sống, đeo đuổi cho đến cùng câu hỏi nghiệt ngã nhất “ta là ai?”. Nhƣ một đời
sống thứ hai đầy cám dỗ, âm nhạc của Trịnh Công Sơn đã khải thị những giá
trị thực của đời ngƣời. Nó chống lại sự xáo mòn, băng hoại. Không dồn đuổi
con ngƣời ta tới một nhịp sống gấp gáp, cũng không làm con ngƣời buông
xuôi trƣớc số phận mà là nhìn nhận một cách chân xác chỗ đứng đúng nghĩa
của con ngƣời.
Có lẽ tình yêu và nỗi đau phận ngƣời là những giá trị lớn nhất mà Trịnh
Công Sơn để lại. Đó là một gia tài đồ sộ đến mức thử giả định nếu không có
Trịnh Công Sơn, nếu không có âm nhạc của ông, đời sống của chúng ta sẽ
nghèo nàn và thảm hại đến nhƣờng nào” (Theo [46, tr.462]).
“Phạm Tuyên: Trong lĩnh vực ca khúc, lời ca có một vị trí hết sức quan
trọng và v mặt này Trịnh Công Sơn thực sự là một nhà thơ. Lời ca anh không
dễ dãi tuỳ tiện, mà luôn luôn ẩn sâu một triết lý về cuộc đời và điều đáng nói
là anh đã tìm đƣợc những giai điệu phù hợp, dung dị, không cầu kỳ, kiểu cách
để thể hiện nội dung đó. Đối với ngƣời sáng tác, có đƣợc một phong cách
riêng là một điều phải phấn đấu. Trịnh Công Sơn không chủ tâm tạo cho mình
một sự khác biệt lập dị, nhƣng bằng tình cảm chân thnàh của mình, anh đã có
đƣợc một phong cách rất riêng đƣợc sự mến mộ của đông đảo công chúng.
Sẽ còn có nhiều công trình nghiên cứu về hàng trăm ca khúc của anh
với những sự đánh giá có thể khác nhau, nhƣng phải khẳng định rằng sự
nghiệp sáng tác của anh đã góp phần xứng đáng vào nền ca khúc Việt Nam
hiện đại” (Theo [46, tr.463])...
41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
TIỂU KẾT
- Ca từ đƣợc hiểu là ngôn ngữ văn học trong âm nhạc, bao gồm: lời ca
trong ca khúc, hợp xƣớng; kịch bản trong nhạc cảnh, nhạc kịch; tên gọi, tiêu
đề của những bài hát, bản nhạc hoặc của từng chƣơng nhạc… Trong âm nhạc,
ca từ có vai trò rất quan trọng. Nó bổ sung tính cụ thể, nối thêm sức truyền
cảm và mở cửa cho hình tƣợng nghệ thuật đi vào lòng ngƣời thƣởng thức.
- Ngôn ngữ trong ca từ là ngôn ngữ nghệ thuật đƣợc chọn lọc, tinh
luyện, giàu hình ảnh, nhạc điệu, có những đặc trƣng riêng biệt và đƣợc tổ
chức một cách đặc thù nhằm phản ánh cô đọng đời sống và biểu thị tinh tế
mọi cung bậc tâm trạng, cảm xúc của con ngƣời.
- Hình tƣợng trong ca từ là những hình tƣợng nghệ thuật, là bức tranh
tâm trạng, bức tranh cuộc sống của con ngƣời trong một giai đoạn lịch sử nhất
định, đƣợc phản ánh trong ca khúc qua góc nhìn và sự nhạy cảm của nhạc sĩ.
Hình tƣợng trong ca từ có tính điển hình và liên quan chặt chẽ với hình tƣợng
của toàn bộ tác phẩm âm nhạc.
- Chủ thể cảm xúc trong ca từ xét đến cùng chính là tác giả của những
ca từ ấy. Cách thể hiện “cái tôi - tác giả” trong tác phẩm rất phong phú và đa
dạng: có thể đƣợc biểu hiện trực tiếp trong tác phẩm, có thể đƣợc ẩn đi hoặc
thể hiện thông qua những nhân vật trữ tình.
- Một trong những phƣơng thức làm nên vẻ đẹp và nét độc đáo của
ngôn ngữ trong ca từ là so sánh. So sánh là cách sử dụng ngôn ngữ đặc biệt
trong quá trình sáng tạo ngôn từ nghệ thuật nói chung và ngôn ngữ trong ca từ
nói riêng. So sánh là một quá trình của sự nhận thức thế giới khách quan để
phát hiện và chỉ ra sự đồng nhất cũng nhƣ khác biệt về thuộc tính của các sự
vật đặt bên nhau. Trong âm nhạc, phƣơng thức này góp phần tạo nên những
lời ca hấp dẫn, giàu hình ảnh, đồng thời cho thấy một phần phong cách riêng
của tác giả, trong đó có nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn.
- Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ đã ghi lại dấu ấn đậm nét và cũng là
42
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một hiện tƣợng hiếm gặp trong nền âm nhạc Việt Nam. Với những ca khúc về
Quê hƣơng, Tình yêu và Thân phận con ngƣời, Trịnh Công Sơn đã tạo dựng
cho mình một dòng nhạc độc lập, có sức sống và vị trí riêng, đƣợc gọi với cái
tên bình dị, thân quen là Nhạc Trịnh. Những ca khúc của Trịnh Công Sơn có
tầm ảnh hƣởng lớn không chỉ trên lãnh thổ Việt Nam mà còn vƣợt biên giới
đến với những trái tim yêu nhạc ở nhiều nƣớc trên thế giới. Một trong những
yếu tố làm nên sức sống của nhạc Trịnh chính là phần ca từ và đó cũng là nơi
thể hiện sự tài hoa trong sử dụng tiếng Việt của ông, trong đó có sử dụng
43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phƣơng thức so sánh.
CHƢƠNG 2 ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - CẤU TRÚC VÀ NGỮ NGHĨA CỦA PHƢƠNG THỨC SO SÁNH TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN
2.1. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - CẤU TRÚC CỦA PHƢƠNG THỨC SO
SÁNH TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN
2.1.1. Các kiểu cấu trúc so sánh
Trong 242 ca khúc đƣợc khảo sát, có 148 bài trong đó Trịnh Công Sơn
sử dụng phƣơng thức so sánh, thể hiện ở 406 lƣợt so sánh, với 13 kiểu cấu
trúc so sánh.
Sau đây là ví dụ và sự phân tích đối với từng kiểu cấu trúc:
- Cấu trúc A + tnss + B, ví dụ:
Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy
Để mắt em cười tựa lá bay (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui)
(Trong đó: A: mắt em cười
tnss: tựa
B: lá bay)
Và các ví dụ khác:
- Tình như đá hoài những chờ mong
Tình vu vơ sao ta muộn phiền (Nhƣ một lời chia tay)
- Trời nước bao la em như là chim én
Em trên xuồng qua rạch rồi lại nối qua sông
(Mênh mông Đồng Tháp)
- Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những quán không (Nghe những tàn phai)
- Đời ta có khi tựa lá cỏ
44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ngồi hát ca rất tự do (Đêm thấy ta là thác đổ)...
Cấu trúc A + tnss + B đƣợc sử dụng 272/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 67%. Với
kiểu so sánh này, tác giả đã đồng nhất hoặc tƣơng tự hoá hai sự vật hiện tƣợng
khác loại (A và B), mặc dù chúng có rất nhiều đặc tính. Cách so sánh mở này
buộc ngƣời nghe phải suy ngẫm và liên tƣởng để chọn ra đặc tính nào (hoặc
những đặc tính nào) là căn bản và đƣợc xem là tồn tại ở hai sự vật hiện tƣợng
khác loại này, để tác giả lấy đó làm căn cứ so sánh.
- Cấu trúc A + x + tnss + B, ví dụ:
Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi (Cát bụi)
(Trong đó: A: tóc
x: trắng
tnss: như
B: vôi)
Và các ví dụ khác:
- Những hẹn hò từ nay khép lại
Thân nhẹ nhàng như mây (Nhƣ một lời chia tay)
- Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa
Em mướt xanh như ngọc mà tôi có đâu ngờ (Hoa xuân ca)
- Thương ai màu áo trắng
Trong như ánh sao băng (Thƣơng một ngƣời)
- Một chiều kia có em buồn buồn
Thân mong manh như lau sậy hiền (Níu tay nghìn trùng)…
Cấu trúc A + x + tnss + B đƣợc sử dụng 67/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 17%.
Với kiểu so sánh này, tác giả đã nêu ra một sự vật cùng với một đặc tính nhất
định của nó (A+x) để so sánh với một sự vật hiện tƣợng khác loại (B). Cách
so sánh này có tác dụng gợi dẫn ngƣời nghe tới một đặc tính nhất định,
45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thƣờng là tồn tại hiển nhiên ở sự vật hiện tƣợng so sánh (B). Rốt cuộc sự so
sánh mang lại hiệu quả là gán cho sự vật đƣợc so sánh (A) đặc tính này của B,
trong hoàn cảnh cụ thể của ca khúc.
- Cấu trúc A + B, ví dụ:
- Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa
Em suối kia rất ngọt và tôi đứng hai bờ (Hoa xuân ca)
(Trong đó: A: em
B: suối kia rất ngọt)
Và các ví dụ khác:
- Sen hồng một độ
Em hồng một thủa xuân xanh (Đoá hoa vô thƣờng)
- Đời vẽ tôi tên mục đồng
Rồi vẽ thêm con ngựa hồng
Từ đó tôi lên đường phiêu linh (Chỉ có ta trong một đời)
- Một người ngồi hai mươi năm
Cuộc buồn vui ly rượu đắng (Ngày dài trên quê hƣơng)
- Rồi từ nay em gọi
Tình yêu dấu chim bay (Gọi tên bốn mùa)...
Cấu trúc A + B đƣợc sử dụng 34/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 8,4%. Đây là
kiểu cấu trúc vắng yếu tố phƣơng diện và yếu tố quan hệ, chỉ còn lại yếu tố
đƣợc so sánh (A) và yếu tố so sánh (B) đƣợc đặt dƣới hình thức đối chọi, và
sự liên kết giữa chúng không đƣợc hiển ngôn, chỉ căn cứ vào khả năng liên
tƣởng. Cách so sánh này khiến ngƣời nghe phải tìm ra những đặc tính của A
và những đặc tính của B để rồi tìm ra giao điểm của A và B tức là chọn ra đặc
tính chung nhất của hai đối tƣợng. Không những thế, ngƣời nghe còn phải suy
ngẫm để xác định quan hệ giữa A và B là quan hệ tƣơng tự hay quan hệ ngang
bằng.
- Cấu trúc x + tnss + B, ví dụ:
46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ngày nay sao buồn thế
Những sáng hay đêm về
Vẫn thấy rất ơ hờ
Bình yên như kiếp đá (Ngày nay không còn bé)
(Trong đó: x: bình yên
tnss: như
B: kiếp đá)
Và các ví dụ khác:
- Một hôm bước chân về giữa chợ
Chợt thấy vui như trẻ thơ (Đêm thấy ta là thác đổ)
- Ôi nhân loại còn người và tôi thôi
Rồi lang thang như mây trời (Xin mặt trời ngủ yên)
- Một mai thức dậy
Chuyện trò với lá cây
Rồi buồn như lá bay (Tình sầu)...
Cấu trúc x + tnss + B đƣợc sử dụng 7/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 1,7%. Với
kiểu so sánh này, A - sự vật hiện tƣợng, thƣờng là chủ thể trữ tình đƣợc giấu
đi, chỉ nêu lên một đặc tính (chẳng hạn là bình yên). Đó là một sự vật hiện
tƣợng phiếm định, đƣợc ngầm hiểu có thể là ngƣời nói, là ngƣời kia, là cả hai,
hoặc ai đó... Là ai hay chẳng là ai cả? Điều đó gợi cho ngƣời nghe sự cảm nhận
rằng ca từ nhƣ lời tự truyện của tác giả, lại nhƣ kể chuyện đời hoặc kể chuyện
của chính ngƣời nghe vậy. Tức là ngƣời nghe có thể chỉ là nghe ngƣời khác kể
chuyện của họ, hoặc nghe kể về câu chuyện của chính mình. Điều đó tạo một
sự liên tƣởng và thành cơ sở của sự đồng cảm giữa ngƣời nghe và tác giả.
- Cấu trúc tnss + B, ví dụ:
Như là chim xa đàn
Giấu nỗi buồn trong cánh
Hẹn hò với giấc mơ (Cánh chim cô đơn)
47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Trong đó: tnss: như là
B: chim xa đàn)
Và các ví dụ khác:
- Như là những bông hoa trong thành phố này
Tuổi đời mênh mông quá búp non đầu cây
(Tuổi đời mênh mông)
- Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà
Từ những phố kia tôi về (Đêm thấy ta là thác đổ)
- Như là mây giang hồ
Lang thang cùng với gió
Lạc loài nơi chốn xa (Cánh chim cô đơn)...
Cấu trúc tnss + B đƣợc sử dụng 6/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 1,5%. Trong cấu
trúc này, yếu tố so sánh và phƣơng diện so sánh đã đƣợc giấu đi, trở thành mơ
hồ. Ngƣời nghe muốn biết yếu tố so sánh ở đây là ai hay là gì và tác giả dựa
vào phƣơng diện nào để làm cơ sở so sánh thì phải đoán định căn cứ vào văn
cảnh cụ thể, đó là những câu hát đứng trƣớc hoặc sau nó.
- Cấu trúc A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)...,ví dụ:
Em là phấn thơm cho rừng chút hương
Là lời hát ca cho trần gian (Cho đời chút ơn)
(Trong đó: A: em
tnss1, tnss2: là
B1: phấn thơm cho rừng chút hương
B2: lời hát ca cho trần gian)
Và các ví dụ khác:
- Con chim về đậu bên người
Là thiên sứ đó là tôi cũng chừng (Thiên sứ bâng khuâng)
- Ngủ đời tên đi con như vết thương đau ngủ buồn
Như trùng dương đêm mắt thâm còn nghe ngóng (Vết lăn
48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trầm)
- Cuộc tình lên cao vút
Như chim mỏi cánh rồi
Như chim xa lìa bầy
Như chim xa lìa trời
Như chim bỏ đường bay (Tình sầu)...
Cấu trúc A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)... đƣợc sử dụng 6/406 lƣợt,
chiếm tỉ lệ 1,5%. Nếu kiểu so sánh A + tss + B chỉ đồng nhất hoặc tƣơng tự
hoá hai sự vật hiện tƣợng khác loại, thì kiểu A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)...
đã đƣa ngƣời nghe tới những khả năng đa dạng hơn và yêu cầu đoán định trên
cơ sở liên tƣởng chọn lọc, liên kết nhiều đặc tính ở nhiều sự vật khác loại.
Điều đó giống nhƣ cách giải câu đố: Các vật vừa giống cái này, lại vừa giống
cái kia, và cái kia nữa..., đó là gì. Cách so sánh một sự vật hiện tƣợng với
nhiều sự vật hiện tƣợng đƣa ngƣời nghe tới một chuỗi liên tƣởng.
- Cấu trúc A + x + B. Ví dụ:
Ôi tóc em dài đêm thần thoại
Vùng tương lai chợt xa xôi
Tuổi xuân ơi sao lạnh dòng máu trong người (Gọi tên bốn mùa)
(Trong đó: A: tóc em
x: dài
B: đêm thần thoại)
Và các ví dụ khác:
- Ngủ đi em da thơm quả ngọt (Em hãy ngủ đi)
- Ngủ đi em tay xanh ngà ngọc (Em hãy ngủ đi)
Cấu trúc A + x + B đƣợc sử dụng 3/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 0,7%. Đây là
49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kiểu cấu trúc vắng từ ngữ so sánh. Với kiểu cấu trúc này, ngƣời nghe sẽ phải
đoán định đâu là ranh giới giữa yếu tố đƣợc so sánh, phƣơng diện so sánh và
yếu tố so sánh.
- Cấu trúc tnss + B + A + x, ví dụ:
Như một hòn bi xanh
Trái đất này quay tròn (Nhƣ hòn bi xanh)
(Trong đó: tnss: như
B: một hòn bi xanh
A: trái đất này
x: quay tròn)
Và ví dụ khác:
Như là cơn gió em còn cứ mãi bay đi (Hoa vàng mấy độ)
Cấu trúc tnss + B + A + x đƣợc sử dụng 2/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 0,5%.
Trong kiểu cấu trúc này, vị trí của các yếu tố so sánh đã đƣợc thay đổi: từ so
sánh thay vào vị trí của yếu tố đƣợc so sánh, yếu tố so sánh thay vào vị trí của
phƣơng diện so sánh, yếu tố đƣợc so sánh thay vào vị trí của từ so sánh, yếu
tố phƣơng diện thay vào vị trí của yếu tố so sánh. Với việc đảo trật tự cấu trúc
này, tác giả nhằm nhấn mạnh đến yếu tố phƣơng diện so sánh (bằng cách đặt
nó ở cuối câu).
- Cấu trúc A + x + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2), ví dụ:
Đời sao im vắng
Như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang (Ru ta ngậm ngùi)
(Trong đó: A: đời
x: im vắng
tnss1, tnss2: như
B1: đồng lúa gặt xong
B2: rừng núi bỏ hoang)
50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Và ví dụ khác:
Ngày ngày tôi nhìn mặt mày anh em
Mịt mùng như đêm như sao bạc mệnh
(Một ngày vinh quang một ngày tuyệt vọng)
Cấu trúc A + x + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2) đƣợc sử dụng 2/406 lƣợt,
chiếm tỉ lệ 0,5%. Tƣơng tự cấu trúc A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)..., cấu
trúc này là cách so sánh một sự vật hiện tƣợng với nhiều sự vật hiện tƣợng.
Nhƣng nếu cấu trúc A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)... vắng cơ sở so sánh thì
trong cấu trúc A + x + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2), tác giả đƣa ra một thuộc
tính đƣợc coi là chung của cả yếu tố đƣợc so sánh và các yếu tố so sánh.
- Cấu trúc A + B1 + B2..., ví dụ:
Em đến bên đời hoa vàng một đoá
Một thoáng hương bay bên trời phố hạ (Hoa vàng mấy độ)
(Trong đó: A: em đến bên đời
B1: hoa vàng một đoá
B2: một thoáng hương bay bên trời phố hạ)
Và ví dụ khác:
Đường nhân loại một đường rất dài
Đường sau này mọi người sẽ tới
Đường tương lai không ai thù ghét ai
Đường lứa đôi (Có những con đƣờng)
Cấu trúc A + B1 + B2 đƣợc sử dụng 2/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ 0,5%.
Trong cấu trúc này, một yếu tố đƣợc so sánh đƣợc đặt dƣới hình thức đối
chọi với nhiều yếu tố so sánh. Với cấu trúc này, tác giả đã đƣa ngƣời nghe
đến những liên tƣởng về thuộc tính chung không nói ra giữa yếu tố đƣợc so
sánh và những yếu tố so sánh, hoặc nói cách khác, dùng những yếu tố so sánh
để làm đa dạng hoá các thuộc tính của đối tƣợng đƣợc so sánh dƣới cái nhìn
riêng bệt của ngƣời nói.
- Cấu trúc A1 + A2 + tnss + B, ví dụ:
51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tôi yêu tôi sống như chưa bao giờ (Tôi sẽ nhớ)
(Trong đó: A1: tôi yêu
A2: tôi sống
tnss: như
B: chưa bao giờ)
Và ví dụ khác:
Em về giữa thiên nhiên em cười em nói
Như sóng đùa biển khơi (Tuổi đời mênh mông)
Cấu trúc A1 + A2 + tnss + B đƣợc sử dụng 2/406 lƣợt, chiếm tỉ lệ
0,5%. Trong cấu trúc này, tác giả đã đƣa ra hai hay nhiều yếu tố đƣợc so sánh
để so sánh với một sự vật hiện tƣợng khác. Ở đây, tác giả đƣa ngƣời nghe đến
sự liên tƣởng đoán định những thuộc tính chung của các yếu tố đƣợc so sánh
và giữa các yếu tố đƣợc so sánh với yếu tố so sánh.
- Cấu trúc A + tnss, ví dụ:
Chiều trên quê hương tôi
Ước bao nhiêu điều đã trôi qua
Có riêng em cuộc đời sẽ nhớ
Nét quê hương nghìn năm vẫn là
(Chiều trên quê hƣơng tôi)
(Trong đó: A: nét quê hương nghìn năm
tnss: là)
Cấu trúc A + tnss đƣợc sử dụng 1/409 lƣợt, chiếm tỉ lệ 0,2%. Đây là
một cách so sánh rất độc đáo của Trịnh Công Sơn. Trong cấu trúc này, yếu tố
so sánh đã đƣợc ngầm ẩn, không đƣợc hiện diện trên văn bản. Nét quê hương
nghìn năm vẫn là. Ngƣời nghe sẽ đặt câu hỏi: Là gì? Cũng nhƣ đã từng đặt
câu hỏi cho những câu bỏ lửng của ông: Có chút bồi hồi trong phút chia ly.
Có những mặt người không yêu là vì. Là vì sao? Hay: Người tình kia mất con
đường về. Và trời kia mất em từ độ. Từ độ nào?... Để trả lời những câu hỏi
52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
này, ngƣời nghe sẽ phải căn cứ vào nội dung và hoàn cảnh của bài hát và cũng
có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Quay trở lại với cấu trúc so sánh đã
dẫn: ở đây, nét quê hương nghìn năm có thể là tất cả những gì bình dị của
cuộc sống mà tác giả cảm nhận trong buổi chiều trên quê hƣơng. Đó là nét
quê hƣơng nghìn năm vẫn còn nguyên vẹn không phải trên những lăng tẩm
đền đài, những di tích văn hoá mà trên những “con đƣờng lứa đôi”, “những
góc hè phố vui”...- những điều bình dị, thân quen trên quê hƣơng yên bình.
