Quá trình phân hủy các chất trong hệ sinh
thái
Quá trình y ngược với quá trình tổng hợp
các chất. Đến nay, sinh quyển đang trong
trạng thái ổn định của mình, hai quá trình trên
ng ổn định, nếu không bị chính con người
hủy hoại. Quá trình phân hủy các chất trong t
nhiên xy ra theo các dạng chính:
+ hấp hiếu khí hay oxy hóa sinh học,
trong đó chất nhận điện tử (hay chất oxy
hóa) oxy phân tử. hấp hiếu k ngược
với quá trình quang hợp, tức các chất hữu
bị phân giải để cho sản phẩm cuối cùng
khí cacbon dioxyt (CO2) nước. Do đó, tất c
các loài động thực vật, cũng như đa số đại
diện của Monera Protista mới năng
lượng để duy t mi hoạt động sống
cấu tạo nên chất sống riêng cho mình.
Tuy nhiên, CO2, nước chất tế o
cũng thể đưc tạo thành, song nếu
phản ứng oxy a chưa hoàn toàn kết thúc t
các hợp chất hữu y vẫn còn được phân
hủy tiếp bởi c nhóm sinh vật khác trong điều
kiện đặc biệt như hô hấp kỵ khí hoặc lên men.
+ hấp kỵ khí xảy ra không sự
tham gia của oxy phân tử. Chất nhận điện
tử (hay chất oxy hóa) không phải O2 mà
chất hay chất hữu khác. Nhiều vi
sinh vật hoại sinh (vi khuẩn, nấm, động vật
nguyên sinh) tiến hành phân hủy các chất
trong điều kiện không oxy. Chẳng hạn,
vi khuẩn mê tan phân giải các hợp chất
hữu cơ để tạo thành k tan (CH4)
bằng cách khử cacbon hữu hoặc
(cacbonat) trong các đáy ao hồ. Vi khuẩn
tan còn tham gia o việc phân hủy phân
gia c và phân của các loài nhai lại
khác. Vi khuẩn Desulfovibrio khử sunphat
trong các trầm ch biển sâu để tạo thành H2S
như ở biển Đen.
Nhiều nhóm vi khuẩn (vi sinh vật k ky ý)
khả năng hấp hiếu k k khí, tuy
nhiên, ng lượng được giải phóng ra do hô
hấp hiếu kcao hơn nhiều so với hô hấp
k khí. Vi khuẩn hiếu k (Aerobacter)
được nuôi trong điều kiện hiếu k k
k bằng nguồn thức ăn hydrat cacbon, khi
mặt O2 thì hầu như tất cả glucose chuyn
thành sinh khối của vi khuẩn CO2, còn khi
không mặt O2 sự phân hủy xảy ra không
hoàn toàn, ch một lượng rất nh chuyển
thành hợp chất hữu cơ chứa cacbon trong tế
bào, trong khi hàng loạt c hợp chất hữu cơ
khác lại được tiết ra môi trường.
- Sự lên men: Đó quá trình hấp kkhí,
nhưng các chất hữu bị oxy hóa (chất khử)
ng là chất nhận điện t (chất oxy hóa).
Trong quá trình y xy ra sự khử hydro, kéo
theo sự bẻ gãy các chất hữu phức tạp
thành các chất đơn giản hơn.
Tham gia o qtrình lên men các vi sinh
vật k k nghiêm ngặt hoặc k khí tu ý.
Trong trường hợp n men bởi vi sinh vật k
khí y ý, điều kiện oxy, vi sinh vật
chuyển sang hô hấp hiếu khí.
Những vi sinh vật sống k khí, k k tùy ý,
hiếu kkhi tham gia vào c quá trình hô hấp
phân hủy c chất đu đóng vai trò rất lớn
trong các hệ sinh thái. Chúng là những “vệ
sinh viên”, thực hiện s phân hủy c hợp
chất đến giai đoạn cuối cùng, (giai đoạn
khoáng hóa) để trả lại cho i trường, cho
các chu trình vật chất những hợp chất
đơn giản nhất hay những ngun ta học
đã bị lôi cuốn ngay từ đầu vào c vòng luân
chuyển khôn cùng.