- Cấu trúc A1 + A2 + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2), ví dụ:
Mầm xanh trên những cây già
Màu lá chuối non vườn xưa
Là búp sen con bên hồ
Là ánh nắng mai bên nhà
(Đời sống không già vì có chúng em)
(Trong đó: A1: mầm xanh trên những cây già
A2: màu lá chuối non vườn xưa
tnss1, tnss2: là
B1: búp sen con bên hồ
B2: ánh nắng mai bên nhà)
Cấu trúc A1 + A2 + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2) đƣợc sử dụng 1/409
lƣợt, chiếm tỉ lệ 0,2%. Với kiểu cấu trúc này, tác giả đã đƣa ra liên tiếp hai
yếu tố đƣợc so sánh rồi mới tiếp đến là: từ so sánh và yếu tố so sánh. Ngƣời
nghe sẽ phải ngầm hiểu ở đâyA1 đƣợc so sánh với B1, A2 đƣợc so sánh với
B2, hoặc cả A1 và A2 đƣợc so sánh với B1 và B2 và sẽ phải tìm ra thuộc tính
chung giữa A1 và B1, A2 và B2, hoặc giữa chúng với nhau.
Sự liệt kê các kiểu cấu trúc và số lƣợt cụ thể của các kiểu cấu trúc đƣợc
53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trình bày trong bảng sau (Bảng 2.1):
STT Kiểu cấu trúc so sánh Số lƣợt Tỉ lệ %
1 A + tnss + B 272 67
2 A + x + tnss + B 67 17
3 A + B 34 8,3
4 x + tnss + B 7 1,6
5 tnss + B 6 1,5
6 A + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)... 6 1,5
7 A + x + B 3 0,7
8 tnss + B + A + x 2 0,5
9 A + x + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2) 2 0,5
10 A + B1 + B2... 2 0,5
11 A1 + A2 + tnss + B 2 0,5
12 A + tnss 1 0,2
13 1 0,2 A1 + A2 + (tnss1 + B1) + (tnss2 + B2)
Tổng số 406 100
BẢNG 2.1
Một số nhận xét:
- Các kiểu cấu trúc so sánh trong ca từ Trịnh Công Sơn rất đa dạng và
phong phú. Ngoài mô hình cấu trúc so sánh đầy đủ gồm bốn yếu tố (yếu tố
đƣợc so sánh, phƣơng diện so sánh, từ so sánh, yếu tố so sánh), Trịnh Công
Sơn đã tạo ra các mô hình lƣợc bỏ yếu tố, các mô hình đảo trật tự.
- Trong 13 kiểu cấu trúc so sánh đƣợc ông sử dụng, kiểu cấu trúc A +
tnss + B đƣợc ƣa dùng nhất, tiếp đó là các kiểu A + x + tnss + B; A + B. Các
54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kiểu cấu trúc còn lại tuy có số lƣợt sử dụng không nhiều (có kiểu cấu trúc chỉ
xuất hiện một hoặc hai lần). Nhƣng chính những biến thể đặc biệt này đã thể
hiện sự biến hoá sinh động và kì thú trong việc sử dụng ngôn từ trong phƣơng
thức so sánh của Trịnh Công Sơn.
2.1.2. Đặc điểm của yếu tố đƣợc so sánh
a. Yếu tố đƣợc so sánh là các từ, bao gồm:
- Danh từ (đêm, quê hương, tình yêu, mẹ, mưa, em, tôi, tóc...), ví dụ:
- Đêm yên như phố cổ
Chút tình duyên xôn xao (Đêm)
- Quê hƣơng là cuộc đời
Những đứa trẻ mồt côi (Nhƣng hôm nay)
- Tình yêu như trái chín
Trên cây rụng rời (Tình sầu)
- Mẹ là gió uốn quanh
Trên đời con thầm lặng (Huyền thoại mẹ)
- Mƣa như từng giọt rượu hờ
Đêm trong thành phố ai chờ đợi ai (Mƣa mùa hạ)...
Yếu tố đƣợc so sánh là danh từ đƣợc sử dụng 176/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ
42%, chủ yếu là những từ chỉ ngƣời và những gì thuộc con ngƣời.
- Động từ (nhìn, lao động, giã từ...), ví dụ:
- Phố em phố nhỏ đỏ đỏ mắt nhìn
Nhìn như muốn khóc khóc giọt đỏ điều (Hạt điều khăn điều)
- Rèn đôi tay
Chắc đôi chân
Lao động là vinh quang
(Khăn quàng thắp sáng bình minh)...
Yếu tố đƣợc so sánh là động từ đƣợc sử dụng 3/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ
55
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
0,75%, đều là những từ chỉ hoạt động của con ngƣời.
- Tính từ (mênh mông, lận đận, buồn...), ví dụ:
- Thằng bé xinh xinh ra đồng giữa ngọ
Thả con diều nhỏ bay giữa mênh mông
Mênh mông là trời bầu trời mênh mông (Ra đồng giữa)
- Tiến thoái lưỡng nan
Đi về lận đận
Ngày nay lận đận
Là giọt hư không (Tiến thoái lƣỡng nan)...
Yếu tố đƣợc so sánh là tính từ đƣợc sử dụng 3/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ
0,75%, thƣờng là những từ chỉ tâm trang, hoàn cảnh của con ngƣời.
b. Yếu tố đuợc so sánh là các đoản ngữ (cụm từ), bao gồm:
- Danh ngữ (đoá hoa vàng mỏng manh cuối trời, đôi môi em, vùng sông
hồ đó, tiếng ru mẹ hát những năm xưa, chuyện ngày xưa ấy, trăm câu nói,
một rừng cờ, những bạn bè...), ví dụ:
- Đoá hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay (Nhƣ một lời chia tay)
- Ngoài phố mùa đông
Đôi môi em là đốm lửa hồng (Ru đời đi nhé)
- Về phía đồi xa rừng xưa đứng kể
Vùng sông hồ đó là nguồn sáng bây giờ (Về giữa Trị An)
- Tiếng ru mẹ hát những năm xƣa
Mãi là lời ca dao bốn mùa (Tình yêu tìm thấy)
- Đi trong hạnh phúc quê nhà
Chuyện ngày xƣa ấy bỗng là chiêm bao
(Hai mƣơi mùa nắng hạ)...
Yếu tố đƣợc so sánh là danh ngữ đƣợc sử dụng 157/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ
39,4%, chủ yếu là những danh ngữ chỉ các sự vật hiện tƣợng cụ thể hoặc trừu
56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tƣợng.
- Động ngữ (dựng người mới, sống tới, gặp nhau, nằm chết...), ví dụ:
- Dựng ngƣời mới như cây sang mùa
Người vượt tới những trời xa (Dựng lại ngƣời dựng lại nhà)
- Đời cho ta thế hãy cứ sống tới như mọi ai
Mặc dòng sông kia sẽ cuốn đất đá ra biển khơi (Đời cho ta
thế)
- Gặp nhau mừng như bão cát
Quay cuồng trời rộng (Nối vòng tay lớn)...
Yếu tố đƣợc so sánh là động ngữ đƣợc sử dụng 11/398 lƣợt, chiếm tỉ
lệ2,8%, chủ yếu là những động ngữ chỉ hoạt động của con ngƣời.
- Cụm chủ vị (C - V) (tôi đã yêu em, em ra đi, từng người tình bỏ ta đi,
lúa reo mừng, tôi mơ có cuộc tình, người đi, anh nằm xuống...), ví dụ :
- Tôi đã yêu em như trẻ thơ
Đâu biết đôi khi có lìa xa
Yêu trong nỗi đau tình cờ (Trong nỗi đau tình cờ)
- Em ra đi như thoáng gió thầm
Để lại đây thành phố không hồn (Tạ ơn)
- Từng ngƣời tình bỏ ta đi
Như những dòng sông nhỏ (Tình xa)
- Tôi chon nắng đầy chọn cơn mưa tới
Để lúa reo mừng tựa vẫy tay
(Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui)...
Yếu tố đƣợc so sánh là cụm chủ - vị (C - V) đƣợc sử dụng 48/398 lƣợt,
chiếm tỉ lệ 12,1%, thƣờng đƣợc dùng để chỉ những hoạt động của con ngƣời.
Tần số xuất hiện các dạng của yếu tố đƣợc so sánh đƣợc trình bày trong
57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bảng sau (Bảng 2.2):
Số lƣợng Số lƣợt Tổng số Dạng
176 44.2% danh từ
3 0.75% động từ Từ 182 45,7%
tính từ 3 0.75%
danh ngữ 157 39.4% Đoản ngữ cụm chủ - vị (C - V) 48 12.1% 216 54,3% (cụm từ) động ngữ 11 2.8%
Tổng 398 100%
BẢNG 2.2
Một số nhận xét:
- Trịnh Công Sơn thƣờng dùng các từ (danh từ, động từ, tính từ) và các
đoản ngữ (cụm từ) (danh ngữ, cụm chủ vị (C - V), động ngữ) làm yếu tố đƣợc
so sánh. Tần số xuất hiện của yếu tố đƣợc so sánh là các từ và yếu tố đƣợc so
sánh là các cụm từ là ngang bằng nhau.
- Ở yếu tố đƣợc so sánh là các cụm từ, thƣờng đƣợc dùng là danh ngữ
và cụm C - V, ít dùng động ngữ.
- Ở yếu tố đƣợc so sánh là các từ, thƣờng đƣợc dùng là danh từ, rất ít
trƣờng hợp động từ và tính từ làm yếu tố đƣợc so sánh.
- Sở dĩ để thể hiện yếu tố đƣợc so sánh, thƣờng đƣợc dùng là danh từ
và danh ngữ, ít dùng động từ, tính từ và động ngữ, bởi yếu tố đƣợc so sánh
thƣờng là sự vật hoặc những sự vật với thuộc tính của nó, ít có trƣờng hợp
yếu tố đƣợc so sánh là tính chất hoặc hành động.
2.1.3. Đặc điểm của yếu tố so sánh
a. Yếu tố so sánh là các từ, bao gồm:
- Danh từ (đá, đêm, rơm, lá, nấm, mây, gió, sông, hoa, em, tôi, núi, đèo,
nỗi nhớ, bài thơ...), ví dụ:
- Người chợt nhớ mình như đá
58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đá lăn vết lăn buồn (Vết lăn trầm)
- Từ đó ta là đêm
Nở đoá hoa vô thường (Đoá hoa vô thƣờng)
- Mẹ cha tóc khô như rơm
Chờ đàn con đã đi bao năm không về (Dân ta vẫn sống)
- Bao tâm hồn xanh như lá
Cùng hân hoan với quê nhà (Đồng dao 2000)
- Khi đất nước tôi thanh bình
Tôi sẽ đi thăm
Tôi sẽ đi thăm nhiều nghĩa địa buồn
Đi xem mộ bia nhiều như nấm (Tôi sẽ đi thăm)...
Yếu tố so sánh là danh từ đƣợc sử dụng 85/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 20,3%,
chủ yếu là những danh từ chỉ những sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên.
- Động từ (than phiền, gặp, lo sợ...), ví dụ:
- Cuộc đời đó nửa đêm tiếng ca lên như than phiền
(Dấu chân địa đàng)
- Giã từ mà vui hơn gặp (Trả lại em)...
Yếu tố so sánh là động từ đƣợc sử dụng 7/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 1,7%,
thƣờng là những động từ chỉ hoạt động của con ngƣời.
- Tính từ (chơi vơi, vô tận...), ví dụ:
- Ngoài hiên mưa rơi rơi
Lòng ai như chơi vơi
Người ơi nước mắt hoen mi rồi (ƣớt mi)
- Đời như vô tận...
Một mình tôi về với tôi (Lặng lẽ nơi này)
Yếu tố so sánh là tính từ đƣợc sử dụng 5/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ1,2%,
thƣờng là những tính từ chỉ tâm trạng và cảm xúc của con ngƣời.
59
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
b. Yếu tố so sánh là các đoản ngữ (cụm từ), bao gồm:
- Danh ngữ (nắng ban mai, một tiếng hát cho nhau, khăn mới thêu, giấc
mộng giữa đời, tia nắng trong không gian xanh tươi, mùa xuân của mẹ, màu
nắng của cha...), ví dụ:
- Một loài chim mới đến
Vui như nắng ban mai (Môi hồng đào)
- Sóng xô trời chiều để nhớ tóc người yêu
Biển lăng yên là một tiếng hát cho nhau (Biển sáng)
- Còn nơi nào biết những chuyện tình
Tựa như chuyện những đoá hoa quỳnh
(Chuyện đoá quỳnh hƣơng)
- Mười năm xưa đúng bên bờ dậu
Đường xanh hoa muối bay rì rào
Có người lòng như khăn mới thêu
(Có một dòng sông đã qua đời)
- Đêm trăng với đèn lồng thay nắng
Em như giấc mộng giữa đời (Tết suối hồng)...
Yếu tố so sánh là danh ngữ đƣợc sử dụng 252/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ
60,1%, chủ yếu là những danh ngữ chỉ những sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới
tự nhên.
- Động ngữ (yêu đồng lúa chín, hẹn chết mai đây, mơ ước được gần với
những nụ hồng, vừa đến nơi chia lìa, vẫy tay...), ví dụ:
- Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín
(Ngƣời con gái Việt Nam da vàng)
- Còn sống một ngày
Là hẹn chết mai đây (Buồn từng phút giây)
60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Ngày xưa khi còn bé
Tôi mơ có cuộc tình
Như mơ ƣớc đƣợc gần
Với những nụ hồng ( Ngày nay không còn bé)...
Yếu tố so sánh là động ngữ đƣợc sử dụng 12/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ
2,9%, thƣờng là những động ngữ chỉ hoạt động của con ngƣời.
- Tính ngữ (đã nát nhầu đam mê, im vắng tiếng rơi khô, trẻ ra...), ví dụ:
- Vây quanh bốn phía kinh cầu
Lòng ta như đã nát nhầu đam mê (Lời ở phố về)
- Đời rộng thênh như im vắng tiếng rơi khô (Từng ngày qua)
- Vì có chúng em nên đời sống như trẻ ra
(Đời sống không già vì có chúng em)...
Yếu tố so sánh là tính ngữ đƣợc sử dụng 6/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 1,4%,
thƣờng là những tính ngữ miêu tả tâm trạng và thuộc tính của con ngƣời.
- Cụm chủ - vị (C - V) (cánh vạc về chốn xa xôi, chiếc thoi đưa, từng
viên đá cuội rớt vào lòng bển khơi, cánh chim chìm xuống, bàn chân tiến lên
không ngừng, lá bay...), ví dụ:
- Vai em gầy guộc nhỏ
Như cánh vạc về chốn xa xôi (Nhƣ cánh vạc bay)
- Những đường sông lạch gần xa
Ghe xuồng như chiếc thoi đƣa (Mênh mông Đồng Tháp)
- Những bước chân mềm mại
Đã đi vào đời người
Như từng viên đá cuội
Rớt vào lòng biển khơi (Tình nhớ)
- Vườn cỏ còn xanh
Mặt trời còn lên
Khi bóng anh như cánh chim chìm xuống
61
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Cho một ngƣời nằm xuống)...
Yếu tố so sánh là cụm chủ - vị (C - V) đƣợc sử dụng 52/419 lƣợt,
chiếm tỉ lệ 12,4%, chủ yếu đƣợc dùng để chỉ những hoạt động của thế giới tự
nhiên và con ngƣời.
Tần số xuất hiện các dạng của yếu tố so sánh đƣợc trình bày trong bảng
sau (Bảng 2.3):
Số lƣợng Số lƣợt Tổng số Dạng
85 20.3% danh từ
7 1.7% động từ Từ 97 23.2%
tính từ 5 1.2%
danh ngữ 252 60.1%
cụm chủ - vị (C - V) 52 12.4% Đoản ngữ 322 76.8% (cụm từ) động ngữ 12 2.9%
tính ngữ 6 1.4%
Tổng 419 100%
BẢNG 2.3
Một số nhận xét:
- Trịnh Công Sơn thƣờng dùng các từ (danh từ, động từ, tính từ) và các
đoản ngữ (cụm từ) (danh ngữ, cụm chủ vị (C - V), động ngữ) làm yếu tố so
sánh. Trong đó, yếu tố so sánh là các cụm từ có tần số xuất hiện nhiều hơn
hẳn, bởi yếu tố so sánh thƣờng đƣợc mở rộng bằng việc thêm những chi tiết
miêu tả.
- Ở yếu tố so sánh là các cụm từ, thƣờng đƣợc dùng là danh ngữ và
cụm C - V, ít dùng động ngữ và tính ngữ.
- Ở yếu tố so sánh là các từ, thƣờng đƣợc dùng là danh từ, rất ít trƣờng
62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hợp động từ và tính từ làm yếu tố so sánh,
- Sở dĩ để thể hiện yếu tố so sánh, thƣờng đƣợc dùng là danh từ và danh
ngữ, ít dùng động từ, tính từ và động ngữ, tính ngữ, bởi yếu tố so sánh thƣờng
là sự vật hoặc những sự vật với thuộc tính của nó, ít có trƣờng hợp yếu tố so
sánh là tính chất hoặc hành động.
2.1.4. Đặc điểm của các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh
a. Các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh
Trong 406 lƣợt so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn, có 8 từ ngữ
biểu thị quan hệ so sánh, với tần số xuất hiện đƣợc trình bày trong bảng sau
(Bảng 2.4):
STT Từ ngữ so sánh Số lƣợt Tỉ lệ %
1 như 221 57,1
2 là 132 34,1
3 tựa 12 3,1
4 như là 9 2,4
5 tựa như 5 1,3
6 hơn 4 1
7 bằng 2 0,5
8 cũng như 2 0,5
387 100 Tổng số
BẢNG 2.4
b. Cách sử dụng từ ngữ so sánh trong các kiểu so sánh
- So sánh ngang bằng: Kiểu so sánh này sử dụng các từ so sánh: là
(132 lƣợt), bằng (2 lƣợt). Ví dụ:
63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Có khi mưa ngoài trời Là giọt nước mắt em
Đã nương theo vào đời
Làm từng nỗi ưu phiền (Ru đời đi nhé)
- Nắng có hồng bằng đôi môi em
Mưa có buồn bằng đôi mắt em (Nhƣ cánh vạc bay)
- Một ngày tình cờ biết em
Là ngày lạ lùng biết trần gian (Còn thấy mặt ngƣời)...
- So sánh tƣơng tự: Kiểu so sánh này sử dụng các từ ngữ so sánh: như
(221 lƣợt), tựa (12 lƣợt), như là (9 lƣợt), tựa như (5 lƣợt), cũng như (2 lƣợt), ví
dụ:
- Em đã đi chìm khuất đã theo
Em đã nhƣ ngọn gió quạnh hiu (Còn ai với ai)
- Lá khô vì đợi chờ
Cũng nhƣ đời người mãi âm u (Nhƣ cánh vạc bay)
- Từ trên đất này những con người mới
Mọc lên tựa tia nắng giữa chân trời
(Em ở nông trƣờng em ra biên giới)
- Có những chàng trai vì quá yêu biển khơi
Lòng thênh thang tựa nhƣ những áng mây trôi (Biển
sáng)
- Tôi nhƣ là người một hôm quay lại
Vì nghe sa mạc nối dài (Tự tình khúc)...
- So sánh dị biệt hơn: Trong kiểu so sánh này, tác giả chỉ sử dụng từ so
sánh hơn với 4 lƣợt, ví dụ:
- Một sớm thanh bình
Giọng cười em vút cao hơn bình minh
(Cánh đồng hoà bình)
- Một ngày mà lòng vui sướng hơn muôn nghìn năm
(Cánh đồng hoà bình)
Tần số xuất hiện của các từ ngữ so sánh trong các kiểu so sánh đƣợc
64
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trình bày trong bảng sau (Bảng 2.5):
Kiểu Từ ngữ so sánh Số lƣợt Tỉ lệ %
như, tựa, như là, So sánh tƣơng tự 249 64,3 tựa như, cũng như
So sánh ngang bằng là, bằng 134 34,6
So sánh dị biệt hơn hơn 4 1,1
Tổng số 387 100
BẢNG 2.5
Một số nhận xét:
- Yếu tố biểu thị quan hệ so sánh (từ ngữ so sánh) có thể là các từ đơn
tiết (như, là, tựa, hơn, bằng) hoặc cụm từ (như là, tựa như, cũng như), trong
đó thƣờng gặp là các từ đơn tiết (có tần số sử dụng lớn).
- Các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh trong kiểu so sánh tƣơng tự đƣợc
sử dụng với tần số cao nhất (đặc biệt là từ như), tiếp đến là trong kiểu so sánh
ngang bằng (đặc biệt là từ là). Tần số xuất hiện của từ ngữ so sánh trong kiểu
so sánh dị biệt hơn chiếm một số lƣợng rất nhỏ.
- Trong ca từ Trịnh Công Sơn, so sánh tƣơng tự đƣợc sử dụng nhiều
nhất, tiếp theo là so sánh ngang bằng và so sánh dị biệt hơn. Đặc biệt, không
có sự xuất hiện của so sánh dị biệt kém.
2.2. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA PHƢƠNG THỨC SO SÁNH TRONG
CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN
2.2.1. Đặc điểm của yếu tố đƣợc so sánh
Yếu tố đƣợc so sánh trong ca từ Trịnh Công Sơn phản ánh thế giới sự
vật, hiện tƣợng trong cái nhìn riêng của tác giả. Trong thế giới ấy, có hai
phạm trù đƣợc nhạc sĩ chú ý và thể hiện trong ca khúc của mình, đặc biệt
trong phƣơng thức so sánh. Đó là: những gì thuộc con ngƣời và những gì bên
ngoài con ngƣời (thế giới tự nhiên, xã hội).
65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
a. Yếu tố đƣợc so sánh là ngƣời và những gì thuộc con ngƣời
- Yếu tố đƣợc so sánh là các nhân vật trữ tình, đƣợc biểu thị bằng các
từ ngữ: tôi, ta, mình, em, anh, mẹ, Bống, chúng em, anh hùng, những đứa
con... Ví dụ:
- Tôi như con chim bệnh
Thiếu hạnh phúc trần gian
Có những tháng mùa đông
Ngồi khóc rất âm thầm (Nhƣ chim ƣu phiền)
- Tôi vẫn nhìn thấy em
Giữa đám đông xa lạ
Vì em như hoa lá
Giữa thiên nhiên hiền hoà (Em đến từ nghìn xƣa)
- Mẹ là nước chứa chan
Trôi dùm con phiền muôn
Cho đời mãi trong lành
Mẹ chìm dưới gian nan (Huyền thoại mẹ)
- Đừng buồn chi em ta như giọt lệ vô tình
Cười lên em nhé dẫu đau lòng (Xác ta xác thù)
- Lòng tôi có khi mơ hồ
Tưởng mình đang là cơn gió
- Em sẽ là mùa xuân của mẹ
Em sẽ là màu nắng của cha (Em sẽ là hoa hồng nhỏ)...
Yếu tố so sánh là những nhân vật trữ tình đƣợc sử dụng 96/398 lƣợt,
chiếm tỉ lệ 24,1%, trong đó tôi và em là hai nhân vật xuất hiện rất nhiều lần
trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn. Tôi có thể là chính tác giả với sự
thổ lộ, giãi bày những suy nghĩ, tình cảm, những chiêm nghiệm của bản thân,
có khi là sự nói hộ ngƣời nghe qua những ca từ vừa đƣợm màu sắc trữ tình,
66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lại vừa giàu tính triết lí. Em có thể là những ngƣời tình đã đi qua cuộc đời
nhạc sĩ, cũng có thể là hình ảnh ngƣời tình trong mộng, hoặc là ngƣời phụ nữ
nào đó trong cuộc đời, hoặc đó chỉ là những em nhỏ - những mầm xanh của
đất nƣớc.
- Yếu tố đƣợc so sánh là bộ phận cơ thể con ngƣời, đƣợc biểu thị bằng
các từ ngữ: tóc, da, tay, chân, môi em, tóc em, con mắt người tình, bàn chân
ai, vai em, bờ vai, sợi tóc em bồng, mắt mẹ, tóc mẹ... Ví dụ:
- Bờ vai như giấy mới
Sợ nghiêng hết tình tôi (Thƣơng một ngƣời)
- Môi em là đốm lửa
Cuộc đời đâu biết thế (Ru tình)
- Những con mắt quầng thâm
Xin tươi sáng một lần
Cho con mắt ngƣời tình
Ấm như ngày hỏi han (Những con mắt trần gian)
- Tóc em như trời xưa
Đã qua đi nghìn năm (Ru đời đi nhé)...
Yếu tố đƣợc so sánh là bộ phận cơ thể con ngƣời đƣợc sử dụng 30/398
lƣợt, chiếm tỉ lệ 7,6%, trong đó 2 bộ phận: mắt và môi có tần số xuất hiện
nhều hơn cả. Đây là hai bộ phận có tình biểu tƣợng cao. Đôi mắt trong ca từ
Trịnh Công Sơn vừa là con mắt của thân thể, vừa là con mắt của trái tim, “là
biểu tƣợng của tri giác trí tuệ, là cơ quan thị giác nội tâm, phản chiếu tâm hồn
con ngƣời, đôi mắt của lƣơng tri và nhận thức, cũng là đôi mắt soi thấu chính
bản ngã con ngƣời” [17, tr.84]. Đặc biệt, “mắt em” là một thế giới lung linh kì
ảo, là sự trong sáng và tinh tế của tâm hồn và là hiện thân cho vẻ đẹp nữ tính
đằm thắm. Nếu nhƣ đôi mắt là “cửa sổ của tâm hồn” thì đôi môi là “của sổ đi
vào thế giới nội tâm”. Đôi môi trong ca từ Trịnh Công Sơn “là hình ảnh ƣớc
67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lệ cho vẻ đẹp của ngƣời con gái, thể hiện khát khao mãnh liệt về tình yêu đôi
lứa, hoặc biểu tƣợng của niềm vui, hạnh phúc, đôi môi còn là biểu tƣợng cho
trái tim, cho tình yêu, cũng có lúc biểu tƣợng cho sức sống, cho tuổi trẻ, và
cao hơn nữa, nó còn là bản sao, là hình ảnh của chính con ngƣời” [17, tr.89].
Đặc bịêt, “môi em” là biểu tƣợng của sức sống, là đốm lửa thắp sáng hạnh
phúc.
- Yếu tố đƣợc so sánh là thế giới nội tâm, tinh thần của con ngƣời, đƣợc
biểu thị bằng các từ ngữ: hồn, hồn mình, buồn mình, lòng, tấm lòng, tấm lòng
em, lòng tôi, lòng ta, lòng em, tình, tình yêu, chút tình... Ví dụ:
- Khi cơn đau chưa dài
Thì tình như chút nắng (Tình nhớ)
- Mười năm sau áo bay đường chiều
Bàn chân trong phố xa lạ nhiều
Có người lòng như nắng qua đèo
(Có một dòng sông đã qua đời)
- Tình yêu như cơn bão
Đi qua địa cầu (Tình sầu)
- Vẫn thấy bên đời có em
Tấm lòng em như lá kia còn xanh (Vẫn có em bên đời)
- Từ trăng xưa là nguyệt
Lòng tôi có đôi khi
Tựa bông hoa vừa mọc
Hân hoan giây xuống thế (Nguyệt ca)
- Đâu ngờ tình như lá úa
Khiến tôi chia lìa từng giấc mơ (Trong nỗi đau tình cờ)...
Yếu tố so sánh là thế giới nội tâm, tinh thần của con ngƣời đƣợc sử
dụng 62 lƣợt, chiếm tỉ lệ 15,6%. Trong đó, lòng, tình, tình yêu đƣợc trở đi trở
lại rất nhiều lần, bởi Trịnh Công Sơn quan niệm: “sống trong đời sống cần có
68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một tấm lòng” và “sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu”.
- Yếu tố đƣợc so sánh là hành động, phẩm chất của con ngƣời, đƣợc thể
hiện qua các từ ngữ: nhìn, anh nằm xuống, giã từ, yêu quê hương, yêu tự do,
người nằm co, em ra đi, tôi cười, tôi đã yêu em, em đã đến nơi này... Ví dụ:
- Anh nằm xuống như một lần vào viễn du
Đứa con xưa đã tìm về nhà
Đất hoang vu khép lại hẹn hò (Cho một ngƣời nằm xuống)
- Hôm nay tôi nghe
Tôi cuời như đứa bé
Mới lớn lên giữa đời sống kia (Hôm nay tôi nghe)
- Người con gái ngồi mơ thanh bình
Yêu quê hƣơng như đã yêu mình
(Ngƣời con gái Việt Nam da vàng)
- Em đã đến nơi này tựa như cánh én
Dịu dàng trao chút hương hoa mùa xuân (Vẫn có em bên đời)...
Yếu tố đƣợc so sánh là hành động, phẩm chất của con ngƣời đƣợc sử
dụng 52/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ 13,1%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu tố
chỉ hành động, phẩm chất của em và tôi - hai nhân vật trữ tình đƣợc trở đi trở
lại trong rất nhiều ca khúc.
b. Yếu tố đƣợc so sánh là thế giới tự nhiên, xã hội (bên ngoài con
ngƣời)
- Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự
nhiên, đƣợc thể hiện qua các từ ngữ: nắng, mưa, trời, biển, trăng, cỏ cây,
bông hoa, cơn mưa, sương mù, màu nắng, ruộng xanh, con sông, mây xa...Ví
dụ:
- Mƣa như từng giọt rượu hờ
Đêm trong thành phố ai chờ đợi ai (Mƣa mùa hạ)
69
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Con sông là thuyền, mây xa là buồm
Từng giọt sương thu hết mênh mông
Những giọt mưa những nụ hoa
Hẹn hò gặp nhau trước hiên nhà (Bốn mùa thay lá)
- Chiều trên quê hương tôi
Gió đến chơi từ bờ biển xa
Núi đôi khi màu sim tím lạ
Nắng như môi hoàng hôn trên phố (Chiều trên quê hƣơng tôi)
- Biển là em ngọt đắng trùng khơi
Biển nghìn thu ở lại nghìn thu ngậm ngùi (Biển nghìn thu ở
lại)
Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên
đƣợc sử dụng 32/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ 8%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu
tố chỉ hiện tuợng tự nhiên gần gũi, quen thuộc với đời sống con ngƣời nhƣ
mưa, nắng, gió...
- Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng không thuộc thế giới
tự nhiên:
+ Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng cụ thể, thƣờng gặp,
đƣợc biểu hiện qua các từ ngữ: phố, dòng điện, mặt đường, mộ bia, ghe
xuồng, đại bác, một rừng cờ... Ví dụ:
- Dòng điện như dòng sông
Cho đời một tấm lòng
Đi qua những con đuờng
Hẹn hò cùng nhà máy
Chăm lo những đồng xanh (Ƣớc mơ về dòng điện)
- Có mặt đuờng vàng hoa như gấm
Có không gian màu áo bay lên (Em còn nhớ hay em đã quên)
- Trong lòng phố mưa đêm trói chân
70
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Dưới hiên nhìn nuớc dâng tràn
Phố bỗng là dòng sông uốn quanh (Em còn nhớ hay em đã quên)
- Đại bác như kinh không mang lời nguyền
Trẻ thơ quên sống từng đêm nghe ngóng (Đại bác ru đêm)
Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng cụ thể đƣợc sử dụng
51/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ12,8%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu tố chỉ sự
vật hiện tƣợng gần gũi, thân quen với đời sống hàng ngày của con ngƣời.
+ Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng trừu tƣợng, đƣợc thể
hiện qua các từ ngữ: đời, đời mình, đời ta, nghìn trùng, tương lai, tuổi trẻ Việt
Nam, lời hẹn thề, lời ca dạ lan, vùng tuổi xanh, từng lời tà dương, chuyện ngày
xưa ấy, những chuyện tình, một điều giấu kín trong tim con người... Ví dụ:
- Tuổi trẻ Việt Nam nhìn trời sáng phương Đông
Thấy tƣơng lai là những đấu tranh không ngừng (Tuổi trẻ Việt Nam)
- Đường quê hương xin em đừng quên lối
Lời ca dao trên môi là tiếng nói
Mẹ nuôi ta vui theo cùng khóc với
Bắc Nam trung quê hƣơng sẽ có ngày (Hãy nhìn lại)
- Đi trong hạnh phúc quê nhà
Chuyện ngày xƣa ấy bỗng là chiêm bao (Hai mƣơi mùa nắng hạ)
- Đời ta có khi là dốm lửa
Một hôm nhóm trong vườn khuya (Đêm thấy ta là thác đổ)
- Còn gì đâu những môi xưa hồng
Vùng tuổi xanh thoảng bay như gió (Khói trời mênh mông)
Yếu tố đƣợc so sánh là những sự vật hiện tƣợng trừu tƣợng đƣợc sử
dụng 75/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ 18,8%. Trong đó, đời ( đời mình, đời ta, đời
người) đƣợc sử dụng trong rất nhiều ca khúc, thể hiện sự âu lo và nỗi ám ảnh
của Trịnh Công Sơn về sự ngắn ngủi và tính chất vô thƣờng của cuộc đời.
Tần số xuất hiện của yếu tố đƣợc so sánh theo các phạm trù ngữ nghĩa
71
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đƣợc trình bày trong bảng sau (Bảng 2.6):
Số lƣợt Số lƣợng Tổng số
Trƣờng nghĩa
Nhân vật trữ tình 96 24%
Thế giới nội tâm, tinh thần 62 15,6% Thuộc 240 60,4% con ngƣời Hành động, phẩm chất 52 13,1%
Bộ phận cơ thể 30 7,6%
Không thuộc trừu tƣợng 75 18,8%
thế giới tự Ngoài cụ thể 51 12,8% 158 39,6% nhiên con ngƣời
Thuộc thế giới tự nhiên 32 8%
Tổng 398 100%
BẢNG 2.6
Một số nhận xét:
- Trong ca từ Trịnh Công Sơn, thƣờng gặp các từ ngữ biểu thị yếu tố
đƣợc so sánh thuộc trƣờng nghĩa “con ngƣời”. Trong đó, các từ ngữ biểu thị
yếu tố đƣợc so sánh là những nhân vật trữ tình đƣợc nhạc sĩ sử dụng nhiều
hơn cả, tiếp đó là thế giới nội tâm, tinh thần, rồi đến hành động, phẩm chất và
bộ phận cơ thể của con ngƣời.
- Ở yếu tố đƣợc so sánh thuộc trƣờng nghĩa ngoài con ngƣời, Trịnh
Công Sơn thƣờng chú ý đến những sự vật hiện tuợng trừu tƣợng, tiếp đó là
dùng cách so sánh để miêu tả những sự vật hiện tƣợng cụ thể và thế giới tự
nhiên.
2.2.2. Đặc điểm của yếu tố so sánh
Yếu tố so sánh rất quan trọng trong cấu trúc so sánh, bởi đã có so sánh
thì phải có cái để so sánh. Tìm hiểu trƣờng nghĩa của yếu tố so sánh trong ca
từ Trịnh Công Sơn có thể giúp ngƣời nghe hiểu rõ hơn quan niệm thẩm mĩ,
72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quan niệm nhân sinh cũng nhƣ phong cách của tác giả trong việc lựa chọn vật
chuẩn để làm rõ đối tƣợng đƣợc so sánh. Cũng nhƣ ở yếu tố đƣợc so sánh, có
thể gặp ở yếu tố so sánh hai phạm trù đƣợc tác giả chú ý, đó là:
a. Yếu tố so sánh thuộc con ngƣời
- Yếu tố so sánh là những nhân vật trữ tình, đƣợc biểu thị bằng các từ
ngữ: mọi người, tôi, em, tên mục đồng, tên tuyệt vọng, một bọn lai căng, một
lũ bội tình, đứa bé dại khờ, trẻ thơ, trẻ nhỏ, người bệnh... Ví dụ:
- Tôi như mọi ngƣời mong ngày sẽ tới
Nhưng khi về lại thu mình góc tối (Bay đi thầm lặng)
- Một đôi lần đến như ngƣời tình
Để cho trời đất báo tin lành
Vẫn bình yên (Chuyện đoá quỳnh hƣơng)
- Gia tài của mẹ một bọn lai căng
Gia tài của mẹ một lũ bội tình (Gia tài của mẹ)
- Tôi như trẻ nhỏ ngồi bên hiên nhà
Chờ xem thế kỉ tàn phai (Tự tình khúc)...
Yếu tố so sánh là những nhân vật trữ tình đƣợc sử dụng 32/419 lƣợt,
chiếm tỉ lệ 7,6%. Trong đó thƣờng gặp là những yếu tố chỉ những con ngƣời
xã hội.
- Yếu tố so sánh là bộ phận cơ thể con ngƣời, đƣợc biểu thị bằng các từ
ngữ: tóc mẹ, giọt máu, xương máu, giọt nước mắt em, đôi môi em, đôi mắt em,
mặt người... Ví dụ:
- Từ khi có đôi chân vào đời
Mầu hoa lá quen như mặt ngƣời (Tình yêu tìm thấy)
- Hoà bình hoà bình là xƣơng máu
Bao nhiêu triệu người đã dựng lấy hôm nay (Hoà bình là cơm áo)
- Nắng có hồng bằng đôi môi em
73
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mưa có buồn bằng đôi mắt em (Nhƣ cánh vạc bay)...
Yếu tố so sánh là bộ phận cơ thể con ngƣời đƣợc sử dụng 13/419 lƣợt,
chiếm tỉ lệ3,1%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu tố chỉ những bộ phận
trên khuôn mặt.
- Yếu tố so sánh là hành động, đặc tính của con ngƣời, đƣợc biểu thị
bằng các từ ngữ: hẹn chết mai đây, từng ngày lo, muốn khóc, vẫy tay, mơ ước
được gần với những nụ hồng, lòng cố lạnh lùng... Ví dụ:
- Tôi chọn nắng đầy chọn cơn mưa tới
Để lúa reo mừng tựa vẫy tay
- Từng ngày sống
Từng ngày lo (Buồn từng phút giây)
- Tình ngỡ đã quên đi
Như lòng cố lạnh lùng (Tình nhớ)...
Yếu tố so sánh là hành động, đặc tính của con ngƣời đƣợc sử dụng
16/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 3,82%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu tố chỉ
hành động, đặc tính của thế giới nội tâm, tinh thần.
- Yếu tố so sánh là vẻ đẹp thuộc thế giới nội tâm, tinh thần của con
ngƣời, đƣợc thể hiện qua những từ ngữ: nỗi nhớ, bao yêu dấu, chiêm bao,
giấc mộng giữa đời, hạnh phúc ngu ngơ, niềm tin cấy trên lòng anh, mối tình,
hy vọng Việt Nam... Ví dụ:
- Đêm từng đêm bay về
Quê hương là nỗi nhớ (Cánh chim cô đơn)
- Kìa các em thơ ngây
Như giấc mộng giữa đời (Khăn quàng thắp sáng bình minh)
- Đêm ôm vai em nhỏ
Giấc ngủ như chiêm bao (Đêm)...
Yếu tố so sánh là vẻ đẹp thuộc thế giới nội tâm, tinh thần của con ngƣời
đƣợc sử dụng 15/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 3,58%. Trong đó, thƣờng gặp là những
74
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
yếu tố chỉ tình cảm của con ngƣời.
b. Yếu tố so sánh là thế giới tự nhiên, xã hội (bên ngoài con ngƣời)
- Yếu tố so sánh là các sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên phong
phú, đa dạng. Đó là những hiện tƣợng tự nhiên (sương, gió, mây, biển, sông,
sóng, con suối, thác đổ, bình minh, ánh sao băng, mặt trời xa, nắng ban mai,
ánh nắng mai bên nhà, sóng đùa biển khơi, tia nắng trong không gian xanh
tươi...), thế giới động, thực vật gần gũi, thân thuộc (chim, cánh én, loài chim
non muôn mầu, cánh chim cò trắng, chim én, loài thú, cánh vạc, đàn bướm
giữa hồ, nấm, nấm hoang, lá, lá bay, lá cỏ, quả ngọt, hoa, bông hoa, hoa trên
đồng xanh, đoá hoa vông, nụ hồng, hoa lá gữa thiên nhiên hiền hoà, hoa của
Đồng Tháp sen hồng, trái chín trên cây, màu xanh trên địa cầu, phấn thơm
cho rừng chút hương...).Ví dụ:
- Từ đó em là sƣơng
Rụng mát trong bình minh (Đoá hoa vô thƣờng)
- Nhiều đêm thấy ta là thác đổ
Tỉnh ra có khi còn nghe (Đêm thấy ta là thác đổ)
- Tình yêu như biển
Biển rộng hai vai (Lặng lẽ nơi này)
- Màu tím bâng khuâng bên hoa vàng đốm nhỏ
Riêng em là hoa của Đồng Tháp sen hồng
(Mênh mông Đồng Tháp)
- Đời sẽ buồn như một vết thương
Tình sẽ buồn như là nấm hoang (Nhƣ một vết thƣơng)
- Tôi như chim ƣu phiền
Bay về cuối dòng sông
Con sông mang tin buồn
Nằm chờ những đoá hồng (Nhƣ chim ƣu phiền)
- Cuộc tình lên cao vút
Như chim mỏi cánh rồi
75
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Như chim xa lìa bầy
Như chim xa lìa trời
Như chim bỏ đƣờng bay (Tình sầu)...
Yếu tố so sánh là các sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên đƣợc sử
dụng 181/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 3,58%. Đặc biệt, chim đƣợc trở đi trở lại rất
nhiều lần với những trạng thái, thuộc tính khác nhau, nói lên tâm sự, nỗi niềm
của nhân vật trữ tình (chim mỏi cánh, chim xa lìa bầy, chim xa lìa trời, chim
bỏ đường bay, chim xa đàn, cánh chim chìm xuống, cánh chim bỏ rừng, con
chim buồn, con chim bệnh, con chim vô vọng, con chim thanh bình...).
- Yếu tố so sánh là những sự vật hiện tƣợng không thuộc thế giới tự nhiên:
+ Yếu tố so sánh là những sự vật, hiện tƣợng cụ thể, thân thuộc, đƣợc
biểu hiện bằng những từ ngữ: một hòn bi xanh, ngà ngọc, lụa mát, quán trọ,
thuyền, buồm, khăn mới thêu, đốm lửa hồng, bài thơ, chiếc thoi đưa, cây đuốc
sáng, từng cánh diều vui, chút vết mực nhoè, những chuyến xe, những đám
đông, những quán không, tàu bay, đồng cháy, ruộng gầy, cuộn gai... Ví dụ:
- Tên anh là cây đuốc sáng
Một vạn cánh chim bay lên trong trời
Hót mãi tình anh (Ngày mai đây bình yên)
- Từ khi trăng là nguyệt
Tôi như từng cánh diều vui (Nguyệt ca)
- Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những chuyến xe (Nghe những tàn phai)
- Nhưng hôm nay
Quê hương là tàu bay
Quê hương là đồng cháy
Quê hương là ruộng gầy (Nhƣng hôm nay)...
Yếu tố so sánh là những sự vật hiên tƣợng cụ thể đƣợc sử dụng 90/419
lƣợt, chiếm tỉ lệ 21,5%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu tố chỉ những sự
76
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vật hiện tƣợng thân thuộc với đời sống của con ngƣời.
+ Yếu tố so sánh là những sự vật, hiện tƣợng trừu tƣợng, đƣợc biểu
hiện bằng các từ ngữ: ngại ngùng, ngất ngây, chơi vơi, đời rất lạ, chuyện
những đoá hoa quỳnh, một đường không bến bờ, ngày lạ lùng biết trần gian,
lời mộ địa, điều giấu kín thôi, một lời chia tay, tiếng thở dài, một nỗi đời
riêng... Ví dụ:
- Hôm chợt thấy em đi về bên kia phố
Trong lòng bỗng vui như đời rất lạ (Cho đời chút ơn)
- Người đi quanh thân thế của người
Một trăm năm như tiếng thở dài (Nhƣ tiếng thở dài)
- Tình yêu như nỗi chêt
Cơn đau thật dài (Tình sầu)...