Tổng hợp c chất rồi lại phân hủy chúng, nói
chung, chức năng hoạt động của các quần
sinh vật. Nhờ vậy, vật chất được quay vòng
n năng lượng đưc biến đổi. Trên phạm vi
toàn cầu, trừ nguồn năng lượng được tiếp
nhận từ bên ngoài, sinh quyn, về phương
diện vật chất i, mt đơn vị tcung tự
cấp hoàn toàn.
Phân hủy kết quả của cả các quá trình
sinh hữu sinh. Những vụ cháy rng
hay cháy đồng c là yếu tố giới hạn, song
ng yếu tố điều chỉnh quan trọng của t
nhiên. Chúng trc tiếp tham gia phân hy c
chất, chuyn phần lớn khí CO2 các k
khác vào kquyển, n các khoáng chất o
trong đất. Sự phân hủy c chất bởi sinh vật
diễn ra ttừ, chậm hơn so với sự oxy hóa
tức thời của “thần lửa”. Do các quá trình
trên, nhất do hoạt động của sinh vật, trong
sinh quyển nói chung hay từng hsinh thái nói
riêng, các xích thức ăn liên tục được nh
thành: xích thức ăn chăn nuôi, xích thức ăn
phế liệu xích thức ăn thẩm thấu. Nhờ sự
phân hy, trong môi trường còn xuất hiện
hàng loạt các chất “ngoại tiết” (exocrine),
tham gia vào quá trình điều a hoạt động
sống của các thành viên cấu tạo nên quần xã.
Các nhà sinh thái học còn gọi các chất ngoại
tiết là “hoocmon môi trường”. Chúng là sản
phẩm bài tiết, các chất trao đổi trong hoạt
động sống của thế giới sinh vật ới dạng các
chất hữu hòa tan. Trong chúng, nhiều chất
hoạt tính sinh học cao hoặc kìm hãm sự
phát triển (các chất kháng sinh như
Penicilline...) hoặc kích thích sự tăng trưởng
của các loài kc (các vitamin...), một số chất
mang tính dẫn dụ, i cuốn đồng loại khác giới
hay các loài khác tham gia vào việc thực hiện
một chức năng sống của mình (hương thơm
của hoa, của các tuyến tiết).
Những sinh vật phân hy (bao gồm cả nhng
li động vật) tham gia vào việc phân giải các
chất nhiều công đoạn khác nhau, tthô đến
tinh, và bằng nhiều ch với sự mặt của
hàng loạt c loại enzym đặc trưng không
một sinh vật o đủ. Nhvậy, ngay ccác
chất khó phân hủy nhất n cellulose, lignin
hay các hợp chất humic... cũng không thể tồn
tại được, bị phân hủy tới ng. Nhiều chất
gần như “trơ”, chẳngNhững sinh vật phân hủy
(bao gồm cả những loài động vật) tham gia
o việc phân giải các chất nhiều công đoạn
khác nhau, từ thô đến tinh, bằng nhiều
cách với sự mặt của hàng loạt các loại
enzym đặc trưng mà không một sinh vật nào
đủ. Nh vậy, ngay cả các chất k phân
hủy nhất như cellulose, lignin hay các hợp
chất humic... cũng không hạn nitơ, con người
muốn phá v“cầu nối ba” giữa c nguyên t
để đưa chúng vào dạng hợp chất. (NOX,
NH3..) phải tốn knhiều ng lượng, chẳng
kém cường độ ng điện của c tia chớp
trong các n dông thì một s vi khuẩn cố
định đạm như Azotobacter, Clostridium,
Bacterium, Oscillatoria, Methano,
Methanococcus, Desulfovibrio... sống hiếu
khoặc ky khí, trong đất hoặc trong nước...
lại rất dễ dàng phá vỡ cầu nối ba” của phân