Yếu tố so sánh là những sự vật hiện tƣợng trừu tuợng đƣợc sử dụng
72/419 lƣợt, chiếm tỉ lệ 17,2%. Trong đó, thƣờng gặp là những yếu tố miêu tả
tâm trạng, cảm xúc của con ngƣời.
Tần số xuất hiện của yếu tố so sánh theo các phạm trù ngữ nghĩa đƣợc
trình bày trong bảng sau (Bảng 2.7)
Số lƣợng Số lƣợt Tỉ lệ % Trƣờng nghĩa
Nhân vật trữ tình 32 7,6%
Hành động, đặc tính 16 3,82% Thuộc 76 18,1% con ngƣời Thế giới nội tâm, tinh thần 15 3,58%
Bộ phận cơ thể 13 3,1%
Thuộc thế giới tự nhiên 181 43.2%
Ngoài Không thuộc cụ thể 90 21.5% 343 81,9% con ngƣời thế giới tự 72 17,2% trừu tƣợng nhiên
77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tổng 419 100%
BẢNG 2.7
Một số nhận xét:
- Các từ ngữ biểu thị yếu tố so sánh chủ yếu thuộc hai trƣờng nghĩa:
con ngƣời và ngoài con ngƣời (thế giới tự nhiên, xã hội). Trong đó, tác giả
hay sử dụng các sự vật hiện tƣợng thuộc trƣờng ngữ nghĩa tự nhiên, xã hội
(bên ngoài con ngƣời) vào làm vật chuẩn để so sánh. Với trƣờng nghĩa này
của yếu tố so sánh, các từ ngữ biểu thị yếu tố so sánh trong ca từ Trịnh Công
Sơn thƣờng chỉ thế giới tự nhiên hết sức quen thuộc và phong phú, đa dạng,
cùng với những sự vật hiện tƣợng trừu tƣợng hoặc cụ thể.
- Trong trƣờng nghĩa con ngƣời, Trịnh Công Sơn tập trung vào những
nhân vật trữ tình, tiếp đó là hành động, phẩm chất; rồi đến thế giới nội tâm,
tinh thần và những bộ phận cơ thể của con ngƣời.
2.2.3. Mối tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu
tố so sánh
Dựa vào hai trƣờng nghĩa ở yếu tố đƣợc so sánh (A) và yếu tố so sánh
(B), có thể nhận thấy giữa hai yếu tố này có những mối tƣơng quan ngữ nghĩa
sau:
a. A thuộc con ngƣời - B ngoài con ngƣời
Đây là mối tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh là những
nhân vật trữ tình; thế giới nội tâm, tinh thần; những hành động, phẩm chất và
bộ phận của cơ thể của con ngƣời, với yếu tố so sánh là: những sự vật hiện
tƣợng thuộc thế giới tự nhiên, những sự vật hiện tƣợng cụ thể hoặc trừu
tƣợng. Ví dụ:
- Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia
Làm hồng chút môi cho em nhờ (Cho đời chút ơn)
- Từ đó em là sƣơng
Rụng mát trong bình minh (Đoá hoa vô thƣờng)
- Thằng bé xinh xinh ra đồng giữa ngọ
78
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Miệng môi hồng đỏ như đoá hoa vông
- Lòng em như suối trên nguồn
Nở những đoá hoa hồng nhung
(Đời sống không già vì có chúng em)
- Tình như nắng vội tắt chiều hôm
Tình không xa nhưng không thật gần (Nhƣ một lời chia tay)...
Tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh thuộc trƣờng nghĩa
con ngƣời và yếu tố so sánh thuộc trƣờng nghĩa ngoài con ngƣời đƣợc sử
dụng 209/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ 52,5%. Trong đó, yếu tố đƣợc so sánh thuờng
là những nhân vật trữ tình (tôi, em, mẹ...); yếu tố so sánh thƣờng là những sự
vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên (mây, gió, sông, mưa, nắng, sương...).
b. A ngoài con ngƣời - B thuộc con ngƣời
Đây là tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh là: sự vật hiện
tƣợng thuộc thế giới tự nhiên, những sự vật hiện tƣợng cụ thể hoặc trừu tƣợng
với yếu tố so sánh là: những nhân vật trữ tình; thế giới nội tâm, tinh thần;
những hành động, phẩm chất và bộ phận của cơ thể của con ngƣời.
- Từ đó hoa là em
Một sớm kia rất hồng
Nở hết trong hoàng hôn
Đợi gió vô thường lên (Đoá hoa vô thƣờng)
- Sƣơng mù tóc mẹ trôi (Bống bồng ơi)
- Ngày mai đây Việt Nam
Là bàn chân tiến lên không ngừng (Ngày mai đây bình yên)
- Trên cánh đồng hoà bình này
Triệu bàn chân đi khai mùa mới
Ruộng lúa reo cười
79
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Vì cỏ cây cũng đau thương như ngƣời (Cánh đồng hoà bình)...
Tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh thuộc trƣờng nghĩa
ngoài con ngƣời với yếu tố so sánh thuộc trƣờng nghĩa con ngƣời đƣợc sử
dụng 39/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ 9,8%. Trong đó, yếu tố đƣợc so sánh thƣờng là
những sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên (hoa, biển, sương, nắng...);
yếu tố so sánh thƣờng là nhân vật trữ tình (em) và những bộ phận của cơ thể
con ngƣời (mắt, môi, tóc)
c. A ngoài con ngƣời - B ngoài con ngƣời
Đây là tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so
sánh đều là những sự vật hiện tƣợng thuộc thế giới tự nhiên, những sự vật
hiện tƣợng cụ thể hoặc trừu tƣợng
- Một điều giấu kín trong tim con ngƣời
Là điều giấu kín thôi (Một lần thoáng có)
- Từ đó ta nằm đau
Ôi núi cũng như đèo (Đoá hoa vô thƣờng)
Ngày qua không nhìn thấy
Một năm thoáng như mây (Thanh quan ca)
- Bốn mùa như gió bốn mùa như mây
Những dòng sông nối đôi tay về với biển khơi
Đêm chờ ánh sáng mưa đời cơn nắng
Mặt trời lấp lánh trên cao vừa xa vừa gần (Bốn mùa thay lá)
- Từng lời tà dƣơng là lời mộ địa
Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe (Một cõi đi về)
- Tuổi trẻ Việt Nam là hầm hố trông gai (Tuổi trẻ Việt Nam)...
Tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh đều
thuộc trƣờng nghĩa ngoài con ngƣời đƣợc đƣợc sử dụng 113/398 lƣợt, chiếm
80
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tỉ lệ 28,4%. Trong đó, tƣơng quan giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh
đều là những sự vật hiện tƣợng trừu tƣợng chiếm một tỉ lệ khá cao. Đây cũng
là một trong những lí do làm nên sự “khó hiểu” của ca từ Trịnh Công Sơn.
d. A thuộc con ngƣời - B thuộc con ngƣời
Đây là tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so
sánh đều là những nhân vật trữ tình; thế giới nội tâm, tinh thần; những hành
động, phẩm chất và bộ phận của cơ thể của con ngƣời
- Tôi như trẻ nhỏ tìm nơi nƣơng tựa
Mà sao vẫn cứ lạc loài (Tự tình khúc)
- Đừng tuyệt vọng em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em (Tôi ơi đừng tuyệt vọng)
- Có chén rượu chờ trong quán đêm đêm
Có những bạn bè xanhh như ngƣời bệnh
Có tiếng cười và tiếng khóc mênh mông (Bay đi thầm lặng)
Tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh đều
thuộc trƣờng nghĩa con ngƣời đƣợc đƣợc sử dụng 37/398 lƣợt, chiếm tỉ lệ
9,3%. Trong đó, thƣờng gặp là tƣơng quan giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố
so sánh đều là những nhân vật trữ tình.
Tần số xuất hiện của các tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so
sánh và yếu tố so sánh đƣợc trình bày trong bảng sau (Bảng 2.8)
STT Mối tƣơng quan Số lƣợt Tỉ lệ %
1 A thuộc con ngƣời – B ngoài con ngƣời 209 52,5
2 A ngoài con ngƣời – B ngoài con ngƣời 113 28,4
3 A ngoài con ngƣời – B thuộc con ngƣời 39 9,8
4 A thuộc con ngƣời – B ngoài con ngƣời 37 9,3
Tổng số 398 100
81
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
BẢNG 2.8
Một số nhận xét:
Trịnh Công Sơn thƣờng đem những gì thuộc con ngƣời (các nhân vật
trữ tình; thế giới nội tâm, tinh thần; các bộ phận cơ thể; hành động, phẩm
chất) so sánh với những gì ngoài con ngƣời (thế giới tự nhiên, các sự vật hiện
tƣợng cụ thể hoặc trừu tƣợng). Với cách so sánh này, Trịnh Công Sơn đã chú
ý đặc biệt tới con ngƣời với sự phức tạp của tâm trạng, nỗi niềm, đông thời
mang đến những liên tƣởng, những khám phá và cảm nhận mới mẻ và thú vị
về con ngƣời, khiến cho những ca khúc của ông giống nhƣ những câu chuyện
hấp dẫn về con ngƣời, về những cuộc đời và thân phận. Đó phần lớn là những
chuyện buồn. Đây cũng là lí do tại sao khi lắng nghe ca khúc của Trịnh Công
Sơn, mỗi chúng ta nhƣ tìm thấy chính mình trong đó.
TIỂU KẾT
Trong qua trình sáng tạo ngôn từ nghệ thuật, so sánh có thể đƣợc coi là
phƣơng thức biểu cảm đặc biệt. Phƣơng thức này xuất hiện trong ca từ Trịnh
Công Sơn với nhiều kiểu loại đa dạng, góp phần thể hiện cá tính sáng tạo
riêng của nhạc sĩ về mặt hình thái cấu trúc cũng nhƣ về mặt ngữ nghĩa.
Về mặt hình thái cấu trúc, ta gặp 13 kiểu cấu trúc so sánh, trong đó kiểu
cấu trúc A + tnss + B chiếm số lƣợng nhiều nhất. Sử dụng cấu trúc thiếu cơ sở
so sánh này, Trịnh Công Sơn đã dành cho ngƣời nghe một sự tự do liên tƣởng
để tìm ra những nét giống nhau giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh, từ
đó phát hiện ra đặc điểm của đối tƣợng đƣợc so sánh theo chiều hƣớng liên
tƣởng của mình.
Với 13 kiểu cấu trúc, Trịnh Công Sơn đã tạo ra những biến thể rất độc
đáo bên cạnh những kiểu cấu trúc cơ bản, thể hiện phong cách riêng của ông
trong việc sử dụng ngôn từ để thể hiện phƣơng thức so sánh trong ca từ.
Trịnh Công Sơn sử dụng 8 từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh, trong đó
các từ ngữ sử dụng trong kiểu so sánh tƣơng tự (như, tựa, tựa như, như là,
82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cũng như) xuất hiện với tần số cao nhất, tiếp theo là các từ ngữ sử dụng trong
kểu so sánh ngang bằng (là, bằng). Tần số xuất hiện của từ ngữ so sánh trong
kiểu so sánh dị biệt hơn chiếm một số lƣợng rất nhỏ.
Yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh đƣợc Trịnh Công Sơn tạo lập
trong cấu trúc so sánh thƣờng là kết cấu danh ngữ và cụm C - V, ít dùng động
ngữ và tính ngữ; từ loại danh từ đƣợc tác giả dùng nhiều hơn tính từ và động
từ.
Về mặt ngữ nghĩa, ở yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh, Trịnh Công
Sơn sử dụng hai trƣờng nghĩa đối lập: thuộc con ngƣời và ngoài con ngƣời.
Trong đó, yếu tố đƣợc so sánh thƣờng thuộc trƣờng nghĩa thuộc con ngƣời,
yếu tố so sánh thƣờng thuộc trƣờng nghĩa ngoài con ngƣời.
Trong mối tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so
sánh, mối tƣơng quan giữa A thuộc con ngƣời và B ngoài con ngƣời chiếm tỉ
lệ cao nhất, tiếp đó là A ngoài con ngƣời - B ngoài con ngƣời, A ngoài con
83
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngƣời - B thuộc con ngƣời, A thuộc con ngƣời - B thuộc con ngƣời.
CHƢƠNG 3 PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT TRONG CA KHÚC TRỊNH CÔNG SƠN
3.1. PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI HÌNH TƢỢNG EM - NGUỜI TÌNH
... Từng người tình bỏ ta đi
Như những dòng sông nhỏ
Ôi những dòng sông nhỏ
Lời hẹn thề là những cơn mưa (Tình xa)
Đã có không ít những dòng sông nhỏ đi qua cuộc đời Trịnh Công Sơn
và ở lại trong những ca khúc của ông. Chính những dòng sông nhỏ - những
ngƣời tình ấy đã cho ông cảm nhận một cách sâu sắc những mầu nhiệm của
cuộc sống và cũng là nguồn cảm hứng bất tận để ông viết lên những bản tình
ca còn mãi với thời gian.
Trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn, chúng ta thƣờng bắt gặp
hình ảnh của những ngƣời phụ nữ. Đó có thể là những ngƣời cụ thể, có tên
tuổi nhƣ Diễm (Diễm xƣa), Nguyệt (Nguyệt ca) hay Quỳnh Hƣơng (Quỳnh
hƣơng)..., và đó cũng có thể là em - một ngƣời con gái nào đó, một ngƣời tình
trong sự mơ mộng... Tất cả đều đƣợc Trịnh Công Sơn nâng niu, trân trọng
trong những ca khúc của mình.
Bức chân dung em đƣợc Trịnh Công Sơn khắc hoạ không phải bằng những
màu sắc, đƣờng nét của hội hoạ mà bằng hàng loạt các câu trúc so sánh:
Tóc em:
- Ôi tóc em dài đêm thần thoại (Gọi tên bốn mùa)
- Tóc em như trời xưa
Đã qua đi ngàn năm (Ru em từng ngón xuân nồng)
Hàng mi em:
84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ngủ đi em mi cong cỏ mượt (Em hãy ngủ đi)
Mắt em:
- Mưa có buồn bằng đôi mắt em (Em hãy ngủ đi)
- Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy
Để mắt em cười tựa lá bay
(Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui)
Màu mắt em:
Màu nắng hay là màu mắt em (Nắng thuỷ tinh)
Giọt nƣớc mắt em:
Có khi mưa ngoài trời
Là giọt nước mắt em
Đã nương theo vào đời
Làm từng nỗi ưu phiền (Ru đời đi nhé)
Môi em:
- Ngoài phố mùa đông
Đôi môi em là đốm lửa hồng (Ru đời đi nhé)
- Nắng có hồng bằng đôi môi em (Nhƣ cánh vạc bay)
- Môi em là đốm lửa
Cuộc đời đâu biết thế (Ru tình)
- Ngủ đi em đôi môi lửa cháy (Em hãy ngủ đi)
Nụ cƣời em:
Nụ cười em như tia nắng trong không gian xanh tươi
(Em đến cùng mùa xuân)
Vai em:
- Bờ vai như giấy mới
Sợ nghiêng hết tình tôi (Thƣơng một ngƣời)
- Ngủ đi em đôi vai lụa mát (Em hãy ngủ đi)
- Vai em gầy guộc nhỏ
85
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Như cánh vạc về chốn xa xôi (Nhƣ cánh vạc bay)
Tay em:
Ngủ đi em tay xanh ngà ngọc (Em hãy ngủ đi)
Da em:
Ngủ đi em da thơm quả ngọt (Em hãy ngủ đi)
Thân hình em:
Một ngày kia có em buồn buồn
Thân mong manh như lau sậy hiền (Níu tay nghìn trùng)
Bức chân dung của em đƣợc Trịnh Công Sơn vẽ lên bằng vẻ đẹp cao
quý của thiên nhiên. Em nhƣ hoà tan vào nắng gió, vào cỏ cây hoa lá. Trong
những nét khắc hoạ kể trên, Trịnh Công Sơn tập trung miêu tả nhiều hơn vào
môi em và vai em.
Đôi môi em thƣờng đƣợc Trịnh Công Sơn so sánh với lửa, bởi môi em
cũng có màu đỏ của lửa và cũng có sự nóng bỏng của lửa - sự nóng bỏng
đƣợc cảm nhận bằng tâm hồn. Giữa cái lạnh lẽo và cô đơn của mùa đông
ngoài phố, của cuộc đời, đôi môi em là đốm lửa - là hơi ấm, là ánh sáng, là
niềm vui sống, là khát vọng hạnh phúc:
- Ngoài phố mùa đông
Đôi môi em là đốm lửa hồng (Ru đời đi nhé)
- Môi em là đốm lửa
Cuộc đời đâu biết thế (Ru tình)
Ngoài đôi môi lửa cháy, em trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn
thƣờng có đôi vai gầy:
Vai em gầy guộc nhỏ
Như cánh vạc về chốn xa xôi (Nhƣ cánh vạc bay)
Vai em đã đƣợc Trịnh Công Sơn so sánh với hình ảnh cánh vạc về chốn
xa xôi, vừa nổi bật nét gầy guộc, bé nhỏ của đôi vai em, vừa gợi lên một điều
86
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gì đó nhƣ xót xa, tội nghiệp của kiếp hồng nhan giữa cuộc đời.
Không chỉ miêu tả hình dáng gầy guộc, bé nhỏ của đôi vai em, Trịnh
Công Sơn còn dành những hình ảnh so sánh để làm nổi bật những thuộc tính
của đôi vai ấy - một đôi vai mát nhƣ lụa (Ngủ đi em đôi vai lụa mát) và trong
trắng, tinh khôi nhƣ trang giấy mới (Bờ vai như giấy mới).
Kế thừa truyền thống của văn chƣơng bác học mang tính công thức và
ƣớc lệ, Trịnh Công Sơn cũng lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của
ngƣời phụ nữ nhƣ: da thơm quả ngọt, mi cong cỏ mượt... Nhƣng bên cạnh đó,
trong ca từ của ông có những cách nói độc đáo đáng chú ý. Trong nhiều ca
khúc của Trịnh Công Sơn, ngƣời phụ nữ đã trở thành chuẩn mực của cái đẹp,
để thiên nhiên lấy làm cái so sánh:
Nắng có hồng bằng đôi môi em
Mưa có buồn bằng đôi mắt em (Nhƣ cánh vạc bay)
Hay: Gió sẽ mừng vì tóc em bay
Cho mây hờn ngủ quên trên vai (Nhƣ cánh vạc bay)
Qua những hình ảnh so sánh độc đáo mới lạ, em đã hiện lên trong
những ca khúc của Trịnh Công Sơn thật đẹp - một vẻ đẹp mong manh, thanh
thoát, hƣ ảo, rất gần mà cũng rất xa. Vẻ đẹp ấy đã khiến cho biết bao chàng
trai si tình (đƣợc gọi chung là tôi) xin làm đá cuội và lăn theo gót hài.
Trong nhạc Trịnh Công Sơn, em luôn đƣợc tôn vinh bằng những hình
ảnh so sánh đẹp đẽ. Em là hoa vàng rực rỡ (Hoa vàng mấy độ), là suối kia rất
ngọt (Hoa xuân ca), là cây non mới đến (Rừng xanh xanh mãi), là một thoáng
hương bay bên trời phố hạ (Hoa vàng mấy độ), là phấn thơm cho rừng chút
hương, là lời hát ca cho trần gian (Cho đời chút ơn), là chim trắng giữa trống
đồng bước ra, là hoa lá giữa thiên nhiên hiền hoà (Em đến từ nghìn xƣa)...
Với Trịnh Công Sơn, em có một ý nghĩa quan trọng trong nhạc và trong
đời. Em đã cho tôi bầu trời, cho tôi yêu thêm loài người, dạy tôi biết xa gần...
nhƣng em không ở lại cùng tôi đến trọn cuộc đời:
87
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Như là cơn gió em còn cứ mãi bay đi (Hoa vàng mấy độ)
Trong những tình khúc của Trịnh Công Sơn, “chữ em không đi sóng
đôi một cặp ngọt ngào với chữ anh... chỉ em với tôi, em với ta, nhƣ thử hai
ngƣời yêu là hai ngƣời ở trọ gần nhau” [46, tr.311]. Phải chăng vì là hai
ngƣời ở trọ gần nhau nên tôi luôn là ngƣời ở lại còn em luôn là ngƣời ra đi.
Với tôi, em là ngọn gió quạnh hiu, là chút mây phù du, là sƣơng khuya rụng
mát trong bình minh…, là những gì mong manh, dễ tan biến và thoáng qua
trong đời, để một ngày nào đó, tôi đã phải thốt lên:
Em cứ bay trong đời dịu dàng như cơn gió
Em cứ bay nhưng đừng bỏ lại tôi một mình (Hoa xuân ca)
Em trong ca khúc của Trịnh Công Sơn là hình tƣợng nghệ thuật về
những thiếu nữ buồn, xanh xao, với vóc dáng mảnh mai, mong manh, đôi vai
gầy, tóc xoã bay ngang trời... mờ mờ ảo ảo, nhƣ một bức tranh phi thực.
Những ngƣời phụ nữ ấy đã đi qua cuộc đời Trịnh Công Sơn, mang đến cho
ông thật nhiều hạnh phúc nhƣng cũng để lại không ít niềm đau. Nhƣng cho dù
đƣợc hƣởng hạnh phúc hay phải gánh chịu khổ đau, Trịnh Công Sơn vẫn luôn
nâng niu, trân trọng hết thảy những ngƣời phụ nữ mình từng quen biết trong
đời.
Để xây dựng hình tƣợng nghệ thuật em, nhạc sĩ đã sử dụng phƣơng
thức so sánh với những yếu tố đƣợc so sánh (A) và những yếu tố so sánh (B)
đƣợc trình bày trong bảng sau (Bảng 3.1):
A - (phƣơng diện so STT tnss B sánh)
1 em mây hoang đƣờng sớm chiều qua
2 em suối kia rất ngọt
3 em cây non mới đến
4 em là phấn thơm cho rừng chút hƣơng
88
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5 em là lời hát ca cho trần gian
6 em ngọn gió quạnh hiu nhƣ
một chút mây phù du đã thoáng qua 7 em là đời ta
8 em sƣơng rụng mát trong bình minh là
9 em chim trắng giữa trống đồng bƣớc ra nhƣ
10 em hoa lá giữa thiên nhiên hiền hoà nhƣ
11 em ra đi thoáng gió thầm nhƣ
12 em còn cứ mãi bay đi nhƣ là cơn gió
hoa vàng một đóa 13 em đến bên đời một thoáng hƣơng bay bên trời phố hạ
em cứ bay trong đời - 14 cơn gió nhƣ dịu dàng
15 em - mƣớt xanh ngọc nhƣ
16 vết thƣơng khô tên em là
17 trời xƣa đã qua đi ngàn năm tóc em nhƣ
18 đốm lửa môi em là
19 đốm lửa hồng đôi môi em là
20 tia nắng trong không gian xanh tƣơi nụ cƣời em nhƣ
21 vai em-gầy guộc nhỏ cánh vạc về chốn xa xôi nhƣ
22 giọng cƣời em-vút cao hơn bình minh
23 mắt em cƣời tựa lá bay
24 đôi môi lửa cháy
25 đôi vai lụa mát
26 bờ vai nhƣ giấy mới
27 mi - cong cỏ mƣợt
28 tay - xanh ngà ngọc
89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
29 da - thơm quả ngọt
30 thân - mong manh nhƣ lau sậy hiền
31 mƣa ngoài trời giọt nƣớc mắt em là
32 nắng - hồng đôi môi em bằng
33 mƣa - buồn đôi mắt em bằng
34 sen hồng một độ em hồng một thủa xuân xanh
35 sen buồn một mình em buồn đền trọn mối tình
BẢNG 3.1
(Ghi chú: Dấu ngoặc đơn (...) trong (phương diện so sánh) chỉ khả năng
"có" hoặc "không").
3.2. PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI HÌNH TƢỢNG TÔI - CHỦ THỂ
TRỮ TÌNH
Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ thấm nhuần nền văn hoá lãng mạn Pháp
từ thủa nhỏ. Vì vậy cái tôi, cái bản ngã của ông đƣợc khẳng định và bộc lộ rõ
nét trong nhiều ca khúc.
Trong nhiều ca khúc của Trịnh Công Sơn, tôi (ta, mình) có thể là sự
hiện thân của chính tác giả để tự sự, nói lên những suy tƣ, trăn trở và bộc lộ
những tâm trạng, cảm xúc của mình, ví dụ:
Tôi như là người ngồi trong đêm dài
Nhìn tôi đang quá ngậm ngùi (Tự tình khúc)
Hay: Ta mang cho em một chút buồn
Vì ta như sóng lênh đênh (Quỳnh hƣơng)
Tôi (ta, mình) cũng có thể đại diện cho một thế hệ, một lớp ngƣời của
xã hội trong một hoàn cảnh nhất định, với những số phận và tâm trạng khác
nhau. Ví dụ:
Tôi có người yêu chết trận Chu Prong
90
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tôi có người yêu bỏ xác trôi sông (Tình ca của ngƣời mất trí)
Ở đây, tôi là những cô gái, là những ngƣời có ngƣời yêu, ngƣời thân
chết trận.
Hay một ví dụ khác:
Ta phải thấy mặt trời
Sáng trên quê hương này đầy loài người (Ta phải thấy mặt
trời)
Ở đây, ta là thế hệ thanh niên yêu nƣớc quyết tranh đấu để dành lại hoà
bình cho quê hƣơng.
Trong phần này, xin chủ yếu tập trung tìm hiểu tôi trong những ca khúc
của Trịnh Công Sơn với tƣ cách là chủ thể trữ tình, là sự nhập vai của chính
tác giả, đƣợc thể hiện với nhiều tâm trạng và cảm xúc qua lời tự sự. Qua
phƣơng thức so sánh, tôi sẽ đƣợc tìm hiểu dƣới ba khía cạnh: Với cuộc đời,
tôi là một kẻ cô đơn; Với quê hƣơng, tôi là một kẻ lạc loài; Với tình yêu, tôi là
một kẻ bị phụ tình.
Trịnh Công Sơn có một gia đình đông anh em, có nhiều ngƣời tình và
rất đông bạn bè. Thế nhƣng, ông lại là một khối cô đơn. Cho dù có những lúc
gặp gỡ bạn bè, nói cƣời xôn xao ngoài phố, nhƣng khi trở lại với riêng mình
và bất giác thu mình trong góc tối, ông lại chỉ thấy tất cả những niềm vui,
những nụ cƣời giữa phố chợ kia cũng giống nhƣ những lá khô rụng rơi lả tả:
Tôi như mọi người mong ngày sẽ tới
Nhưng khi về lại thu mình góc tối
Trong tôi rụng đầy bao nhiêu nụ cười (Bay đi thầm lặng)
Trịnh Công Sơn “thích ngồi yên lặng nhìn trời đất và suy tƣởng về
những điều mình chƣa giải đáp đƣợc cho chính bản thân mình” [65]. Cái cảm
giác trơ troi lẻ loi một mình luôn thƣờng trực trong con ngƣời ông, gần nhƣ
gắn liền với bản chất của ông. Nhƣ ông thổ lộ: “Đây không phải là một mặc
cảm. Tôi nghĩ đúng hơn là một cái gì đó thuộc về bẩm sinh. Sinh ra là một thứ
91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mầm mống lẻ loi mọc lên trong thân phận làm ngƣời. Và vì vậy không cần
phải đối phó, phải phản ứng gì cả. Nó là tôi, tôi là nó. Tất cả đã quyện vào
nhau làm thành một số phận. Và điều quan trọng là tôi hoàn toàn thanh thản
trong số phận đó. Và tôi có phát hiện một điều là càng ở giữa đám đông tôi
càng thấy lẻ loi” (Theo [59, tr.7]):
Tôi như người ngây dại
Giữa đám đông bạn bè
Quanh đây là tiếng cười
Lòng sao không vui với (Ngậm ngùi riêng ta)
Là ngƣời muốn sống hết mình và hết lòng yêu thƣơng cuộc đời, Trịnh
Công Sơn luôn quan sát cuộc sống dƣới lăng kính màu hồng và gắng điểm tô
cho cuộc sống thành một khu vƣờn địa đàng thật nhiều hoa thơm quả ngọt.
Nhƣng khi đã có nhiều trải nghiệm và nhận thấy hạnh phúc bấy lâu chỉ là
hạnh phúc ngu ngơ, ông lại thu mình, trở về với một cuộc sống bình lặng,
buồn bã, lặng câm nhƣ kiếp đá:
Ngày nay thôi đành nhé
Tôi như đá nặng nề
Trong giây phút tình cờ rớt xuống mịt mù
(Ngày nay không còn bé)
Trong thế giới của riêng mình, có những lúc Trịnh Công Sơn mơ hồ
tưởng mình đang là cơn gió, là chiếc bóng phai mờ, là chút vết mực nhoè...
Có khi ông thấy mình nhƣ con chim bé nhỏ, tội nghiệp, một đời mỏi cánh tìm
kiếm thiên đƣờng nhƣng thất vọng và “đành thôi quên lãng”:
Tôi như con chim buồn
Bay về lúc chiều hôm
Thôi quên đi thiên đường
Một đời tôi mãi tìm (Nhƣ chim ƣu phiền)
Con chim ấy âu sầu chở buồn đau giữa ánh nắng chiều:
Tôi như con chim chiều
92
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mang đầy nắng quạnh hiu
Trên đôi vai u sầu
Tìm về nơi cuối đèo (Nhƣ chim ƣu phiền)
Và có lúc, Trịnh Công Sơn thấy mình là ngọn đèn nhỏ thắp lên cho
riêng mình:
Tôi như ngọn đèn từng đêm vơi cạn
Lửa lên thắp một niềm riêng (Tự tình khúc)
Nỗi cô đơn đã đeo đẳng Trịnh Công Sơn đến tận cuối cuộc đời. Nhƣng
chính nhờ sự cô đơn này, ông đã lắng nghe đƣợc cuộc đời, cảm nhận đƣợc
những hiện tƣợng thiên nhiên và xã hội rõ ràng hơn. Ông không trốn vào nỗi
đau của riêng mình và không lánh đời, mà trải lòng ra với đời, với ngƣời, đón
nhận và chấp nhận:
Dù đến rồi đi
Tôi cũng xin tạ ơn người
Tạ ơn đời tạ ơn ai
Đã cho tôi còn những ngày
Quên kiếp sống lẻ loi (Tạ ơn)
Trịnh Công Sơn không chỉ cô đơn giữa cuộc đời mà còn là một kẻ lạc
loài ngay trên chính quê hƣơng của mình.
Tự nhận mình là một “công dân ngoại hạng”, trong cuộc chiến tranh
trên quê hƣơng mình, ông đi giữa hai làn đạn và hát lên những khúc ca về quê
hƣơng, tình yêu và thân phận con ngƣời. Ở ông, chúng ta bắt gặp một thái độ
không nhập cuộc. Ông đã sống lang thang nhƣ một kẻ vô gia cƣ, vô định trú
trong thời kì trốn lính. Ông là ngƣời đi lạc trong một thành phố tƣởng là quen
thân lắm nhƣng thực ra Trịnh Công Sơn không thuộc về một nơi nào hết:
Tôi như là người lạc trong đô thị
Một hôm đi về biển khơi (Tự tình khúc)
Trong những năm tháng tăm tối của chiến tranh, giữa những thù oán,
chia lìa, Trịnh Công Sơn thấy mình nhƣ con chim nhỏ bơ vơ, lạc loài, không
93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
biết bay về đâu:
Tôi như con chim nhỏ
Bay về rất ngẩn ngơ
Trên nhân gian chia lìa
Lòng đầy những oán thù (Nhƣ chim ƣu phiền) Quê hƣơng luôn là nơi con ngƣời trở về để tìm sự bình an, sự gần gũi,
gắn bó và thân quen. Thế nhƣng chốn xưa quê nhà với Trịnh Công Sơn sao xa
lạ quá:
Tôi như người xa lạ
Giữa chốn xưa quê nhà (Ngậm ngùi riêng ta)
Ông thấy mình là đứa bé bị bỏ rơi, ngồi nhìn thế kỉ qua đi, đi tìm mà
không thấy đƣợc nơi nƣơng tựa:
Tôi như trẻ nhỏ ngồi bên hiên nhà
Chờ xem thế kỉ tàn phai
Tôi như trẻ nhỏ tìm nơi nương tựa
Mà sao vẫn cứ lạc loài (Tự tình khúc)
Lạc loài giữa chốn quê nhà, nhƣng Trịnh Công Sơn đã yêu quê hƣơng
bằng một trái tim giàu lòng nhân ái. Ông đã đau nỗi đau của quê hƣơng trong
cảnh mặt quê hương tan nát từng giờ, đã vui niềm vui của quê hƣơng khi đất
nước tôi thanh bình. Và còn gì đáng trân trọng hơn thế khi ông tâm sự:
Mỗi ngày tôi chọn ngồi thật yên
Nhìn rõ quê hương và nghĩ lại mình
Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống
Vì đất nước cần một trái tim
(Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui)
Cô đơn giữa cuộc đời, lạc loài giữa quê hƣơng, Trịnh Công Sơn tìm
đến tình yêu để mong có đƣợc niềm an ủi. Nhƣng trong tình yêu, ông luôn là
kẻ bị phụ tình.
94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trịnh Công Sơn luôn yêu hết mình và hết lòng với ngƣời mình yêu:
Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia
Làm hồng chút môi cho em nhờ (Cho đời chút ơn)
Trong tình yêu, ông đã đƣợc hƣởng những niềm hạnh phúc ngọt ngào
nhƣng đồng thời cũng phải trải qua không ít đắng cay. Khi đắm chìm trong
niềm hạnh phúc của một nguời yêu và đƣợc yêu, ông thấy lòng mình như
khăn mới thêu - đẹp đẽ và mới mẻ:
Mười năm xưa đứng bên bờ dậu
Đường xanh hoa muối bay rì rào
Có người lòng như khăn mới thêu
(Có một dòng sông đã qua đời)
Thế nhƣng, khi ngƣời yêu bỏ đi và đi mãi, ông thấy nhƣ dòng sông kia đã
qua đời, cũng nhƣ trong lòng ông có một điều gì đó đã đổ vỡ. Để rồi muời năm
sau gặp lại, trong lòng chỉ còn một chút gì đó nhạt nhoà, yếu ớt như nắng qua đèo:
Mười năm sau áo bay đường chiều
Bàn chân trong phố xa lạ nhiều
Có người lòng như nắng qua đèo
(Có một dòng sông đã qua đời)
Với Trịnh Công Sơn, ngƣời tình luôn đƣợc ông trân trọng và ngợi ca.
Khi em là những gì đẹp đẽ, thánh thiện, là tất cả những gì mà tôi mơ ƣớc, em
mang đến cho tôi niềm vui của những cánh diều no gió, niềm hân hoan của
những bông hoa vừa mọc:
Từ khi trăng là nguyệt
Tôi như từng cánh diều vui...
Từ trăng xưa là nguyệt
Lòng tôi có đôi khi
Tựa bông hoa vừa mọc
95
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hân hoan giây xuống thế (Nguyệt ca)
Nhƣng khi em đã thay lòng, khi tôi nhận rõ gƣơng mặt “xanh lòng tàn
phai” của em, tôi hoá thân thành giọt nắng ngoài kia, tuy có vẻ hững hờ nhƣng
trăn trở, khổ đau:
Từ trăng thôi là nguyệt
Tôi như giọt nắng ngoài kia (Nguyệt ca)
Sự thay lòng của em đã tạo thành một hố buồn thăm thẳm trong lòng tôi,
khiến tôi thấy mình nhƣ đứa bé dại khờ, nhƣ đƣờng phố kia đã quên tên mình:
- Từ trăng thôi là nguyệt
Tôi như đường phố nhiều tên (Nguyệt ca)
- Rằng em thôi là nguyệt
Tôi như đứa bé dại khờ (Nguyệt ca)
Luôn bị ám ảnh bởi sự phụ rẫy, có lúc Trịnh Công Sơn tự ủi mình:
Hãy cứ vui chơi cuộc đời
Dù ngày mai em như chim bay
Bỏ quên đây một người
Hát bên đời gian dối
Dù ta như con đường dài vắng người
(Hãy cứ vui nhƣ mọi ngày)
Với rất nhiều ngƣời khác, bị phụ tình là một bi kịch tình yêu, nhƣng với
Trịnh Công Sơn, bi kịch ấy lại là sự thăng hoa của một tâm hồn thánh thiện và nhân
ái:
Yêu em yêu thêm tình phụ
Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ (Ru em)
Cô đơn, lạc loài, bị phụ tình, cuối cùng Trịnh Công Sơn mơ ƣớc trở về
với hồn nhiên, trở về với cội nguồn, với quê nhà nằm sâu trong tiềm thức của
ông:
Tôi con chim thanh bình
Mơ được sống hồn nhiên
96
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Như hoa trên đồng xanh
Một sớm kia rất hồng (Nhƣ chim ƣu phiền)
Ông muốn trở về với thật thà, với khờ dại, với ngây ngô của một đứa
bé mới lớn lên giữa đời sống kia:
Hôm nay tôi nghe
Tôi cười như đứa bé
Mới lớn lên giữa đời sống kia (Hôm nay tôi nghe)
Trịnh Công Sơn quan niệm: “Sống là sống với ngƣời khác và muốn có
cảm thông chúng ta phải luôn luôn diễn đạt mình”. Và ông thổ lộ: “Trong
những cách diễn đạt bằng tiếng nói, bằng chữ viết, và nhiều phƣơng tiện khác,
tôi thấy tâm hồn mình có khuynh hƣớng nghiêng về phía ca khúc. Trên mảnh
đất nghệ thuật nhỏ nhắn này, tôi tìm thấy tự do và tôi nghĩ rằng ở đây tôi có
thể bày tỏ đƣợc với ngƣời khác về những niềm vui nỗi buồn của cuộc sống”
(Theo [46, tr.477]). Trong ca khúc, qua nhân vật tôi, Trịnh Công Sơn đã “diễn
đạt mình” bằng nhiều phƣơng thức, trong đó có so sánh.
Tôi với những tâm trạng, nỗi niềm, cảm xúc phong phú thƣờng đƣợc
Trịnh Công Sơn thể hiện bằng cấu trúc so sánh vắng yếu tố phƣơng diện.
Trong cấu trúc này, tôi giữ vai trò yếu tố đƣợc so sánh. Yếu tố so sánh là
những sự vật hiện tƣợng thuộc trƣờng nghĩa con ngƣời hoặc ngoài con ngƣời.
Những sự vật hiện tƣợng này thƣờng đƣợc Trịnh Công Sơn nói rõ bằng việc
thêm những chi tết miêu tả. Vì vậy có thể không cần nói ra thuộc tính chung
làm cơ sở so sánh nhƣng chúng ta vẫn có thể hiểu đƣợc những tâm trạng, cảm
xúc, nỗi niềm của tôi. Ví dụ:
Tôi như con chim bệnh
Thiếu hạnh phúc trần gian
Có những tháng mùa đông
Ngồi khóc rất âm thầm (Nhƣ chim ƣu phiền)
Ở đây, yếu tố đƣợc so sánh là tôi, yếu tố đƣợc so sánh là con chim +
97
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những chi tiết miêu tả (bệnh, thiếu hạnh phúc trần gian, có những tháng mùa
đông ngồi khóc rất âm thầm). Những chi tiết này đã nói lên tình cảnh ốm yếu,
bất hạnh, cô đơn, lạnh lẽo của tôi.
Nhƣ vậy, qua phƣơng thức so sánh (với yếu tố so sánh đƣợc mở rộng),
Trịnh Công Sơn đã “diễn đạt mình” và nhận đƣợc sự cảm thông của rất nhiều
ngƣời yêu nhạc của ông, mến mộ tài năng và trân trọng tấm lòng của ông với
đời.
Để xây dựng hình tƣợng nghệ thuật tôi, nhạc sĩ đã sử dụng phƣơng thức
so sánh với những yếu tố đƣợc so sánh (A) và những yếu tố so sánh (B) đƣợc
trình bày trong bảng sau (Bảng 3.2):
A tnss B - (yếu tố mở rộng) STT
giọt nắng kia - làm hồng chút môi cho tôi nhƣ 1 em nhờ
tôi nhƣ nguời ngây dại giữa đám đông bạn bè 2
tôi nhƣ ngƣời xa lạ giữa chốn xƣa quê nhà 3
đá nặng nề - trong giây phút tình cờ rớt tôi nhƣ 4 xuống mịt mù
tôi nhƣ từng cánh diều vui 5
tôi nhƣ giọt nắng ngoài kia 6
tôi nhƣ đứa bé dại khờ 7
tôi nhƣ đƣờng phố nhiều tên 8
con chim nhỏ - bay về rất ngẩn ngơ trên tôi nhƣ 9 nhân gian chia lìa - lòng đầy những oán thù
tôi nhƣ chim xa lạ - đứng nhìn những ngày qua 10
tôi nhƣ con chim buồn - bay về lúc chiều hôm 11
98
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
con chim bệnh - thiếu hạnh phúc trần tôi nhƣ 12 gian - có những tháng mùa đông ngồi
khóc rất âm thầm
13 tôi nhƣ chim ƣu phiền - bay về cuối dòng sông
con chim chiều - mang đầy nắng quạnh 14 tôi nhƣ hiu trên đôi vai u sầu - tìm về nơi cuối đèo
15 tôi nhƣ mọi ngƣời - mong ngày sẽ tới
trẻ nhỏ - ngồi bên hiên nhà - chờ xem 16 tôi nhƣ thế kỉ tàn phai
trẻ nhỏ - tìm nơi nƣơng tựa - mà sao 17 tôi nhƣ vẫn cứ lạc loài
Ngƣời lạc trong đô thị - một hôm đi về 18 tôi nhƣ là biển khơi
ngƣời một hôm quay lại vì nghe sa mạc 19 tôi nhƣ là nối dài
ngƣời ngồi trong đêm dài - nhìn tôi 20 tôi nhƣ là đang quá ngậm ngùi
đƣờng về - mở ra đô thị - chờ chân 21 tôi nhƣ thiên hạ về vui
nụ cƣời nở trên môi ngƣời - phòng khi 22 tôi nhƣ nhân loại biếng lƣời
ngọn đèn - từng đêm vơi cạn - lửa lên 23 tôi nhƣ thắp một niềm riêng
nụ hồng - nhiều khi ƣu phiền - chờ tôi 24 tôi nhƣ rã cánh một lần
25 tôi chiếc bóng phai mờ là
26 tôi chút vết mực nhoè là
99
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
con chim thanh bình - mơ đƣợc sống 27 tôi hồn nhiên nhƣ hoa trên đồng xanh một
sớm kia rất hồng
con chim vô vọng - linh hồn rất mong manh 28 tôi
tên mục đồng 29 tôi
tên tuyệt vọng 30 tôi
cây chƣa già 31 tôi
tôi cƣời nhƣ đứa bé mới lớn lên giữa đời sống kia 32
tôi mơ có cuộc tình nhƣ mơ ƣớc đƣợc gần với những nụ hồng 33
tôi yêu tôi sống nhƣ bao ngƣời 34
bông hoa vừa mọc - hân hoan giây lòng tôi 35 tựa xuống thế
36 ta là thác đổ
37 ta là đêm - nở đoá hoa vô thƣờng
38 ta nhƣ con đƣờng dài vắng ngƣời
39 ta nhƣ sóng lênh đênh
40 lòng ta nhƣ đã nát nhầu đam mê
41 lòng ta tựa nhƣ vắng ai
42 mình là cơn gió
BẢNG 3.2
(Ghi chú: Dấu ngoặc đơn (...) trong (yếu tố mở rộng) chỉ khả năng "có"
hoặc "không).
3.3. PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI NHỮNG CHIÊM NGHIỆM VỀ
TÌNH YÊU
“Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu
hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dƣỡng tình yêu để tình
yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời”(Theo [38, tr.145]. Suốt
cuộc đời mình, Trịnh Công Sơn đã “nuôi dƣỡng tình yêu” bằng những lời ca
100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đƣợc cất lên từ một trái tim khao khát yêu thƣơng.
Qua ca khúc, bằng phƣơng thức so sánh, Trịnh Công Sơn đã mang đến
cách nhìn mới mẻ về tình yêu, miêu tả sinh động những cung bậc khác nhau
của tình yêu và ca ngợi giá trị vĩnh hằng của tình yêu.
Trƣớc hết, Trịnh Công Sơn đã mang đến cách nhìn mới mẻ về tình yêu
qua sử dụng những hình ảnh độc đáo trong so sánh.
Thế hệ của Trịnh Công Sơn có tuổi bằng với tuổi của chiến tranh. Ngay
từ khi còn rất trẻ, chiến tranh đã trở thành nỗi ám ảnh thƣờng trực trong tâm
trí ông. Ông đã sáng tác rất nhiều ca khúc về thân phận con ngƣời trong chiến
tranh, miêu tả cuộc sống kinh hoàng đầy chết chóc hàng ngày của ngƣời dân.
Cái khốc liệt, dữ dội của chiến tranh cũng đƣợc Trịnh Công Sơn đƣa vào
những bản tình ca của mình bằng những hình ảnh so sánh mới lạ và độc đáo.
Có lẽ chƣa có ai chiến tranh hoá tình yêu qua ca từ tác phẩm tài tình
nhƣ Trịnh Công Sơn. Ông là ngƣời đƣa không khí chiến tranh vào tình yêu và
nâng đề tài này lên đỉnh cao của nghệ thuật. Đại thi hào Hy Lạp - Homère
từng nói: chỉ có hai chuyện đáng nói trên đời này thôi, là chiến tranh và tình
yêu. Trịnh Công Sơn đã may mắn đƣợc lịch sử và số phận ban tặng cảm hứng
từ cả “hai chuyện đáng nói trên đời” ấy. Trong ca khúc Tình sầu, ông đã so
sánh tình yêu với hàng loạt những hình ảnh về chiến tranh: Tình yêu như trái
phá con tim mù loà (nhƣ sức công phá của đại bác); Tình yêu như vết cháy
trên da thịt người (nhƣ thƣơng tích của lửa hoặc bom cháy); Tình yêu như đốt
sáng con tim tật nguyền (nhƣ ánh sáng và sức thiêu đốt của hoả châu); Tình
yêu như nỗi chết cơn đau thật dài (nhƣ cái chết dễ dàng, chết thật tình cờ
trong chiến tranh, để lại những nỗi đau không dễ nguôi ngoai).
Với những ca từ này, ngƣời nghe cảm nhận đƣợc sự dữ dội , khốc liệt
của chiến tranh và cũng là sự dữ dội, khốc liệt của tình yêu. Giữa tình yêu và
những hình ảnh về chiến tranh đƣợc đem ra so sánh tƣởng nhƣ chẳng liên
101
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quan đến nhau và không có gì tƣơng đồng, nhƣng nếu lắng tâm hồn mình lại
và suy ngẫm thì ta thấy sự so sánh ấy là hoàn toàn có thể. Đó là trƣờng hợp
của câu mở đầu ca khúc Tình sầu:
Tình yêu như trái phá
Con tim mù loà (Tình sầu)
Trong chiến tranh, đạn đại bác (trái phá) có sức mạnh ghê gớm của loại
vũ khí hạng nặng, đem lại sự đổ vỡ, huỷ diệt và cả cái chết, “những cái chết
không báo trƣớc nhƣng cũng nhuốm đầy đủ màu sắc tai ƣơng của một kiếp
nạn” [64]. Vậy mà trong ca khúc, đích nhằm đến của trái phá lại là một đối
tƣợng đã mất khả năng nhận thức lí tính để ẩn náu trƣớc hiểm hoạ, là con tim
mù loà... Vâng, trái tim đã mù loà vì tình yêu, và trƣớc tình yêu, nó đã có một
nhịp đập khác.
Tình yêu mang đến những cảm xúc về sự hiểm nguy bất trắc, nhƣng
cũng có lúc mang đến những vị ngọt và trái chín:
- Tình yêu như thương áo
Quen hơi ngọt ngào (Tình sầu)
- Tình yêu như trái chín
Trên cây rụng rời (Tình sầu)
Vị ngọt của tình yêu đƣợc diễn tả bằng những hình ảnh so sánh thật
đơn sơ, bình dị nhƣng vẫn có một cái gì đó cô đơn, lẻ loi, buồn tủi. Nhƣ ngƣời
tình đã đi xa rồi, chỉ còn lại hơi ấm quen thuộc trên chiếc áo để lại mà thôi.
Cũng nhƣ trái chín trên cây rụng rời, sao mà xót xa, tội nghiệp đến vậy!
Thứ hai là, qua so sánh, Trịnh Công Sơn đã thể hiện một cách sinh
động và giàu hình ảnh những cung bậc khác nhau của tình yêu.
Tình yêu trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn là một thứ tình cảm
có tính nhị nguyên, tức là luôn mang trong nó những trạng thái, những thuộc
tính đối lập (xa/gần; rộng/hẹp; trầm/reo vui; mật ngọt/mật đắng...):
Tình xa như trời
102
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tình gần như khói mây (Tình sầu)
Tình xa như trời - một sự so sánh hoàn toàn hợp lí vì không ai có đƣợc
tình yêu trọn vẹn, cũng nhƣ trời kia xa lắm, có ai mà với tới. Nhƣng Tình gần
như khói mây thì là một sự bất ngờ của lời ca đƣợc tác giả mang đến cho
ngƣời nghe. Tại sao lại gần như khói mây? Khói mây thì có ai mà nắm bắt
đƣợc bởi nó mong manh, dễ tan biến và luôn thay hình đổi dạng. Phải chăng đó
cũng chính là một đặc tính của tình yêu - không ai nắm giữ đƣợc tình yêu
trong tay mình cho dù nó đang ở thật gần. Nhƣ Trịnh Công Sơn từng nói:
“Tình yêu tự đến và tự đi, không cần ai dìu dắt. Nó hoàn toàn tự do. Muốn
giam cầm nó thì nó sẽ bay đi. Muốn thả nó bay đi có khi nó ở lại” (Theo [37,
tr.25]).
Tình trầm như bóng cây
Tình reo vui như nắng (Tình sầu)
Ở câu thứ nhất, với sự so sánh tình nhƣ bóng cây và với cơ sở so sánh
là trầm, tác giả đã diễn tả một trạng thái của tình yêu: đứng yên, lặng lẽ và mờ
nhạt. Câu thứ hai, trái lại, diễn tả một trạng thái hoàn toàn khác: Tình yêu
đƣợc nhân cách hoá thành một thực thể sống động đầy hứng khởi với hành
động reo vui và đƣợc so sánh với nắng, bởi nắng vốn mang màu sắc tƣơi sáng
nên thƣờng đƣợc nhắc đến nhƣ dấu hiệu của niềm vui. Trong ca từ Trịnh
Công Sơn, nắng thƣờng đƣợc dùng nhƣ một hình ảnh biểu trƣng, chỉ niềm vui
hiếm hoi nơi “cõi tạm”, và niềm vui ấy cũng hiếm hoi trong những bản tình ca
vốn mang nặng nỗi buồn và ƣu tƣ của ông.
Tình yêu là mật ngọt nhƣng cũng có thể là mật đắng:
Tình yêu mật ngọt
Mật ngọt trên môi
Tình yêu mật đắng
Mật đắng trong đời (Lặng lẽ nơi này)
Tình yêu bao dung, độ lƣợng nhƣng cũng ích kỷ, hẹp hòi:
103
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tình yêu như biển
Biển rộng hai vai...
Tình yêu như biển
Biển hẹp tay người (Lặng lẽ nơi này)
Hay một trạng thái khác của tình yêu, trong một sự liên tƣởng kì lạ hơn:
Cuộc tình lên cao vút
Như chim mỏi cánh rồi.
Như chim xa lìa bầy.
Như chim xa lìa trời.
Như chim bỏ đường bay (Tình sầu)
Đây là một cấu trúc so sánh hết sức độc đáo, không chỉ vì một A (yếu
tố đƣợc so sánh) đƣợc đem ra so sánh với nhiều B (Yêú tố so sánh) mà còn vì
sự đối lập giữa A và B: cuộc tình lên cao vút (hƣớng đi lên) đƣợc so sánh với
chim mỏi cánh, chim xa lìa bầy, chim xa lìa trời, chim bỏ đường bay (hƣớng
đi xuống). ở đây, sự say đắm, nồng nàn khi tình yêu đạt đến độ thăng hoa lại
đƣợc so sánh với những trạng thái mệt mỏi và chia lìa. Phải chăng khi cuộc
tình lên cao vút cũng chính là dự báo cho sự mất mát chia lìa? Điều này đã trở
thành nỗi ám ảnh với ngƣời nhạc sĩ, bởi vậy cấu trúc so sánh này đã trở đi trở
lại hai lần trong ca khúc Tình sầu, thể hiện sự lo lắng, bất an của Trịnh Công
Sơn trƣớc một cuộc tình không may.
Thứ ba là, bằng so sánh, Trịnh Công Sơn đã ca ngợi giá trị vĩnh hằng
của tình yêu.
Tình yêu trong nhạc Trịnh Công Sơn luôn là tình yêu gắn liền với nỗi
bất hạnh, khắc khoải, chia lìa. Những ngƣời tình đến rồi đi và để lại cho ông
những vết thƣơng không dễ hàn gắn và những nỗi đớn đau chẳng thể nguôi
ngoai. Ngay đến tuổi thọ của những chuyện tình cũng chẳng dài lâu, chỉ mong
manh như nắng và thoảng như gió vội:
- Tình mong manh như nắng
104
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tình còn đầy không em (Tình sầu)
- Có chút tình thoảng như gió vội
Tôi chợt nhìn ra tôi (Nhƣ một lời chia tay)
Tình yêu cũng là thứ tình cảm dễ đổi thay (Tình như lá bỗng vàng bỗng
xanh - Tạ ơn) và khiến ngƣời ta phải chờ mong trong khắc khoải, mỏi mòn
những điều vu vơ chẳng bao giờ có đƣợc:
Tình như đá hoài những chờ mong
Tình vu vơ sao ta muộn phiền (Nhƣ một lời chia tay)
Thế nhƣng, Trịnh Công Sơn vẫn tâm niệm: “Có ngƣời yêu thì hạnh
phúc, có ngƣời yêu thì đau khổ, nhƣng dù đau khổ hay hạnh phúc thì con
ngƣời vẫn muốn yêu. Tình yêu vì thế mà tồn tại. Con ngƣời không thể sống
mà không yêu” (Theo 42, tr.24])
Trịnh Công Sơn đã kết lại ca khúc Tình sầu bằng một hình ảnh so sánh
đầy ý nghĩa:
Tình cho nhau môi ấm
Một lần là trăm năm (Tình sầu)
Lời thổ lộ bất chợt này đã xoá đi những bất an, bất trắc, những giằng
xé, giày vò trong tình yêu để chỉ còn lại cái giá trị vĩnh hằng của nó. Dù chỉ
một lần thôi, có thể ngắn, có thể dài, có thể là mật ngọt, có thể là mật đắng
nhƣng một lần ấy là trăm năm, là cả đời ngƣời, để ông luôn trân trọng và biết ơn.
Để mang đến cách nhìn mới mẻ về tình yêu, miêu tả sinh động những
cung bậc khác nhau của tình yêu và ca ngợi giá trị vĩnh hằng của tình yêu,
Trịnh Công Sơn thƣờng so sánh tình yêu với những cái bên ngoài con ngƣời
(những hiện tƣợng tự nhiên, những sự vật hiện tƣợng cụ thể hoặc trừu tƣợng).
Chẳng hạn:
Tình yêu như vết cháy
Trên da thịt người (Tình sầu)
Ở đây, cơ sở so sánh, tức nét tƣơng đồng giữa cái đƣợc so sánh là tình
105
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
yêu và cái so sánh là vết cháy trên da thịt người đã đƣợc ẩn giấu đi. Vết cháy
trên da thịt người là một vết thƣơng làm cho ngƣời ta đau đớn, xót xa. Trịnh
Công sơn đã từng phát biểu: Tình yêu có thể là một bông hoa, cùng lúc có thể
là một tai nạn. Khi tình yêu là một tai nạn, chắc hẳn sẽ để lại những vết
thƣơng. Và có vết thƣơng nào lại không xót xa, đau đớn! Trịnh Công Sơn đã
cụ thể hoá nỗi đau của vết thƣơng lòng bằng nỗi đau của vết thƣơng trên thể
xác. Nhạc sĩ đã dành cho ngƣời nghe cả một khoảng trời để suy ngẫm, liên
tƣởng, từ đó tìm ra nét tƣơng đồng giữa hai đối tƣợng ở hai vế: yếu tố đƣợc so
sánh và yếu tố so sánh. Qua đó phát hiện ra đặc điểm của đối tƣợng đƣợc so
sánh. Đây cũng là một trong những yếu tố khiến cho nhạc Trịnh trở thành một
dòng nhạc “kén nguời nghe”.
Để thể hiện những chiêm nghiệm về tình yêu, nhạc sĩ đã sử dụng
phƣơng thức so sánh với những yếu tố đƣợc so sánh (A) và những yếu tố so
sánh (B) đƣợc trình bày trong bảng sau (Bảng 3.3):
A - (phƣơng diện so STT tnss B - (yếu tố mở rộng) sánh)
tình yêu 1 nhƣ biển - biển rộng hai vai
tình yêu 2 nhƣ biển - biển hẹp tay ngƣời
tình yêu 3 nhƣ trái phá com tim mù loà
tình yêu 4 nhƣ vết cháy trên da thịt ngƣời
tình yêu 5 nhƣ nỗi chết cơn đau thật dài
tình yêu 6 nhƣ cơn bão đi qua địa cầu
tình yêu 7 nhƣ trái chín trên cây rụng rời
tình yêu 8 nhƣ thƣơng áo quen hơi ngọt ngào
tình yêu 9 nhƣ đốt sáng con tim tật nguyền
tình yêu 10 mật ngọt - mật ngọt trên môi
tình yêu 11 mật đắng - mật đắng trong đời
106
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tình yêu 12 dấu chim bay
13 tình ta nhƣ núi rừng cúi đầu
14 tình nhƣ nắng - vội tắt chiều hôm
15 tình nhƣ đá - hoài những chờ mong
16 tình nhƣ chút nắng
17 chút tình - thoảng nhƣ gió vội
18 tình - buồn nhƣ là nấm hoang
19 tình - xa nhƣ trời
20 tình - gần nhƣ khói mây
21 tình - trầm nhƣ bóng cây
22 tình - reo vui nhƣ nắng
23 tình - mong manh nhƣ nắng
24 tình ngỡ đã quên đi nhƣ lòng cố lạnh lùng
nhƣ chim mỏi cánh rồi
nhƣ chim xa lìa bầy 25 cuộc tình lên cao vút nhƣ chim xa lìa trời
nhƣ chim bỏ đƣờng bay
26 một lần yêu thƣơng một đời bão nổi
BẢNG 3.3
(Ghi chú: Dấu ngoặc đơn (...) trong (phương diện so sánh) và (yếu tố
mở rộng) chỉ khả năng "có" hoặc "không).
3.4. PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI NHỮNG CHIÊM NGHIỆM VỀ
ĐỜI NGƢỜI
Giáo lí nhà Phật giải thích: Tất cả mọi sự vật trên đời đều lƣu chuyển
và biến dịch, không có gì là thƣờng trụ, bất biến cả. Bất cứ một sự vật hiện
tƣợng nào trên đời cũng phải trải qua 4 thời kì: “sinh - trụ - dị - diệt”. “Sinh”
107
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
là sinh ra. “Trụ” là tồn tại, phát triển một thời gian. “Dị” là biến đổi. “Diệt” là
tan biến mất. “Sinh - trụ - dị - diệt”, đó là quy luật chung của vạn vật. Cuộc
đời mỗi con ngƣời cũng không nằm ngoài quy luật ấy...
Sinh ra trong một gia đình theo Phật giáo và gắn bó với xứ Huế - nơi có
nhiều chùa chiền, lăng tẩm, ngay từ khi còn rất trẻ, Trịnh Công Sơn đã thấm
nhuần những giáo lí nhà Phật. Và hơn ai hết, ông ý thức rất rõ ràng tính vô
thƣờng và sự hữu hạn của đời ngƣời. Trịnh Công Sơn luôn cho rằng cuộc đời
này chỉ là “cõi tạm” và vòng đời một con ngƣời với thời gian trăm năm chỉ là
một cuộc lƣu trú ngắn ngủi trên thế giới thực tại này:
Người đi quanh thân thế của người
Một trăm năm như tiếng thở dài (Nhƣ tiếng thở dài)
Trong những ca từ mang đậm mầu sắc Phật giáo của Trịnh Công Sơn,
có thể nhận thấy nỗi ám ảnh của ông về sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời ngƣời.
Qua rất nhiều ca khúc, Trịnh Công Sơn đã nói lên nhận thức ấy qua hàng loạt
cấu trúc so sánh.
Trong cõi vô thuỷ, vô chung của trời đất, đời ngƣời chỉ nhẹ như mây khói,
nhƣ chiếc lá vàng rơi rụng lúc thu sang (Đời nhẹ như lá thu - Cánh chim cô
đơn).
Đời ngƣời giống nhƣ đốm lửa: bé nhỏ, mong manh, dễ tàn, dễ tắt:
Đời ta có khi là đốm lửa
Một hôm nhóm trong vườn khuya (Đêm thấy ta là thác đổ)
Trải qua một kiếp phù du, khi chạm đến bến bờ, đến ranh giới của cuộc đời,
khi tuổi xuân đã già, con ngƣời chợt ngộ ra một điều: đời người như gió qua:
Ôi phù du
Từng tuổi xuân đã già
Một ngày kia đến bờ
Đời người như gió qua (Phôi pha)
Ngoài sự ngắn ngủi, hữu hạn, Trịnh Công Sơn còn có những chiêm
108
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghiệm mới mẻ về đời ngƣời sau những chiều trở về từ một con phố nào đó.
Đời ngƣời là con nước trôi, trôi mãi về một nơi vô định:
Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là con nước trôi (Nghe những tàn phai)
Đời ngƣời là những chuyến xe đi về trong “cõi tạm” để rồi một ngày
nào đó, một chuyến xe tựa như vừa đến nơi chia lìa:
Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những chuyến xe (Nghe những tàn phai)
Đời ngƣời có thể là những đám đông huyên náo, ồn ào, khi con ngƣời
sống giữa ngƣời thân, bạn bè...:
Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những đám đông (Nghe những tàn phai)
Đời ngƣời cũng có thể là những quán không trống trải, vắng lặng, khi
con ngƣời sống trong thế giới của riêng mình:
Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những quán không (Nghe những tàn phai)
Khi đắm chìm trong nỗi cô đơn, con ngƣời mới cảm nhận hết sự im
vắng của cuộc đời:
Đời sao im vắng
Như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang (Ru ta ngậm ngùi)
Trong nỗi cô đơn, Trịnh Công Sơn đã đẩy đến tận cùng sự đối lập giữa
cái hữu hạn của đời ngƣời với cái vô hạn của cuộc đời để làm nổi bật tính chất
phù du của kiếp ngƣời:
Trời cao đất rộng
Một mình tôi đi...
Đời như vô tận...
109
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Một mình tôi về với tôi (Lặng lẽ nơi này)
Ý thức đƣợc sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời ngƣời và cảm nhận rõ ràng
sự vắng lặng của cuộc đời, Trịnh Công Sơn luôn bị ám ảnh bởi cái chết, bởi
sự vắng bóng của con ngƣời trong cuộc đời. Ông từng tâm sự: “Càng sống nhiều
ta càng thấy cái chết dễ dàng đến với bất cứ một ai. Chết quá dễ mà sống thì quá
khó. Hôm qua gặp nhau đấy, ngày mai lại mất nhau. Sống thì có hẹn hò hôm này
hôm mai. Chết thì chẳng bao giờ có một cuộc hẹn hò nào trƣớc”. (Theo [37,
tr.37]). Trong cuộc đời con ngƣời, sự sống và cái chết luôn kề sát nhau:
- Còn sống một ngày
Là hẹn chết mai đây (Buồn từng phút giây)
- Sống có bao năm vui vui buồn buồn người người ngợm ngợm
Sống chết mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non
(Giọt lệ thiên thu)
Con ngƣời từ cõi hƣ vô đến với cuộc đời để sống trọn một kiếp ngƣời,
rồi một chều chợt giật mình xót xa:
Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy
Cho trăm năm vào chết một này (Cát bụi)
Đời ngƣời - một khái niệm rất trừu tƣợng đã đƣợc Trịnh Công Sơn so
sánh với những sự vật hiện tƣợng cụ thể, gần gũi (lá thu, đốm lửa, gió qua,
mây khói, con nước trôi, những quán không, những đám đông, những chuyến
xe…). Với sự so sánh này, Trịnh Công Sơn đã làm nổi bật sự hữu hạn, thoáng
chốc của kiếp ngƣời. Với việc ý thức rõ ràng tính chất ngắn ngủi, vô thƣờng
của thời gian trong “cõi tạm”, của cuộc đời mỗi con ngƣời, Trịnh Công Sơn
“không dồn đuổi con ngƣời ta tới một nhịp sống gấp gáp, cũng không làm con
ngƣòi buông xuôi trƣớc số phận mà là nhìn nhận một cách chân xác chỗ đứng
đúng nghĩa của con ngƣời” (Theo [46, tr.462]). Ông động viên mọi ngƣời:
110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hãy yêu ngày tới
Dù quá mệt kiếp người
Còn cuộc đời ta cứ vui
Dù vắng bóng ai (Để gió cuốn đi)
Ông kêu gọi con ngƣời “phải sống hết mình trong mỗi sát na của hiện
tại”, bởi: Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ (Mƣa hồng).
Để thể hiện những chiêm nghiệm về đời ngƣời, nhạc sĩ đã sử dụng
phƣơng thức so sánh với những yếu tố đƣợc so sánh (A) và những yếu tố so
111
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sánh (B) đƣợc trình bày trong bảng sau (Bảng 3.4):
A - (phƣơng diện so STT tnss B sánh)
đời ta 1 tựa lá cỏ
đốm lửa một hôm nhóm trong đời ta 2 là vƣờn khuya
đời mình 3 là những chuyến xe
đời mình 4 là những đám đông
đời mình 5 là những quán không
đời mình 6 là con nƣớc trôi
đời ngƣời 7 nhƣ gió qua
đời 8 nhƣ vô tận
đời - nhẹ 9 nhƣ lá thu
đời - nhẹ 10 nhƣ mây khói
đời - buồn 11 nhƣ chiều hôm có cơn mƣa rào
đời - buồn 12 nhƣ chiều đông nắng lên nƣơng dâu
đời - buồn 13 nhƣ một vết thƣơng
nhƣ đồng lúa gặt xong đời - im vắng 14 nhƣ rừng núi bỏ hoang
15 lá khô vì đợi chờ cũng nhƣ đời ngƣời mãi âm u
nắng vàng phai 16 nhƣ một nỗi đời riêng
thiên thu 17 là một đƣờng không bến bờ
một trăm năm 18 nhƣ tiếng thở dài
19 nhƣ sống chết - mong manh thân cỏ hèn mọc đầy núi non
20 là còn sống một ngày hẹn chết mai đây
112
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
BẢNG 3.4
(Ghi chú: Dấu ngoặc đơn (...) trong (phương diện so sánh) chỉ khả năng
"có" hoặc "không).
TIỂU KẾT
So sánh là một trong những phƣơng thức quan trọng trong việc xây
dựng hình tƣợng nghệ thuật ở ca từ của Trịnh Công Sơn, đặc biệt là em và tôi
- hai hình tƣợng đƣợc trở đi trở lại trong rất nhiều ca khúc. Phuơng thức này
cũng đƣợc sử dụng để thể hiện một cách sâu sắc những chiêm nghiệm của tác
giả về tình yêu và đời ngƣời.
Em là hình tƣợng chung của những ngƣời phụ nữ đã đi qua cuộc đời
Trịnh Công Sơn và trở thành nguồn cảm hứng để ông viết lên những bản tình
ca bất hủ. Bằng phƣơng thức so sánh, Trịnh Công Sơn đã vẽ lên bức chân
dung của em với vẻ đẹp liêu trai, mong manh, vừa có thật vừa hƣ ảo. Vẻ đẹp
của em có lúc đƣợc Trịnh Công Sơn so sánh với vẻ đẹp cao quý của thiên
nhiên, cũng có lúc vẻ đẹp ấy trở thành chuẩn mực để thiên nhiên lấy làm cái
so sánh.
Qua phƣơng thức so sánh, trong ca từ của Trịnh Công Sơn, hình tƣợng
tôi chính là sự nhập vai của tác giả để nói lên những tâm trạng, và nỗi niềm
của mình. Để “diễn đạt mình”, Trịnh Công Sơn thƣờng sử dụng cấu trúc so
sánh có yếu tố so sánh đƣợc mở rộng bằng những chi tiết miêu tả. Với những
yếu tố so sánh này, chúng ta có thể thấu hiểu phần nào những tâm trạng, cảm
xúc và nỗi lòng của hình tƣợng tôi: với cuộc đời, tôi là một kẻ cô đơn đến
cùng cực; với quê hƣơng, tôi là một kẻ lạc loài; với tình yêu, tôi là một kẻ bị
phụ tình. Cô đơn, lạc loài, bị phụ tình, nhƣng tôi luôn sống giữa cuộc đời
bằng một trái tim yêu đời và yêu ngƣời tha thiết.
Có ngƣời đã nhận xét, Trịnh Công Sơn đã yêu nhƣ một ngƣời trẻ và
chiêm nghiệm về tình yêu nhƣ một ngƣời đã thấu lẽ tử sinh. Trong những bản
tình ca của mình, bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, mới lạ, Trịnh Công
113
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Sơn đã mang đến cho ngƣời nghe những cảm nhận mới mẻ về tình yêu, dẫn
dắt họ trải qua những cung bậc cảm xúc khác nhau của tình yêu, và cuối cùng,
khiến họ đồng tình với tác giả: dù hạnh phúc hay khổ đau, thì con ngƣời cũng
không thể sống mà không yêu.
Qua những ca từ mang đậm mầu sắc Phật giáo của Trịnh Công Sơn khi
ông thể hiện những chiêm nghiệm về đời ngƣời, với sự so sánh đời ngƣời -
một khái niệm trừu tƣợng với những sự vật hiện tƣợng cụ thể, gần gũi, có thể
nhận thấy tác giả luôn ý thức rất rõ ràng về sự ngắn ngủi và hữu hạn của đời
ngƣời. Từ sự ý thức ấy, ông trân trọng từng giây phút đƣợc có mặt trên cõi đời
và luôn tâm niệm: sống cho tròn đầy sự có mặt và chết cho ngập tràn cõi hƣ
114
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
không.
KẾT LUẬN
1. Việc xác định các cơ sở lí thuyết và miêu tả một phần thực tế (với
những nét khái quát về ca từ, so sánh, cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của
Trịnh Công Sơn) là điểm tựa để nghiên cứu ca từ của Trịnh Công Sơn dƣới
góc độ ngôn ngữ học, với phƣơng thức so sánh.
Đến với nghệ thuật nhƣ một sự ngẫu nhiên của số phận, nhƣng Trịnh
Công Sơn đã tạo dựng cho mình một dòng nhạc độc lập, có sức sống và vị trí
riêng. Lắng nghe nhạc của ụng, chúng ta thấy đƣợc cái khốc liệt của chiến
tranh qua những ca khúc phản chiến, sự hữu hạn của đời ngƣời qua những ca
khúc về thân phận, và những cung bậc khác nhau của tình yêu qua những bản
tình ca, đồng thời cảm nhận đƣợc lòng yêu đời và yêu ngƣời tha thiết của
ngƣời nghệ sĩ đã sống giữa cuộc đời và đến với nghệ thuật bằng trái tim đầy
lòng nhân ái. Một trong những yếu tố làm nên sức sống của nhạc Trịnh chính
là phần ca từ (đƣợc hiểu là phần ngôn ngữ văn học trong âm nhạc), và đó
cũng là nơi thể hiện sự tài hoa trong sử dụng tiếng Việt của ông, trong đó có
phƣơng thức so sánh.
So sánh là một trong những phƣơng thức làm nên vẻ đẹp và nét độc đáo
của ngôn ngữ nghệ thuật. Theo quan niệm của tu từ học, đây là phƣơng thức
dùng để đối chiếu hai đối tƣợng khác loại, không hoàn toàn đồng nhất với
nhau mà có thể chỉ có một nét giống nhau, thậm chí chỉ có một mối liên hệ
sâu xa nào đó, nhằm gợi ra những hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ
trong nhận thức của ngƣời đọc, ngƣời nghe, và nhằm diễn tả bằng hình ảnh
một lối tri giác mới mẻ về đối tƣợng đƣợc đem ra so sánh. Đây cũng chính là
115
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phƣơng thức đƣợc sử dụng phổ biến trong ca từ của Trịnh Công Sơn.
2. Trong ca từ của Trịnh Công Sơn, phƣơng thức so sánh xuất hiện với
nhiều kiểu loại đa dạng, góp phần thể hiện cá tính sáng tạo riêng về ngụn từ
nghệ thuật của nhạc sĩ xột về mặt hình thái cấu trúc cũng nhƣ về mặt ngữ
nghĩa.
Về mặt hình thái cấu trúc, ta gặp 13 kiểu cấu trúc so sánh, trong đó kiểu
cấu trúc A + tnss + B chiếm số lƣợng nhiều nhất. Sử dụng cấu trúc thiếu cơ
sở so sánh này, Trịnh Công Sơn đã dành cho ngƣời nghe một sự tự do liên
tƣởng để tìm ra những nét giống nhau giữa yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so
sánh, từ đó phát hiện ra đặc điểm của đối tƣợng đƣợc so sánh theo chiều
hƣớng liên tƣởng của mình.
Trong số 8 từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh, các từ ngữ sử dụng trong
kiểu so sánh tƣơng tự (như, tựa, tựa như, như là, cũng như) có tần số xuất
hiện cao nhất, tiếp theo là các từ ngữ sử dụng trong kiểu so sánh ngang bằng
(là, bằng). Tần số xuất hiện của từ ngữ so sánh trong kiểu so sánh dị biệt hơn
chỉ chiếm một số lƣợng rất nhỏ.
Yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh đƣợc Trịnh Công Sơn sử dụng
trong cấu trúc so sánh thƣờng là kết cấu danh ngữ và cụm C - V, ít dùng động
ngữ và tính ngữ; từ loại danh từ đƣợc tác giả dùng nhiều hơn tính từ và động từ.
- Về mặt ngữ nghĩa, ở yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố so sánh, Trịnh
Công Sơn sử dụng hai trƣờng nghĩa đối lập: thuộc con ngƣời và ngoài con
ngƣời. Trong đó, yếu tố đƣợc so sánh thƣờng thuộc trƣờng nghĩa thuộc con
ngƣời, yếu tố so sánh thƣờng thuộc trƣờng nghĩa ngoài con ngƣời.
Trong mối tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh (A) và yếu
tố so sánh (B), thƣờng gặp là tƣơng quan giữa A thuộc con ngƣời - B ngoài
con ngƣời, tiếp đó là A ngoài con ngƣời - B ngoài con ngƣời. Tƣơng quan
giữa A ngoài con ngƣời - B thuộc con ngƣời và A thuộc con ngƣời - B thuộc
116
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
con ngƣời chiếm một số lƣợng nhỏ.
3. Hình tƣợng nghệ thuật là một bức tranh vừa cụ thể vừa khái quát về
cuộc sống, về con ngƣời, đƣợc nghệ sĩ xây dựng nên và thể hiện bằng nhiều
cách, trong đó so sánh là một trong những phƣơng thức quan trọng. Trong
những ca khúc của Trịnh Công Sơn, phƣơng thức so sánh góp phần không
nhỏ trong việc xây dựng những hình tƣợng nghệ thuật để lại ấn tƣợng sâu sắc
trong lòng ngƣời nghe, đặc biệt là em và tôi - hai hình tƣợng đƣợc trở đi trở
lại trong rất nhiều ca khúc. Phƣơng thức này cũng đƣợc sử dụng để thể hiện
một cách sâu sắc những chiêm nghiệm của tác giả về tình yêu và đời ngƣời.
Bằng so sánh, Trịnh Công Sơn đã vẽ lên bức chân dung em với vẻ đẹp
mong manh, vừa có thật vừa hƣ ảo. Đây cú thể cũng chính là hình tƣợng
chung của những ngƣời phụ nữ đã đi qua cuộc đời Trịnh Công Sơn và trở
thành nguồn cảm hứng để ông viết lên những bản tình ca bất hủ.
Qua xem xét phƣơng thức so sánh, chúng ta có thể thấu hiểu phần nào
những tâm trạng, cảm xúc và nỗi lòng của hình tƣợng tôi - một hiện thân của
chính tác giả: Với cuộc đời, tôi là một kẻ cô đơn đến cùng cực; với quê
hƣơng, tôi là một kẻ lạc loài; với tình yêu, tôi là một kẻ bị phụ tình. Thế
nhƣng, tôi luôn sống giữa cuộc đời bằng một trái tim yêu đời và yêu ngƣời tha
thiết.
Cũng qua những hình ảnh so sánh độc đáo, mới lạ trongg ca khúc,
ngƣời nghe sẽ có đƣợc những cảm nhận mới mẻ về tình yêu, đƣợc dẫn dắt qua
những cung bậc khác nhau của tình yêu, và cuối cùng, đồng tình với tác giả:
con ngƣời luôn khao khát yêu và đƣợc yêu, dù khổ đau hay hạnh phúc.
Sự ngắn ngủi và hữu hạn của đời ngƣời đƣợc thể hiện trong rất nhiều ca
khúc của Trịnh Công Sơn, bằng sự so sánh đời ngƣời - một khái niệm rất trừu
tƣợng với những sự vật hiện tƣợng cụ thể. Với việc ý thức rõ ràng tính chất
ngắn ngủi, vô thƣờng của thời gian trần thế, của cuộc đời mỗi con ngƣời, Trịnh
Công Sơn trân trọng từng giây phút đƣợc có mặt trên cõi đời, và luôn động viên
117
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mọi ngƣời hãy sống hết mình, bởi cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ.
4. Kết quả của việc nghiên cứu phuơng thức so sánh trong ca từ của
Trịnh Công Sơn là minh chứng cho khả năng tìm hiểu giá trị của văn bản
nghệ thuật dƣới góc nhìn ngôn ngữ học. Đồng thời, nó có thể giúp những
ngƣời yêu nhạc Trịnh tiếp cận có định hƣớng và dễ dàng hơn với dòng nhạc
đƣợc đánh giá là “kén ngƣời nghe” này. Để có thể hiểu đầy đủ và sâu sắc hơn về
ca từ của Trịnh Công Sơn, cần tiếp tục nghiên cứu ở những khía cạnh khác nữa:
những câu bỏ lửng, sự sắp xếp các đơn vị từ ngữ, những nét đối xứng, các lớp từ
ngữ, các kiểu câu, lối xƣng gọi... Ngoài phƣơng thức so sánh, cũng cần tìm hiểu
thêm về các phƣơng thức tu từ khác: ẩn dụ, tƣợng trƣng, nhân hoá, hoán dụ...
Tác giả luận văn này hi vọng sẽ có dịp tiếp tục xem xét các khía cạnh trên, để có
cơ hội hiểu rõ hơn nữa phong cách ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn, ngƣời mà,
nhƣ ông đó tự phỏc thảo chõn dung: “Qua ca khỳc, tụi đã đến gần và đã đi xa
những chuyện tình, đã tham dự những nỗi hân hoan của đời ngƣời và cũng đã
118
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gánh nhẹ giùm những phiền muộn”...
119
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
Hàn Thị Thu Hƣờng (2010), “Phƣơng thức so sánh trong ca khúc Tình sầu
của Trịnh Công Sơn”, T/c Ngôn ngữ và Đời sống, số 8 (178) - 2010, tr.24-29.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
120
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1. Dƣơng Viết Á (2005), Ca từ trong âm nhạc Việt Nam, Nxb Viện õm nhạc, H.
2. Dƣơng Viết Á (2005), Âm nhạc Việt Nam từ góc nhìn văn hoá, tập 1, Nxb
Hà Nội, H.
3. Jean Chevalier Alaingheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hoá thế
giới, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
4. Diệp Quang Ban (2003), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb GD, H.
5. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng, từ ghép, đoản ngữ),
Nxb ĐHQG, H.
6. Đỗ Hữu Châu (1962), Giáo trình Việt ngữ, tập 2, Nxb GD, H.
7. Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb GD, H.
8. Hà Châu (1966), “Cách so sánh trong ca dao ngày nay”, T/c Văn học, số 9.
9. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2006), Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt, Nxb GD, H.
10. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb GD, H.
11. Hữu Đạt (1981), “Thủ pháp so sánh trong ca dao và thơ hiện đại”, Văn
nghệ, số 5.
12. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan (1998), Cơ sở tiếng Việt, Nxb GD, H.
13. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐHQG, H.
14. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb ĐHQG, H.
15. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb GD, H.
16. Hoàng Văn Hành (1976), Về bản chất của thành ngữ so sánh tiếng Việt,
T/c Ngôn ngữ, số 1, tr 11-19.
17. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2009), Biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ của
Trịnh Công Sơn, Nxb Khoa học xã hội, H.
18. Lê thị Thu Hiền (2007), Quan niệm nhân sinh trong ca từ Trịnh Công
Sơn, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn - Chuyên ngành Văn học Việt Nam,
ĐHSPHN.
19. Đỗ Đức Hiểu và các tác giả khác (2004), Từ điển Văn học, Nxb Thế giới, H. 20. Nguyễn Hữu Thái Hoà và những ngƣời bạn (2007), Vườn xưa - hành
trình âm nhạc Trịnh Công Sơn, Nxb Trẻ, H.
21. Đinh Ngọc Hoa (1998), So sánh tu từ trong tác phẩm của Nam Cao trước
121
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cách mạng, Ngữ học trẻ 98, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, HN.
22. Lƣu Quý Khƣơng (2003), “So sánh logic và so sánh tu từ”, T/c Ngôn ngữ,
số 16.
23. Đinh Trọng Lạc (1964), Giáo trình Việt ngữ, tập 3, Nxb GD, H.
24. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hoà (2004), Phong cách học
tiếng Việt, Nxb GD, H.
25. Đinh Trọng Lạc (2005), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt,
Nxb GD, H.
26. Nguyễn Thế Lịch (1988), “Các yếu tố và cấu trúc so sánh nghệ thuật
tiếng Việt” (số phụ của T/c Ngôn ngữ), số 1.
27. Nguyễn Thế Lịch (1991), “Từ so sánh đến ẩn dụ”, T/c Ngôn ngữ, số 3.
28. Nguyễn Thế Lịch (1998), “Về các tính chất của ngôn ngữ nghệ thuật”,
T/c Ngôn ngữ, số 4.
29. Nguyễn Thế Lịch (2001), “Cấu trúc so sánh trong tiếng Việt”, T/c Ngôn
ngữ, số 7 & 9.
30. Trần Thị Thuỳ Linh (2008), Nghiên cứu thủ pháp so sánh trong tiểu
thuyết của Chu Lai và Lê Lựu, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
31. Nguyễn Thị Loan (2009), Quan niệm mĩ học trong ca từ và văn xuôi
Trịnh Công Sơn, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSPHN.
32. Đoàn Tiến Mạnh (2000) “Cấu trúc của vế chuẩn so sánh tu từ (qua cứ liệu
văn xuôi)”, Kỷ yếu Ngữ học trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, H.
33. Ban Mai (2008), Trịnh Công Sơn - vết chân dã tràng, Nxb Lao động -
Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, H.
34. Hoàng Kim Ngọc (2009), So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình, Nxb
KHXH, H.
35. Lê Thị Nhƣ Nguyệt (2009), So sánh và ẩn dụ tu từ trong thơ Xuân Quỳnh,
Luận văn thạc sĩ Ngữ văn - Chuyên ngành Ngôn ngữ, ĐHSP Thái Nguyên. 36. Nhiều tác giả (2001), Trịnh Công Sơn - Cát bụi lộng lẫy, Nxb Văn hoá,
tạp chí Sông Hƣơng, Huế.
37. Nhiều tác giả (2004), Trịnh Công Sơn - người hát rong qua nhiều thế hệ,
122
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nxb Trẻ, H.
38. Nhiều tác giả (2005), Trịnh Công Sơn - cuộc đời - âm nhạc - thơ - hội hoạ
và suy tưởng, Nxb Văn hoá Sài Gòn, TP Hồ Chí Minh.
39. Hoàng Phê (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
40. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt (câu), Nxb GD, H.
41. Bùi Vĩnh Phúc (2008), Trịnh Công sơn - Ngôn ngữ và những ám ảnh
nghệ thuật, Nxb Văn hoá Sài Gòn, TP Hồ Chớ Minh.
42. Lê Minh Quốc (2006), Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người, Nxb Phụ nữ, H.
43. Nguyễn Quang Sáng (1990), Paris - tiếng hát Trịnh Công Sơn, Nxb Tác
phẩm mới.
44. Fedinand De Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb
Khoa học xã hội, H.
45. Nguyễn Trọng Tạo - Nguyễn Thuỵ Kha - Đoàn Tử Huyến (2001), Trịnh
Công Sơn - Một người thơ ca - một cõi đi về, Nxb Âm nhạc, Trung tâm
văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, H.
46. Nguyễn Trọng Tạo - Nguyễn Thuỵ Kha - Đoàn Tử Huyến (2004), Một
cõi Trịnh Công Sơn, Nxb Thuận Hoá.
47. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb
KHXH, H
48. Nguyễn Thanh (1974), “Bƣớc đầu tìm hiểu lối so sánh trong cách nói,
cách viết của Hồ Chủ Tịch”, T/c Ngôn ngữ, số 2.
49. Nguyễn Quý Thành (2000), “Cấu trúc ngữ pháp - ngữ nghĩa của những
câu tục ngữ Việt có dạng “A là B”, Kỷ yếu Ngữ học trẻ, Hội Ngôn ngữ
học Việt Nam, H.
50. Bùi Đức Thao (2002), “Về phép so sánh trong tiếng Việt”, Kỷ yếu Ngữ
học trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, H.
51. Thích Giác Thiện (2007), Vô thường, Nxb Tổng hợp TPHCM, TP Hồ Chí Minh.
52. Hoàng Tá Thích (2007), Như những dòng sông (Tản mạn về nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn), Nxb Văn nghệ, H.
53. Trần Thị Chung Toàn (1983), “Thang độ phép so sánh và sự phủ định”,
T/c Ngôn ngữ, số 2.
54. Nguyễn Đức Tồn (1990), “Chiến lƣợc liên tƣởng - so sánh trong giao tiếp
123
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của ngƣời Việt Nam”, T/c Ngôn ngữ, số 3.
55. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hoá dân tộc của ngôn ngư và tư
duy, Nxb KHXH, H.
56. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc đểm tu từ tếng Việt, Nxb ĐH
& THCN, H.
57. Bùi Tất Tƣơm (1997), Giáo trình cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb
GD, H.
58. Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng (2005), Trịnh Công Sơn và cây đàn Lya của
hoàng tử bé, Nxb trẻ, H.
59. Tạp chí Thời Văn, số 2 (đặc tuyển về Trịnh Công Sơn và giới trẻ), Nxb
Văn nghệ, 2005.
60. Bùi Khắc Việt (1978), “Về tính biểu trƣng của thành ngữ so sánh trong
tiếng Việt”, T/c Ngôn ngữ, số 1.
61. Trần Quốc Vƣợng (chủ biên) (2008), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb GD, H
62. Nguyễn Đắc Xuân (2003), Trịnh Công Sơn - Có một thời như thế, Nxb
Văn học, H.
63. Nguyễn Nhƣ ý, Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc Lê (2003),
Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb GD, H.
64. Bửu ý (2003), Một nhạc sĩ thiên tài, Nxb Trẻ, H.
124
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
65. http:// www.tcs-home.org.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
DANH MỤC NHỮNG CA KHÚC
ĐƢỢC KHẢO SÁT TRONG LUẬN VĂN
1. Ai ngoài cánh cửa
2. Bài ca dành cho những xác ngƣời
3. Bay đi thầm lặng
4. Bên đời hiu quạnh
5. Bến sông
6. Biển nghìn thu ở lại
7. Biển nhớ
8. Biển sáng
9. Biết đâu nguồn cội
10. Bốn mùa thay lá
11. Bống bồng ơi
12. Bống không là bống
13. Buồn từng phút giây
14. Ca dao mẹ
15. Cánh chim cô đơn
16. Cánh đồng hoà bình
17. Cát bụi
18. Chỉ có ta trong một đời
19. Chiếc lá thu phai
20. Chiều một mình qua phố
21. Chiều trên quê hƣơng tôi
22. Chìm dƣới cơn mƣa
23. Chính chúng ta phải nói
24. Cho đời chút ơn
25. Cho một ngƣời nằm xuống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
26. Cho quê hƣơng mỉm cƣời
27. Chờ nhìn quê hƣơng sáng chói
28. Chuyện đoá quỳnh hƣơng
29. Chƣa mất niềm tin
30. Chƣa mòn giấc mơ
31. Có một dòng sông đã qua đời
32. Có một ngày nhƣ thế
33. Có nghe đời nghiêng
34. Có những con đƣờng
35. Cỏ xót xa đƣa
36. Còn ai với ai
37. Còn có bao ngày
38. Con đƣờng mùa xuân
39. Con mắt còn lại
40. Còn thấy mặt ngƣời
41. Còn tuổi nào cho em
42. Cúi xuống thật gần
43. Cũng sẽ chìm trôi
44. Cuối cùng cho một tình yêu
45. Dã tràng ca
46. Dân ta vẫn sống
47. Dấu chân địa đàng
48. Diễm xƣa
49. Du mục
50. Dựng lại ngƣời dựng lại nhà
51. Đại bác ru đêm
52. Để gió cuốn đi
53. Đêm
54. Đêm bây giờ đêm mai
55. Đếm thấy ta là thác đổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
56. Đi mãi trên đƣờng
57. Đi tìm quê hƣơng
58. Đoá hoa vô thƣờng
59. Đoản khúc thu Hà Nội
60. Đời cho ta thế
61. Đợi có một ngày
62. Đời gọi em biết bao lần
63. Đôi mắt nào mở ra
64. Đời sống không già vì có chúng em
65. Đốm lửa hồng
66. Đồng dao 2000
67. Đồng dao hoà bình
68. Đừng mong ai, đừng nghi ngại
69. Đƣờng xa vạn dặm
70. Em còn nhớ hay em đã quên
71. Em đã cho tôi bầu trời
72. Em đến cùng mùa xuân
73. Em đến từ nghìn xƣa
74. Em đi bỏ lại con đƣờng
75. Em đi trong chiều
76. Em hãy ngủ đi
77. Em là hoa hồng nhỏ
78. Em ở nông trƣờng em ra biên giới
79. Gần nhƣ niềm tuyệt vọng
80. Gia tài của mẹ
81. Giọt lệ thiên thu
82. Giọt nƣớc cành sen
83. Gọi đời lên mau
84. Gọi tên bốn mùa
85. Góp lá mùa xuân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
86. Hạ trắng
87. Hai mƣơi mùa nắng hạ
88. Hành ca
89. Hành hƣơng trên đồi cao
90. Hạt điều khăn điều
91. Hát trên những xác ngƣời
92. Hãy cố nhƣ
93. Hãy cứ vui nhƣ mọi ngày
94. Hãy đi cùng nhau
95. Hãy khóc đi em
96. Hãy nhìn lại
97. Hãy nói giùm tôi
98. Hãy yêu nhau đi
99. Hoa vàng mấy độ
100. Hoa xuân ca
101. Hoà bình là cơm áo
102. Hôm nay tôi nghe
103. Huế Sài Gòn Hà Nội
104. Huyền thoại mẹ
105. Khăn quàng thắp sáng bình minh
106. Khói trời mênh mông
107. Lại gần với nhau
108. Lặng lẽ nơi này
109. Lời buồn thánh
110. Lời của dòng sông
111. Lời mẹ ru
112. Lời ở phố về
113. Lời ru đêm
114. Lời thiên thu gọi
115. Mẹ đi vắng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
116. Mênh mông Đồng Tháp
117. Môi hồng đào
118. Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
119. Một buổi sáng mùa xuân
120. Một cõi đi về
121. Một lần thoáng có
122. Một ngày nhƣ mọi ngày
123. Một ngày vinh quang một ngày tuyệt vọng
124. Mùa áo quan
125. Mùa hè đến
126. Mùa phục hồi
127. Mƣa hồng
128. Mƣa mùa hạ
129. Mừng sinh nhật
130. Muôn trùng biển ơi
131. Nắng thuỷ tinh
132. Này em có nhớ
133. Ngậm ngùi riêng ta
134. Ngẫu nhiên
135. Ngày dài trên quê hƣơng
136. Ngày mai đây bình yên
137. Ngày nay không còn bé
138. Ngày về
139. Nghe những tàn phai
140. Nghe tiếng muôn trùng
141. Ngọn lửa
142. Ngọn lửa vĩnh cửu ở Matxcơva
143. Ngủ đi con
144. Ngụ ngôn mùa đông
145. Ngƣời con gái Việt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
146. Ngƣời già em bé
147. Ngƣời mẹ Ô Lý
148. Ngƣời về bỗng nhớ
149. Nguyệt ca
150. Nhân danh Việt Nam
151. Nhìn những mùa thu đi
152. Nhớ mùa thu Hà Nội
153. Nhƣ cánh vạc bay
154. Nhƣ chim ƣu phiền
155. Nhƣ hòn bi xanh
156. Nhƣ một lời chia tay
157. Nhƣ một vết thƣơng
158. Nhƣ tiếng thở dài
159. Những ai còn là Việt Nam
160. Những con mắt trần gian
161. Những giọt máu trổ bông
162. Những giọt mƣa khuya
163. Nhƣng hôm nay
164. Níu tay nghìn trùng
165. Nối vòng tay lớn
166. Nƣớc mắt cho quê hƣơng
167. Ở trọ
168. Ông tiên vui
169. Phôi pha
170. Phúc âm buồn
171. Quê hƣơng nặng đau
172. Quỳnh hƣơng
173. Ra đồng giữa ngọ
174. Rồi nhƣ đá ngây ngô
175. Rơi lệ ru ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
176. Ru đời đã mất
177. Ru đời đi nhé
178. Ru em
179. Ru em từng ngón xuân nồng
180. Ru ta ngậm ngùi
181. Ru tình
182. Rừng xanh xanh mãi
183. Rừng xƣa đã khép
184. Sao mắt mẹ chƣa vui
185. Sẽ còn ai
186. Sóng về đâu
187. Ta đi dựng cờ
188. Tạ ơn
189. Ta phải thấy mặt trời
190. Ta quyết phải sống
191. Ta thấy gì đêm nay
192. Tết suối hồng
193. Thành phố mùa xuân
194. Thanh quan ca
195. Thiên sứ bâng khuâng
196. Thủa bống là ngƣời
197. Thƣơng một ngƣời
198. Tiến thoái lƣỡng nan
199. Tiếng ve gọi hè
200. Tình ca của ngƣời mất trí
201. Tình khúc Ơ - Bai
202. Tình nhớ
203. Tình sầu
204. Tình xa
205. Tình xót xa vừa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
206. Tình yêu tìm thấy
207. Tôi biết tôi yêu
208. Tôi đã mất
209. Tôi đang lắng nghe
210. Tôi ơi đừng tuyệt vọng
211. Tôi ru em ngủ
212. Tôi sẽ đi thăm
213. Tôi sẽ nhớ
214. Trả lại em
215. Trong mỗi đời riêng
216. Trong nỗi đau tình cờ
217. Tự tình khúc
218. Từng ngày qua
219. Tuổi đá buồn
220. Tuổi đời mênh mông
221. Tuổi trẻ Việt Nam
222. Tƣởng rằng đã quên
223. Ƣớc mơ về dòng điện
224. Ƣớt mi
225. Vẫn có em bên đời
226. Vẫn nhớ cuộc đời
227. Vàng phai trƣớc ngõ
228. Về giữa Trị An
229. Về thăm mái trƣờng xƣa
230. Về trong suối nguồn
231. Vết lăn trầm
232. Vì bé ngoan
233. Vì tôi cần thấy em yêu đời
234. Việt Nam ơi hay vùng lên
235. Vƣờn xƣa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
236. Xa dấu mặt trời
237. Xác ta xác thù
238. Xanh lòng tàn phai
239. Xin cho tôi
240. Xin mặt trời ngủ yên
241. Xin trả nợ ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
242. Yêu dấu tan theo
PHỤ LỤC 2
MỘT SỐ VĂN BẢN CA KHÚC CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
TÌNH SẦU
1. Tình yêu nhƣ trái phá
Con tim mù lòa
Một mai thức dậy
Chợt hồn nhƣ ngất ngây
Chợt buồn trong mắt nai
Rồi tình vui trong mắt
Rồi tình mềm trong tay
Tình yêu nhƣ vết cháy
Trên da thịt ngƣời
Tình xa nhƣ trời
Tình gần nhƣ khói mây
Tình trầm nhƣ bóng cây
Tình reo vui nhƣ nắng
Tình buồn làm cơn say
Cuộc tình lên cao vút
Nhƣ chim mỏi cánh rồi
Nhƣ chim xa lìa bầy
Nhƣ chim xa lìa trời
Nhƣ chim bỏ đƣờng bay
Tình yêu nhƣ trái chín
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trên cây rụng rời
Một mai thức dậy
Chuyện trò với lá cây
Rồi buồn nhƣ lá bay
Một giòng sông nƣớc cuốn
Một cuộc tình không may
Tình yêu nhƣ thƣơng áo
Quen hơi ngọt ngào
Rời nhau hôm nào
Hồn mình nhƣ vá khâu
Buồn mình nhƣ lũng sâu
Rồi tình trong im tiếng
Rồi tình ngoài hƣ hao
2. Tình yêu nhƣ nỗi chết
Cơn đau thật dài
Tình khâu môi cƣời
Hình hài xƣa đã thay
Mặn nồng xƣa cũng phai
Tình chia nhau gian dối
Tình đày tình đôi nơi
Tình yêu nhƣ cơn bão
Đi qua địa cầu
Tình thắp cơn sầu
Tình dìu qua hố sâu
Tình vời lên núi cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Rồi trong cơn yêu dấu
Tình đày tình xa nhau
Cuộc tình lên cao vút
Nhƣ chim mỏi cánh rồi
Nhƣ chim xa lìa bầy
Nhƣ chim xa lìa trời
Nhƣ chim bỏ đƣờng bay
Tình yêu cho anh đến
Bên cơn muộn phiền
Tình đi âm thầm
Nghìn trùng nhƣ vết sƣơng
Lạnh lùng nhƣ dấu chim
Tình mong manh nhƣ nắng
Tình còn đầy không em
Tình yêu nhƣ đốt sáng
Con tim tật nguyền
Tình lên êm đềm
Vội vàng nhƣng chóng quên
Rộn ràng nhƣng biến nhanh
Tình cho nhau môi ấm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Một lần là trăm năm.
NHƢ CÁNH VẠC BAY
Nắng có hồng bằng đôi môi em
Mƣa có buồn bằng đôi mắt em
Tóc em từng sợi nhỏ
Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh
Gió sẽ mừng vì tóc em bay
Cho mây hờn ngủ quên trên vai
Vai em gầy guộc nhỏ
Nhƣ cánh vạc về chốn xa xôi
Nắng có còn hờn ghen môi em
Mƣa có còn buồn trong mắt trong
Từ lúc đƣa em về
Là biết xa nghìn trùng
Suối đón từng bàn chân em qua
Lá hát từ bàn tay thơm tho
Lá khô vì đợi chờ
Cũng nhƣ đời ngƣời mãi âm u
Nơi em về ngày vui không em
Nơi em về trời xanh không em
Ta nghe nghìn giọt lệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Rớt xuống thành hồ nƣớc long lanh.
TỰ TÌNH KHÚC
1. Tôi nhƣ trẻ nhỏ ngồi bên hiên nhà
Chờ xem thế kỉ tàn phai
Tôi nhƣ trẻ nhỏ tìm nơi nƣơng tựa
Mà sao vẫn cứ lạc loài
Tôi nhƣ là ngƣời lạc trong đô thị
Một hôm đi về biển khơi
Tôi nhƣ là ngƣời một hôm quay lại
Vì nghe sa mạc nối dài
Đừng nghe tôi nói lời tăm tối
Đùng tin tôi nhé vì tiếng cƣời
Đôi khi một ngƣời dƣờng nhƣ chờ đợi
Thật ra đang ngồi thảnh thơi
Tôi nhƣ là ngƣời ngồi trong đêm dài
Nhìn tôi đang quá ngậm ngùi
Một hôm buồn ra ngắm giòng sông
Một hôm buồn lên núi nằm xuống
2. Tôi đi tìm ngày tìm đêm lâu dài
Một hôm thấy đƣợc đời tôi
Tôi yêu mọi ngƣời cỏ cây muôn loài
Làm sao yêu hết cuộc đời
Tôi nhƣ đƣờng về mở ra đô thị
Chờ chân thiên hạ về vui
Tôi nhƣ nụ cƣời nở trên môi cƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phòng khi nhân loại tiếng cƣời
Tìm tôi đi nhé đừng bối rối
Đừng mang gƣơm giáo vào với đời
Tôi nhƣ ngọn đèn từng đêm vơi cạn
Lửa lên thắp một niềm riêng
Tôi nhƣ nụ hồng nhiều khi ƣu phiền
Chờ tôi rã cánh một lần
Một hôm buồn ra ngắm giòng sông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Một hôm buồn lên núi nằm xuống.
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ ĐOẠN TẢN VĂN CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
Phác thảo chân dung tôi
Mỗi sáng, nhìn vào mặt gƣơng, lại thấy thêm rất nhiều những sợi tóc
bạc…
Thủa ấy, tôi là một đứa bé thích ca hát. Mƣời tuổi biết solfège, chép lại
những bài hát yêu thích đóng thành tập, chơi đàn mandolin và sáo trúc. Mƣời
hai tuổi có cây đàn guitar đầu tiên trong đời và từ đó sử dụng guitar nhƣ một
phƣơng tiện quen thuộc để đệm cho chính mình hát.
Tôi không đến với âm nhạc nhƣ một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã
viết những ca khúc đầu tiên từ những đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc
bên trong… Đó là những năm 1956 - 1957, thời của những giấc mộng ngổn
ngang, của những giấc mộng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mƣớt
nhƣ trái quả đầu mùa ấy, tôi rất yêu âm nhạc nhƣng tuyệt nhiên trong tôi
không hề gợi lên cái ham muốn trở thành nhạc sĩ...
Dạo ấy ba tôi đã mất, mẹ tôi ở xa, tôi một mình giữa Sài Gòn này phải
tự quyết định mọi chuyện về đời mình. Cái gánh đời tuổi tác còn quá nhẹ. Có
lúc tôi đã bỏ dở cái trò lãng mạn viết lách này với nỗi ám ảnh ngu ngốc
“xƣớng ca vô loài”. Tôi trằn trọc đêm này qua đêm khác, ray rứt ngày này qua
tháng nọ. Nhƣng càng cố lãng quên thì tiếng hát trong tôi càng vang lên rõ rệt,
tràn ngập cả lúc đứng ngồi, cả trong giấc ngủ.
Dần dà những năm về sau, mới bắt đầu hình thành trong tôi một quan
niệm rõ rệt: Sống là sống với ngƣời khác và muốn có cảm thông chúng ta phải
luôn luôn diễn đạt mình. Trong những cách diễn đạt bằng tiếng nói, bằng chữ
viết và nhiều phƣơng tiện khác, tôi thấy tâm hồn mình có khuynh hƣớng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghiêng về phía ca khúc. Trên mảnh đất nghệ thuật nhỏ nhắn này, tôi tìm thấy
tự do và tôi nghĩ rằng ở đây tôi có thể bày tỏ đƣợc với ngƣời khác về những
niềm vui nỗi buồn của cuộc sống.
Nhìn lại quãng đƣờng mình đã đi, tôi cảm thấy không có gì phải ân
hận. Tôi vẫn là đứa trẻ thơ trong nghệ thuật, lòng còn tràn đầy cảm hứng. Tôi
vẫn còn ham mê học hỏi quanh mình và còn đủ hào hứng mở ra những cuộc
đối thoại, độc thoại với cây cỏ thiên nhiên, với con ngƣời qua ca khúc dƣới
ánh sáng hiền hoà nhân hậu của những ngày tôi đang sống.
Phải chờ đến lúc soi gƣơng nhìn thấy tóc không còn mang màu xanh cũ
nữa, mới nhận ra hết nỗi khát khao đƣợc yêu thƣơng mãi mãi con ngƣời và
cuộc sống. Yêu thƣơng con ngƣời cũng là yêu thƣơng tiếng hát bởi vì tiếng
hát mang trong nó tâm hồn con ngƣời. Tiếng hát sẽ mọc lên cây xanh tƣơi
trong cuộc đời này nhƣ những cây tử đinh hƣơng mọc tràn thơm tho trên
những cánh đồng vô tận.
Với ca khúc, tôi là ngƣời tình của thiên nhiên, là ngƣời bạn của những
em bé. Qua ca khúc, tôi đã đến gần và đã đi xa những chuyện tình, đã tham dự
những nỗi hân hoan của đời ngƣời và cũng đã gánh nhẹ giùm những phiền
muộn.
Ca khúc là đời sống thứ hai sau cái thân thể mà cha mẹ đã sinh thành...
Cuộc sống không thể thiếu tình yêu
Ngƣời ta nói trên trái đất không có gì ở ngoài qui luật cả. Nhƣng tình
yêu cũng có lúc là một ngoại lệ. Tình yêu có lúc nâng bổng con ngƣời nhƣng
cũng lắm lúc nhấn chìm kẻ háo hức. Tôi không tin những ngƣời quá lạc quan
khi nói về tình yêu bằng thể khẳng định. Ngƣời ta có thể tin rằng mình đƣợc
yêu và cũng có thể hiểu nhầm mình không đƣợc yêu. Tôi không thể nói về
một vấn đề mà chính bản thân mình cũng chƣa hiểu hết. Chƣa hiểu hết là nói
theo kiểu đại ngôn chứ thật sự là hoàn toàn không thể hiểu. Nếu có một ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nào đó thách thức tôi một trò chơi nghịch ngợm thì tôi sẽ mang tình yêu ra mà
đánh đố. Tôi e, không ai dám tự xƣng mình am tƣờng hết nội dung phong phú
và quá phức tạp của tình yêu. Có ngƣời yêu thì hạnh phúc; có ngƣời yêu thì
đau khổ. Nhƣng dù đau khổ hay hạnh phúc thì con ngƣời vẫn muốn yêu. Tình
yêu vì thế mà tồn tại. Con ngƣời không thể sống mà không yêu. Hàng nghìn
năm nay con ngƣời dã sống và đã yêu - yêu thật lòng chứ không phải giả. Thế
mà đã có không biết bao nhiêu là tình yêu giả. Cái giả mà rất thật trong đời.
Sự giả trá đó lúc biết đƣợc thì khổ lòng nhau biết bao nhiêu mà kể. Ngƣời giả,
ngƣời thật nhìn nhau lúc bấy giờ ngỡ ngàng không biết thế nào nói đƣợc.
Ngƣời thật thì nằm bệnh, ngƣời giả thì nói, cƣời huyên thuyên. Đời sống vốn
không bất công. Ngƣời giả trong tình yêu thế nào cũng thiệt. Ngƣời thật thế
nào cũng đƣợc đền bù.
Tình yêu thời nào cũng có. Nhƣng có tình yêu kết thúc bi thảm đến độ
có khi con ngƣời không dám yêu. Yêu mà khổ quá thì yêu làm gì. Có ngƣời
đã nói nhƣ vậy.
Tôi đã có dịp đứng trên hai mặt của tình yêu và dù sao chăng nữa, tôi vẫn
muốn giữ lại trong lòng một ý nghĩa bền vững: “Cuộc sống không thể thiếu tình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
yêu”.
PHỤ LỤC 4
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VÀ BÚT TÍCH CỦA TRỊNH CÔNG SƠN
Trịnh Công Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trịnh Công Sơn và Khánh Ly
Sáng tác của Trịnh Công Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn