BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THẾ HỒNG
QUAN HỆ HOA KÌ – CỘNG HÒA
(1972 – 1991)
NHÂN DÂN TRUNG HOA
CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI MÃ SỐ : 60 22 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGÔ MINH OANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
Các số liệu, tài liệu trích dẫn, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính
khách quan khoa học và nghiêm túc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thế Hồng
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn, học viên đã nhận được sự hướng dẫn giúp đỡ
tận tình của PGS.TS Ngô Minh Oanh. Học viên xin gửi lời tri ân chân thành đến thầy.
Gửi lời cảm ơn đến BGH trường ĐHSP TP.HCM, Khoa Lịch sử, thư viện trường, thư viện Tổng
hợp TPHCM - nơi học viên học tập, tra cứu, tham khảo tài liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Học viên xin gửi lời cảm ơn đến BGH trường Đại Học Đồng Tháp, Ban chủ nhiệm khoa Giáo
Dục Chính Trị, thầy, cô, đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện tốt nhất giúp đỡ học viên học tập nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Xin chân thành cảm ơn.
TPHCM, tháng 8 năm 2011
Học viên
MỤC LỤC
6TLỜI CAM ĐOAN6T ..................................................................................................................... 2
6TLỜI CẢM ƠN6T .......................................................................................................................... 3
6TMỤC LỤC6T ................................................................................................................................ 4
6TBẢNG CỤM TỪ VIẾT TẮT6T ................................................................................................... 6
6TMỞ ĐẦU6T .................................................................................................................................. 7
6T1. Lí do chọn đề tài6T........................................................................................................................................ 7
6T2. Lịch sử vấn đề6T ........................................................................................................................................... 9
6T3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu6T ............................................................................................................ 11
6T4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu, nguồn tài liệu nghiên cứu6T.......................................................... 12
6T5. Đóng góp của luận văn6T ............................................................................................................................ 12
6T6. Bố cục luận văn6T ....................................................................................................................................... 12
6TChương 1. QUAN HỆ HOA KÌ – CHND TRUNG HOA TRƯỚC NĂM 19726T ...................13
6T1.1.Bối cảnh quốc tế từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến đầu thập niên 706T .............................................. 13
6T1.2. Quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa (1949 – 1970)6T ............................................................................ 19
6TTiểu kết chương 16T ....................................................................................................................................... 30
6TChương 2. QUAN HỆ HOA KÌ – CHND TRUNG HOA TỪ 1972 ĐẾN KHI CNXH Ở LIÊN XÔ TAN RÃ6T .................................................................................................................32
6T2.1.Tình hình quốc tế giai đoạn 1972 – 19896T ............................................................................................... 32
6T2.2. Bình thường hóa quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa6T ......................................................................... 34
6T2.2.1. Vận động ngoại giao của Hoa Kì thời tổng thống Richard Nixon6T .................................................. 34
6T2.2.2. Từ thông cáo Thượng Hải đến thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kì và CHND Trung Hoa (1972 - 1979)6T .................................................................................................................................................... 43
6T2.3. Quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa những năm 80 của thế kỉ XX6T ...................................................... 53
6T2.4. Quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa sau sự kiện Thiên An Môn đến 19916T .......................................... 58
6T2.4.1. Thế giới những năm 1989 – 19916T .................................................................................................. 58
6T2.4.2. Quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa 1989 – 19916T ........................................................................ 59
6TTiểu kết chương 26T ....................................................................................................................................... 66
6TChương 3. NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ HOA KÌ – CHND TRUNG HOA (1972 – 1991)6T ...68
6T3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao Hoa Kì – CHND Trung Hoa6T ..................................... 68
6T3.1.1. Yếu tố Liên Xô6T ............................................................................................................................. 68
6T3.1.2. Yếu tố Việt Nam6T ........................................................................................................................... 80
6T3.1.3. Yếu tố Đài Loan6T............................................................................................................................ 89
6T3.2. Tác động của quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa đến hai nước và các nước khác (1972 – 1991)6T ..... 103
6T3.2.1. Tác động đối với hai nước Hoa Kì và CHND Trung Hoa6T ........................................................... 103
6T3.2.2. Ảnh hưởng đến xu hướng hòa bình, dân chủ trong quan hệ quốc tế6T ............................................. 104
6T3.2.3. Đường lối ngoại giao của Liên Xô trước bình thường hoá quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa6T . 107
6T3.2.4. Sự độc lập, tự chủ trong đường lối ngoại giao của Việt Nam6T ....................................................... 111
6T3.2.5. Cân bằng ngoại giao của Hoa Kì trước phản ứng của Đài Loan6T ................................................... 115
6T3.3. Đặc điểm mối quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa trong giai đoạn 1972 - 19916T ............................... 119
6T3.4. Quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa: Mối quan hệ quan trọng trong thế kỉ XXI6T ................................ 125
6TTiểu kết chương 36T ..................................................................................................................................... 131
6TKẾT LUẬN6T ........................................................................................................................... 132
6TTÀI LIỆU THAM KHẢO6T .................................................................................................... 134
6TPHỤ LỤC TƯ LIỆU6T ............................................................................................................. 140
6TPhụ lục 1. 6T .................................................................................................................................................. 140
6TPhụ lục 2. 6T .................................................................................................................................................. 144
6TPhụ lục 3. 6T .................................................................................................................................................. 145
6TPhụ lục 4. United States Code6T ................................................................................................................... 147
6TPhụ lục 5. 6T .................................................................................................................................................. 157
BẢNG CỤM TỪ VIẾT TẮT
CHNDTH: Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
CNCS: Chủ nghĩa cộng sản
CNTB: Chủ nghĩa tư bản
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ sau chiến tranh lạnh kết thúc, Hoa Kì (gọi tắt là Mĩ) là nước phát triển nhất thế giới, Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa (CHNDTH – gọi tắt là Trung Quốc) là nước đang phát triển nhất thế giới,
quan hệ Hoa Kì – CHNDTH (gọi tắt là quan hệ Mĩ – Trung) trở thành cặp quan hệ quan trọng nhất có
ảnh hưởng rộng nhất không chỉ khu vực Châu Á – Thái Bình Dương mà cả trong toàn bộ hệ thống quan
hệ quốc tế. Thật vậy, nếu chúng ta ví mối quan hệ này như một bản nhạc hòa tấu thì những cung bậc
thăng trầm của bản nhạc đều tác động nhất định đến cảm xúc người nghe. Nhiều nhà phân tích đã khái
quát mối quan hệ Mĩ – Trung bằng hai từ: Thăng trầm và đa diện. Nhìn lại lịch sử trong quan hệ giữa
hai nước thì nhận định này là có cơ sở.
Cuộc chiến tranh lạnh đã ra đời thay thế ngay sau khi một cuộc chiến tranh nóng trước đó vừa
kết thúc. Cuộc chiến thể hiện sự đối đầu của hai hệ tư tưởng tư bản chủ nghĩa (TBCN) và Xã hội chủ
nghĩa (XHCN), nó đã chi phối cục diện quan hệ quốc tới đến tận năm 1991. Và quan hệ Mĩ – Trung
cũng chịu sự tác động của cuộc chiến này. Ngày 01.10.1949 nước CHNDTH ra đời, góp phần gia tăng
lực lượng của Chủ nghĩa xã hội (CNXH) trong cuộc đối đầu với Chủ nghĩa tư bản (CNTB). Có thể
thấy, qua sự kiện này đã tác động một cách mạnh mẽ vào lòng tự hào của chính quyền Washington với
sứ mệnh lãnh đạo “thế giới tự do”, ngăn chặn, chống lại sự “đe dọa của chủ nghĩa cộng sản”. Trong
cuộc nội chiến ở Trung Quốc giữa Đảng cộng sản với Quốc Dân Đảng, Mĩ đã nổi lên với vai trò là
nhân tố quan trọng, trong quá trình chống chủ nghĩa phát xít Nhật ở Châu Á, Mĩ đã có những chính
sách giúp đỡ Trung Quốc giải phóng đất nước, nhưng khi Nhật đầu hàng, thái độ của Mĩ cũng dần thay
đổi, Mĩ tiếp tục là lực lượng hậu thuẩn cho Quốc Dân Đảng trong cuộc tranh giành quyền lãnh đạo toàn
Trung Quốc với Đảng cộng sản, ngay cả khi Cách mạng vô sản nước này thành công. Sau khi
CHNDTH ra đời, nước này cũng xem Mĩ là một đế quốc cần phải đối phó, chính sách “nhất biên đảo”
là chiến lược ngoại giao mà nước này áp dụng, ngả hẳn về phía Liên Xô trong cùng một hệ thống
XHCN, đối lập với hệ thống TBCN do Mĩ đứng đầu. Cuộc chiến tranh ở Triều Tiên 1950 – 1953 là
một biểu hiện cho những căng thẳng đi đến xung đột trong quan hệ giữa Mĩ với Trung Quốc trước
1970. Mĩ đã đặt Triều Tiên vào tuyến phòng thủ của mình ở Viễn Đông, áp đặt lệnh cấm vận đối với
Trung Quốc, hơn nữa Mĩ lại đặt Đài Loan trong chiếc ô bảo hộ của nước này, điều này chẳng khác nào
“dầu đổ thêm vào lửa” trong quan hệ giữa hai nước vốn đã căng thẳng, vì Trung Quốc xem hòn đảo
này là một bộ phận của quốc gia. Trung Quốc lên án Mĩ can thiệp vào công việc nội bộ của họ, nước
này bắt đầu những hành động quân sự để thu hồi Đài Loan dưới quyền quản lí của Đại lục, điển hình từ
đầu năm 1954, Mĩ và Chính quyền Tưởng Giới Thạch xúc tiến các cuộc đàm phán để đi đến việc kí kết
“Hiệp ước phòng thủ chung”. Để cảnh cáo âm mưu của Mĩ và Đài Loan, và tỏ rõ lập trường kiên quyết
giải phóng Đài Loan, Đại lục quyết định “đánh đòn trừng phạt” bằng cách bắn phá một số hòn đảo do
Chính quyền Đài Loan kiểm soát (ngày 3 tháng 9 năm 1954). Cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần
thứ nhất bắt đầu. Trước động thái đó, Mĩ đã có phản ứng “Bộ đội cộng sản chiếm lĩnh Đài Loan, sẽ uy
hiếp trực tiếp đến an ninh của khu vực Thái Bình Dương và quân đội Mĩ có trách nhiệm thi hành chức
vụ hợp pháp và cần thiết ở khu vực này” [56;44].
Trong giai đoạn trước khi đi đến bình thường hóa Mĩ, Trung Quốc cũng có duy trì đàm phán ở
cấp đại sứ nhưng kết quả không được như mong đợi giữa các bên, giới phân tích đã đưa ra nhận xét đầy
ẩn dụ, đó chỉ là “cuộc đối thoại giữa những người điếc”
Đến những năm cuối thập niên 60, quan hệ quốc tế tiếp tục có những chuyển biến, tất cả đã tác
động đến sự chuyển biến trong quan hệ Mĩ – Trung. Điều này được thể hiện, khối XHCN với những
bất đồng lan rộng, nó được biểu hiện bằng các cuộc chiến tranh biên giới Xô –Trung, học thuyết ba thế
giới của Mao Trạch Đông, cuộc chiến tranh ở Việt Nam với nhiều quan điểm khác nhau giữa các nước
lớn……đã làm cho Trung Quốc có cái nhìn, thái độ khác về người “anh cả” XHCN Liên Xô. Mĩ đang
sa lầy ở cuộc chiến tranh Việt Nam, phong trào giải phóng dân tộc dâng cao trở thành nguy cơ đe dọa
trực tiếp đến chủ nghĩa đế quốc, thêm vào đó đồng minh của Mĩ như Tây Âu, Nhật đang vươn lên
mạnh mẽ với mong muốn chia sẽ vai trò lãnh đạo thế giới với nước này.
Diễn biến của tình hình quốc tế giai đoạn cuối thập niên 60 đầu thập niên 70 đã đưa Mĩ, Trung
Quốc xích lại gần nhau. Khi Nixon lên nhậm chức tổng thống 1969, ông đã “khám phá” việc bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc sẽ có lợi trong đối trọng với Liên Xô và cả những khó khăn trong
quan hệ quốc tế mà nước này đang gặp phải. Di chuyển theo hướng này các cuộc tiếp xúc giữa Mĩ và
Trung Quốc đã được xúc tiến: ngoại giao bóng bàn, chuyến thăm Trung Quốc bí mật của Henry.A.
Kissinger năm 1971 đã mở đường cho chuyến thăm lịch sử năm 1972 của tổng thống Nixon đến Trung
quốc với kết quả “tuần lễ làm thay đổi thế giới”.
Thật vậy, cú bắt tay hòa hoãn Mĩ – Trung đã tác động, ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ quốc tế
bấy giờ. Liên Xô không duy trì được mối quan hệ theo tinh thần Hệp ước tương trợ lẫn nhau Xô –
Trung như đã kí năm 1950 với Trung Quốc; cuộc kháng chiến thống nhất đất nước của nhân dân Việt
Nam trở nên khó khăn hơn dưới sức ép của các nước trước đây đã từng có mối quan hệ, viện trợ, giúp
đỡ Việt Nam; Nhật Bản với “cú sốc Nixon”; chính quyền Đài Loan bị cô lập sau Thông cáo chung
Thượng Hải giữa Washington và Bắc Kinh.
Mối quan hệ Mĩ –Trung tiếp tục phát triển trong những năm 80 sau khi hai nước chính thức thiết
lập quan hệ ngoại giao 1979. Nhưng trong tiến trình đó, mối quan hệ này cũng bị cản trở bởi nhiều yếu
tố như sự kiện Thiên An Môn 1989 ở Trung Quốc, Mĩ lên án nước này vi phạm nhân quyền, dân chủ
đã ra sức vận động cộng đồng quốc tế “trừng phạt”. Quan hệ Mĩ –Trung trở lại lạnh nhạt.
Nhìn lại quan hệ Mĩ – Trung, đúng như nhiều nhà nghiên cứu nhận định: thăng trầm và đa diện.
Với mong muốn tái hiện lại bức tranh quan hệ Mĩ – Trung trong cuộc chiến tranh lạnh, đặc biệt là giai
đoạn 1972 – 1991, một giai đoạn quan trọng trong lịch sử quan hệ giữa hai nước: chuyển từ đối đầu
sang đối thoại, hợp tác. Đâu là những nhân tố tác động đến chính sách đối ngoại giữa Mĩ và Trung
Quốc; quá trình thực hiện chính sách đối ngoại giữa hai nước dành cho nhau diễn ra như thế nào và nó
có tác động gì đến bản thân hai nước cũng như những nhân tố góp phần chi phối mối quan hệ này. Đây
là một vấn đề khó, bởi lịch sử ngoại giao luôn bao hàm nhiều yếu tố phức diện, song với niềm đam mê
nghiên cứu, học hỏi tôi mạnh dạn chọn vấn đề “ Quan hệ Mĩ – Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1972
– 1991)” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành lịch sử thế giới.
2. Lịch sử vấn đề
Quan hệ Mĩ – Trung giai đoạn 1972 – 1991 đã được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Có
thể kể đến một số công trình :
“Một thiên sử sáu đời tổng thống Mĩ – Trung” của Patric Tyler (NXB CAND, năm 2008), ấn
phẩm trình bày “ Một bức tranh đầy bất ngờ và đáng lưu tâm hiện ra từ điều tra rất lí thú về diễn biến
quan hệ giữa Trung quốc và Hoa Kì qua 6 đới tổng thống Mĩ. Với sự qua chạm ở mức độ cao giữa hai
cường quốc, đây là một giai đoạn lịch sử với nhiều diễn biến không thể đoán định”, tất yếu chính sách
đối ngoại Mĩ – Trung dành cho nhau luôn nổi bật, tâm điểm là vấn đề Đài Loan; nhân tố Liên Xô cũng
được đề trong quá trình bình thường hóa quan hệ hai nước với những nhận định cơ bản
Hoàng Gia Thụ (Trung Quốc) với tác phẩm “Đài Loan – Tiến trình hóa rồng” (NXB VH Thông
tin, năm 2004) tác phẩm trình bày bước phát triển đầy thăng trầm của hòn đảo Đài Loan dưới mối quan
hệ cũng đầy thăng trầm Trung – Mĩ, Đài Loan được xem là một nhân tố chủ chốt ảnh hưởng rõ nét đến
quan hệ Mĩ – Trung từ khi vấn đề này nảy sinh đến hiện nay.
“Ngoại giao CHNDTH 30 năm cải cách (1978 -2008)” Lê Văn Mĩ (NXB KHXN, năm 2009).
Trình bày chính sách ngoại giao của Trung Quốc từ công cuộc cải cách 1978 – 2008 với những điều
chỉnh để thích ứng với tình hình trong nước và thế giới nhằm chấn hưng đất nước, đưa Trung Quốc
từng bước có vị trí, vai trò ngày càng quan trọng trên trường quốc tế. Tác phẩm cung cấp cho độc giả
cái nhìn tổng quát về chính sách đối ngoại của quốc gia này với từng nước, từng khu vực trên thế giới.
Mĩ được xem là nước lớn, có vai trò quan trọng để Trung Quốc vạch ra đường lối đối ngoại phù hợp.
Thomas J.Mc Conmick “America’s Half – century United states Foreign Policy in the cold War
and after” (Nước Mĩ nữa thế kỉ, chính sách đối ngoại của Hoa kì trong và sau chiến tranh lạnh – NXB
CTQG, năm 2004), tác giả phân tích sâu sắc, có hệ thống nhiều khía cạnh trong chính sách đối ngoại
của Mĩ trong nữa thế kỉ qua…. “kiềm chế Liên bang Xô Viết……kiềm chế Đức và Nhật Bản, hai đối
thủ thời chiến của Mĩ và Anh – một đồng minh trong chiến tranh của Mĩ – cũng như thế giới thứ ba và
bản thân các công dân Mĩ”. Đó là tư tưởng trong chính sách bá quyền của Mĩ mà tác giả muốn gửi đến
độc giải khi nghiên cứu về chính sách đối ngoại của cường quốc này trong và sau chiến tranh lạnh.
Trung Quốc cũng nằm trong chính sách đối ngoại chung của Mĩ.
Lê Vinh Danh “Chính sách công của Hoa kì giai đoạn 1935 – 2001” (NXB Thống kê, năm
2001) tác giả cho chúng ta cái nhìn toàn diện về các chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Mĩ từ
1935 đến 2001: giáo dục, an sinh xã hội, ngân sách kinh tế, quốc phòng….và quan trọng cung cấp một
cách có hệ thống chính sách đối ngoại của Mĩ từ trước 1935 đến đầu thế kỉ 21. Chính sách đối ngoại
với Trung Quốc cũng được đề cập ở một mảng trong toàn bộ tác phẩm nhưng chỉ mang tính khái quát.
Phi Bằng với “Những sự kiện quan trọng trong quan hệ Mĩ –Trung Quốc”, (NXB Trẻ, năm
2001) trình bày, phân tích mối quan hệ Trung – Mĩ trong khoảng 10 năm cuối thế kỉ XX. Nhưng tác
phẩm vẫn cho chúng ta cái nhìn về mối quan hệ lịch sử giữa hai nước và vấn đề Đài Loan trở thành
điểm nhấn, “con át chủ bài” trong lịch sử quan hệ hai nước đến hiện nay.
“Bảy cuộc đàm phán siêu cấp” của tác giả người Trung Quốc Mô Kiệt (NXB VHTT, năm
2006), ấn phẩm tường thuật về cuộc tiếp xúc ngoại giao bóng bàn giữa Mĩ và Trung Quốc năm 1971
đến chuyến thăm của Nixon 1972, sau đó là các cuộc tiếp xúc để đi đến bình thường hóa quan hệ năm
1979.
Lý Kiện (Trung Quốc) với tác phẩm “ Xô Trung Mĩ cuộc đối đầu lịch sử” (NXB Thanh niên,
năm 2008), tác giả cho người đọc một cái nhìn tổng thể mối quan hệ chiến lược Trung – Xô – Mĩ.
Hàng loạt sự kiện được dẫn chứng để làm sáng toả sự chuyển biến trong mối quan hệ tay ba cùng
những vấn đề có liên quan. Nhưng nhận định cho mối quan hệ này còn bỏ ngõ.
“Nixon và vụ Watergate” của George Sandra (NXB Lao động, năm 2003) “phát hoạ chân dung
một con người của một thời đại lịch sử đã qua còn hằn những dấu ấn khó phai mờ, từ thưở thiếu thời
đến khi “thành đạt” tời đỉnh cao quyền lực với biết bao sự kiện trong hoạt động đối ngoại cùng
nghững thăng trầm….” Đó chính là Nixon, nhân vật có vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh Việt
Nam cũng như tiến trình bình thường hoá quan hệ giữa Mĩ với Trung Quốc.
Lê Phụng Hoàng “Lịch sử quan hệ quốc tế ở Châu Âu trong chiến tranh lạnh” (1949 – 1991)
(ĐHSP TPHCM, năm 2005) cung cấp cho người đọc bức tranh toàn cảnh về mối quan hệ quốc tế ở
Châu Âu trong chiến tranh lạnh. Mối quan hệ Xô – Mĩ cũng được đế cập. Đây là mối quan hệ xuyên
suốt trong thời kì chiến tranh lạnh, chính sách đối ngoại của nhiều nước hầu như dựa trên nền tảng mối
quan hệ này.
Với “ Lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối chiến tranh
lạnh 1945 – 1991” của Lê Phụng Hoàng (ĐHSP TPHCM, năm 2005) cho người đọc thấy Đông Á cũng
như nhiều khu vực trên thế giới không thoát khỏi ảnh hưởng bởi cuộc chiến tranh lạnh do hai siêu
cường Mĩ và Liên Xô tạo nên. Trung Quốc cũng phải nổ lực để xác lập cho mình một vị thế. Mối quan
hệ giữa Trung Quốc với các nước lớn trong đó có Mĩ cũng được tác giả đề cập một cách có hệ thống từ
khi CHNDTH ra đời đến khi kết thúc chiến tranh lạnh. Các vấn đề như chiến tranh Triều tiên, vấn đề
Đài Loan cũng được đề cập để cho thấy nó chính là những nhân tố góp phần chi phối quan hệ Mĩ –
Trung Quốc trong và hậu chiến tranh lạnh.
Ngoài ra còn nhiều công trình, bài viết liên quan đến vấn đề, tất cả phần nào khái quát, nhận
định về mối quan hệ Mĩ – Trung từ 1949 – 1991 cùng với những yếu tố tác động đến mối quan hệ này,
tuy nhiên một công trình cụ thể để nghiên cứu giai đoạn 1972 – 1991 vẫn còn bỏ ngõ (theo nhận thức
của tác giả), trên cơ sở tiếp thu những công trình đi trước, hy vọng phần nào hoàn chỉnh thêm những
nhận định về mối quan hệ này, giai đoạn bình thường hóa quan hệ giữa hai nước đến kết thúc chiến
tranh lạnh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là quan hệ Mĩ – Trung (Trung Quốc được hiểu trong công trình nghiên
cứu này là Trung Quốc đại lục giai đoạn 1972 – 1991), một mối quan hệ đầy thăng trầm cùng với
những “toan tính” của mỗi nước; những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại Mĩ – Trung;
những tác động từ mối quan hệ này đến một số mối quan hệ quốc tế đương thời.
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong khoảng thời gian 1972 – 1991. Đây là giai đoạn mà
tình hình quốc tế có nhiều biến đổi, đặc biệt là trong quan hệ giữa các nước lớn, xu thế hòa bình, hợp
tác đã kéo các nước vốn trước đây đối đầu từng bước đi đến thỏa thuận kết thúc chiến tranh lạnh. Tuy
nhiên chính sự thỏa thuận, hòa hoãn đó đã ảnh hưởng ít nhiều đến quan hệ quốc tế cả mặt tích cực và
tiêu cực. Để bảo đảm tính lôgíc của nội dung, thì mối quan hệ Mĩ – Trung trước 1972 cũng được khái
quát để thấy được sự chuyển biến trong chính sách đối ngoại của hai nước dành cho nhau tùy theo hoàn
cảnh và điều kiện lịch sử. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trên lĩnh vực ngoại giao chính trị là chủ
yếu.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu, nguồn tài liệu nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên quan điểm Mác –xít, quan điểm đối ngoại của Đảng, Nhà nước
CHXHCN Việt Nam, tác giả có cái nhìn khách quan về mối quan hệ này, thực thế cho thấy chuyển
biến trong quan hệ Mĩ – Trung giai đoạn hai thập niên cuối chiến tranh lạnh có ảnh hưởng nhất định
đến Việt Nam.
Về phương pháp nghiên cứu, vận dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgíc; thu
thập, sưu tầm, nghiên cứu, xử lí các nguồn tài liệu trên cơ sở đó khái quát, nhìn nhận vấn đề đảm bảo
các sự kiện diễn ra theo đúng lịch sử và cho thấy các sự kiện có liên quan với nhau. Lí giải mối quan hệ
này để hiểu đúng, sâu sắc bức tranh quan hệ Mĩ – Trung trong quá khứ và hiện tại.
Khôi phục lại bức tranh quan hệ Mĩ – Trung (1972 – 1991) có thể đậm nhạt khác nhau, điều này
xuất phát từ đặc điểm quan hệ hai nước. Hy vọng với sự nỗ lực của tác giả vấn đề nghiên cứu sẽ được
tái hiện theo những gì lịch sử đã diễn ra.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở tiếp thu kết quả của các nhà nghiên cứu trước đó. Dù vậy
chúng tôi vẫn cố gắng có những đóng góp nhất định trong luận văn của mình, dựng lại bức tranh tương
đối toàn diện về mối quan hệ Mĩ –Trung từ 1949 – 1991 đặc biệt giai đoạn hòa hoãn 1972 -1991. Với
những nhận định, đánh giá có hệ thống những nhân tố góp phần tác động đến mối quan hệ đầy thăng
trầm, phức tạp này.
Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên chuyên ngành lịch sử thế giới, quan hệ
quốc tế và cho những ai quan tâm tìm hiểu vấn đề này.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa trước năm 1972
Chương 2. Quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa từ 1972 đến khi CNXH ở Liên Xô
tan rã
Chương 3. Nhận xét về quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa (1972 – 1991)
Chương 1. QUAN HỆ HOA KÌ – CHND TRUNG HOA TRƯỚC NĂM 1972
1.1.Bối cảnh quốc tế từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến đầu thập niên 70
Khi đại chiến thế giới thứ hai sắp kết thúc, nhân loại tiến bộ hi vọng giá trị hòa bình sẽ được đề
cao trên đóng tro tàn do cuộc chiến tranh gây ra. Nhưng sự hi vọng và niềm tin đó nhanh chóng bị phá
vỡ, “tương lai chợt bừng sáng. Bóng tối xua tan. Rừng rực một không khí cuồng hoan…Người ta đang
hoan hô. Người ta đang nhảy múa. Họ tưởng chiến tranh đã chấm dứt. Mà chiến tranh lại mới chỉ bắt
đầu” [26;3]. Một cuộc chiến tranh mới diễn ra ngay sau đó – Chiến tranh Lạnh, góp phần tạo nên cục
diện quan hệ quốc tế đầy biến động hơn nửa thế kỉ, trong đó Mĩ đứng đầu khối TBCN và Liên Xô đứng
đầu khối XHCN đóng vai trò chủ đạo.
Chiến tranh lạnh là một trong những chương lạ nhất trong lịch sử quan hệ quốc tế, cuộc chiến
xoắn tất cả các quốc gia vào cùng một quỹ đạo, nhưng lại bị chi phối bởi các siêu cường.
Có nhiều ý kiến về thời điểm khởi đầu cuộc chiến, chẳng hạn năm 1917 với sự ra đời của nước
Nga Xô Viết do Lênin lãnh đạo đã “đe dọa” trực tiếp đến nền chính trị của CNTB, nhưng đa số các học
giả thừa nhận đến giai đoạn cuối chiến tranh thế giới thứ hai, khi mà quan hệ giữa Washington và
Moscow xấu đi vì những bất đồng trong việc thỏa thuận một số vấn đề liên quan đến lợi ích hai nước.
Tại hội nghị Ianta (2/1945), đặc biệt là hội nghị Postdam (17/7 – 2/8/1945), đã diễn ra những cuộc
tranh luận gay gắt giữa các nước đồng minh tham gia chống phát xít, mặc dù kết quả các cuộc tranh
luận, trao đổi ý kiến đã thông qua được một số nghị quyết quan trọng, các hiệp nghị được thỏa thuận,
một số văn kiện được phê chuẩn, nhưng kết quả không thể làm hài lòng các nước tham gia có tư tưởng
nước lớn. Hội nghị Postdam được nhận định, nó không phải là “điểm cuối cùng” trong cuộc chiến tranh
giữa các nước lớn, mà là “điểm khởi đầu” của cuộc chiến tranh lạnh [26;124]. Một trật tự thế giới mới
đã được hình thành do thỏa thuận từ các hội nghị - đó là trật tự hai cực Xô – Mĩ, tuy được cấu thành và
duy trì bởi một hệ thống các yếu tố, nhưng tất cả được phân tuyến một cách triệt để.
Liên Xô hay Mĩ đã làm cho mối quan hệ quốc tế trở nên căng thẳng từ 1945 đến 1991, để thế
giới luôn sống trong tình trạng chiến tranh thường trực. Đặc trưng của chiến tranh lạnh được tạo nên
bởi sự nghi ngờ lẫn nhau, sự mất lòng tin, hiểu lầm giữa Mĩ và Liên Xô, cùng các đồng minh của họ.
Mĩ cáo buộc Liên Xô tìm cách tuyên truyền, mở rộng CNCS trên phạm vi toàn cầu. Trong khi đó, Liên
Xô lập luận Mĩ đang tiến hành ý đồ đế quốc và ra sức ngăn chặn nền độc lập, tự do ở các nước. Mĩ
muốn một thế giới của các quốc gia độc lập với nguyên tắc tự do dân chủ là nền tảng – hòa bình kiểu
Mĩ ( Pax America). Liên Xô thì muốn giữ những khu vực quan trọng cho lợi ích quốc gia [86]. Theo
lập luận trên, do sự “hiểu lầm” giữa Mĩ và Liên Xô đã tạo nên cục diện đối đầu Đông – Tây.
Với ưu thế nổi trội trên tất cả các lĩnh vực, Mĩ có điều kiện triển khai chiến lược toàn cầu của
mình sau chiến tranh thế giới thứ hai. Trong số các nước tư bản hùng mạnh trước chiến tranh thì Ý,
Đức, Nhật Bản đã bị đánh bại; Anh, Pháp cũng không tránh khỏi sự tàn khốc do chiến tranh gây ra.
Năm 1946, Mĩ chiếm đến 62% sản lượng công nghiệp và 40,1% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của thế
giới tư bản, trở thành nước cung cấp và chủ nợ cho các nước tư bản phụ thuộc. Giữ ưu thế tuyệt đối về
mặt quân sự, độc quyền về vũ khí nguyên tử, có 1,2 triệu quân đóng ở 58 nước, trên 400 căn cứ không
quân và hải quân khắp thế giới, nhiều tổ chức quốc tế, quân sự có sự tham gia và chịu sự chi phối rõ nét
của Mĩ [22;46]. Rõ ràng, sau chiến tranh thế giới thứ hai là thời đại của Mĩ, nước này đã không bỏ lỡ
cơ hội ra sức gia tăng vị thế, vai trò trong quan hệ quốc tế.
Nếu xem xét tổng thể khối TBCN, thì những năm đầu sau thế chiến thứ hai, khối này giảm sút
về địa vị quốc tế trên nhiều mặt, khi đó với vai trò là lực lượng chủ chốt trong cuộc chiến chống chủ
nghĩa phát xít, vị thế và hình ảnh của Liên Xô, CNXH được nâng cao hơn bao giờ hết. CNXH trở thành
hệ thống thế giới, làm chổ dựa cho phong trào giải phóng dân tộc xuất hiện ngay trong lòng chiến tranh
thế giới thứ hai và sau chiến tranh đã nhanh chóng phát triển thành cao trào. Điều này đã thách thức
nghiêm trọng ưu thế chủ nghĩa đế quốc, sự ảnh hưởng của Liên Xô và CNXH trên thế giới ngày càng
tăng, do đó nó có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Washington. Trong giai đoạn khoảng thời
gian hai thập niên sau thế chiến thứ hai Mĩ triển khai đường lối đối ngoại với một số điểm nổi bật:1)
Củng cố liên minh quân sự với các nước đồng minh phương Tây cũ; 2) Mở rộng các liên minh mới để
hạn chế sự bành chướng của khối CNXH; 3) Phát triển viện trợ, tái thiết sau chiến tranh và giúp đỡ cần
thiết các quốc gia sụp đổ từ cuộc chiến, các quốc gia mới giành độc lập không rơi vào ảnh hưởng của
khối XHCN [6;604]. Theo đó, với nhiều biện pháp được triển khai một cách cụ thể nhằm ngăn ngừa
“sự mở rộng của CNCS”, bảo vệ “thế giới tự do”. Mục tiêu cơ bản chiến lược toàn cầu của Mĩ phản
ánh đậm nét bản chất giai cấp và cơ sở kinh tế xã hội của nước này – nhà nước Hoa Kì là đại diện các
thế lực tư bản độc quyền, các tổ chức quân sự công nghiệp, luôn tìm cách bành trướng sức mạnh, kinh
tế, chính trị, quân sự ra bên ngoài. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, CNTB độc quyền ở Mĩ phát triển
ngày càng cao tạo điều kiện cho sự tập trung, tích tụ tư bản…làm công cụ để thực hiện chiến lược toàn
cầu. Đa phần giới lãnh đạo Nhà Trắng đều ủng hộ mục tiêu chống Liên Xô, CNXH, Lucius D.Clay – tư
lệnh Mĩ nắm quyền thời tạm chiếm tại Đức cho rằng “Liên Xô thực sự muốn xây dựng một chế độ
giống họ ở khắp các nước Đông Âu bằng cách hậu thuẫn cho Đảng cộng sản từng nơi. Hoàn toàn
không có việc họ sẽ chấp nhận để các nước tự quyết định hệ thống chính trị cho mình” [6;604]. G.
Kennan – nhà ngoại giao Mĩ, năm 1947 đã phát biểu “một chính sách ngăn chặn làm cho người Nga
phải đương đầu với những lực lượng đối trọng không thể thay thế. Ở bất cứ thời điểm nào khi họ có
dấu hiệu xâm phạm đến lợi ích của thế giới hòa bình và ổn định” [95]. Ngày 12/3/1947, tổng thống Mĩ
– Truman trong bài diễn văn trước Quốc hội chính thức phát động cuộc chiến tranh Lạnh chống Liên
Xô, CNXH. Mĩ đã chọn Châu Âu là chiến trường chính để chống lại sự lan rộng của CNCS, thông qua
gói viện trợ 400 triệu USD về quân sự, kinh tế cho chính phủ Thổ Nhĩ Kì và Hy Lạp, sau khi Anh
thông báo với các quan chức ngoại giao Mĩ là nước này không đủ sức cung cấp tài chính cho các nước
nói trên, yêu cầu Mĩ phải can thiệp vì nếu “không kiểm soát được hai quốc gia này, CNCS có khả năng
sẽ lan rộng về phía Nam Iran và tận phía Đông Ấn Độ” [80]. Trong bài diễn văn Tổng thống Truman
tuyên bố: chính sách của Mĩ để hỗ trợ các dân tộc tự do, những người đang chống lại sự cố gắng chinh
phục có mục đích của số ít có vũ trang hay áp lực bên ngoài. Với nhận định, những khó khăn và sự
phục hồi chậm chập kinh tế - xã hội ở các nước Châu Âu đã mang đến cho châu lục này một cảm giác
tuyệt vọng và thất vọng. Châu Âu dường như sẵn sàng ngã theo lực lượng nào giúp đỡ họ khôi phục lại
vị thế trước chiến tranh. Như vậy, chiến lược ngăn chặn của Mĩ không chỉ giới hạn, hạn chế sử mở
rộng của Liên Xô mà còn mở rộng đến việc ngăn chặn sự bành trướng của CNCS ở bất cứ nơi nào trên
thế giới. Mĩ tin tưởng sự thành công của kế hoạch “ngăn chặn” phải dựa vào việc chính phủ và nhân
dân Mĩ cùng toàn thể nhân dân các quốc gia “tự do” nhận thức được: chiến tranh lạnh thực tế là một
cuộc chiến tranh thực sự có quan hệ đến sự sống còn của thế giới tự do.
Những động thái từ Moscow luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt từ Washington, điển hình như
sự kiện tháng 9/1949 điện Kremlin thử thành công bom nguyên tử. Sự kiện này tác động một cách
mạnh mẽ vào lòng tự hào của người Mĩ về loại vũ khí hủy diệt, bởi vì “độc quyền về bom nguyên tử
của Hoa Kì là thứ để dành và mang ra sử dụng khi có mâu thuẫn về quyền lực hậu chiến với Liên Xô”
[5;151]. Ngay sau đó, kế hoạch mang tên bản ghi nhớ 68 của Hội đồng an ninh quốc gia (NSC – 68)
được Quốc hội Mĩ thông qua, chính thức khởi động cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô kéo dài suốt
mấy thập kỉ. Cuộc chạy đua này trở thành một bộ phận quan trọng của chiến tranh Lạnh, đồng thời góp
phần lớn chi phối các vấn đề trong quan hệ quốc tế cũng như quan hệ song phương Mĩ – Xô từ sau thế
chiến thứ hai. Với kế hoạch NSC – 68, quốc hội đề nghị tăng ngân sách quốc phòng từ 13 tỉ USD lên
50 tỉ USD trong năm tài khóa đầu tiên, kế hoạch này được đánh giá là sự mở rộng học thuyết Truman
lúc đầu chỉ áp dụng cho Tây Âu, kế hoạch quán triệt nội dung “một chiến lược quân sự mới mà lý do
chủ yếu là Hoa Kì đã mất độc quyền vũ khí hạt nhân…..Hoa Kì công khai lo lắng là Liên Xô có kế
hoạch khuất phục Tây Âu bằng vũ lực vì thế Hợp chủng quốc Hoa Kì cần nhanh chóng thiết lập một
mặt trận mới….Mặt trận ấy có nghĩa vụ làm thành một vòng cung mạnh bao vây Liên Xô từ nhiều
phía” [35;124]. Có thể thấy, bằng những chính sách, biện pháp ngoại giao Mĩ đã góp phần thổi bùng
ngọn lửa chiến tranh Lạnh phục vụ cho chiến lược toàn cầu của nước này. Hầu hết các đời tổng thống
đều đưa ra những học thuyết để làm nền tảng cho chính sách ngoại giao, qua đó thể hiện một phần
tham vọng lãnh đạo thế giới. Chủ nghĩa Aixenhao và chiến lược trả đũa ồ ạt thực hiện chính sách bên
miệng hố chiến tranh, đem vũ khí nguyên tử ra hù dọa nhằm buộc đối phương lùi bước; chiến lược
phản ứng linh hoạt và chính sách đối ngoại “vì hòa bình” của G.Kennedy (1961 – 1968) với tuyên bố
“chúng ta hãy làm cho mọi người biết rằng chúng ta sẽ trả bất cứ giá nào, gánh vác bất cứ gánh nặng
nào, đương đầu với bất cứ sự gian khổ nào để đảm bảo sự sống còn và thắng lợi của thế giới tự do”.
Trước năm 1970, trong các học thuyết, quan trọng nhất là học thuyết Truman với chiến lược ngăn chặn
CNCS (1946 -1952) đặt nền tảng cho các học thuyết toàn cầu về sau, với học thuyết này đánh dấu bước
ngoặt can dự sâu rộng của Mĩ trong quan hệ quốc tế, do ý thức về một nước Mĩ siêu việt, là trung tâm
của mọi quốc gia được xây dựng trên nền tảng tự do, dân chủ, Mĩ phải có trách nhiệm ủng hộ, đẩy
mạnh sự “tự do” ở khắp nơi. Vì vậy, phát động một cuộc chiến tranh chống lại sự “độc đoán, thiếu tính
tự do dân chủ” là đều tất yếu, để thành công thì trước hết phải ngăn chặn nơi đã sinh ra nó, ngăn chặn
để trách sự lây lan toàn cầu “cộng sản vừa là một khối thống nhất, vừa có tính quốc tế với trung tâm
đầu não là Moscow” [57;53]. Trong chính sách ngăn chặn, Truman đã vạch ra mục tiêu cụ thể, điều
cần thiết nhất vẫn là ngăn chặn CNCS.
Quan điểm Liên Xô cũng là nhân tố góp phần đưa quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế giới hai
trong tình trạng nóng, lạnh. Lý giải cho nhận định này, dựa trên cơ sở sự hiện diện quân sự của Liên Xô
khắp Đông Âu, hướng các quốc gia Đông Âu theo hệ tư tưởng cộng sản và điều quan trọng Liên Xô ra
sức truyền bá hệ tư tưởng này ở khắp nơi trên thế giới “Liên Xô từ chối bầu cử tự do tại Ba Lan và
Tiệp Khắc, sự can thiệp của họ ở Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kì và Iran, hỗ trợ cho lực lượng cộng sản ở Trung
Quốc, và sự phản đối của Mĩ với các kế hoạch hậu chiến cho việc kiểm soát và thúc đẩy phát triển kinh
tế- như kế hoạch Buruch, kế hoạch Marshall” [80]. Quan điểm nhìn nhận, các phản ứng của Mĩ chỉ là
sự “tự vệ”, khi mà các nhà lãnh đạo Liên Xô bám vào giấc mơ của họ về việc áp đặt CNCS trên thế
giới, các nước phương Tây không có cách nào, trừ đầu hàng, để mau kết thúc tình trạng đó. Trong bài
phát biểu của Stalin ngày 9/02/1946, có đoạn “nhân dân Liên Xô không bao giờ quên được bài học về
cuộc chiến tranh do chủ nghĩa đế quốc gây ra những năm 30, phải luôn sẵn sàng chuẩn bị, phải phát
triển các ngành công nghiệp cơ sở, giảm bớt sản xuất hàng tiêu dùng. Liên Xô sẵn sàng chấp nhận hy
sinh trong thời kì thực hiện 3 kế hoạch năm năm” [26;126]. Ngay sau đó, tham tán sứ Mĩ G.Kennan ở
Liên Xô đã gửi về Washington một bản báo cáo phân tích quan điểm của nước này đối với Mĩ qua bài
phát biểu từ vị tổng bí thư: Khi nào còn tồn tại CNTB thì thế giới không thể sống trong hòa bình, Liên
Xô không bao giờ tin tưởng CNTB, nước này tiến hành hợp tác với các tổ chức quốc tế nhằm mục đích
lợi ích quốc gia, ra sức liên hệ chặt chẽ với các nước để chống lại các cường quốc phương Tây. Bản
báo cáo nhấn mạnh, Mĩ phải dùng thực lực để ngăn cản Liên Xô, vì cho rằng, Mĩ đang đối mặt với một
lực lượng chính trị (Liên Xô) theo một tư tưởng bất dịch không thể có một sự thỏa thuận lâu dài với
Mĩ. Liên Xô đang ra sức làm rối loạn sự hài hòa của xã hội Mĩ, thủ tiêu lối sống truyền thống, phá hoại
uy tín quốc tế của Mĩ “Liên Xô là một nước theo chủ nghĩa cực đoan, bành trướng” [26;127].
Nước Anh – đồng minh thân cận của Mĩ trong cuộc đối đầu mang tính lịch sử với Liên Xô gần
nữa thế kỉ chiến tranh lạnh. Trong bài diễn văn tại Mĩ ngày 05/3/1945, thủ tướng đương nhiệm
Churchill đã công khai coi Liên Xô là mối đe dọa chủ yếu đối với nền an ninh, tự do của nhân dân thế
giới, kêu gọi các nước phải đoàn kết lại dưới sự lãnh đạo của Anh, Mĩ và phải dùng vũ lực để chấm dứt
tình trạng đe dọa này, “một bức màn sắt (Iron Curtain) đã chia Châu Âu thành hai nữa”. Quy đổi trách
nhiệm cho Liên Xô còn rất nhiều quan điểm: cuộc chiến tranh lạnh là do Liên Xô, nó đã được duy trì
và kết thúc khi nước này sụp đổ. Chiến tranh lạnh là do sự cố gắng từ một nhà nước áp đặt tư tưởng của
mình trên phần còn lại của thế giới. Đó là nhà nước không phải là Hoa Kì. Đó là ý thức hệ không được
dân chủ.
Từ các quan điểm trên cho thấy “chiến tranh lạnh là kết quả của cuộc tranh giành và mở rộng
phạm vi thế lực giữa Liên Xô và Mĩ” [36;305], phía Mĩ và Liên Xô đều có những lập luận lên án, quy
đổi trách nhiệm cho nhau vì đã gây nên tình trạng căng thẳng trong quan hệ quốc tế nói chung và quan
hệ giữa hai nước nói riêng từ 1945 – 1991. Mĩ và Liên Xô đều là những siêu cường duy nhất sau chiến
tranh thế giới thứ hai, những chính sách đối ngoại của hai nước đều có ảnh hưởng nhất định đến quan
hệ quốc tế giai đoạn này.
Như vậy, sự liên minh Mĩ – Xô trong chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít chỉ là liên minh tạm
thời do tình thế bắt buộc, theo các nói của một sử gia, đó là “cuộc hôn nhân không có tuần trăng mật”.
Cuộc hôn nhân đầy toan tính này sớm tan vỡ, hai bên đã công khai lên án chính sách lẫn nhau. Hàng
loạt các công cụ, biện pháp, thiết chế, chiến lược đã được huy động để phục vụ cho cuộc chiến, làm
toàn bộ đời sống quốc tế bị bao phủ bởi không khí băng giá, đối đầu.
Cuộc chiến diễn ra khắp các mặt trận từ kinh tế, chính trị đến quân sự, khắp các châu lục từ Âu
sang Á, từ Mĩ sang Phi. Nó đã gây ra tình trạng nóng, lạnh trong quan hệ giữa hai nước và lôi cuốn cả
thế giới luôn tồn tại trạng thái chiến tranh thường trực. Và đây là một đặc điểm quan trọng của chiến
tranh lạnh. Điều này được thể hiện:
Châu Âu là chiến trường chính để tranh giành ảnh hưởng giữa Mĩ và Liên Xô. Bằng kế hoạch
Marshall, trước hết nhằm cung cấp viện trợ tái thiết Châu Âu, Mĩ muốn không chỉ phục vụ ý đồ củng
cố nhanh tiềm lực các đồng minh Tây Âu nhằm xây dựng mặt trận ngăn ngừa CNXH mà còn phát triển
thị trường hàng hóa cho nước này. Năm 1949, Mĩ đã lập ra khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
(NATO) vừa mang tính quân sự vừa có mục đích chính trị, dưới chiếc ô hạt nhân, NATO chính là sự
mở rộng học thuyết Monroe của Mĩ sang Châu Âu.
Ở Châu Á cuộc chiến đã hoàn tất việc phân chia thế giới với sự chia cắt điển hình: Trung Quốc,
Triều Tiên, Việt Nam. Đánh giá đảo Đài Loan là “hàng không mẫu hạm không thể chìm” để can thiệp
vào Trung Quốc; kí kết Hiệp ước phòng thủ an ninh với Nhật năm 1951. Khu vực Đông Nam Á, từ
1946 cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam gây chú ý đối với Mĩ “nếu Mĩ và đồng minh
để phe CNXH thắng lợi ở Việt Nam, toàn vùng Đông Nam Á sẽ mất hẳn và an ninh Mĩ bị đe dọa”
[6;609]. Các nước trong khu vực như Thái Lan, Philippin dần trở thành đồng minh hợp tác với Mĩ
trong cuộc chiến chống CNCS thông qua các viện trợ kinh tế, quân sự (khối SEATO).
Các khu vực khác Trung Đông theo quan điểm của Mĩ, nếu kiểm soát được khu vực này sẽ ngăn
được bước tiến của Liên Xô xuống phía Nam. Khu vực châu Phi, từ những năm 50 phong trào giải
phóng dân tộc ở đây có bước tiến mới, được gọi là “lục địa trỗi dậy”, mục đích của Mĩ ngăn chặn cái
gọi là “sự xuất khẩu cách mạng” từ các nước sang đây. Ở khu vực Mĩ La tinh, tiếp tục quan điểm
truyền thống “Châu Mĩ là của người Châu Mĩ”. Như vậy, khoảng thời gian từ giữa thập niên 40 về cơ
bản chiến lược toàn cầu của Mĩ đã triển khai trên phạm vi toàn cầu.
Từ một nước XHCN đều tiên trên thế giới, sau chiến tranh thế giới thứ hai, CNXH có điều kiện
để phát triển, Liên Xô là nước đi tiên phong. Các nước Đông Âu sau khi giành độc lập đều đi theo con
đường Liên Xô. Khu vực Châu Á, Liên Xô cũng gia tăng ảnh hưởng như Mĩ: công nhận và quan hệ
hữu nghị với CHND Trung Hoa, Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa….Đến đầu thập niên 60, Moscow cũng
tập hợp được một liên minh vững chắc để đối đầu với khối TBCN. Chạy đua vũ trang, kinh tế giữa hai
cường quốc không nằm ngoài mục tiêu loại trừ đối phương, năm 1949 Hội đồng tương trợ kinh tế
(SEV); ngày 14/5/1955, Liên Xô và đồng minh thành lập khối quân sự Vacsava.
Như vậy, cuộc đối đầu Mĩ – Xô đã được triển khai khắp các mặt trận.
Tóm lại quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai nổi bật là mối quan hệ Mĩ – Xô, tạo
thành hai cực với hai hệ tư tưởng đối nhau, góp phần tác động đến đường lối đối ngoại của nhiều nước,
nhiều khu vực trên thế giới. Cuộc chiến tranh lạnh được khởi xướng bởi Mĩ và Liên Xô. Hai bên tham
gia vào chạy đua vũ trang từ vũ khí thông thường đến vũ khí hạt nhân, tạo lập một hệ thống liên minh,
liên quan đến các chiến dịch quân sự nhưng không trực tiếp đối nhau, cung cấp viện trợ đáng kể cho
đồng minh, tận dụng các hoạt động gián điệp, bí mật, tham gia vào các cuộc chiến tranh tuyên truyền
để giúp duy trì các mục tiêu hơn nữa thế kỉ. Nhìn lại 2 thập kỉ đầu của cuộc chiến thì tình trạng căng
thẳng giữa hai cực là đặc điểm nổi bật nhất, quan hệ giữa Hoa Kì với các nước đồng minh Liên Xô
cũng trong tình trạng tương tự, với CHND Trung Hoa là một điển hình.
1.2. Quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa (1949 – 1970)
Đây là thời kì căng thẳng và xung đột trong quan hệ giữa hai nước, đỉnh cao là cuộc chiến tranh
Triều Tiên (1950 – 1953), có hai lí do chủ yếu:
- Mĩ xem Trung Quốc là đồng minh của Liên Xô;
- Trung Quốc xem Mĩ là đế quốc đã can thiệp vào cuộc xung đột giữa Đảng cộng sản - Quốc
Dân đảng (1945 – 1949) làm cho vấn đề thống nhất Trung Quốc trở nên khó khăn.
Ngay sau khi CHNDTH tuyên bố thành lập chính quyền Bắc Kinh đã triển khai đường lối ngoại
giao mà trước đó trong bài phát biểu ngày 30/6/1949 của Mao Trạch Đông đã đề cập. Đó là đường lối
ngoại giao “nhất biên đảo”, kiên quyết đứng về phe CNXH do Liên Xô đứng đầu chống lại phe TBCN,
“bốn mươi năm kinh nghiệm của Tôn Dật Tiên và 28 năm kinh nghiệm của Đảng cộng sản Trung Quốc
đã khiến chúng ta tin rằng để giành được thắng lợi và củng cố nó, chúng ta phải ngã về một bên. Theo
những kinh nghiệm này, nhân dân Trung Quốc phải ngã hoặc về một phía chủ nghĩa đế quốc, hoặc về
phía CNXH, không có trường hợp ngoại lệ, không có chuyện ngồi thòng chân sang hai bên, không có
con đường thứ 3” và “liên minh với Liên Xô, với các nước dân chủ nhân dân, liên hiệp với giai cấp vô
sản và đông đảo nhân dân các nước khác” [16;229]. Có thể thấy, chính sách ngã hẳn về một bên của
Trung Quốc từ lí thuyết đến thực hành đều dựa trên những chuyển biến sâu sắc của thời đại. Điều này lí
giải, không phải từ đầu những người cộng sản Trung Quốc và người Mĩ chọn đối đầu nhau, đó là cả
quá trình bắt đầu từ sự không tin tưởng và kết thúc là sự căng thẳng, xung đột vũ trang.
Trong cuộc nội chiến Trung Quốc, Mĩ đã từng đứng ra nhận trách nhiệm trung gian hòa giải
giữa Đảng Cộng Sản và Quốc Dân Đảng, nhưng sự “nỗ lực” của nước này không mang lại kết quả như
mong đợi – một chính phủ liên hiệp không được thành lập bởi các đảng phái ở Trung Quốc, cuối cùng
khi chiến tranh lạnh diễn ra, nhận thấy CNCS có nguy cơ thôn tính toàn bộ Trung Quốc, Mĩ đã dần ngả
sang viện trợ tích cực cho Quốc Dân Đảng.
Vào cuối chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ hy vọng một nước Trung Quốc mạnh, thống nhất, dân
chủ sẽ ra đời, góp phần gìn giữ nền hòa bình ở Viễn Đông, “đối với chúng ta (Mĩ) có hai mục tiêu, thứ
nhất là cùng chung tiến hành chiến tranh một cách hiệu quả. Thứ hai, là nhìn nhận và xây dựng Trung
Quốc thành một cường quốc ngang hàng với 3 đồng minh phương Tây của nó: Nga, Anh và Hoa Kì cả
trong và sau thời gian chiến tranh, vừa để chuẩn bị cho công cuộc cải tổ thời hậu chiến, vừa tạo sự
phồn thịnh và ổn định ở phương Đông” [16;182]. Thực tế cho thấy Trung Quốc thống nhất, phồn thịnh
sau chiến tranh thế giới thứ hai theo quan điểm của Mĩ là Trung Quốc không cộng sản, ngay thời kì
tổng thống Rudơven đã có ý tưởng “dùng Trung Quốc Quốc Dân Đảng làm nhân tố quan trọng chế
ngự thế lực của Liên Xô, cùng nước Trung Quốc thống nhất, thân Mĩ làm nền tảng cho hoàn bình và ổn
định ở Viễn Đông” [26;148]. Đóng vai trò là trung gian hòa giải nhưng Mĩ có ý nghiêng về chính phủ
Tưởng Giới Thạch, mặc dù không phải lúc nào chính quyền Washington cũng mặn mà với Quốc Dân
Đảng. Điều này xuất phát từ chính sách ngoại giao có tính toán của Mĩ.
Ngay khi cuộc kháng chiến chống Nhật kết thúc, ở Trung Quốc tiếp tục cuộc tranh giành quyền
lực giữa Đảng Cộng Sản và Quốc Dân Đảng. Từ khoảng thời gian 1945 -1949, ít nhất hai lần hai Đảng
này xung đột với quy mô lớn. Liên minh thống nhất kháng Nhật ra đời 1937 nhanh chóng bị tan vỡ vào
hồi kết của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bởi vì là “kết quả mang tính gượng ép do sự bó buộc
của tình thế” [15;26]. Mặt dù nhận thức được phát xít Nhật là kẻ thù chính của toàn thể nhân dân
Trung Quốc, nhưng cả hai đảng không phải dùng lực lượng chống phát xít mà ra sức bảo toàn và phát
triển lực lượng dành cho cuộc nội chiến “Tưởng Giới Thạch thường xuyên sử dụng 40 vạn quân tinh
nhuệ bao vây căn cứ Thiểm – Cam – Ninh và đã tổ chức một số đột kích vào các căn cứ hay phục kích
đội hình của quân cộng sản”, năm 1937 Mao cũng đã xác định “chính sách cố định của chúng ta
(ĐCSTQ) là dành 70% để phát triển lực lượng, 20% để đối phó với Quốc Dân Đảng và 10% để chống
Nhật” [15;26]. Rõ ràng, mầm móng nội chiến vẫn còn, dù nền độc lập dân tộc bị đe dọa, nó chỉ chờ có
cơ hội để tái phát. Khi Đồng minh vào giải giáp phát xít trên đất Trung Quốc, cả hai thế lực đều tranh
thủ những thuận lợi tối đa để gia tăng thế và lực. Các cuộc đàm phám giữa Cộng sản và Quốc Dân từ
28/02/1945 và việc kí hiệp định Song Thập (10/10/1945) đó là các biện pháp để tranh thủ thời gian
củng cố, bổ sung lực lượng. Các cuộc đàm phán được tiến hành được tiến hành do sự tác động từ nhiều
nhân tố, thứ nhất dư luận trong nước; thứ hai áp lực từ bên ngoài, trong đó Mĩ đóng vai trò quan trọng.
Trên bình diện quan hệ quốc tế, vấn đề Trung Quốc cũng được đưa ra bàn luận, trong hội nghị ngoại
trưởng giữa Liên Xô, Anh, Mĩ tháng 12/1945 đã đi đến những thỏa thuận có tính nguyên tắc trong việc
giải quyết vấn đề ở Trung Quốc, cả Mĩ, Liên Xô đi đến thống nhất rút lực lượng vũ trang của cả hai ra
khỏi lãnh thổ Trung Quốc trong một thời hạn ngắn nhất sau khi xong việc giải giáp quân đội phát xít
Nhật, theo đó người Trung Quốc phải tự giải quyết công việc của mình, mọi sự can thiệp của người
nước ngoài là không phù hợp. Hội nghị đi đến quyết nghị quan trọng “thống nhất và dân chủ hóa
Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của chính phủ dân tộc, thu hút một cách rộng rãi các phần tử dân chủ
vào trong tất cả các cơ quan của chính phủ dân tộc và chấm dứt nội chiến” [40;220]. Ngày 7/11/1945
tổng thống Hoa Kì Harry S. Truman đã cử Marshall làm đại diện đặc biệt sang Trung Quốc làm trung
gian hòa giải nội chiến, mang theo bản tuyên bố về chính sách đối ngoại của Mĩ đối với Trung
Quốc gồm 4 nội dung:
- Giữa quân đội của Chính phủ Quốc dân và lực lượng vũ trang của Đảng cộng sản Trung Quốc
cũng như các phái có ý kiến bất đồng khác, cần phải ngừng ngay hành động đối địch.
- Cần triệu tập một cuộc hội nghị toàn quốc bao gồm các đại biểu cảu các lực lượng chính trị
chủ yếu, trù tính bàn bạc biện pháp sớm giải quyết những tranh chấp nội bộ hiện nay.
- Nước Mĩ thừa nhận Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân quốc hiện nay là chính phủ hợp pháp
duy nhất, Chính phủ này là cơ quan thích hợp để đạt được mục đích là đoàn kết thống nhất của Trung
Quốc.
- Nước Mĩ bảo đảm không bao giờ sử dụng phương thức can thiệp bằng quân sự để ảnh hưởng
đến quá trình tranh chấp nội bộ của Trung Quốc.
Qua đây có thể thấy dù Mĩ tán thành việc triệu tập hội nghị gồm các bên liên quan để giải quyết
xung đột đi đến một nước Trung Quốc thống nhất, nhưng thể hiện rõ ý đồ của Nhà Trắng "không đánh
mà vẫn chiếm được cả Trung Hoa", từ đó thành lập nên một chính quyền thân Mĩ tại Châu Á.
Trước đó, vào tháng 10/1/1942 các bên tham gia thảo luận để đi đến một hiệp thương chính trị
nhằm xây dựng đất nước theo phương châm hòa bình, dân chủ đoàn kết. Tuy nhiên, không bên nào đạt
được sự đồng thuận với các điều khoản được đề xuất và các hoạt động quân sự vẫn tiến hành.
Mọi chuyện tiếp tục diễn ra làm tất cả đã trở nên quá muộn, bởi những chiến thắng liên tiếp từ
những người cộng sản trong các trận chiến với Quốc Dân Đảng, Mãn Châu năm 1948 và sau đó là một
loạt các thành phố quan trọng bị chinh phục. Chính quyền Tưởng lúc này nghĩ đến giải pháp hòa giải
trước đó với Đảng cộng sản trong cuộc chiến chống Nhật, với đề nghị các nước Mĩ, Liên Xô, Anh,
Pháp làm trung gian hòa giải, nhưng Đảng cộng sản không còn quan tâm đến bất kì sự liên minh hay đề
nghị thành lập một chính phủ liên hiệp nào. Cuối cùng nước CHNDTH chính thức được thành lập.
Nhiều nghiên cứu cho rằng cuối năm 1949 nữa đầu những năm 1950, chính phủ Mĩ đang hướng tới
việc công nhận ngoại giao với chính quyền của Mao, nhưng cuối cùng không thực hiện được, do một
loạt các sự kiện ảnh hưởng trong đó có cuộc chiến ở Triều Tiên. Ngay thời điểm này Washington xem
Đài Loan là một phần thiết yếu trong chiến lược toàn cầu ở Châu Á vì thế không thể để hòn đảo này
dưới sự kiểm soát của cộng sản. Với quyết định này một cách công khai trong đường lối đối ngoại và
cuộc chiến đang diễn ra ở bán đảo Triều Tiên, Mĩ muốn kìm chế Mao trước hết là phủ nhận vị trí của
Trung Quốc ở Liên Hiệp Quốc, làm cho người Trung Quốc có cơ sở tin rằng chính quyền Tưởng ở Đài
Loan đang nhận sự bảo trợ của Mĩ chờ ngày phản công Đại lục và tin Liên Hiệp Quốc là công cụ của
Mĩ. Quan hệ Mĩ – Trung bước vào cuộc xung đột vũ trang trực tiếp.
Chiến tranh Triều Tiên là cuộc đối đầu quân sự cục bộ đầu tiên giữa phe CNXH và TBCN từ
sau thế chiến thứ hai, góp phần tạo nên một sự phân tuyến rõ ràng giữa một bên là các nước theo chế
độ cộng sản và bên còn lại theo “thế giới tự do” ở khu vực Đông Bắc Á. Bản chất cuộc chiến này là nội
chiến mục tiêu thống nhất hai miền Triều Tiên nhưng trong tính toán của nhiều nước cuộc chiến đã bị
quốc tế hóa. Cả Mĩ và Liên Xô, Trung Quốc cộng sản trở thành những lực lượng hậu thuẫn cho Bắc
Triều Tiên và Nam Triều Tiên. Cuộc chiến ảnh hưởng sâu sắc đến nền chính trị Châu Á và mối quan hệ
giữa người Châu Á với người ngoài châu lục này trong các vấn đề của khu vực.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đồng minh vào giải giáp phát xít, với sự phân chia Bắc
Triều do Liên Xô chịu trách nhiệm, Nam Triều do Mĩ và đồng minh. Vĩ tuyến 38 từ tạm thời đã trở
thành biên giới chia cắt bán đảo Triều Tiên thành hai nước độc lập. Chiến tranh giữa hai miền là giải
pháp cuối cùng khi các bên không đạt được thỏa thuận bằng con đường hòa bình. Ngày 25/6/1950 quân
Bắc Triều bất ngờ tấn công Nam Triều, cuộc chiến bắt đầu. Nguyên nhân do Miền Bắc hay Miền Nam
là một vấn đề luôn gây tranh cãi, cả hai đều đưa ra những luận cứ biện hộ cho hành động của đối
phương. Có thể thấy sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, Mĩ đã mất bàn đập chiến lược quan
trọng ở Đông Á, vì thế khi Quốc Dân Đảng thất bại Mĩ đã chuyển vai trò đồng minh chủ chốt sang
Nhật Bản, nước này muốn thiết lập bàn đạp chiến lược trên bán đảo Triều Tiên để ngăn ngừa CNCS,
trước hết là từ Trung Quốc đại lục. Theo các nhà phân tích, chính trên quan điểm chiến lược này mà
quyền lợi của Mĩ đã gặp gỡ quyền lợi của chính quyền Nam Triều – đang có tham vọng thôn tính Bắc
Triều “đó chính là nguồn gốc và nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ và bị
quốc tế hóa ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc chưa được bao lâu” [40;238]. Luận điểm
này có cơ sở khi dựa vào một loạt các cam kết của Washington dành cho chính quyền Seoul, khoảng
thời gian cuối năm 1949 quân đội Nam Triều tăng lên đến 100.000 người, viện trợ của Mĩ từ 1949 đến
1950 tăng 110 triệu USD, lực lượng cố vấn quân sự là 500 người và trong khoảng thời gian từ tháng
1/1949 đến tháng 4/1950 lực lượng vũ trang Nam Triều đã tiến hành 1.274 cuộc tấn công trên bộ và
133 lần vi phạm vùng trời, vùng biển nhằm vào Bắc Hàn [40;238].
Ngay sau hành động quân sự của Bắc Triều Tiên, Hội đồng Bảo An Liên hiệp Quốc được triệu
tập, Nghị quyết 82 do phần lớn các nước Phương Tây bảo trợ được thông qua. Theo đó, yêu cầu chấm
dứt tất cả các hoạt động thù địch và Bắc Triều Tiên phải rút quân về vĩ tuyến 38; một ủy ban đặc trách
về Triều Tiên sẽ được thành lập để giám sát tình hình và báo cáo cho Hội đồng Bảo An; yêu cầu tất cả
các thành viên Liên Hiệp Quốc ủng hộ nghị quyết, không giúp đỡ chính phủ Bắc Triều Tiên. Một lực
lượng quân đội Liên Hiệp Quốc được thành lập dưới sự chỉ huy của tướng Mĩ Douglas MacArthur làm
nhiệm vụ “quốc tế” đẩy lùi các cuộc tấn công quân sự từ đối phương. Cuộc chiến nhanh chóng được
quốc tế hóa, Nam Triều Tiên dưới sự hậu thuẩn của Mĩ và liên quân Liên Hiệp Quốc, trong khi đó Bắc
Triều được sự giúp đỡ về vũ khí, có vấn quân sự, quân đội tình nguyện từ Trung Quốc và Liên Xô.
Khi quân Bắc Triều Tiên gặp nhiều khó khăn bởi các cuộc phản công từ đối phương, đã yêu cầu
sự viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc. Mặc dù không công khai giúp đỡ nhưng Liên Xô đã yêu cầu
Trung Quốc đưa quân giúp theo lời đề nghị phía Bắc Triều Tiên dưới dạng quân tình nguyện. Lúc này
Trung Quốc chưa nghĩ đến lời đề nghị này, dù được cảnh báo rằng: nếu Trung Quốc áp dụng chính
sách tiêu cực “chờ và xem” thì chẳng những không đạt được các nhượng bộ cần thiết với Mĩ mà sẽ
không thể thu hồi Đài Loan, mãi đến ngày 14/10/1950 những chuyển biến của cuộc chiến tranh đã đưa
Trung Quốc quyết định “viện Triều kháng Mĩ”. CHND Trung Hoa chính thức tham chiến, đưa quan hệ
Hoa Kì với nước này tiếp tục dấn sâu vào tình trạng đối đầu.
Việc Trung Quốc đồng ý đưa quân hỗ trợ Bắc Triều Tiên là kết quả bởi mối quan tâm an ninh
của nước này. Trong bức điện tín ngày 13/10/1950 giữa Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai bày tỏ sự
quan ngại: nếu Trung Quốc không chủ động, Trung Quốc không thể chắc chắn các lực lượng của Mĩ
không thể vượt sông để xâm nhập vào lãnh thổ nước này. Ngay cả khi các lực lượng liên quân đã
không tấn công vào lãnh thổ Trung Quốc nhưng việc thành lập một chính phủ Hàn Quốc thống nhất
thân phương Tây như chính quyền Lý Thừa Vãn sẽ gây ra một mối đe dọa cho an ninh Trung Quốc.
Hơn nữa, viện trợ của Mĩ cho Tưởng theo Đạo luật viện trợ Trung Quốc; chuyến thăm của tướng Mĩ
MacArthur đến Đài Loan ngay sau khi cuộc chiến bùng nổ; sự kiện quân Mĩ vượt qua vĩ tuyến 38 áp
sáp biên giới Trung Quốc; những cuộc tranh luận công khai lợi ích chiến lược của Mĩ trên các hòn đảo
vùng Thái Bình Dương và khả năng quân Tưởng sẽ phản công lại Đại lục – tất cả làm tạo nên những
nhân tố khiến Bắc Kinh tin rằng Mĩ đang chuẩn bị một cuộc chiến tranh quy mô chống CNCS giống
như nhiều nơi trên thế giới. Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh vẫn xác định rằng liên quân do Mĩ dẫn đầu
đang cố gắng siết chặt Trung Quốc bằng cách phong tỏa bắt đầu từ Triều Tiên và kết thúc ở Việt Nam.
Chu Ân Lai đưa ra luận cứ can thiệp vào cuộc chiến: trong quan điểm về những bài học đau đớn từ lịch
sử và xem xét về lợi ích sống còn của họ, người dân Trung Quốc không thể không làm tình nguyện
viên hỗ trợ cho Bắc Triều Tiên chống lại sự xâm lược từ bên ngoài, người dân Trung Quốc không thể
1 QuốcP0F
P. Trên thực tế, nước này đã từng cảnh báo Washington thông qua đại sứ Ấn Độ ở Bắc Kinh nếu
cho phép việc Bắc Triều Tiên có thể được sử dụng một lần nữa làm bàn đạp xâm lược chống Trung
liên quân Mĩ vượt qua vĩ tuyến 38, nước này sẽ tham chiến nhưng lời cảnh báo này đã được bỏ qua.
1 năm 1931 Nhật Bản đã sử dụng biên giới Triều Tiên tấn công Trung Quốc
Và, để tạo nên sự an toàn thì ít nhất Trung Quốc phải thiết lập một vùng đệm gần biên giới Bắc Triều
Tiên và sẽ tốt hơn nếu Trung Quốc có thể hướng liên quân Mĩ ra khỏi Bắc Triều Tiên thậm chí rút khỏi
bán đảo Triều Tiên.
Theo quan điểm của Mĩ, nếu liên quân thực hiện nhiệm vụ thống nhất Triều Tiên với tốc độ
nhanh, Bắc Kinh sẽ không có thời gian can thiệp, người Trung Quốc sẽ không dám làm và nếu có liên
quân sẽ nhanh chóng tiêu diệt “nếu quân Trung Quốc mà tiến đến Bình Nhưỡng thì chắc chắn sẽ hứng
chịu một cuộc tàn sát” vì “đối phương trang bị vũ khí thô sơ và thậm chí không có không quân” [90].
Trước đó, khi liên quân vượt qua vĩ tuyến 38, tướng MacArthur đã nhận định Trung Quốc lẫn Liên Xô
sẽ không can thiệp vào, nhưng đây là sự nhận định chủ quan, đối với Liên Xô thì đúng.
Giới quân sự Mĩ đã bị bất ngờ ngay sau khi Trung Quốc tham chiến, cuộc chiến diễn ra quyết
liệt. Xét ở một góc độ, bán đảo Triều Tiên được sử dụng làm chiến trường để giải quyết xung đột giữa
các nước lớn. Hậu quả, dân tộc Triều Tiên tiếp tục bị chia đôi. Giữa lúc cuộc chiến diễn ra căng thẳng,
2
nhất là khi liên minh Trung – Triều được hình thành, Mĩ đã tính đến khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân
P. Tướng Mĩ, Mac Arthur đã từng đề nghị “ném 30 đến 50
nhưng vấp phải sự phản đối từ nhiều phía P1F
quả bom nguyên tử xuống các căn cứ không quân và trọng điểm khác ở Mãn Châu, đổ bộ lên hai địa
điểm thuộc biên giới Trung -Triều một lực lượng đông 50 vạn quân. Đài Loan cùng với 2 sư đoàn lính
thủy đánh bộ Mĩ và sau khi Trung Quốc bị đánh bại, thiết lập một phóng tuyến bằng chất cobalt phóng
xạ dọc theo sông Áp Lục” [15;63].
Mĩ bị chia rẽ vì những quan điểm khác nhau về cuộc chiến tranh ở Triều Tiên “Những thanh
niên Mĩ đang chết ở Triều Tiên là bởi vì một nhóm những người không thể đụng đến Bộ ngoại giao và
những cố vấn cấp cao nhuộm màu “đỏ” trong chính phủ Mĩ, còn nguy hiểm hơn nhiều so với những
tay súng Đỏ (cộng sản) ở Triều Tiên” [5;255]. Việc mở rộng cuộc chiến sang lãnh thổ Trung Quốc sẽ
không tránh khỏi đụng độ với Liên Xô đã tác động đến suy nghĩ tổng thống Truman và những ai nhận
thức được tầm nghiêm trọng của vấn đề này. Sự đối nghịch trong suy nghĩ chính quyền Washington
cho thấy “khác biệt giữa sự kiểm soát của giới dân sự và đặc quyền của phe quân sự, giữa chính sách
đẩy lùi đang được tiếp tục và chính sách ngăn chặn đang được tái khẳng định” [5;226].
Ngày 26/12 quân đội Trung Quốc vượt vĩ tuyến 38 và chiếm Seoul vào ngày 4/01/1951. Từ
ngày 25/01 đến ngày 31/3/1951 liên quân Mĩ phản công đẩy mặt trận trở về vĩ tuyến 38. Kể từ đó cuộc
chiến diễn ra chủ yếu xung quanh vĩ tuyến này, không có những cuộc Bắc tiến hay Nam chinh như
trước kia. Đây cùng là giai đoạn mà hai phía lâm vào tình trạng bế tắc, khi mục tiêu của cả hai là kiểm
soát toàn bộ bán đảo đang ngày trở nên khó đạt được. Vì thế một thỏa thuận ngừng bắn là yêu cầu bắt 2 ít nhất là 2 lần Mĩ có ý nghĩ sẽ dụng đến loại vũ khí này, lần thứ nhất khi Trung Quốc tham chiến; Lần thứ hai xảy ra trước khi ký kết Hiệp ước đình chiến năm 1953, Tổng thống Eisenhower từng doạ nếu Bắc Triều Tiên không chịu ký, Mỹ sẽ tấn công vào các mục tiêu quân sự.
buộc cho các bên tham chiến. Một loạt các cuộc hội đàm kêu gọi các bên liên quan hòa giải, ngày
23/06/1951 Nga đã đề xuất một thỏa thuận ngừng bắn, theo đó sẽ giữ nguyên hiện trạng và sẽ được
đàm phán tại cố đô Keasong (sau đó đổi sang địa điểm Panmunjon – Bàn Môn Điếm). Trãi qua các
cuộc tiếp xúc đến ngày 27/07/1953 hiệp định Bàn Môn Điếm được kí kết, theo thỏa thuận: thiết lập giới
tuyến phi quân sự trên cơ sở vĩ tuyến 38 trước đây; cấm các bên không được đưa quân đội và vũ khí từ
bên ngoài vào; thành lập ủy ban giám sát đình chiến……nhưng điều quan trọng của hiệp định là chính
thức hợp thức hóa chia cắt bán đảo Triều Tiên thành hai nhà nước với hai hệ tư tưởng đối lập nhau.
Góp phần đưa Châu Á – Thái Bình Dương hội nhập vào hệ thống chiến tranh lạnh. Đây cũng là sự kiện
tiêu biểu thể hiện mối quan hệ từ căng thẳng dẫn đến đỉnh cao là xung đột trong quan hệ Mĩ – Trung
Quốc từ sau thế chiến thứ hai đến kết thúc chiến tranh lạnh. Hội nghị quốc tế Giơnevơ khai mạc tháng
4/1954 nhằm giải quyết vấn đề chiến tranh Triều Tiên và Đông Dương vẫn không đi đến một tuyên bố
cuối cùng thỏa mãn yêu cầu các bên. Mặc dù chấp nhận hiện trạng tại Triều Tiên và không can thiệp
quân sự trực tiếp tại Đông Dương 1954 nhưng không có nghĩa là Mĩ đã rút lui khỏi Châu Á. Mục tiêu
chính trong chính sách ngăn chặn của Washington là ngăn chặn sự mở rộng địa bàn của chủ nghĩa cộng
sản thông qua các biện pháp chinh phục hoặc lật đổ, do Trung Quốc đã trở thành cội nguồn sự lan rộng
mới của Chủ nghĩa cộng sản nên cần phải chặn đứng từ đây.
Tác động từ cuộc chiến ngoài biên giới này đã thúc đẩy một loạt các vấn đề trong quan hệ giữa
hai nước vốn ầm ĩ có cơ hội bộc phát. Đó là vấn đề Đài Loan độc lập và sự không công nhận chính
quyền Mao Trạch Đông là đại diện duy nhất của toàn thể người dân Trung Quốc trong các tổ chức
quốc tế từ phía Mĩ.
Sau chiến thắng của Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1949, chính phủ quốc gia Tưởng Giới
Thạch phải giới hạn phạm vị trên đảo Đài Loan. Đến khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, chính quyền
tổng thống Truman vẫn chưa có chính sách rõ ràng về Đài Loan mặc dù một số nhà chiến lược công
nhận tầm quan trọng của hòn đảo này. Trong tuyên bố ngày 12/01/1950 ngoại trưởng Mĩ Acheson đã
nhấn mạnh “tuyến phòng thủ của Mĩ ở Thái Bình Dương bắt đầu chạy từ Philippin qua quần đảo
Ryukyu, trong đó có căn cứ quân sự Okinawa của Mĩ và chạy suốt lên phía Bắc nước Nhật” [57;32].
Như vậy, đảo Đài Loan không nằm trong tuyến phòng thủ của Mĩ lúc này và Triều Tiên được coi là
nước nằm dưới quyền bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Mặc dù Mĩ vẫn có chính sách giúp đỡ chính quyền
Tưởng Giới Thạch, nhưng sự giúp đỡ đó “chẳng làm ai hài lòng cũng như chẳng có lợi ích gì cả” vì
“ưu tiên của Mĩ là Châu Âu và họ rất thận trong không cam kết quá mức ở đâu cả” [57;33]. Từ khi
Trung Quốc quyết không thể bỏ qua vấn đề Triều Tiên Mĩ thì cho rằng: chiến tranh Triều Tiên là một
cái cớ mà Mĩ mong đợi từ lâu, Washington đã điều hạm đội 7 từ Philippin về án ngữ eo biển Đài Loan
phòng Đại lục tấn công hòn đảo này. Đến đây, sự quan tâm của Mĩ đối với an ninh Đài Loan được tăng
cường, xem hòn đảo này trở thành một biểu tượng cuộc chiến tranh giữa tự do và cộng sản: Đài Loan là
một tuyến phòng thủ của Mĩ ở Thái Bình Dương hình thành một vòng cung từ quần đảo Ahusan đến
Nhật Bản, Okinawa đến Philippin và nó dần trở thành một hàng không mẫu hạm không thể chìm của
Mĩ ở khu vực Viễn Đông. Trong quan điểm Mĩ luôn tồn tại hai tư tưởng đối nhau, khái niệm vòng cung
phòng vệ có thể bị sứt mẻ nếu Trung Quốc chiếm được đảo Đài Loan, và nếu Mĩ tìm cách “bảo vệ” Đài
Loan thì đều này sẽ gây thù với Trung Quốc, do ngăn cản mục tiêu thống nhất đất nước của họ, chẳng
khác đẩy Trung Quốc kết thân hơn với Liên Xô. Điều này sẽ trái với chính sách của Mĩ là sẽ tách
Trung Quốc ra khỏi tầm ảnh hưởng Liên Xô.
Trong cuộc họp Hội đồng Bảo An ngày 20/09/1950 Mĩ yêu cầu đem vấn đề Đài Loan ra thảo
luận, Trung Quốc thì phản đối mạnh mẽ việc Hạm đội 7 của Mĩ có mặt trên lãnh thổ Đài Loan xem đây
là hành động trực tiếp vào công việc nội bộ nước này, và Liên Hiệp Quốc không có quyền đem vấn đề
Đài Loan ra thảo luận trong bất kì trường hợp nào khác. Tuyên bố Cairo và Công bố Postdam là hai căn
cứ pháp lí mang tính quốc tế mà Trung Quốc dựa vào phản đối việc “Mĩ tự làm theo ý mình”. Kết quả
một văn bản thảo luận địa vị Đài Loan đình lại không kì hạn đã được thông qua bởi đề xuất từ Anh.
Điều này hợp với ý đồ của Mĩ là lành “đông lạnh” địa vị Đài Loan tức vẫn duy trì địa vị chính phủ
Trung Hoa Dân Quốc trong Liên Hiệp Quốc, không để Đài Loan trở thành căn cứ quân sự của Liên Xô
ở vùng Tây Thái Bình Dương. Vì vậy, Mĩ luôn có những động thái làm cho Bắc Kinh tin tưởng rằng
nước này luôn ủng hộ Tưởng Giới Thạch với ý đồ xâm lược Đại lục nhằm lật ngửa kết quả cuộc nội
chiến trước đó. Tháng 12/1954 Hiệp ước phòng thủ chung được kí kết giữa Mĩ – Tưởng, Trung Quốc
lên án đây là một sự xâm phạm trắng trợn chủ quyền, là hành động khiêu chó một cuộc chiến tranh
“Hiệp ước phòng thủ chung Mĩ – Đài Loan là phi pháp, không có hiệu lực” [19;71]. Cuộc khủng hoảng
eo biển Đài Loan lần thứ nhất bắt đầu (1954 – 1955), Mĩ quyết định trên cơ sở chính trị chiến lược hay
tổng thể là sẽ không bỏ bất kì lãnh thổ nào nữa. Đến năm 1958 Trung Quốc Đại lục tiếp tục các hoạt
động quân sự nhằm thu hồi Đài Loan trên một số đảo nhỏ, Mĩ cung cấp các hỗ trợ cho chính quyền
Tưởng, vẫn từ chối xác lập Đài Loan là một bộ phận Trung Quốc. Thực tế, cuộc xung đột giữa Mao –
Tưởng không còn là một cuộc xung đột dân sự đơn thuần, mà đã phát triển thành xung đột toàn cầu
giữa thế giới cộng sản và thế giới tự do.
Trước cuộc khủng hoảng eo biển lần hai bùng phát, năm 1955 tại hội nghị Budăng, phía Bắc
Kinh đề nghị chính thức đàm phán với Washington để giảm bớt căng thẳng trong khu vực, hai nước
cũng đã tiến hành đàm phán cấp Đại sứ tại hội nghị Giơnevơ nhưng không đạt được sự thỏa thuận cho
các bên liên quan. Có thể nói, Đài Loan không chỉ là một nhân tố chi phối quan hệ Mĩ – Trung mà còn
là yếu tố tạo nên sự căng thẳng xung đột trong mối quan hệ này trước khi bình thường hóa quan hệ
giữa hai nước và kéo dài đến hiện nay.
Kết quả cuộc chiến tranh Triều Tiên, vấn đề Đài Loan dẫn đến Washington phong tỏa các khoản
tài sản của Bắc Kinh tại Mĩ, thực hiện hạn chế sau đó cấm toàn bộ các hoạt động thương mại, từ chối
cấp thị thực cho bất cứ người Mĩ nào muốn du lịch sang Trung Quốc. Thực tế tại cuộc họp giữa tháng 5
năm 1951, Mĩ yêu cầu Liên Hợp Quốc thông qua “Nghị quyết thi hành cấm vận đối với Trung Quốc”.
Cuộc chiến Triều Tiên cũng góp phần mở rộng chính sách ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản từ Châu Âu
đến Châu Á, theo đó các tổ chức quân sự, hiệp ước, căn cứ quân sự được Mĩ tăng cường ở Đông Á. Và
Mĩ tiếp tục bác bỏ đề nghị cộng nhận CHND Trung Hoa vào Liên Hiệp Quốc thay thế cho Trung Hoa
Dân Quốc. Mĩ cho rằng để công nhận chế độ cộng sản Trung Quốc và thừa nhận nước này tại Liên
Hiệp Quốc cần một quá trình, điều quan trọng Trung Quốc phải nhân nhượng một số vấn đề trong quan
hệ quốc tế. Do vậy nhiều năm sau cuộc xung đột với Trung Quốc tại Triều Tiên, Mĩ tích cực giữ thái
độ không công nhận nước này. Đến năm 1960 chính sách không công nhận Bắc Kinh và hỗ trợ trực
tiếp cho “Trung Quốc tự do” đã trở thành cứ điểm trong chính sách đối ngoại của Mĩ, đa phần dân Mĩ
ủng hộ chính sách này “chính phủ Trung ương (Mĩ) không quan tâm đến các cam kết quốc tế của
Trung Quốc, nó là một quốc gia xâm lược, Liên Hiệp Quốc đã công nhận khi nước này tiến hành chiến
tranh ở Triều Tiên, can thiệp gián tiếp vào Đông Dương bằng cách hỗ trợ vũ trang cho Việt Minh trong
cuộc đấu tranh giữa Chủ nghĩa cộng sản và thế giới tự do. Có sự bảo đảm rằng Trung Quốc sẽ có một
ghế trong Liên Hiệp Quốc dưới sự ủng hộ của Liên Xô để tạo nên đồng minh”. Mĩ còn cho rằng, Trung
Quốc đã tiến hành chiến dịch tuyên truyền không thân thiện khi lên án nước này là “con hổ giấy” với
sức mạnh đế quốc hiếu chiến, sự thù địch giữa đế quốc Mĩ với Đại lục đã đến giới hạn. Mĩ là kẻ thù của
nhân dân thế giới.
Để thể hiện là một quốc gia theo đuổi chính sách hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc từ khi
thành lập nước, Trung Quốc thực hiện một loạt các biện pháp để giảm bớt căng thẳng trong quan hệ
quốc tế như: thỏa thuận chấm dứt xung đột tại Triều Tiên; những đóng góp cho nỗ lực hòa bình tại
3
Đông Dương thông quan hội nghị Giơnevơ 1954; tham gia hội nghị Á – Phi năm 1955, đề xuất 5
P. Đây là sự thừa nhận của Bắc Kinh mong muốn sự ủng hộ của cộng
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình P2F
đồng quốc tế về vị thế, vai trò trên thế giới, trước hết là vào Liên Hiệp Quốc.
Khái quát lại chính sách của Mĩ đối với Trung Quốc qua các đời tổng thống có sự thay đổi theo
3 - Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; - Không xâm lược lẫn nhau; - Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; - Bình đẳng và hai bên cùng có lợi; - Cùng tồn tại hòa bình.
biến đổi trong quan hệ quốc tế. Thời kì tổng thống Einsenhower (1952 - 1960) chính sách ngoại giao
của Mĩ vẫn “dậm chân trên con đường đối đầu với Liên Xô” [6;69] để ngăn ngừa sự lan rộng của chủ
nghĩa cộng sản. Giai đoạn đầu Mĩ từng bước thỏa thuận kết thúc chiến tranh Triều Tiên nhưng bắt đầu
can thiệp vào Việt Nam. Một điều lưu ý, Mĩ đã từng xem vấn đề Triều Tiên, vấn đề Việt Nam gắn
chung với vấn đề Trung Quốc, theo đó: xem Đông Dương và Triều Tiên là hai bên sườn với lực lượng
lớn nằm ở trung tâm là Trung Quốc. Nếu như Trung Quốc can thiệp vào hai bên sườn thì không thể
mong đợi một nền hòa bình nào sẽ được thiết lập ở cả Triều Tiên và Đông Dương khi lực lượng đó
không gặp bất cứ trở ngại nào. Dulles – bộ trưởng ngoại giao Mĩ đã nhấn mạnh: cần phải uy hiếp vùng
trung tâm bằng cách nào đó có thể giữ và dìm lực lượng này xuống, Mĩ sẽ có cơ hội tốt hơn để giành
thắng lợi ở hai bên sườn. Như vậy thời kì này Mĩ tiếp tục đóng băng trong quan hệ với Trung Quốc.
Thời kì chính quyền Kennedy có những tuyên bố trở nên cứng rắn, đã không mang lại sự cải thiện nào
đáng kể cho quan hệ giữa hai nước “cộng sản Trung quốc dưới quyền lãnh đạo của Mao được xem là
mầm móng gây nguy hiểm hơn là Liên Xô” [57;136]. Cả Kennedy và sau này là Johnson vẫn xem
Trung Quốc là “kẻ xúi giục hàng đầu trong việc gây hấn của cộng sản Việt Nam ở Đông Dương”
[57;136]. Trong bài phát biểu năm 1963 trước các giới chức Pháp, Kennedy chỉ rằng “Trung Quốc
chuẩn bị hy sinh hàng trăm triệu dân nếu cần để thực hiện chính sách quân sự hiếu chiến của mình”
[57;137]. Điều này thể hiện một phần trong chính sách đối ngoại của ông trong buổi lễ nhậm chức ngày
20/01/1961 “hãy để cho mọi quốc gia biết, cho dù họ mong muốn chúng ta tốt hay đều xấu, mà chúng
ta phải trả giá bất cứ giá nào, chịu gánh nặng, đáp ứng bất kì khó khăn, hỗ trợ bất kì người bạn, phản
đối mọi kẻ thù, để bảo đảm sự sống và thành công của tự do” [99]. Mặc dù có những tuyên bố cứng
rắn đối với Trung Quốc Đại lục nhưng chính quyền Kennedy đã dần không còn chấp nhận tư tưởng duy
nhất Đài Loan đại diện cho toàn bộ đất nước Trung Quốc, cai trị ở Đại lục không còn là tạm thời như
thời Aixenhao hay ngoại trưởng Dulles đã từng nghĩ. Tuy vậy, sự hỗ trợ tiếp tục cho chế độ Quốc Dân
Đảng vẫn còn trong việc đảm bảo lợi ích ở Viễn Đông, Trung Quốc đã đặt cho Kennedy bí danh “con
hổ có bộ mặt tươi cười” [57;138] để đánh giá về đường lối đối ngoại của vị tổng thống này đối với Bắc
Kinh.
Đường lối đối ngoại thời chính quyền L.B.Johnson trên cở sở tiếp thu chính quyền tiền nhiệm.
Đây là thời kì Mĩ tham gia sâu rộng vào cuộc chiến tại Việt Nam. Washington nhấn mạnh bất kì sự cải
thiện trong quan hệ giữa nước này với Trung Quốc phụ thuộc vào sự thay đổi, nhiệt tâm từ phía Bắc
Kinh, Johnson đã tái khẳng định cam kết với chính phủ Trung Hoa Dân Quốc về điều này. Cuộc chiến
ở Việt Nam đang leo thang, nhiều thành viên trong nội các Johnson cho rằng: Bắc Việt Nam không thể
xâm nhập vào Nam và làm suy yếu Việt Nam Cộng hòa mà không có sự hỗ trợ của chính quyền Bắc
Kinh. Ngay cả tổng thống Johnson cũng tuyên bố, chúng ta phải đối mặt với một Trung Quốc đầy tham
vọng và hùng hổ, nhưng chúng ta có ý chí và sức mạnh để giúp bạn bè (đồng minh) của chúng ta ở
Châu Á để chống lại tham vọng đó. Cả Washington và Bắc Kinh luôn trong tình trạng căng thẳng
nhưng đều nhận thức được không thể xảy ra một cuộc xung đột vũ trang trực tiếp giữa hai nước. Bắc
Kinh đưa ra quan điểm: chỉ can thiệp nếu cảm thấy bị đe dọa trực tiếp, cuộc chiến tranh (ở Việt Nam)
có thể là một cuộc chiến tranh giới hạn, nếu Mĩ không xâm lược miền Bắc Việt Nam và không tiến
hành các hoạt động quân sự biên giới Trung Quốc. Mao Trạch Đông đã khẳng định quan điểm này
trong bài phỏng vấn tháng 2/1965 “Quân đội Trung Quốc sẽ không tiến hành một cuộc chiến bên ngoài
lãnh thổ của mình…..chỉ chiến đấu trong trường hợp Mĩ tiến công….chiến đấu bên ngoài lãnh thổ
nước mình (Trung Quốc) là một tội ác” [15;148].
Từ 1966, Mĩ có sự thay đổi chính sách đối với Trung Quốc từ “ngăn chặn và cô lập” sang “ngăn
chặn mà không cô lập”. Tư tưởng không cô lập Trung Quốc vì nhận thức được rằng nước này đang dần
có một vị thế trên thế giới, tư tưởng ngăn chặn vì Trung Quốc vẫn là một đối thủ ở Châu Á, luôn luôn
hỗ trợ thế giới thứ 3 làm cách mạng ở nhiều nơi. Trong suốt thập niên 60, có nhiều sự kiện diễn ra tác
động đến quan hệ giữa hai nước. Mĩ dần bế tắc trong chiến tranh Việt Nam; sự phân chia ý thức hệ
giữa Liên Xô và Trung Quốc…Khi Nixon nhậm chức tổng thống 1969 đã nhận ra việc tiến hành bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc có lợi cho việc giải quyết những khó khăn trong quan hệ quốc tế
mà nước này đang gặp phải. Bắc Kinh cũng nhận thức được tầm quan trọng của việc bình thường hóa
quan hệ với Washington.
Sau một thời gian đối đầu, Mĩ – Trung bước vào giai đoạn đàm phán.
Tiểu kết chương 1
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ và Liên Xô trở thành hai cực đối nhau, mối quan hệ đồng
minh trong thế chiến thứ hai nhanh chống tan vỡ, theo cách nói của một sử gia “đó là cuộc hôn nhân
không có tuần trăng mặt”. Một loạt các công cụ, biện pháp, thiết chế, chiến lược đã được huy động để
phục vụ cho cuộc chiến lạnh, làm toàn bộ đời sống quốc tế bị bao phủ bởi không khí băng giá, đối đầu.
Tạo nên cục diện hai cực Ianta và quan hệ quốc tế bị chi phối mạnh mẽ bởi 2 cực này.
Quan hệ với đồng minh hai cực cũng trở nên căng thẳng.
Khi CHND Trung Hoa ra đời, quan hệ Mĩ – Trung bước vào thời kì đối đầu, từ năm 1949 đến
cuối thập niên 60 trở nên căng thẳng trong quan hệ hai nước. Trung Quốc đã lựa chọn chính sách ngoại
giao nhất biên đảo theo Liên Xô chống Mĩ, trong khi đó Washington xem Bắc Kinh là lực lượng hậu
thuẫn cho CNCS phủ lên toàn bộ khu vực Châu Á. Mĩ đã thi hành một loạt các biện pháp để cô lập
Trung Quốc: cấm vận kinh tế, không công nhận ngoại giao, phủ quyết vào Liên Hiệp Quốc. Đỉnh cao
là cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953, thể hiện cho mâu thuẫn hai nước không thể đàm phán bằng
con đường hoà bình, Mĩ – Trung trở thành lực lượng hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất giữa 2
miền Triều Tiên.
Kết quả cuộc chiến tranh Triều Tiên không ngã ngũ dù hiệp định đình chiến đã được kí kết, vì
thế với ý đồ tiếp tục ngăn chặn sự lan rộng của CNCS từ Trung Quốc, Mĩ đã can thiệp vào nước này
qua trường hợp Đài Loan. Ý nghĩ về việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước không tồn tại trong
khoảng hai thập niên, khi luôn coi nhau là kẻ thù. Trong các hội nghị quốc tế các nhà ngoại giao hai
nước đã tiến hành đàm phán cấp Đại sứ nhưng không đi đến kết quả tích cực nào vì đó là các cuộc “đối
thoại giữa những người điếc”. Bởi Mĩ tiếp tục công nhận chính quyền Tưởng tại Đài Loan, bác bỏ việc
công nhận CHND Trung Hoa là đại diện duy nhất ở Liên Hiệp Quốc. Bắc Kinh tuyên bố chỉ khi nào
Mĩ chấm dứt can thiệp vào công việc nội bộ thì sẽ tiến hành các cuộc thảo luận đi đến chấm dứt đối
đầu giữa hai nước.
Trãi qua các đời tổng thống từ năm 1949 đến cuối thập niên 60, chính sách đối ngoại mà Mĩ áp
dụng đối với Bắc Kinh cơ bản không thay đổi, vẫn là chính sách ngăn chặn, cô lập rồi tiến tới tiêu diệt
CNCS – một mục đích nằm trong chiến lược toàn cầu chung của Mĩ. Khi Nixon lên nắm quyền tại Nhà
Trắng; Mĩ đang bế tắc trong cuộc chiến tranh xâm lược tại Việt Nam, Đông Dương; Liên Xô – đối thủ
chính của Mĩ ngày càng lớn mạnh; các đồng minh Tây Âu, Nhật Bản trở thành những thế lực cạnh
tranh ảnh hưởng ngang với Washington….tất cả đã buộc Mĩ phải linh hoạt trong đường lối ngoại giao
để từng bước thoát khỏi khó khăn nhằm khẳng định vị trí cường quốc của mình. Bên cạnh đó, Trung
Quốc cũng có sự nhận thức cần thay đổi trong đường lối đối ngoại nhằm khẳng định vị trí và vai trò
trên trường quốc tế mà trước hết là trong khối XHCN.
Những biến chuyển trong quan hệ quốc tế, trong nội bộ từng nước cuối thập niên 60 thế kỉ XX
đã đưa hai nước tiến hành tiếp xúc, thảo luận đi đến bắt tay hòa giãi.
Chương 2. QUAN HỆ HOA KÌ – CHND TRUNG HOA TỪ 1972 ĐẾN KHI CNXH Ở LIÊN XÔ TAN RÃ
2.1.Tình hình quốc tế giai đoạn 1972 – 1989
Trong giai đoạn này, có nhiều thay đổi lớn xảy ra trong lịch sử quan hệ ngoại giao thời hậu
chiến thế giới. Cuộc đối đầu Đông – Tây khung cơ bản của chính trị quốc tế đã được duy trì hơn ¼ thế
kỉ đã có những biến đổi ít nhất là vẻ bề ngoài, các nước hướng về việc xây dựng một trật tự quốc tế mới
đã và đang được hình thành. Thay đổi diễn tiến không chỉ trong lĩnh vực chính trị mà còn kinh tế.
Trong chính trị quốc tế rõ lên là sự phân cực, Mĩ – Xô hai cực chi phối cục diện quan hệ quốc tế đang
dần bị xói mòn bởi các “lực lượng” mới nổi lên, nó được bắt đầu từ thập niên 70.
Sau khi kết thúc Cách mạng văn hóa, Trung Quốc ra sức khắc phục hậu quả do cuộc cách mạng
này gây ra đồng thời tăng cường hoạt động ngoại giao, trước hết cải thiện quan hệ với phương Tây,
luôn vận động để được kết nạp vào Hội đồng Bảo An. Trong quan hệ với Mĩ (từ năm 1969) sự đối đầu
đã giảm giữa hai nước bởi những động thái tích cực của hai phía, mặc dù Washington và Bắc Kinh
chưa diễn ra các cấp cao nào để thỏa thuận, thiết lập quan hệ chính thức, điều mà hai nước nổ lực đến
tận năm 1979 mới chính thức đạt được. Dường như cả Mĩ và Trung Quốc chưa bao giờ thỏa mãn được
những điều kiện mà các bên đưa ra trong đàm phán quan hệ, để đạt được mục tiêu chiến lược thì các
nhân tố ảnh hưởng đến mối quan hệ này chỉ tạm thời được gác lại và khi có cơ hội thì nó lại những
nguyên nhân gây ra tình trạng nóng, lạnh giữa Washington và Bắc Kinh.
Mối quan hệ Xô – Trung đóng băng sau các cuộc đụng độ vũ trang dọc biên giới hai nước, và
phải trải qua một quá trình đàm phán vì những khác biệt trong quan điểm, đến thập niên 80 về cơ bản
tình hình biên giới cũng như những bất đồng trong quan hệ hai nước đã được giải quyết, điều này
không chỉ phù hợp với xu thế phát triển trong quan hệ quốc tế là hòa bình, ổn định mà còn vì lợi ích
chiến lược của cả hai.
Khối TBCN, sự gia tăng vị thế quốc tế của Nhật Bản trong thời gian này càng rõ nét, nước này
trở thành một trong ba trung kinh tế - tài chính của thế giới tư bản khi đang trong giai đoạn phát triển
thần kì, mặt dù sau đó chịu sự tác động bởi khủng hoảng năng lượng năm 1973 nền kinh tế nước này có
những tác động nhất định nhưng điều này không ảnh hưởng đến việc Nhật Bản gia tăng vai trò, vị thế
trên chính trường quốc tế. Kinh tế Tây Âu bắt đầu từ thập niên 70 đang phát triển sánh ngang với Mĩ và
Liên Xô. Bên cạnh đó sự mở rộng của cộng đồng Châu Âu tạo nên sự ổn định, phát triển cao hơn cho
khu vực này trên nhiều mặt, với nhiều nổ lực đã giảm bớt sự căng thẳng Đông – Tây, thông qua các
giải pháp về vấn đề Berlin (Đức), các hội nghị an ninh Châu Âu hoạch định các kế hoạch giảm sự gia
tăng quân sự không cần thiết. Đồng minh của Mĩ ngày càng có tiếng nói độc lập hơn trong nhiều vấn
đề quốc tế không phải chịu ảnh hưởng hay sức ép nào từ bên ngoài.
Từ thập niên 1970 Châu Á cũng bị tác động theo những chuyển biến trong quan hệ quốc tế. Sau
chiến tranh Triều Tiên, hai miền Nam – Bắc phát triển theo hai hướng khác nhau nhưng trong tình
trạng luôn căng thẳng, tuy vậy trong khoảng thời gian các nước lớn có những cuộc gặp nhau nhằm
giảm bớt căng thẳng thì hai miền cũng theo xu thế này tiến hành các cuộc tiếp xúc, đối thoại chẳng hạn
đàm phán tiềm kiếm dân mất tích, thất lạc trong chiến tranh. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam cuối những
năm 60 trong quá trình đàm phán để tìm kiếm một giải pháp hòa bình nhưng những hoạt động quân sự
của Mĩ và đồng minh đã làm cho tiến trình đàm phán bị đình lại, đến mãi năm 1975 hòa bình mới trở
lại Đông Dương, cần phải nói thêm với việc Việt Nam thống nhất tổ quốc đã giáng một đòn mạnh vào
chính sách toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc, góp phần ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì dân chủ, tự do và
hòa bình cho các lực lượng tiến bộ. Trong quá trình xây dựng CNXH Việt Nam, nước này gặp nhiều
khó khăn phát sinh từ trong nước và tác động từ bên ngoài, đến giữa những năm 80 thì mới có những
chuyển biến đáng kể nhờ công cuộc đổi mới phù hợp với sự biến đổi tình hình thế giới.
Các nước ASEAN theo đuổi lập trường “trung hòa” và kêu gọi các quốc gia khác tôn trọng quan
điểm này. Điều này cho thấy các nước nhỏ đang muốn tìm kiếm và bảo đảm vị trí trong cuộc đồng
quốc tế một cách tự chủ, độc lập, không bị lệ thuộc, ảnh hưởng bởi cực nào của thế giới. Các khu vực
khác trên thế giới: Trung Đông, Châu Phi, Trung và Nam Mĩ cũng có những biến đổi về kinh tế - chính
trị - xã hội mặc dù một số vấn đề xung đột biên giới, chủng tộc luôn ảnh hưởng đến sự phát triển đất
nước, khu vực. Nhìn chung, đây là một lực lượng quan trọng trong “thế giới thứ ba” đang vươn lên
khẳng định tiếng nói độc lập trên các diễn đàn quốc tế.
Điều quan trọng là mối quan hệ Mĩ – Xô với những biến đổi tiếp theo một cách đầy thăng trầm,
mối quan hệ này biến đổi phù hợp trước hết là vì lợi ích bản thân hai nước. Xu hướng hòa dịu trong
quan hệ Đông – Tây bắt đầu xuất hiện từ giữa những năm 50, sau một thời gian chững lại đến giai đoạn
này được khơi dậy. Cả Mĩ và Liên Xô xuất hiện không ít khó khăn để duy trì thế cân bằng chiến lược,
những khoản chi tiêu khổng lồ cho việc chạy đua vũ trang đã khiến hai nước mất dần ưu thế cạnh tranh
về kinh tế với các nước khác. Do vậy, vấn đề đi đến thỏa thuận hạn chế vũ khí chiến lược là cách để hai
nước chú tâm phát triển hơn các vấn đề khác, đàm phán, cắt giảm chạy đua vũ trang đã trở thành một
trong những vấn đề trung tâm trong quan hệ hai nước. Các cuộc gặp cấp cao giữa lãnh đạo hai nước
luôn nhận được sự quan tâm lớn của thế giới, sau nhiều lần gặp mặt hai nước đã đi đến kí kết nhiều
hiệp định quan trọng, như hội nghị cấp cao Xô – Mĩ tháng 5/1972 kí hiệp ước SALT “lần đầu tiên thế
cân bằng Xô – Mĩ được chính thức công khai thừa nhận” [22;23], góp phần đưa thế giới đến gần hơn
với “hòa bình”. Nhưng sự phức tạp, thăng trầm trong quan hệ Mĩ – Xô khó đoán định được, bước sang
cuối thập niên 70 đầu những năm 80 lại xuất hiện những căng thẳng trong quan hệ hai nước, vượt khỏi
khả năng khống chế của cả hai siêu cường, Mĩ với cuộc khủng hoảng chính trị tại Iran (11/1979), khó
khăn trong nước; Liên Xô đưa quân vào Apganixtan gây nên sự phản đối mạnh mẽ từ cộng đồng quốc
tế (12/1979); khủng hoảng vấn đề Campuchia…..Quan hệ hai nước trở nên xấu đi khi R.Reagan vào
Nhà Trắng thi hành chính sách ngoại ngoại cứng rắn với Moscow, cuộc chạy đua vũ trang mới bắt đầu
khởi động. Đến khi Goocbachop lên nắm quyền, Liên Xô đang lâm vào tình trạng khó khăn bởi chính
sách cải tổ không thành công. Mĩ cũng trở nên suy yếu nhiều so với đồng minh. Tất cả đã đưa hai nước
tiến hành cuộc gặp cấp cấp cao đầu tháng 12/1989 tại Malta với tuyên bố chấm dứt chiến tranh lạnh –
mở ra một kỉ nguyên mới trong quan hệ quốc tế.
Chiến tranh lạnh kết thúc đồng nghĩa với việc kết thúc cuộc đối đầu Đông – Tây, dẫn đến sự
thay đổi lớn trong quan hệ quốc tế và chính “sự tương tác giữa các chủ thể trong quan hệ quốc tế là
nhân tố quyết định sự vận động thường xuyên của hệ thống quan hệ quốc tế”.
Như vậy, tình hình quốc tế giai đoạn 1972 – 1989 có những biến chuyển quan trọng, điều này
ảnh hưởng đến quan hệ giữa Mĩ và Trung Quốc.
2.2. Bình thường hóa quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa
2.2.1. Vận động ngoại giao của Hoa Kì thời tổng thống Richard Nixon
Từ ngày 21/02/1972, Tổng thống Mĩ R.Nixon đã có mặt tại Trung Quốc, khởi đầu cho một hội
nghị thượng đỉnh kéo dài một tuần lễ nhằm chấm dứt hơn hai thập kỉ lạnh nhạt trong quan hệ giữa hai
nước. Nixon là vị tổng thống Mĩ đầu tiên viếng thăm CHND Trung Hoa từ khi nước này tuyên bố
thành lập năm 1949. Sau các cuộc hội đàm giữa Nixon với chủ tịch Mao Trạch Đông, thủ tướng Chu
Ân Lai, sau đó một Thông cáo được thông qua ngày 27/2, đặt cơ sở cho việc thúc đẩy bình thường hóa
quan hệ giữa hai nước. Chu Ân Lai đã mô tả của hành trình của tổng thống Nixon đến Trung Quốc như
là một động thái tích cực đáp ứng được mong muốn của nhân dân hai nước. Phía tổng thống Nixon
cũng đáp lại “không có lí do gì để chúng ta coi là kẻ thù của nhau” và “chúng tôi không tìm cách chiếm
lãnh thổ của người khác, chúng tôi không tìm cách thống trị và không tìm cách mở rộng đồng minh và
thống trị thế giới”.
Nhưng để đạt được sự bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Mĩ đã trải qua một quá trình
vận động ngoại giao từ nhiều phía, nhằm thăm dò phản ứng của Bắc Kinh.
Sau cuộc chiến tranh Triều Tiên hai bên thỉnh thoảng gặp nhau bàn về các vấn đề liên quan ở cấp
Đại sứ tại Warsaw (Ba Lan) từ năm 1955. Khoảng thời gian 1955 – 1968 có 134 lần gặp nhau giữa Đại
sứ hai nước “đàm phán thời gian ngoại giao dài, số lần nhiều, tranh luận gay gắt hiếm thấy trong lịch sử
quan hệ quốc tế cận đại” nhưng kết quả “chỉ là cuộc đối thoại giữa những người điếc”, hai bên chỉ đạt
được một kết quả duy nhất là hồi hương một số phần tử quốc gia đã theo Tưởng Giới Thạch tháo chạy
sang Đài Loan.
Nixon là nhân vật khơi màu trong việc nhận ra sự cần thiết phải thay đổi thái độ ngoại giao với
Trung Quốc cộng sản. Trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Nixon phát biểu trong một cuộc phỏng
vấn (9/1968) “Bất cứ chính sách nào của Mĩ đối với Châu Á vừa bắt đầu đều phải đối mặt với hiện
thực Trung Quốc. Xét về lâu dài chúng ta quả thực không thể mãi mãi để Trung Quốc đứng ngoài đại
gia đình quốc tế…….không cho phép một tỉ nhân dân có tài năng nhất sống trong trạng thái cô lập
căm phẫn. Nhưng khi theo đuổi mục đích lâu dài đó, nếu chúng ta không rút bài học lịch sử trong thời
gian ngắn thì chúng ta sẽ phạm sai lầm có tai họa” [27;456]. Ngay trong diễn văn nhậm chức ngày
20/01/1969, Nixon cũng phát tín hiệu ngầm cho phía Bắc Kinh “hãy để cho chúng tôi đi đến mục tiêu:
nơi nào hòa bình không biết làm cho nó được chào đón, nơi nào hòa bình dễ vỡ làm cho nó mạnh mẽ,
nơi hòa bình là tạm thời làm cho nó vĩnh viễn….Hãy để cho tất cả các quốc gia biết rằng trong thời kì
cầm quyền của chính phủ này quan hệ sẽ thông suốt. Chúng tôi tìm kiếm một thế giới mở - mở cửa từ ý
tưởng, mở cửa từ trao đổi hàng hóa và dân tộc, một thế giới dù dân tộc của họ nhiều hay ít, sẽ không
sống trong tình trạng cô lập” [100]. Phía chính quyền Bắc Kinh chưa có phản ứng tích cực về động
thái này trong bài diễn văn, mặc dù trước đó Bắc Kinh có đề nghị nối lại đàm phán cấp đại sứ bị tạm
ngừng từ tháng 3/1968 và gợi ý cuộc họp sẽ diễn ra hạ tuần tháng 2/1969. Nhân Dân nhật báo số ra
ngày 27/01/1969 đã châm biến bài phát biểu của Tổng thống Nixon “Nixon ở ngõ cụt lại nói đến tương
lai, một người sắp xuống mồ lại tự an ủi bằng giấc mộng thiên đường, nó phản ánh sự đau khổ và tuyệt
vọng của một giai cấp đang hấp hối” [42;311]. Có thể thấy, thái độ của Trung Quốc lúc này vẫn coi Mĩ
là nước đang có ý đồ mở rộng chiến tranh xâm lược với mưu đồ thống trị thế giới, thiện chí của Nixon
trong bài phát biểu đã phản lại chính ông. Điều này không làm Washington bất ngờ vì sự căng thẳng
trong quan hệ hai nước hơn hai thập kỉ qua không thể được khai thông chỉ từ một số lời tuyên bố đơn
phương. Trong một bức thư gửi cho cố vấn Kissinger, Nixon nêu: Chính quyền chúng ta đang xem xét
đến khả năng đi đến thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, đương nhiên việc này không thể tiến
hành công khai và yêu cầu cố vấn khi tiếp xúc với bạn đồng minh, đưa ý tưởng thiết lập quan hệ với
Trung Quốc dưới góc độ một nhà phân tích. Mục đích của Mĩ là thăm dò phản ứng của đồng minh, đối
phương và phản ứng trong nước khi nước này chính thức công khai thừa nhận Trung Quốc cộng sản.
Nhiều nội dung đã được Kissinger đưa ra trong cuộc họp với các nhà nghiên cứu chính trị: thực trạng
quan hệ Mĩ – Trung trong vấn đề Đài Loan; mối tương quan trong quan hệ Mĩ và các nước lớn về đối
sách với Trung Quốc; thách thức và cơ hội trong việc cải thiện quan hệ Trung – Mĩ [42; 313].
Ngay trong cuộc hội đàm với người đồng cấp là Tổng thống Pháp De Gaul nhân chiến công du
tới Châu Âu, vấn đề Trung Quốc cũng được Nixon đề cập cùng với vấn đề Liên Xô, Việt Nam. Tổng
thống Pháp đã đề nghị, phương Tây nên cố gắng hiểu Trung Quốc qua các cuộc tiếp xúc, sau đó gây
ảnh hưởng đến họ và không nên để người Trung Quốc trong một trạng thái tức giận, cách biệt với thế
giới. Nixon cũng bày tỏ thái độ muốn thiết lập vị trí có lợi với Trung Quốc trong khi tiến hành đối thoại
với Liên Xô “Bây giờ ngài thừa nhận Trung Quốc vẫn tốt hơn sau khi Trung Quốc lớn mạnh buộc phải
làm như vậy” [27;457] – theo ý kiến De Gaul. Quan điểm phía Washington là vậy, nhưng từ khi Nixon
nhậm chức đến tháng 3/1969 quan hệ với Bắc Kinh chưa có chuyển biến, bởi Nhà Trắng vẫn coi Trung
Quốc cộng sản là một đối thủ lớn, coi nước này là mục tiêu nằm trong chương trình chống tên lửa đạn
đạo. Kế hoạch này được Nixon khơi lại vốn có từ thời tổng thống Johnson năm 1967 “đe dọa của
Trung Quốc đối với nhân dân chúng ta…không thể coi thường được…..Bằng cách thông qua hệ thống
này, có thể giảm xuống mức tồi thiểu những rủi ro của Mĩ trong trường hợp các cuộc tiến công hạt
nhân của Trung Quốc trong những năm 1970…Tôi có thể tưởng tượng rằng Liên Xô sẽ như chúng ta
không thích để cho nước của họ không được bảo vệ trước một đe dọa tiềm tàng của Trung cộng”
[1;361]. Với tuyên bố này phía Trung Quốc đã lên án Mĩ đang muốn cấu kết với Liên Xô núp dưới
danh nghĩa bảo vệ nhân dân thế giới, thực tế là đang nhằm vào nước này. Do đó, mọi động thái tích cực
từ Washington trước đó trở về vị trí ban đầu, ý tưởng bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh của
Washington đã có nhưng chưa gặp cơ hội thì không thể phát triển thành chính sách. Đầu tháng 3/1969
xung đột biên giới Xô – Trung bùng phát, một cơ hội để Mĩ – Trung “hiểu nhau” theo ý đồ riêng của
mỗi nước.
Trong tiến trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Mĩ luôn là nước chủ động thông qua
các tuyên bố, chính sách đến hành động để tạo sự tin tưởng từ đối phương. Ngày 26/6/1969 Tổng thống
Mĩ quyết định thay đổi một số điều về kiểm soát thương mại với Bắc Kinh vì cho rằng “thương mại có
lẽ là sự khích lệ để thu hút Trung Quốc, vì thương mại của Trung Quốc với Moscow đã sụp đổ”
[50;117] – thể hiện trong cuộc trò chuyện với thứ trưởng bộ ngoại giao Marshall Green. Điều này một
phần cho thấy “Washington đã quyết định lợi dụng cuộc xung đột Xô – Trung với thái độ kiên quyết
hơn” [50;116] nhằm tranh thủ hạ nhiệt trong quan hệ với Trung Quốc, dù rằng Mĩ đã tuyên bố không
cố gắng khai thác sự thù địch giữa Liên Xô và Trung Quốc “sự khác biệt tư tưởng giữa hai người
khổng lồ cộng sản không phải là vấn đề của nước Mĩ” [50;125]. Tuy nhiên lại cho rằng “chúng ta (Mĩ)
không thể quên đi những mối lo lắng sâu xa trong trường hợp leo thang của sự tranh chấp này (xung
đột Xô – Trung) trở thành một sự tan vỡ của nền an ninh và hòa bình thế giới” [50;125]. Rõ ràng Mĩ
biết tận dụng những cơ hội hợp lí và đưa ra những biện luận cho việc sử dụng những cơ hội đó.
Nhà Trắng không ngừng gửi các tín hiệu cho Bắc Kinh, ngày 25/7/1969 Nixon đã công bố học
thuyết mang tên ông (còn gọi là học thuyết Guam), trình bày chính sách ngoại giao “Châu Á mới” của
nước này. Theo đó, cam kết tiếp tục thực hiện các hiệp ước đã kí kết với các nước đồng minh Châu Á,
sẽ cung cấp một “lá chắn” nếu một sức mạnh hạt nhân đe dọa đến tự do của một quốc gia đồng minh
hoặc của một quốc gia có vai trò đến an ninh nước Mĩ; trong các trường hợp liên quan đến các thế lực
xâm lược khác Mĩ sẽ cung cấp viện trợ quân sự và kinh tế khi có yêu cầu theo hiệp ước đã cam kết,
nhưng nhấn mạnh sẽ không đưa quân trực tiếp, các nước đồng minh phải tự gánh trách nhiệm phòng vệ
của mình, tức theo quan điểm mới của Mĩ lúc này công việc của người Châu Á phải tự người Châu Á
giải quyết. Thực tế cho thấy, học thuyết này ra đời khi Mĩ đang sa lầy trong cuộc chiến tại Việt Nam,
đang tìm cách thúc đầy một chiến thắng “hòa bình trong danh dự”. Đối với Trung Quốc, qua học
thuyết này thì sự đe dọa của Mĩ đang giảm dần. Tháng 7 cùng năm Nixon cho phép dùng hộ chiếu Mĩ
đi Trung Quốc. Thông qua “con đường Pakistan” và “con đường Rumani” Mĩ tiếp tục thăm dò phản
ứng từ Bắc Kinh bắt đầu khi Nixon đắc cử tổng thống. Đầu tháng 8/ 1969, Tổng thống Mĩ có cuộc hội
đàm bí mật với người đồng cấp Pakistan – Ziaunhad, bày tỏ quan điểm: Mĩ quyết không tham gia bất
cứ hoạt động nào nhằm cô lập Trung Quốc và nhờ Pakistan chuyển suy nghĩ trên cho lãnh đạo Bắc
Kinh. Cuộc tiếp xúc với Tổng thống Rumani – Ceausescu, Nixon cũng bày tỏ “Tôi muốn nhiệm kì của
tôi cải thiện quan hệ giữa Mĩ và Trung Quốc, có thể nhờ ông (Ceausescu) làm trung gian chuyển ý
muốn của tôi đến người Trung Quốc được không” [27;460]. Để cho người đồng cấp có cơ sở, sự tin
tưởng hơn nữa thái độ của Mĩ đối với Trung Quốc, Nixon nhấn mạnh “Mĩ phản đối hệ thống an ninh
Châu Á do Liên Xô đưa ra, xây dựng tập đoàn nhỏ chống Trung Quốc ở Châu Á là sai lầm. Trung
Quốc tài nguyên dồi dào, dân số đông đúc bị cô lập một cách sai lầm, sẽ biến thành một lực lượng
mang tính bùng nổ, chính sách của Mĩ là xây dựng tốt đẹp với hai nước Trung –Xô” [27;460].
Với các quan điểm thẳng thắng trong các cuộc hội đàm dù là gián tiếp, Washington đã bắt đầu
thành công trên con đường tìm kiếm sự hữu hảo với Bắc Kinh. Nhưng để đạt được mục đích cuối cùng
thì Mĩ còn nhiều việc phải làm. Sự kiện Chu Ân Lai có cuộc tiếp xúc với Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô
Kosygin sau khi dự tang lễ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo nên sự lo lắng cho chính quyền Nixon, dù
Xô – Trung đang trong tình trạng đối đầu gay gắt. Điều gì sẽ xảy ra khi Moscow và Bắc Kinh đi đến
giải quyết bất hòa. Tại cuộc tiếp xúc giữa đại diện hai nước Xô – Trung ngày 11/9/1969 đi đến thỏa
thuận kí kết một hiệp định tạm thời về việc duy trì hiện trạng biên giới ngăn chặn các cuộc xung đột vũ
trang; tránh đụng độ vũ trang trong các khu vực đang tranh chấp, sau đó qua đàm phàn sẽ giải quyết
vấn đề. Nhưng những thỏa thuận này không được bảo đảm bởi các văn bản chính thức, điều này kết
hợp với các tin tức tình báo phía Mĩ về khả năng sớm đi đến giải quyết tranh chấp Xô – Trung sẽ không
nhanh làm cho Mĩ không phải lo lắng nhiều, theo đó tiến trình bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc sẽ không bị chững lại. Đầu tháng 11/ 1969, Mĩ thay đổi cách tuần tra hải quân ở eo biển Đài
Loan, không còn việc tuần dương hạm luôn trong tình trạng báo động để bảo vệ chính quyền Tưởng tư
khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Marshall Green đã trình bày với Nhà Trắng một bản ghi nhớ sau
khi phát hiện rằng “Nixon đã bị cuốn hút vào việc cố gắng cải thiện mối quan hệ với Bắc Kinh là sự
tiến bộ rõ rệt nhất” “chúng tôi khuyến nghị rằng chúng ta sẽ cố gắng sử dụng cơ hội hiện tại bằng việc
rút hai tàu tuần tra eo biển Đài Loan để cải thiện bầu không khí…..chúng ta sau đó sẽ tiếp cận Bắc
Kinh…..về các cuộc đối thoại mới được trình bày trong bối cảnh của những biểu trưng quan trọng mà
Bắc Kinh có thể nắm được về việc di chuyển tại eo biển Đài Loan” [50;134].
Trước cuộc hội đàm lần thứ 135 với Trung Quốc tại Warsaw ngày 20/1/1970 [50;138], Nixon đã
chỉ thị cho đại sứ Mĩ tại Ba Lan tìm cách tiếp xúc với đại diện Trung Quốc tại đây với thông điệp sẵn
sàng xét việc cử một đại diện đi Bắc Kinh để thảo luận trực tiếp với các quan chức Trung Quốc, hoặc
ngược lại. Với hàng loạt các động thái mang tính chủ động từ phía Mĩ, Bắc Kinh đã đáp lại thiện chí đó
ngay trong cuộc gặp thứ 135, đến cuộc đàm phàn 136 vào tháng 2/1970, Trung Quốc dần tỏ thái độ
thiện chí hơn “nếu chính phủ Mĩ mong muốn gửi một đại diện cấp Bộ hoặc một phái viên đặc biệt của
tổng thống Mĩ tời Bắc Kinh để thăm dò những vấn đề nguyên tắc cơ bản giữa Trung Quốc và Mĩ, chính
phủ Trung Quốc sẽ sẵng sàng đón tiếp” [50;138]. Tác động của diễn biến quốc tế đã ảnh hưởng dến
quan hệ Mĩ – Trung. Thực tế cho thấy, trước khi Trung Quốc đưa ra quan điểm sẵn sàng tiếp xúc với
Mĩ, nước này vẫn còn trong tình trạng lưỡng lự, chưa dứt khoát. Trong cuộc nói chuyện với đại sứ
Pakistan, Chu Ân Lai bày tỏ thái độ chưa sẵn sàng hội đàm cấp cao với Mĩ, để phía Mĩ chủ động thì tốt
hơn. Những sự kiện diễn tiến đã đưa Trung Quốc “rất cần lập quan hệ với Hoa Kì”, đó là sự lo lắng cho
việc phục hồi chủ nghĩa quân phiệt ở Nhật, nhưng mối lo ngại chủ yếu từ Liên Xô vì thời điểm hiện tại
có khoảng 40 sư đoàn Liên Xô đóng dọc theo biên giới chung giữa hai nước.
Tiến trình bình thường hóa quan hệ Mĩ –Trung chính thức khởi động.
Trong bài phỏng vấn tháng 10/1970, Nixon công khai bày tỏ: Nếu có một điều tôi muốn làm
trước khi nhắm mắt thì đó là đi Trung Quốc. Nếu tôi không làm được, tôi muốn con tôi sẽ làm. Mao
Trạch Đông trong bài phỏng vấn cũng trả lời tương tự, tổng thống Mĩ sẽ được hoan nghênh tại Trung
Quốc, cho dù ông ta đến với tư cách là nhà du lịch hay tư cách tổng thống của một nước. Điều này tạo
nên thông điệp, cuộc chiến tranh giữa Mĩ và Trung Quốc bây giờ là điều rất xa xôi, ngoại trừ những
trường hợp bất ngờ ngoài sự kiểm soát từ hai phía. Hạ tuần tháng 10/1970, Nixon tiến hành hội đàm
với hai nước mà Mĩ nhờ làm trung gian hòa giải trước đó với Trung Quốc là Pakistan và Rumani đề
nghị xúc tiến hơn nữa với chính quyền của Mao Trạch Đông. Trên trường quốc tế, nỗ lực quan trọng và
trước hết của CHND Trung Hoa là gia nhập Liên Hiệp Quốc, yêu cầu tổ chức này trục xuất đại diện
Đài Loan, nhưng điều này lại luôn là nhân tố trở ngại bởi lá phiếu phủ quyết từ Washington. Mặc dù
đang ra sức vận động ngoại giao đàm phán quan hệ với Trung Quốc Đại lục nhưng chính quyền Nixon
chưa bỏ ngõ vấn đề này. Trong tuyên bố của phát ngôn viên Nhà Trắng ngày 24/10/1970 đã thể hiện
lập trường: Mĩ phản đối việc tách Trung Hoa Dân Quốc khỏi Liên Hiệp Quốc để tiếp nhận chính quyền
Bắc Kinh. Với tuyên bố trên Washington đã thừa nhận việc tồn tại hai nước Trung Quốc, trước đó chỉ
thừa nhận chính quyền Đài Loan của Tưởng. Từ đầu năm 1970 tên gọi mà chính quyền Nixon sử dụng
đối với Trung Quốc cũng thay đổi, từ Trung Cộng sang Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thông qua
kênh ngoại giao Pakistan, Trung Quốc bày tỏ sự thất vọng việc Mĩ ngăn cản nước này vào Liên Hiệp
Quốc nhưng Chu Ân Lai vẫn thay mặt chính phủ Trung Quốc đồng ý các cuộc hội đàm với Mĩ ở bất cứ
nơi đâu và bất kì lúc nào đặc biệt là vấn đề Đài Loan là một phần lãnh thổ Trung Quốc sẽ là nút khai
thông bế tắc quan hệ hai nước, lời chuyển này được gửi đến Nhà Trắng vào ngày 9/12/1970. Cả
Washington và Bắc Kinh đều dùng những ngôn từ ngoại giao “ưu ái hơn, phong thái và cách hành văn
tỉ mĩ hơn” tránh những tuyên bố với giọng điệu thẳng thừng. Mĩ vẫn đang tiến hành chiến tranh tại
Đông Dương, những động thái quân sự của Mĩ phần nào gây chậm tiến độ bình thường hóa quan hệ
giữa hai nước. Sự kiện 30/4/1970 Mĩ đưa quân vào Campuchia, Trung Quốc phản ứng bằng cách hủy
bỏ các cuộc hội đàm tại Warsaw, mặc dù chính quyền Nixon đảm bảo về phía Bắc Kinh việc có mặt
quân Mĩ ở đây không ảnh hưởng đến quan hệ hai nước “Mĩ không có ý định gây hấn ở Đông Dương”
[50;144]. Nhưng tuyên bố này không làm giảm những tuyên ngôn lên án mạnh mẽ từ Bắc Kinh “mọi
quốc gia trên thế giới nên đoàn kết và đánh bại quân xâm lược Mĩ và đồng minh của chúng” so sánh đế
quốc Mĩ như một con hổ giấy đang trong cơn giãy chết. Và khi cuộc chiến tranh mở rộng sang Lào
năm 1971, Trung Quốc lại tiếp tục tố cáo Mĩ “Bằng việc mở rộng ngọn lửa chiến tranh đến cửa ngõ
Trung Quốc, Chủ nghĩa đế quốc Mĩ đi vào một tiến trình gây đe dọa nghiêm trọng cho Trung
Quốc….Nixon thực vậy, đã hoàn toàn phơi bày bản chất hung bạo và đã đạt đỉnh cao của sự ngạo
mạn” [101]. Trước những phản ứng mạnh mẽ từ Bắc Kinh vì những hoạt động quân sự gần biên giới
Trung Quốc đã khiến Washington đi đến nghi ngờ rằng “Bắc Kinh một mặt mong muốn một cuộc đối
thoại, mặt khác đang quyết tâm cổ vũ các lực lượng cách mạng tấn công Hoa Kì” [50;145]. Mĩ đã có
hành động phản ứng từ các tuyên ngôn đó, ra lệnh cho Hạm đội 7 trở lại eo biển Đài Loan, để phía
Trung Quốc hiểu rằng Mĩ “không chơi trò của trẻ ngây thơ”. Có một điều đáng lưu ý, mặc dù tuyên bố
mạnh mẽ như thế nhưng Mĩ không hành động, vì hiểu điều đó sẽ xóa đi mọi nỗ lực mà Washington
đang cố gắng lấy lại thiện chí từ Bắc Kinh trong khoảng thời gian đã qua. Giới lãnh đạo Nhà Trắng
nhận ra “Trung Hoa quan tâm đến nhiều vấn đề khác hơn là chiến tranh Việt Nam, họ có thể phản đối
công khai nhưng các cuộc thảo luận thì vẫn cứ tiếp tục” [1;365,366].
Thực tế, trước khi tiếp xúc công khai với giới lãnh đạo Nhà Trắng, Bắc Kinh luôn tạo ra những
dấu hiệu ngầm đồng ý các gợi ý từ Mĩ, như sự có mặt của nhà báo Mĩ – Edgar Snow trong lễ kỉ niệm
20 năm quốc khánh CHND Trung Hoa, với những lời nói mà Snow chưa bao giờ nghe Mao chủ tịch
nói về nước Mĩ trong cuộc tiếp xúc này: Trung Quốc có thể chia sẽ trách nhiệm tài chính với Mĩ và
trong sự nghiệp cách mạng của mình Trung Quốc có thể tiếp thu những kinh nghiệm của Mĩ để bổ sung
những sai lầm do chủ nghĩa bảo thủ gây ra. Trung Quốc cũng không quên so sánh, bày tỏ thái độ khi
nói về mối quan hệ với Liên Xô. Dấu hiệu này cho Washington khẳng định đó là thời điểm thích hợp
để tiến hành các mục tiêu đặt ra.
Ngày 25/2/1971, Tổng thống Nixon trình bày báo cáo tình hình đối ngoại hàng năm với Quốc
hội, trong phần đề cập đến Trung Quốc, ông nhắc lại quan điểm muốn cải thiện quan hệ với nước này:
năm tới, tôi sẽ nghiên cứ kĩ những biện pháp có thể áp dụng thêm nữa để tạo cơ hội lớn cho việc tiếp
xúc giữa nhân dân hai nước. Dù chưa hoàn toàn tin tưởng một số vấn đề Mĩ tuyên bố khi nước này mở
rộng cuộc chiến tại Đông Dương nhưng vì mục tiêu riêng mà mỗi nước cần đạt được, trong cuộc tiếp
xúc với một số quan chức ngoại giao phương Tây bàn về vấn đề Đông Dương và quan hệ Trung – Mĩ,
Chu Ân Lai đi đến nhấn mạnh quyết định: hai nước có thể tiến hành đối ngoại từ giới lãnh đạo để mở
ra một cuộc diện mới cho quan hệ hai quốc gia. Kênh ngoại giao Pakistan tiếp tục được sử dụng trở
thành cầu nối thông tin từ hai phía, tháng 4/1971 Kisinger nhận được thông điệp từ Chu Ân Lai qua đại
sứ Pakistan: chính phủ Trung Quốc xác nhận lại sự sẵn sàng để đón tiếp một cách công khai một phái
viên đặc biệt của tổng thống Mĩ hoặc bộ trưởng ngoại giao hoặc tổng thống Mĩ tại Bắc Kinh và thảo
luận trực tiếp những vấn đề gây chia rẽ trong quan hệ hai nước, khoảng thời gian thích hợp để gặp
Nixon đã được Mao gợi ý trong cuộc tiếp xúc với nhà báo Mĩ Snow là năm 1972 – thời điểm cuộc bầu
cửa tổng thống Mĩ diễn ra. Trên tinh thần chung đã tuyên bố, nhưng để bảo đảm cuộc gặp diễn ra vào
tháng 2/1972 giữa chính phủ hai nước đạt được kết quả cao nhất, cả Mĩ và Trung Quốc cần thêm một
khoảng thời gian tiến hành công tác tiền trạm, như lời tổng thống Pakistan phát biểu “hai nước Trung –
Mĩ tích oán quá sâu, thù cũ không dễ trở thành bạn mới. Sự việc sẽ tiến hành rất chậm, vả lại Ngài
(Nixon).phải có sự chuẩn bị tinh thần khi bị ngăn cản” [27;466].
Động thái cải thiện quan hệ ngoại giao với Mĩ được giao lại cho Trung Quốc. Ngày 17/3/1971
khi giải bóng bàn lần thứ 32 tổ chức tại Nhật Bản, Bắc Kinh sau khi cân nhắc đã chủ động mời các vận
động viên Mĩ sang thi đấu biễu diễn tại nước này. Điều này gây nên sự ngạc nhiên cho Washington
nhưng báo hiệu quan hệ Trung – Mĩ đang khởi sắc, sáng kiến của Trung Quốc gây ra sự chú ý cho báo
giới Phương Tây, nó được so sánh hơn cả sự kiện đại hội Đảng lần thứ 24 đang diễn ra tại Liên Xô.
Ngay sau khi nhận được thông báo phía Trung Quốc chấp nhận sự hiện diện của đoàn thể thao
Mĩ trên đất nước họ, Nixon đã chuẩn y lời mời. Sau đó là cuộc họp hội đồng cố vấn an ninh quốc gia
được triệu tập nhằm phát thảo chính sách ngoại giao mới đối với Bắc Kinh. Thông qua lời mời này,
Trung Quốc còn tuyên bố sẽ cấp thị thực cho người Mĩ và Châu Âu đến Trung Quốc xem biểu diễn thi
đấu. Ngày 14/4/1971 thủ tướng Chu tiếp đoàn vận động viên Mĩ với lời phát biểu chào mừng đầy ngụ ý
“quý vị đã mở ra một chương mới trong quan hệ nhân dân giữa Mĩ và Trung Quốc. Tôi tin tưởng bước
khởi đầu mối quan hệ hữu nghị này chắc chắn sẽ nhận được sự ủng hộ của đa số nhân dân hai nước
chúng ta” [101]. Thuật ngữ “nền ngoại giao bóng bàn” chính thức được sử dụng. Ngay hôm đó, Nixon
công bố bản báo cáo có lợi cho quan hệ thương mại hai nước vốn bị đóng băng trong hơn hai thập kỉ:
xử lí thị thực nhập cảnh cho công dân Trung Hoa; cho phép thương mại trực tiếp với nước này, nới
lỏng việc vận chuyển, các vấn đề tiền tệ.
Ngày 27/4/1971 thông điệp từ Bắc Kinh tái khẳng định lại sẵn sàng tiếp bất cứ quan chức nào
của chính quyền Nixon được chuyển đến Washington thông quan đại sứ Pakistan. Tuy vậy, cả hai nước
đều muốn giữ bí mật cho đến khi hoàn tất việc dàn xếp một cuộc gặp chính thức, vì e ngại sẽ có những
“trở ngại” khi chưa đến thời điểm hợp lí. Sau khi cân nhấc ứng viên tiền trạm, Nixon đã chọn Kissinger
như một người đi tuyên phong, bí mật đến Bắc Kinh chuẩn bị cho chuyến đi lịch sử cho quan hệ hai
nước. Chuyến đi với mật mã POLO, ngày 19.7 Kissinger có mặt tại Trung Quốc. Đại diện chính quyền
Nixon ngay sau đó có các cuộc tiếp xúc với giới lãnh đạo Bắc Kinh để tìm hướng giải quyết cho một số
khúc mắc trong quan hệ song phương trước khi đi đến tuyên bố cuối cùng.
Trước chuyến thăm Trung Quốc của Nixon diễn ra, cố vấn an ninh Mĩ đã bày tỏ quan điểm với
Tổng thống cuộc gặp với các nhà lãnh đạo Bắc Kinh sẽ không suông sẽ vì giữa hai nước còn nhiều bất
đồng sâu sắc “chúng tôi đã đặt nền móng cho tổng thống và Mao sang trang mới trong lịch sử. Nhưng
chúng ta (Mĩ) không được ảo tưởng về tương lai….Những bất đồng sâu sắc và những năm tháng của
sự cô lập còn ngăn cách chúng ta với người Trung Quốc […..] và họ sẽ tỏ ra là những kẻ thù không
khoan nhượng nếu các quan hệ của chúng ta trở nên xấu [1;368]. Bởi vì trong các cuộc hội đàm với
lãnh đạo Bắc Kinh, Cố vấn cho biết họ đã đưa ra một số nguyên tắc cơ bản yêu cầu Washington phải
nhượng bộ trong đàm phán nếu muốn “một thời đại cũ sẽ chấm dứt và một thời đại khác bắt đầu” trong
quan hệ hai nước. Cũng trong khoảng thời gian trước chuyến thăm bí mật của Kissinger đến Trung
Quốc lần đầu tiên, Bộ chính trị nước này đã thảo luận để đưa ra các nguyên tắc sẽ tiến hành đàm phán,
theo đó nguyên tắc chủ đạo và xuyên suốt: tất cả các lực lượng vũ trang Mĩ và các cơ sở quân sự đặc
biệt nên được thu hồi từ Đài Loan và khu vực eo biển Đài Loan trong một thời gian cố định, đây là
nguyên tắc quan trọng để quan hệ hai nước bình thường, nếu không có thỏa thuận để đạt vấn đề này thì
có thể chuyến thăm của Nixon sẽ chậm lại. Vì vậy, chuyến thăm của cố vấn Mĩ, Bộ chính trị Trung
Quốc vẫn nhận định: chuyến thăm bí mật của Kisinger không có nghĩa là nước này sẽ nhân nhượng các
vấn đề ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và cũng không ảnh hưởng đến phong trào chống Chủ nghĩa tư
bản độc quyền đang diễn ra. Điều này cho thấy Trung Quốc chưa sẵn sàng đàm phán chính thức với
Nhà Trắng.
Tháng 10/1972 cố vấn Kisinger có chuyến thăm lần hai đến Trung Quốc nhiệm vụ quan trọng là
đưa ra dự thảo thông cáo cho hội nghị thượng đỉnh sẽ được ban hành chính thức sai khi chuyến thăm
của tổng thống Mĩ kết thúc. Các cuộc thảo luận về dự thảo diễn ra quanh co, do quan điểm nhận thức
các vấn đề khác nhau của hai phía, dù vậy hai bên cũng đi đến thỏa thuận một số vấn đề đề cập trong
dự thảo thông cáo. Đặt cơ sở cho chuyến đi một tuần của Nixon đến Bắc Kinh.
Ngày 21/02/1972 cú bắt tay mang tính lịch sử giữa hai “gã khổng lồ” đã diễn ra sau hai thập kỉ
“Bàn tay ông (Nixon) đưa qua hải dương rộng lớn nhất thế giới để bắt tay với tôi (Chu Ân Lai) sau 22
năm không giao lưu, qua lại” [42;377]. Đây là kết quả nổ lực vận động ngoại giao sau hai năm của
chính quyền Nixon. Trong màn che của chiến tranh lạnh, Nixon được cho là “chiến binh hăng hái” phát
động cuộc chiến ngăn chặn sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản nhưng lại là nhân vật bí mật khởi đầu
sự kết thúc của cuộc chiến này, từng bước và tinh tế những sự kiện dần được diễn ra dẫn đến những gì
mà Nixon gọi là “tuần lễ ngoại giao làm thay đổi lịch sử thế giới”, mà trước hết là thay đổi lịch sử
quan hệ ngoại giao Mĩ – Trung.
Sự lắng dịu trong quan hệ Nixon – Mao là một biểu hiện chính trị trở thành hiện thực do sự tác
động của một loạt các nhân tố đến hai nước, tạo nên một bước ngoặt cho cuộc chiến tranh lạnh, dẫn
đến sự hình thành thế tam cực phân quyền: Mĩ – Liên Xô – Trung Quốc, mặc dù nhận định này hoàn
toàn không chính xác vì Trung Quốc vẫn còn đứng dưới mức siêu cường chưa thể bắt kịp được Mĩ
cũng như Liên Xô – cán cân quyền lực chi phối quan hệ quốc tế vẫn giữ nguyên cho đến kết thúc cuộc
chiến tranh lạnh, nhưng Trung Quốc vẫn được xem là nhân tố tác động mạnh mẽ đến đường ngoại giao
giữa Mĩ – Xô. Vì thế cuộc viếng thăm cấp cao của Nixon đến Trung Quốc chỉ báo hiệu cho một giai
đoạn mới trên trường quốc tế, chứ chưa thể khẳng định Trung Quốc là một siêu cường. Sự hòa dịu này
có giá trị rất lớn đến quan hệ hai nước, là công cụ để gửi đến sự cảnh báo Liên Xô – từ phía Mĩ rằng,
đừng xem mối quan hệ lắng dịu Xô – Mĩ là điều hiển nhiên, phía Trung Quốc rằng đừng làm phức tạp
thêm tình hình biên giới Xô – Trung. Liên Xô được cho là một nhân tố cơ bản để Mĩ – Trung xem xét
lại mối quan hệ lạnh nhạt hơn hai thập kỉ.
Các cuộc hội đàm diễn ra ngay sau khi Nixon đến Trung Quốc. Trong phiên họp toàn thể, Nixon
và Chu Ân Lai đồng ý về việc sắp xếp cuộc họp cấp cao bàn về những vấn đề cơ bản giữa hai nhà lãnh
đạo, cuộc họp giữa các bộ trưởng ngoại giao về các bước thúc đẩy bình thường hóa quan hệ trong các
lĩnh vực thương mại, trao đổi khoa học – công nghệ, văn hóa, các vấn đề liên quan đến hai nước. Đến
ngày 28/02/1972 Thông cáo Thượng Hải được ban hành, nhấn mạnh việc cả hai đồng ý thực hiện mối
quan hệ cấp nhà nước, tôn trọng các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Hai bên lọng trọng tuyên bố: tiến
trình hướng tới bình thường hóa quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kì là vì lợi ích của tất cả các nước,
cả hai mong muốn làm giảm nguy cơ xung đột quân sự mang tính quốc tế; không tìm kiếm bá quyền
trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và nổ lực ngăn chặn bất kì nước nào muốn thiết lập sự bá
quyền ở đây và nhiều vấn đề cùng quan tâm.
Với thông cáo Thượng Hải đã đánh dấu một mốc trong quan hệ Mĩ – Trung. Mục tiêu của Mĩ
được trọn vẹn trước chuyến đi đã đề ra, đó là thiết lập lại quan hệ ngoại giao với Trung Quốc sau nhiều
năm căng thẳng, đối đầu. Tuy hoàn toàn chưa đạt được kế quả cao nhất như mong muốn từ hai phía
“Quá khứ chúng ta có lúc từng là kẻ thù, bây giờ chúng ta đi đến cùng nhau. Được như vậy chúng ta
phải vượt qua những lợi ích khác biệt. Khi thảo luận sự khác nhau của chúng ta, hai bên điều không
thể thỏa hiệp trên nguyên tắc của mình. Tuy không thể lấp đầy lổ hỏng giữa chúng ta, nhưng chúng ta
có thể bắc một chiếc cầu, để có thể vượt qua nó tiến hành đàm phán [42;387]. Điều quan trọng, một
giai đoạn mới trong quan hệ quốc tế được mở ra, đẩy mạnh mục tiêu cân bằng quyền lực giữa các
cường quốc chủ chốt. Đến mãi cuối năm 1978 một văn bản chính thức ghi nhận sự bình thường hóa
trong quan hệ hai nước mới được kí kết. Như vậy “bản nhạc” quan hệ Mĩ – Trung luôn mang nhiều
“cảm xúc” với những cung bậc thăng trầm khác nhau.
2.2.2. Từ thông cáo Thượng Hải đến thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kì và CHND Trung Hoa (1972 - 1979)
Thông cáo Thượng Hải được thông qua sau chuyến thăm lịch sử của Nixon đến Trung Quốc
năm 1972, nhưng con đường đi đến bình thường hóa quan hệ giữa hai nước không thuận buồm xuôi
gió. Trong giai đoạn 1972 -1979 những chuyển biến về trạng thái chính trị - xã hội cũng như chính
sách đối ngoại của mỗi nước ít nhiều ảnh hưởng đến việc công nhận ngoại giao chính thức giữa hai
nước.
Trong nhiệm kì đầu tổng thống Nixon từng dự định hoàn thành 3 mục tiêu quan trọng: thoát
khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam; hòa hoãn Xô – Mĩ; thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Tất
cả đã được tiến hành theo đúng dự định của Nixon.
Sau 15 năm tham chiến tại Việt Nam, nhận thấy không thể kết thúc sớm cuộc chiến thắng lợi
theo ý muốn, năm 1969 Mĩ áp dụng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đến năm 1972 đạt được
một số cố gắng và tạm thời thu được một kết quả. Việc tổng thống Mĩ sang Trung Quốc không nằm
ngoài mục đích tìm kiếm một giải pháp về cuộc chiến theo hướng có lợi cho Nhà Trắng. Với ý chiến
quyết tâm thống nhất nước nhà, chống lại cuộc xâm lược của đế quốc Mĩ, quân và dân Việt Nam với
những chiến thắng vĩ đại đã buộc đối phương phải ngổi vào bàn đàm phán lập lại hoà bình tại Đông
Dương. Cuộc chiến ngay trong lòng nước Mĩ phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam cũng góp
phần gây ra những bất ổn trong chính trường nước này. Đến năm 1973 hiệp định Pari được kí kết, đánh
dấu việc Mĩ trực tiếp can thiệp vào đây chấm dứt, nhưng các cam kết viện trợ cho chính quyền thân
Washington ở Đông Dương thì vẫn tiếp tục đến năm 1975.
Song song với đó, năm 1972 cuộc bầu cử tổng thống Mĩ đang vào giai đoạn cuối để các ứng
viên tổng lực cho chuyến dịch vận động những lá phiếu ủng hộ từ cử tri. Việc tổng thống đương nhiệm
Nixon tuyên bố rút khỏi cuộc chiến tranh tại Việt Nam trong “hòa bình” đã trở thành một nền tảng cho
nỗ lực tái tranh cử lần 2 của ông “chúng ta nhất định không bỏ lỡ cơ hội đó, bởi vì nếu chúng ta bỏ lỡ
để sau cuộc bầu cử mới thực hiện thì chúng ta mãi mãi không thể tha thứ cho chính mình” [42;403].
Chiến tranh Việt Nam tiếp tục góp phần ảnh hưởng đến quan hệ Mĩ – Trung, trong cuộc gặp với thứ
trưởng ngoại giao Trung Quốc Kiều Quán Hoa tại New York, Kisingger chuyển lời “nếu các giới lãnh
đạo Bắc Việt có tầm nhìn xa, thì họ nên đồng ý với Mĩ đưa ra trên bàn đàm phán, còn không, Hoa Kì
sẽ ném bom” [50;260]. Thực tế cho thấy trước khi hiệp định Pari được kí kết, Mĩ đã mở rộng chiến
tranh ra cả Bắc Việt Nam nhưng thất bại.
Chuyến thăm của Nixon chỉ đặt cơ sở cho các đời tổng thống sau tiếp tục thúc đẩy cho tiến trình
bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh, trong cuộc đua vào Nhà Trắng lần hai, lo ngại các thế lực thân
Tưởng sẽ sử dụng “con bài Đài Loan” cho chiến dịch tranh cử, nên Nixon muốn gác việc khôi phục
quan hệ ngoại giao Trung – Mĩ đến sau khi đã làm tổng thống khóa tới. Mặc dù, sau chuyến đi của
mình ông đã cử Kisinger nhiều lần đến Trung Quốc để xúc tiến, tăng cường sự hiểu nhau hơn giữa hai
nước. Sự toan tính đã đưa đến sự thành công cho Nixon giành thắng lợi có tính chất áp đảo trước đối
thủ Đảng Dân chủ năm 1972.
Tháng 5/1972 Nixon – vị tổng thống đầu tiên kể từ sau năm 1945 thăm Moscow, hai bên đã thỏa
thuận một số điều khoản nhằm giới hạn vũ khí tiến công chiến lược (SALT I), thỏa thuận cắt giảm tên
lửa đạn đạo (ABM), tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBMS), thỏa thuận mở rộng thị trường Xô Viết
cho hàng tiêu dùng Mĩ, Mĩ đã yêu cầu Liên Xô có những hỗ trợ cho cuộc thương lượng kết thúc cuộc
chiến tại Việt Nam.Tuy nhiên, những điều khoản thỏa thuận với Moscow của Washington không làm
Bắc Kinh hài lòng. Vào tháng 2/1973 Cố vấn Mĩ có chuyến thăm tới Trung Quốc đã phải nhận lời cáo
buộc “tranh thủ Xô Viết để đặt gánh nặng lên vai Trung Quốc” [50;262], cho rằng Mĩ và Châu Âu
đang đẩy chiến tranh từ Moscow sang phía Đông (Trung Quốc). Trong cuộc tiếp xúc với Kisinger,
Mao Trạch Đông đã nói một cách hàm ý chứa đầy sự nghi ngờ hành động hòa hoãn của Mĩ đối với
Liên Xô “ở Phương Tây, trong lịch sử các ngài (Mĩ) luôn có một chính sách, chẳng hạn trong hai cuộc
chiến tranh các ngài luôn luôn bắt đầu bằng việc thúc đẩy Đức đối đầu với Nga [50;262]….tôi (Mao)
nghi ngờ phương Tây đã có một kế hoạch đó là thúc đẩy Nga hướng về phía Đông, chủ yếu là để tấn
công chúng tôi (Trung Quốc) và cả Nhật Bản” [50;263]. Rõ ràng Trung Quốc đã có những phản ứng
gay gắt bởi vì thời kì này mối lo ngại chính của nước này là các cuộc xung đột biên giới với Liên Xô
chưa giải quyết triệt để, lo ngại một cuộc tấn công bất kì lúc nào từ điện Kremlin, khi mà Moscow thực
hiện xong chiến lược ngoại giao tránh cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù. Việc hòa hoãn với
Liên Xô cũng nằm trong tính toán ngoại giao của Mĩ và tiến hành hòa hoãn với Bắc Kinh phải có
chừng mực đảm bảo lợi ích quốc gia là trên hết “không muốn trở thành con bài mà Bắc Kinh có thể sử
dụng để chống lại Liên Xô và ngược lại cũng không muốn sử dụng bản thân con bài Trung Quốc một
cách lộ liễu đến mức có thể làm hỏng cơ mai thúc đẩy đàm phán và hòa dịu với Liên Xô [15;159] và
“duy trì cán cân quân sự Xô – Mĩ ổn định thành mục tiêu cao nhất, nó còn quan trọng hơn nhiều đến
lợi ích sống còn của Mĩ so với bất cứ mặt nào của quan hệ Trung – Mĩ” [15;160]. Điều này cho thấy
nhận định của nhà lãnh đạo Xô Viết Brezhnev dần có cơ sở “Nixon đi Bắc Kinh là để dự tiệc, còn đến
Moscow là để giải quyết công việc” [57;85]. Việc Trung Quốc được nâng lên thành một cực trong tam
cực bắt đầu từ thập niên 70 là xuất phát từ hai siêu cường Mĩ và Liên Xô chấp nhận tư thế của nước
này trong chính sách ngoại giao của họ đối với nhau.
Khi nhận những lời cáo buộc của Bắc Kinh, phía Mĩ cũng có những phản ứng khi cho rằng nếu
Mĩ để ngỏ việc Liên Xô tấn công Trung Quốc đều này sẽ phá hoại nền an ninh các quốc gia trong đó có
Mĩ không riêng gì Trung Quốc và khẳng định nước này không có chủ tâm hợp tác với đối phương để
tấn công Bắc Kinh. Được xem là kẻ yếu thế so với hai cực của thế giới lúc này, Bắc Kinh không thể
yên tâm từ những cam kết bằng lời nói phía Washington, liên minh với Mĩ không có nghĩa là không
mạo hiểm “cho dù đôi khi chúng ta (Mĩ – Trung) có phê phán lẫn nhau, chúng tôi (Mĩ) vẫn sẽ phối
hợp hành động với các ngài (Trung Quốc) và chúng tôi sẽ không bao giờ tham gia vào một chính sách
cô lập các ngài” [50;265].
Năm 1973 văn phòng liên lạc hai bên được thiết lập với nhiệm vụ thúc đẩy ngoại giao giữa các
bên trên nhiều lĩnh vực: từ thương mai đến khoa học – kĩ thuật, điều này có lợi cho Trung Quốc trong
quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại. Mĩ cũng có được thị trường rộng lớn với hơn nữa tỉ
dân. Đến năm 1974 tổng kinh ngạch buôn bán hai chiều đạt 922 triệu USD (trước đó năm 1971 là 5
triệu USD), theo cam kết số lượng quân Mĩ rút khỏi đảo Đài Loan từ 8000 – 9000 xuống còn 4000,
nghị quyết về Đài Loan năm 1955 cũng được quốc hội Mĩ thông qua hủy bỏ [15;160]. Trong khoảng
thời gian này tình hình chính trị Trung Quốc cũng có nhiều biến động, cuộc tranh giành quyền lực đã
tạo nên cục diện chính trường Trung Quốc với ba phe gây ra cuộc cách mạng văn hóa (1966 – 1976) –
một thời kì khủng bố kinh hoàng gắn liền với sự tàn bạo gây phản nộ nhất.
Mặc dù đạt được một số thỏa thuận trong nhiệm kì 2 của Nixon nhưng điều đó vẫn không thúc
đẩy nhiều sự tiến triển trong quan hệ 2 nước vì nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, Trung Quốc chỉ được
sử dụng một khi thế cân bằng Xô – Mĩ bị phá vỡ, thúc đẩy nhanh việc bình thường hóa quan hệ với
Bắc Kinh đồng nghĩa Washington sẽ chấp nhận những điều kiện từ đối phương, điều này ảnh hưởng rất
lớn đến vị thế của Mĩ trước hết là đối với đồng minh cũng như chiến lược toàn cầu đang triển khai. Do
vậy, việc triển khai các hoạt động thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Bắc Kinh được nước này
tiến hành có chừng mực.
Trở lại vấn đề hòa hoãn với Moscow, Bắc Kinh luôn đưa ra những phản ứng khi Mĩ có các cuộc
gặp với điện Kremlim “Những điều đó (thỏa thuận với Liên Xô) giống như lời nói mất đuôi và hoàn
toàn không thể chấp nhận” [50;277]. Sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc là nhân tố cơ bản trong
chính sách ngoại giao của Mĩ và khả năng đứng vững và độc lập của nước này là điều tất yếu cho nền
hòa bình thế giới – lời hứa của chính quyền Nixon với Mao. Thực tế đây là chính sách xoa dịu các phản
ứng của Trung Quốc về các hiệp ước chống chiến tranh hạt nhận kí với Moscow của Mĩ, ngay cả
Brezhnev từng phát biểu trong hội đàm với lãnh đạo Nhà Trắng “Liên Xô và Mĩ phải có trách nhiệm
chung trong việc ngăn chặn Trung Quốc trở thành cường quốc về năng lượng hạt nhân” [50;279]. Như
vậy những hòa hoãn trong quan hệ Xô –Mĩ đã tạo ra những nghi ngờ từ Trung Quốc, điều này không
có lợi cho tiến trình bình thường hóa quan hệ hai nước, và cũng cho thấy rằng các nước lớn luôn thi
hành chính sách ngoại giao hai mặt.
Chỉ 2 năm cầm quyền ở nhiệm kì hai, Nixon buộc phải từ chức vì sự kiện Watergate (8/1974),
sự kiện này ví giống như chiếc bóng đè quấy nhiễu làm khó Nixon, cuối cùng chặt đứt con đường
chính trị của ông. Điều này đồng nghĩa với tuyên bố trong cuộc tranh cử tổng thống lần 2 của Nixon là
sẽ xúc tiến bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sau khi đắc cử trong tình trạng lấp lửng, vì ông
không còn là thủ lĩnh để có thể dẫn dắt vấn đề này đi xa hơn. Ngay cả Trung Quốc cũng biết rõ điều
này khi Nixon đang bị điều tra bởi vụ bê bối chính trị do ông đứng sau.
Ngoài các cuộc viếng thăm phía Mĩ, Trung Quốc cũng đáp lễ, vào tháng 4/1974 với cương vị là
phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình trở thành cán bộ cấp cao nhất của Đại lục đến Mĩ từ năm 1949, nội
dung viếng thăm không nằm ngoài việc tìm tiếng nói chung giữa hai nước về những vấn đề đang đối
lập trong quan điểm. Sau khi Nixon từ chức, phó tổng thống Ford lên thay, trong quan điểm đối ngoại
được xem là người theo “phái quốc tế”. Từng được Nixon nhận xét là người có quan điểm chính sách
đối nội, đối ngoại gần gũi với quan điểm của ông. Do vậy đường lối điều hành đất nước của Ford
không khác mấy so với người tiền nhiệm, điều này được lí giải bởi một số nguyên nhân: Tổng thống
Đảng cộng hòa và Quốc hội của Đảng Dân chủ ngày càng ở cục diện bế tắc bắt nguồn từ chính sách và
đường lối hoạt động của hai Đảng khác nhau, một phần ảnh hưởng bởi kiện Watergate; từ những năm
70 nền kinh tế Mĩ gặp nhiều khó khăn khi chưa tìm ra một giải pháp để giật dậy nền kinh tế; trong nội
các mới tiếp nhận, về cơ bản Ford vẫn giữ nguyên người của Nixon. Vì thế chính sách đối ngoại với
Trung Quốc về cơ bản vẫn tuân thủ nguyên tắc chung của thông cáo Thượng Hải. Trong thông điệp mà
tổng thống Ford gửi cho Mao Trạch Đông thể hiện rõ quan điểm này “trên cương vị là tổng thống Hợp
chủng quốc Hoa Kì, tôi mong muốn tái khẳng định sự tiếp tục cơ bản chính sách ngoại giao của Hoa
Kì nói chung và chính sách của chúng tôi đối với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa nói riêng…. Quan hệ
của chúng tôi với Trung Hoa sẽ là một thành tố cốt yếu trong chính sách ngoại giao của Mĩ, chúng tôi
sẽ tiếp tục coi một nước Trung Quốc mạnh, độc lập là lợi ích quốc gia của chúng tôi, những quan diểm
này có sự ủng hộ vững chắc từ cả hai Đảng của Hoa Kì” [50;314,315], thông điệp này được gửi đến
Bắc Kinh ngay sau lời tuyên thệ nhậm chức của tổng thống Ford (ngày 9/8/1974). Tháng 10/1974,
Bush được bổ nhiệm làm chủ nhiệm văn phòng liên lạc Mĩ tại Trung Quốc để thúc đẩy cam kết với
nước này, nhưng một số nhà phân tích nhận định Mĩ sẽ không thể thực hiện trọn vẹn chính sách với
Bắc Kinh vì đang thoát ra khỏi thời kì đầy sóng gió (vụ Nixon). Điều này được thể hiện rõ một phần
qua chuyến đi của Kisinger đến Trung Quốc tháng 11/1974 đã mất đi sự nhiệt tình của các cuộc viếng
thăm từng có trước đó, các cuộc tiếp xúc giữa hai bên luôn mang tính phê bình về quan điểm của đối
phương, mặc dù chuyến đi này là tiền trạm cho chuyến đi Bắc Kinh của Ford vào năm sau.
Ngày 01/12/1975 tổng thống Ford có chuyến thăm Trung Quốc trong bối cảnh tình hình chính
trị hai nước có nhiều chuyển biến: Mĩ thất bại trong việc hậu thuẫn cho chính quyền Miền Nam Việt
Nam, chính quyền LonNol ở Campuchia, “hội chứng Việt Nam” tiếp tục gây nên những chia rẽ trong
lòng nước Mĩ. Tuy vậy, sự thất bại của Mĩ ở Đông Dương không đồng nghĩa Mĩ sẽ rút đi hoàn toàn ảnh
hưởng ở Châu Á. Trung Quốc trong thời kì này “phe tả khuynh” chủ trưởng đẩy mạnh cách mạng văn
hóa, tiếp tục đưa nước này trong tình trạng chia rẽ Đảng ở khắp nơi.
Kết quả của chuyến đi, quan hệ hai nước thay vì được cải thiện thì căng thẳng vẫn tiếp tục, quan
hệ hai nước rơi vào tình trạng dậm chân tại chỗ vì vấn đề Đài Loan, không một tuyên bố nào được đưa
ra giữa hai bên ngoài việc nhắc lại một số điều khoản trong thông cáo năm 1972. Bởi vì mục đích của
chuyến đi này “là tạo cơ hội cho Ford gặp và đánh giá người lãnh đạo Trung Quốc, một lần nữa xác
nhận sự phát triển hài hòa về quan hệ và chính sách giữa hai nước, giữa mối liên hệ ở cấp cao nhất
như đề nghị của tổng thống Nixon” [26;673]. Ngày 7/12 Tổng thống Ford công bố học thuyết Thái
Bình Dương theo đánh giá “đã nhận được sự đồng tình của giới lãnh đạo Trung Quốc” [15;166]. Mục
tiêu cơ bản chung sống hòa bình với tất cả các quốc gia đồng nghĩa với việc không đối kháng với bất
cứ quốc gia nào, đối với tình hình Viễn Đông, nước này cũng đưa ra mục tiêu cụ thể bình thường hóa
quan hệ với Trung Quốc, tăng cường và thắt chặt hơn mối quan hệ với đồng minh Nhật Bản, tham gia
giải quyết vấn đề Triều Tiên và những vấn đề nổi cộm vùng Đông Nam Á, đẩy mạnh tiến trình hợp tác
kinh tế, điều quan trọng là ổn định thế cân bằng nền tảng duy trì lãnh đạo, sức mạnh và vai trò của Mĩ.
Như vậy chủ thuyết Thái Bình Dương mở đầu cho tư tưởng giao ngoại của Mĩ thời Ford cầm
quyền, tiến hành hòa hoãn với Trung Quốc và Liên Xô vẫn được duy trì, nhưng một số vấn đề mà tổng
thống này quan tâm để năng uy tín chính phủ ông: kí kết các hiệp định mậu dịch toàn diện, hiệp định
hạn chế lâu dài vũ khí chiến lược hạt nhân tấn công còn bỏ ngõ, điều này xuất phát một phần từ các
phái tự do, bảo thủ trong chính trường Mĩ chống lại chủ trương hòa hoãn.
Năm 1975, Ford tuyên bố sẽ ra tranh cử nhiệm kì tiếp theo, với tư tưởng sau khi đắc cử sẽ tiến
hành giải quyết những vấn đề chưa thực hiện trọn vẹn trước hết là ngoại giao. Kết quả cuối cùng, đối
thủ trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng, Cater đã thắng cử điều này đồng nghĩa với những toan tính
của Ford không thực hiện được, việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc cũng vô duyên với
ông.
Sau 5 năm từ khi thông cáo Thượng Hải được thông qua, quan hệ Mĩ – Trung vẫn chưa thực
hiện được như tinh thần chung đã đề ra từ hai phía khép lại thời kì cũ cùng mở ra thời kì mới “kể từ
năm 1972, chính quyền Nixon và Ford chẳng có nổ lực nghiêm túc nào để chuẩn bị cho quốc hội hoặc
công chúng Mĩ cho việc bình thường hóa mà[…..] các nước khác đã thực hiện hoàn toàn với Bắc Kinh
[50;337]. Những chuyến công du sang Trung Quốc của Kisinger không góp phần tạo thêm lòng tin đối
với Bắc Kinh. Đại sứ Trung Quốc Kiều Quán Hoa đã tuyên bố thẳng thừng với đại diện Nhà Trắng
“trong 26 năm qua, không có quan hệ ngoại giao với Hoa Kì, người Trung Quốc đã có một cuộc sống
tốt hơn bất kì giai đoạn nào trong lịch sử Trung Quốc. Có thể chắc chắn rằng sự trì hoãn lâu hơn
trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Hoa Kì sẽ không khiến cho trời sụp, và
800 triệu nhân dân Trung Quốc sẽ tiếp tục hưởng cuộc sống hạnh phúc” [50;369].
Quan hệ giữa hai nước thật sự chuyển biến từ khi bộ khung của chính quyền Cater lên nắm
quyền. Mặc dù vấn đề mà chính quyền này quan tâm trước hết trong đường lối ngoại giao là vấn đề
Nhân quyền, ủy ban nhân quyền trong bộ ngoại giao được thành lập thể hiện rõ tư tưởng ngoại giao
này, ủy ban này tiến hành điều tra theo cách thức riêng của họ về tình trạng nhân quyền ở các nước sau
đó đưa ra chính sách đối ngoại cho tổng thống. Thông qua các đạo luật gắn với viện trợ quân sự và
kinh tế của Mĩ cho các chính phủ nước ngoài kết hợp với vấn đề nhân quyền. Đây được xem là điểm
khác biệt so với các chính quyền trước đó – ngoại giao nhân quyền phần nào đánh bóng lại hình ảnh
nước Mĩ sau nhiều thập niên sử dụng “ngoại giao pháo hạm”. Thực tế chính sách này chỉ là một chiêu
bài để Washington vận dụng can thiệp vào nội bộ của các nước, chính sách nhân quyền được triển khai
trong bối cảnh nước Mĩ ở vào thế khó khăn nhất từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi nước này không
còn giữa ưu thế tuyệt đối về kinh tế, tài chính lẫn quân sự, Nhật Bản, Tây Âu nổi lên là hai trung tâm
cạnh tranh với Mĩ. “Hội chứng Việt Nam” tiếp tục gây ảnh hưởng đến đời sống nước này, bên cạnh đó
hệ quả của các vụ bê bối chính trị vẫn còn chia rẽ nội bộ Nhà Trắng. Do vậy, thách thức lớn nhất đối
với chính quyền Cater khi lên cầm quyền là cũng cố vai trò lãnh đạo khối TBCN, tiếp tục đối với với
các trào lưu cách mạng, phe XHCN, phong trào giải phóng dân tộc.
Chính sách ngoại giao với Trung Quốc là chủ đề được chính quyền Washington thời Cater tiếp
tục chú ý, đối với trường hợp Bắc Kinh thì lợi ích chiến lược được đặt lên trên nhân quyền. Tình hình
Trung Quốc cũng có nhiều thay đổi từ khi Mao qua đời, “bè lũ 4 tên” bị bắt, quyền hành tập trung vào
tay người kế nhiệm Hoa Quốc Phong. Với tư cách là chủ tịch Đảng ông đã tìm cách bảo vệ nguyên vẹn
di sản Mao theo tư tưởng “hai phàm” “phàm là những quyết sách mà Mao chủ tịch đã ban ra, chúng ta
phải kiên quyết ủng hộ; phàm là chỉ thị mà Mao chủ tịch đã ban ra chúng ta phải tuân thủa đến cùng”.
Cho rằng Cách mạng Văn hóa “7 phần đúng” nhờ sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông “3 phần sai” do âm
mưu của Lâm Bưu và “bè lũ 4 tên”. Nhưng điều này không thể thuyết phục đại bộ phận nhân dân tin đó
là một sự giải thích đúng đắn vì nó là “đại họa đại nạn trong lịch sử Trung Quốc, dù là về mặt lý luận
hay thực tiễn đều là sai lầm cực đoan triệt để. Thực tiễn cách mạng văn hóa kéo dài suốt 10 năm phạm
hết sai lầm này đến sai lầm khác, đã trở thành bài học phản diện giáo dục, tỉnh thức nhân dân Trung
Quốc để họ thành người đào mồ chôn nó” [33;634]. Như vậy, chủ trương “hai phàm” của Hoa Quốc
Phong không phù hợp trong hoàn cảnh “muốn hiện đại hóa nền kinh tế Trung Quốc mà không nới lõng
sự kìm hãm về chính trị của Đảng cộng sản”. Vì vậy, tại hội nghị trung ương tháng 12/1978 đã phủ
định cách mạng văn hóa thay bằng chủ trương: tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản,
đường lối chính trị của Trung Quốc là xây dựng và hiện đại hóa chủ nghĩa xã hội. Đặng Tiểu Bình là
nhân vật có vai trò quan trọng đưa ra và thúc đẩy chương trình cải cách hiện đại hóa Trung Quốc từ
năm 1978 theo tư tưởng “xây dựng Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc đặc sắc Trung Quốc”. Như vậy,
nội bộ Trung Quốc đang dần được khôi phục sau bao biến động chính trị cản trở sự phát triển đất nước
từ những năm 70, chính sách đối ngoại trong đó việc xem xét lại quan hệ với Mĩ cùng góp phần thúc
đẩy đất nước phát triển.
Cũng xuất phát từ diễn biến của tình hình quốc tế, Liên Xô ngày càng lớn mạnh gây lo ngại cho
Mĩ và Trung Quốc nên việc bình thường hóa quan hệ được đặt lên chương trình nghị sự của Cater. Bên
cạnh đó, nhận thấy Trung Quốc là một thị trường rộng lớn, giàu tiềm năng đối với các nhà đầu tư, tập
đoàn tư bản tài chính Mĩ, nên sự liên doanh lấy chữ kí yêu cầu thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung
Quốc của giới tài chính đã gây thêm sức ép cho chính quyền Cater. Ít lâu sau, tổng thống Cater tuyên
bố Mĩ – Trung là “một nhân tố trung tâm trong chính sách toàn cầu của Mĩ” [26;693], trước khi cử
người sang Bắc Kinh “có tính chất thăm dò” Washington đã có bước chuẩn bị nhằm phát triển quan hệ
với Trung Quốc.
Trong thời gian tranh cử Cater đã chấp nhận quan điểm của Đảng Dân chủ cơ bản về Trung
Quốc: quá trình bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh bắt đầu từ thời Nixon, đình trệ dưới thời Ford
cần phải được hoàn thành ngay sau khi Cater đắc cử vì xuất phát từ lợi ích chiến lược. Tình trạng lưỡng
lự, cân nhắc do có nhiều quan điểm xuất hiện trong chính quyền Cater như chỉ tiến hành đàm phán với
Trung quốc ngay sau khi Mĩ đạt được một số thảo thuận trong đàm phán với Liên Xô, hay việc cắt đứt
quan hệ với Đài Loan có đánh mất danh dự của Mĩ không, làm thế nào để cắt đứt quan hệ với Đài Loan
trong khi vẫn đảm bảo được sự chuyển giao trong hòa bình. Cyrus Vance và Zbigniew Brzenski được
lựa chọn làm ngoại trưởng và cố vấn an ninh quốc gia thời kì Cater đương nhiệm. Để sau này trong
chính sách ngoại giao nhân quyền thất bại, dự luận Mĩ cho rằng một phần là do mâu thuẫn nội bộ:
C.Vance và Z.Brzezinski có một sự bất đồng sâu sắc, khi nhân quyền được cố vấn an ninh xem là vũ
khí để tấn công Liên Xô và đồng minh cộng sản, còn ngoại trưởng lại quan tâm tới việc bảo vệ nhân
quyền dưới chế độ thân Mĩ.
Cuối năm 1976, tổng thống Cater mời cựu ngoại trưởng Kisinger đến văn phòng làm việc –
người có nhiều cuộc tiếp xúc và tỏ ra khá am hiểu tính cách người Trung Quốc như một sự tham khảo
ý kiến. Các bản ghi nhớ chi tiết cuộc nói chuyện giữa Nixon, Kissinger, Ford với lãnh đạo Trung Quốc
đều nghiên cứu trở lại, dù trước đó Kisinger đã khẳng định với Tổng thống rằng: hoàn toàn có thể tin
người Trung Quốc, họ cẩn thận, tỉ mĩ từng lời văn và tinh thần hiệp nghị. Trong cuộc tiếp xúc với
Hoàng Trấn – chủ nhiệm văn phòng liên lạc Trung Quốc tại Mĩ, vị chủ nhiệm này cũng đã nhấn mạnh
với Tổng thống Cater, người Trung Quốc luôn có lòng nhẫn nại nếu Mĩ thi hành các hiệp nghị như thỏa
thuận đạt được trước đó, thì Trung Quốc sẵn sàng bắt tay giải quyết vấn đề bình thường hóa quan hệ
với Mĩ. Điều này thể hiệp lập trường dứt khoát của Trung Quốc theo các nội dung được đề cấp trong
thông cáo giữa hai bên.
Hạ tuần tháng 8/1977 ngoại trưởng C.Vance có chuyến thăm đến Bắc Kinh nhân dịp Đại hội
Đảng XI Đảng cộng sản Trung Quốc diễn ra. Mặc dù chuyến đi của C.Vance được đánh giá “là một sự
thất vọng cho cả hai bên” [50;415]. Những diễn tiến của cuộc tiếp xúc đã cho thấy giữa hai nước còn
khá nhiều vấn đề ngăn cách do nhiều quan điểm bất đồng, và trở ngại lớn nhất là vấn đề Đài Loan. Đại
diện Mĩ đã nêu, nếu Trung Quốc chấp nhận giải quyết những điều kiện đưa ra phía Mĩ thì nước này sẽ
công nhận CHND Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc. Quan điểm của Bắc
Kinh trước sau như một công việc nội bộ của người Trung Quốc do người Trung Quốc tự giải quyết.
Chuyến đi của ngoại trưởng tuy chưa tạo bước đột phá trong quan hệ hai nước nhưng đã cho
chính phủ Cater hiểu hơn lập trường kiên định của Trung Quốc về những vấn đề liên quan đến lợi ích
quốc gia. Diễn tiến tiếp theo của tình hình thế giới và trong nước đã đưa Mĩ đến với tuyên bố: Hoa Kì
thừa nhận khái niệm một nước Trung Quốc, thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Quốc là
phù hợp với lợi ích của Hoa Kì [26;695]. Như vậy, với động thái này Mĩ là nước chủ động với những
bước đi góp phần làm giảm căng thẳng trong quan hệ Mĩ – Trung. Tháng 5/1978 cố vấn an ninh
Brezinski có chuyến thăm đến Bắc Kinh để tiếp nối cuộc tiếp xúc còn đầy dang dở của vị ngoại trưởng
C.Vance. Brezinski khẳng định trong cuộc tiếp xúc với giới lãnh đạo Bắc Kinh “tổng thống Cater cho
rằng Trung Quốc đóng vai trò quan trung tâm giữa thế cân bằng thế giới. Trong một thế giới đa
nguyên hóa, một nước Trung Quốc lớn mạnh độc lập, chung sống hòa bình sẽ đóng vai trò xây dựng
trong việc giải quyết những vấn đề của thế giới” và “chính phủ Mĩ cho rằng quan hệ Trung – Mĩ sẽ có
tầm đặc biệt trong chính sách toàn cầu của Mĩ. Tổng thống Mĩ quan tâm bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc đồng thời chấp nhận 3 nguyên tắc thiết lập quan hệ ngoại giao do Trung Quốc nêu ra
nhưng hy vọng (không phải là điều kiện) khi Hoa Kì tỏ thái độ mong muốn vấn đề Đài Loan – một vấn
đề thuần túy công việc nội bộ của Trung Quốc, được giải quyết hòa bình thì lúc đó sẽ không bị Trung
Quốc công khai phản bác” [26;695]. Phía Trung Quốc cũng thể hiện thái độ “chỉ cần tổng thống Cater
hạ quyết tâm, tôi (Đặng Tiểu Bình) thấy vấn đề dễ giải quyết” [27;542]. Chuyến thăm Trung Quốc của
Brezinski được xem là thành công lớn bởi các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhìn nhận ông là một người có
cùng chung quan điểm với nước này về các vấn đề đe dọa từ bên ngoài. Sau đó, Wookcock – chủ
nhiệm phòng liên lạc Mĩ tại Trung Quốc được giao nhiệm vụ tiến hành đàm phán cụ thể với Bắc Kinh
về những vấn đề thực hiện bình thường quan hệ giữa hai nước. Đây là nhân vật có quan điểm “quan hệ
ngoại giao bình thường giữa Mĩ và Trung Quốc sẽ là cần thiết cho nền hòa bình thế giới”, ông đã từng
chỉ trích chính sách của chính phủ đối với Trung Quốc là dựa trên nền tảng “của sự ngu xuẩn rõ ràng”,
kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai Mĩ đã công nhận chính phủ Quốc Dân Đảng tại Đài Loan là đại
diện cho toàn thể Trung Quốc, tiếp tục trong 30 năm vẫn tham gia vào cuộc nội chiến ở Trung Quốc, 6
năm kể từ khi Tổng thống Nixon “mở cửa” với Trung Quốc đã có rất nhiều quốc gia công nhận chế độ
ở Trung Hoa Đại lục, không lí do gì Mĩ lại chậm chạp trong việc này.
Tháng 7/1978 cuộc đàm phán giữa bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Hoàng Hoa với Woodcock
diễn ra, chiến lược đàm của Woodcock được xem là gần như bất khả thi: xử lí các vấn đề liên quan đến
việc bình thường hóa quan hệ từng việc một mà không được hạ thấp vị thế của Washington, khi đó đại
diện Bắc Kinh nêu ra nguyên tắc “người buộc chuông phải cởi chuông” ám chỉ vấn đề Đài Loan, với
lời cảnh báo nếu Mĩ vẫn khăng khăng về điều kiện này thì toàn bộ thỏa thuận về bình thường hóa quan
hệ sẽ lâm vào tình trạng bế tắc, có thể sẽ hủy bỏ các cuộc đàm phán. Quan điểm này được khẳng định
lại nhân việc phái đoàn Trung Quốc tham dự cuộc họp của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc tháng 10 cùng
năm. Tất cả các cuộc hội đàm điều được đệ trình lên tổng thống Cater để nghiên cứu, phân tích từ đó đề
ra các nguyên tắc đi đến đàm phán có lợi nhất cho Mĩ. Bản ghi nhớ mã số 24 đã được đề trình cho
Cater với các phần: các phương án bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc; các phương án liên quan
đến việc chuyển nhượng khoa học – kĩ thuật phi quân sự cho nước này sau khi đã thiết lập quan hệ
ngoại giao chính thức; phần lựa chọn các bước đi và phương thức cắt giảm quân sự của Mĩ đối với
chính quyền Đài Loan. Một số chuyên gia về Trung Quốc trong chính quyền Cater cũng ủng hộ bản kế
hoạch này với khẳng định thời cơ đã đến buông là mất nhất thiết không được để mất. Như vậy không
chỉ Cater mà phần lớn chính khách Mĩ đều ủng hộ vấn đề sớm thiết lập quan hệ với Bắc Kinh. Đặng
Tiểu Bình đại diện Trung Quốc đã đáp lại “Trung Quốc và Nhật Bản chỉ một giây đã đạt được hiệp ước
hữu hảo hòa bình, thực hiện bình thường hóa quan hệ với Mĩ chỉ cần hai giây là xong” [27;546], và
bày tỏ ý muốn sẽ thăm Mĩ.
Ngày 2/11/1978 Wookcock trao bản dự thảo thông cáo cho đại diện Bắc Kinh tái khẳng định
Hợp chủng quốc Hoa Kì và CHND Trung Hoa đồng ý thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ và Bắc Kinh
là chính phủ đại diện duy nhất của người Trung Quốc, dự kiến ngày 1/1/1979 sẽ kí kết chính thức, ngay
sau đó đã nhận được lời phúc đáp: chính phủ Trung Quốc đã xem xét đề nghị của tổng thống Cater và
đồng ý lấy ngày đầu năm 1979 để mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ hai nước, nhưng phía
Trung Quốc kèm theo hai điều kiện, một là sau khi bình thường hóa quan hệ một tháng Mĩ phải mời
Đặng Tiểu Bình sang thăm; hai là, ngày 15/12/1978 hai bên phải công bố việc bình thường hóa từ ngày
1/1/1979, cho đến ngày 13/12/1978 không bên nào được tiết lộ vấn đề này [78]. Ngày 16/12/1978
chính phủ hai nước đồng thời công bố tại Washington và Bắc Kinh: thông cáo chung của nước CHND
Trung Hoa và Hợp chủng quốc Hoa Kì về thiết lập quan hệ ngoại giao.
Có thể thấy, chính sách “mở cửa” của Mĩ đối với Trung Quốc trong những năm 1971 – 1972 của
tổng thống Nixon, ngoại trưởng Kisinger là một xuyên phá mang tính chất lịch sử. Tuy không mang
dấu ấn sâu sắc nhưng cùng tầm vóc quan trọng, tổng thống Cater đã nối tiếp đáng kể đó là thiết lập
quan hệ ngoại giao toàn diện Trung – Mĩ, nếu không có hành động này thì Trung – Mĩ không thể vượt
qua một mối quan hệ cấp cao mong manh, với đó là các chương trình nghị sự hạn chế. Nhìn lại lịch sử,
khi hết nhiệm kì năm 1977, tổng thống Ford đã để lại di sản mối quan hệ với Trung Quốc Đại lục còn
đầy dở dang, không vững chắc vì những bất đồng: Mĩ vẫn công nhận chính quyền Trung Hoa Dân
Quốc, chỉ đặt các văn phòng liên lạc nhỏ tại Bắc Kinh, mậu dịch song phương hạn chế. Cater vào Nhà
Trắng với mong muốn trong thời kì đương nhiệm sẽ quan hệ chính thức với ¼ dân số thế giới, để làm
điều này Mĩ đã tuyên bố từ bỏ Đài Loan, dù đây chỉ đơn thuần là sự thừa nhận một hiện thực nhưng kết
quả mang lại quan trọng về phương diện ngoại giao và chính trị.
Việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước còn nhiều vấn đề chưa giải quyết trọn vẹn nhưng
đó là bước ngoặt lịch sử trong quan hệ hai nước. Như lời Tổng thống Cater đã phát biểu ngay khi công
bố thông cáo quan hệ “chúng ta thực hiện bước đi quan trọng này không phải xuất phát từ nguyên
nhân về mặt sách lược tạm thời hoặc kế sách nhất thời. Dân số Trung Quốc chiếm ¼ dân số thế giới,
nhân dân Trung Quốc là nhân dân có tài năng. Vì vậy Trung Quốc đang đóng vai trò quan trọng trong
công việc của thế giới, hơn nữa vai trò đó sẽ càng quan trọng trong năm tháng tương lại” [27;549],
còn Đặng Tiểu Bình đại diện chính phủ Bắc Kinh thì đánh giá sự kiện hai nước Trung – Mĩ thực hiện
bình thường hòa quan hệ “là sự kiện lịch sử trong quan hệ hai nước, cũng là sự kiện có ảnh hưởng sâu
xa trong đời sống quốc tế…Tôi tán thưởng quan điểm nhìn xa trông rộng này [không xuất phát từ
nguyên nhân về mặt sách lược tạm thời hay kế sách nhất thời] chính phủ Trung Quốc xưa nay đối xử
quan hệ Trung – Mĩ trên quan điểm chính trị và chiến lược lâu dài” [27;549]. Lời chào mừng của thủ
tướng Chu Ân Lai đối với đoàn bòng bàn Mĩ tháng 4/1971 đã trở thành một tuyên ngôn nổi tiếng, đến
năm 1979 nó đã mang đầy tính hiện thực “Các bạn đã mở ra một chương mới trong lịch sử quan hệ
song phương giữa hai dân tộc Trung –Mĩ”.
Ngày 31/12/1978 là cờ Đại sứ quán Đài Loan ở Washington cùng nhiều thành phố khác của Mĩ
được kéo xuống thay vào đó là quốc kì đại diện cho một nước Trung Quốc thống nhất.
2.3. Quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa những năm 80 của thế kỉ XX
Sự khai thông quan hệ đối với Trung Quốc là một chiến dịch ngoại giao được đánh giá là có tầm
nhìn xa trông rộng đối với đa phần người Mĩ ủng hộ tiến trình này. Đối với bản thân tổng thống Cater
sự thành công này tạo thêm điểm trước chiến dịch vận động tái cử của ông. Ngày 29/1/1979 Đặng Tiểu
Bình có chuyến thăm đến Washington được xem là một sự kiện gây tiếng vang lớn trong quan hệ quốc
tế. Đây là lần đầu tiên một nhà lãnh đạo Trung Quốc đến Mĩ sau nhiều thập kỉ lạnh nhạt cũng là lần đi
đầu tiên của người cộng sản Trung Quốc kể từ thời chiến tranh chống Nhật khi bắt đầu có quan hệ với
Mĩ. Trong các cuộc hội đàm hai bên luôn dành cho nhau những phát biểu cởi mở “hai nước chúng ta
trong 30 năm qua đã ở vào trong trạng thái ngăn cách và đối lập, nay tình hình không bình thường đó
đã qua rồi” [12;243]– lời phát biểu của Đặng Tiểu Bình trong bữa tiệc chiêu đãi tại Washington. Phía
Mĩ cũng đánh giá cao việc Trung Quốc chọn ngày đầu năm viếng thăm nước này, cho thấy rằng Trung
Quốc đánh giá cao tầm quan trọng trong quan hệ với Mĩ, tổng thống Cater đáp lễ “thưa Ngài phó thủ
tướng….tôi nghe nói trong dịp đầu năm này, mọi thần linh từ thiện của các Ngài đều mở hết các cửa,
đó là lúc dẹp bỏ xích mích trong gia đình là lúc đi thăm bạn bè thân thích. Đối với hai nước chúng ta
hôm nay là thời khắc đoàn tụ và bắt đầu một lịch trình mới. Hôm nay là giờ khắc hòa giải, là giờ khắc
mở lại cách cửa từ lâu đã bị đóng kín” [12;243]. Nhiều vấn đề đã được hội đàm giữa hai nhà lãnh đạo,
quan điểm về Đài Loan, tình hình thế giới, sau đó là một loạt các hiệp định về hợp tác khoa học –kĩ
thuật và giao lưu văn hóa đã được kí kết giữa hai bên: cùng đặt lãnh sự quán, cùng phái lưu học sinh,
hợp tác trong lĩnh vực khai thác nguồn năng lượng “những hiệp định đó đại biểu cho một trào lưu mới
không thể đảo ngược trong quan hệ Trung –Mĩ” [12;244].
Thực tế cho thấy, “chuyến thăm của Đặng Tiểu Bình là một bước đột phá về ngoại giao, thể
hiện rõ sự đúng đắn trong cách giải quyết các mối quan hệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho Trung
Quốc tiếp tục tiến hành chính sách cải cách, mở cửa mới đề ra” [94]. Ngay cả Đặng cũng đã bày tỏ,
Trung Quốc cần một giai đoạn dài hòa bình để xây dựng kinh tế và hiện đại hóa đất nước, người Trung
Quốc muốn tất cả các công nghệ của Mĩ mà nước này có thể có. Năm 1978 Trung Quốc bước vào thời
kì cải cách mở cửa đất nước, nước Mĩ là một bằng chứng sống về những thành tựu mà CNTB đạt được.
Câu thành ngữ của người Tứ Xuyên mà Đặng nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhấn mạnh mục đích của các
chính sách kinh tế là nên chú trọng hiệu quả “bất kể mèo trắng, mèo đen hễ bắt được chuột đều là mèo
tốt” [12;31] và khi đất nước dưới quyền lãnh đạo của ông đã phát huy tác dụng. Xuất phát từ ý thức:
Giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị không nên mâu thuẫn với CNTB vì CNTB là một yếu tố bổ sung
cho CNXH về mặt kinh tế. Đặng Tiểu Bình đã thay đổi lý luận của Mao Trạch Đông cho rằng: mâu
thuẫn giữa CNXH và CNTB là mâu thuẫn cơ bản xuyên suốt thời kì quá độ xây dựng CNXH ở Trung
Quốc bằng mâu thuẫn giữa sản xuất lạc hậu với nhu cầu vật chất và văn hóa ngày càng tăng của nhân
dân, đây là mâu thuẫn cơ bản xuyên suốt trong toàn bộ quá trình của giai đoạn đầu xây dựng CNXH”
[52;11]. Chứng tỏ Trung Quốc không coi Mĩ là kẻ thù thì cũng không có lí do gì để Mĩ thù địch với
Trung Quốc, đây là một thời điểm quan trọng để hai nước hợp tác kinh tế, đầu tư và thương mại. Trong
thỏa thuận về hợp tác thương mại có hiệu lực tháng 2/1980 Mĩ đã đồng ý trao quy chế tối Huệ quốc
(MFN) cho Trung Quốc – MFN là một dàn xếp thương mại liên quan tới việc không áp dụng mức thuế
quan phân biệt đối xử hàng xuất khẩu của nước khác dựa trên nguyên tắc có đi có lại.
Chuyến đi Mĩ của Đặng Tiểu Bình đã mang lại kết quả “thực sự hiếm có” nhằm xây dựng lòng
tin giữa hai nước, thể hiện sự khác biệt về chế độ xã hội không hề cản trở việc tăng cường quan hệ hữu
hảo và hợp tác. Những năm còn lại trong nhiệm kì của Cater, giá trị trao đổi thương mại hai chiều giữa
hai nước có những chuyển biến tích cực, tăng từ 1.142 triệu USD (1978) lên 2.309 triệu USD (1979) và
4.900 triệu USD (1980) [15;170]. Tháng 8/1979 phó tổng thống Mĩ Walter Mondale có chuyến thăm
tới Trung Quốc, chuyến đi này dẫn đến hàng loạt các hiệp định được kí kết về hàng không dân dụng,
hiệp định lãnh sự song phương…, tuy vậy quan hệ Mĩ – Trung được nhận định trong thời kì này
nghiêng về lĩnh vực quân sự nhiều hơn. Những chuyển biến trong quan hệ giữa các nước đã làm cho
mối quan hệ quốc tế thời kì này trở nên căng thẳng, việc Liên Xô đem quân vào Afganixtan, đưa Mĩ và
Trung Quốc đi đến việc trao đổi các thiết bị quân sự và dân sự; Trung Quốc đưa quân vào Việt Nam
cũng góp phần gây chia rẽ trong khối XHCN. Hợp tác về lĩnh vực quân sự, tình báo giữa Mĩ – Trung
Quốc được thể hiện: giữa tháng 8 và tháng 12/1979 Bộ quốc phòng và CIA đã chuyển các thiết bị giám
sát quân sự đến Trung Quốc để giám sát thông tin liên lạc quân sự từ Trung Á tới Viễn Đông, thực tế
cả Mĩ và Trung Quốc đang nhằm vào Liên Xô.
Tóm lại chuyến đi lịch sử đầu năm 1979 của Đặng Tiểu Bình, quan hệ Mĩ – Trung có những
bước tiến dài: Washington giành cho Bắc Kinh hầu hết những ưu đãi về thương mại và đầu tư có thể,
thị trường Trung Quốc được mở rộng để chào đón các công ty, nhà đầu tư Mĩ. Mối quan hệ giữa hai
nước thời kì 1979 – 1989 được đánh giá là thân thiện, thuận buồm xuôi gió.
Tuy nhiên sự thuận buồm xuôi gió không đồng nghĩa không có sự dậy sóng trong quan hệ giữa
hai nước, hai nhiệm kì của tổng thống Ronald Reagan, quan hệ hai nước có những trở ngại nhất định
xuất phát đa phần từ những vấn đề trong lịch sử, khi mà các tuyên bố bình thường hóa quan hệ giữa hai
nước còn mập mờ trong một số điều khoản. Những nỗ lực tiến tới bình thường hóa quan hệ với ¼ dân
số thế giới không giúp Cater đắc cử nhiệm kì tiếp theo, vì nhiều vấn đề xảy ra dưới thời ông cầm quyền
đã khỏa lấp đi những dấu ấn đạt được: từ năm 1976 – 1979 kinh tế Mĩ tăng trưởng chậm với lạm phát
cao hậu quả của việc tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) tăng giá dầu ảnh hưởng đến uy tính
của Cater trước cử tri, sau đó cuộc khủng hoảng Iran tháng 8/1978 khiến Cater có những giải quyết
mang tính thất thế và không có thời gian vận động tranh cử trước ứng viên Đảng cộng hòa. Mặt khác
chính sách đối với Trung Quốc và Đông Dương đã làm cho Liên Xô có những động thái cứng rắn hơn,
kế hoạch hòa hoãn bị thất bại. Tất cả đã làm Cater sụp đổ nhanh hơn, thất cử với số phiếu 42% so với
Ronald Reagan là 52%, ứng viên Anderson là 6%.
Reagan bước vào Nhà Trắng mang theo những tuyên bố phát biểu trong chuyến địch tranh cử
cùng Đảng Cộng Hòa: sẽ tái vũ trang, hủy bỏ SALT II, phát biểu với một giọng tự chủ hơn mang tính
chất quyết định trong các vấn đề đối ngoại để đưa nước Mĩ về vị trí số một. Do vậy, về đối nội Reagan
đã đưa ra chính sách kinh tế tự do, giảm sự can thiệp sâu rộng của chính phủ vào nền kinh tế. Về đối
ngoại, tiến hành chính sách đối ngoại không thân thiện khi cho rằng Moscow là một chính phủ không
thể thương lượng, phát động chiến dịch “cuộc chiến giữa các vì sao”, liên kết với Trung Quốc trong
“mặt trận thống nhất” chống “đế quốc tội ác” Liên Xô, công khai ủng hộ các phong trào chống CNXH
trên thế giới.
Trong chính sách quan hệ với Trung Quốc được đánh giá là có phần dè dặt hơn so với người
tiền nhiệm, ngay năm 1980 khi ra tranh cử tổng thống, Reagan đã công kích Bắc Kinh, thể hiện quan
điểm sẽ khôi phục lại quan hệ với Đài Loan. Khi lễ nhậm chức của Reagan diễn ra đoàn đại biểu Đài
Loan được mời tham dự. Sài Trạch Dân – vị đại sứ Trung Quốc đầu tiên ở Mĩ đã gặp Quốc vụ viện,
Nhà Trắng đã bày tỏ quan điểm của chính phủ Bắc Kinh: rõ ràng “hành động này” đã vi phạm tinh thần
thông cáo Trung – Mĩ và tuyên bố nước này sẽ không có đại diện nào tham dự lễ nhậm chức của ông
chủ mới Nhà Trắng nếu có đại diện Đài Bắc. Đây không phải là sự phản ứng duy nhất của Trung Quốc
về vấn đề quan hệ với Đài Loan từ khi Reagan nắm quyền. Ngay trong nội bộ Nhà Trắng cũng tồn tại
những quan điểm khác nhau, những chính khách ủng hộ bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc chỉ
rằng: những tuyên bố này (tuyên bố về Đài Loan) sẽ chôn vùi đi những nỗ lực từ thời Nixon đến Cater
“việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc đã được theo đuổi qua 3 chính quyền, cả những người
Cộng Hòa và Dân Chủ”, “làm nguy hại đến mối quan hệ đã được tạo dựng một cách cẩn thận giữa
CHND Trung Hoa và Hoa Kì, mối quan hệ đang tiến triển tốt và có lợi cho cả hai bên, là đang có nguy
cơ làm suy yếu vị trí quốc tế của Mĩ trong một thời điểm nguy hiểm” [50;494]. Vấn đề Đài Loan là vấn
đề xuyên suốt trong mối quan hệ Mĩ – Trung thập niên 80, Bắc Kinh liên tục lên tiếng cảnh báo
Washington “sẽ chịu trách nhiệm về mọi hậu quả” nếu có gắng tái lập mối quan hệ với hòn đảo này
theo kiểu quan hệ nhà nước với nhà nước. Sau các cuộc tiếp xúc giữa hai bên, thông cáo Mĩ – Trung
ngày 17/8/1982 đã được thông qua, quy định những quy tắc và các bước đi để giải quyết vấn đề Mĩ bán
vũ khí cho Đài Loan. Đây là thông cáo thứ 3 chỉ đạo quan hệ song phương giữa hai nước.
Mười năm kỉ niệm ngày thông cáo Thượng Hải được thông qua, để đưa ra thông cáo 17.8 nằm
trong tính toán của Washington nhằm “tạo nên một hình ảnh tích cực của 10 năm quan hệ, tuyên bố lại
mục tiêu chung của hòa bình ở Châu Á và phản đối bá quyền…..có thể là nhân tố căn bản cho một số
nhượng bộ” [50;532]. Mặc dù, tổng thống Reagan cho rằng “văn kiện này sẽ xúc tiến phát tiển thêm
một bước quan hệ hữu hảo giữa chính phủ hai nước, giữa nhân dân hai nước và thiết lập quan hệ vững
chắc và lâu dài với Trung Quốc là mục tiêu chính sách đối ngoại quan trọng trong suốt 4 khóa liên tục
của chính phủ Mĩ. Quan hệ này hết sức trọng yếu đối với lợi ích lâu dài của nền an ninh quốc gia hơn
nữa còn góp phần làm ổn định khu vực Đông Á” [26;726]. Dù vậy, tuyên bố này không làm Bắc Kinh
hài lòng, việc nước này xem xét lại việc bình thường hóa quan hệ với Liên Xô thể hiện ở vấn đề Trung
Quốc đang cân nhắc có tham gia vào mặt trận của với Washington chống Moscow hay không. Trong
Đại hội XII, tháng 9/1982 Tổng bí thư Trung Quốc Hồ Diệu Bang đã tuyên bố Bắc Kinh sẽ theo đuổi
một chính sách cùng tồn tại hòa bình với tất cả các quốc gia cộng sản, đương nhiên bao gồm cả Liên
Xô, chính sách ngoại giao của Trung Quốc sẽ là độc lập với bất kì một cường quốc hay nhóm cường
quốc nào. Điều này cho thấy lập trường của Trung Quốc là rõ ràng.
Lên tiếng phản đối nhưng điều đó không làm Mĩ dừng chuyển giao công nghệ quân sự cho đối
tác Đài Loan và hợp tác trong các lĩnh vực khác. Trung Quốc cũng không thể hành động nhiều hơn
được nữa, nước này cũng đã từng tuyên bố phó mặc bản thân với cuộc chiến ngoại giao lâu dài với Mĩ
về hòn đảo Đài Loan. Trung Quốc đang tiến hành cải cách đất nước, không muốn tiến trình này bị
chững lại nên sẵn lòng gác lại những yếu tố mang tính chính trị ảnh hưởng đến toàn bộ sự phát triển
quốc gia.
Vào tháng 1/1984 Triệu Tử Dương –thủ tướng Trung Quốc thăm Mĩ, tháng 4 cùng năm Tổng
thống Reagan trở thành vị tổng thống Mĩ đầu tiên thăm Bắc Kinh từ khi hai nước thiết lập quan hệ
ngoại giao. Các cuộc viếng thăm giữa các bên tiếp tục được duy trì, vào tháng 7/1985 chủ tịch Trung
Quốc Lý Tiên Nhiệm thăm chính thức Mĩ – lần đầu tiên một nguyên thủ quốc gia thăm Nhà Trắng, đến
tháng 10/1985 với cương vị phó tổng thống Bush sang Trung Quốc khai trương Tổng lãnh sự quán tại
Bắc Kinh. Trong thời kì này hai nước tiếp tục triển khai các chiến lược ngoại giao theo ý đồ riêng của
mỗi nước.
Từ cuối những năm 80 đến đầu những năm 90 quan hệ Mĩ – Trung tuy có cải thiện đáng kể,
điều này được thể hiện qua các cuộc viếng thăm ngoại giao giữa hai bên cùng với một số thỏa thuận
hợp tác được kí kết, trong quan hệ chính trị: thái độ của Trung Quốc đối với Mĩ được quyết định ở chỗ
có thể “sử dụng” nước này như thế nào trong cuộc chống Liên Xô – tức vì lợi ích quốc gia biến Trung
Quốc thành trung tâm chính trị thứ ba. Về vấn đề Đài Loan trong quan hệ với Mĩ, một mặt Trung Quốc
muốn bảo vệ lập trường chính trị và sự toàn vẹn lãnh thổ, nhưng lại không muốn biến vấn đề này thành
sự cản trở, không khắc phục được trong quan hệ giữa hai nước. Những sự kiện chính trị xảy ra ở mỗi
nước sẽ không ảnh hướng đến chính sách đối ngoại của hai nước dành cho nhau nếu như nước đối tác
không “quá quan tâm” vào vấn đề thuộc nội bộ của nước kia. Sự kiện Thiên An Môn ở Trung Quốc đã
góp phần đưa hai nước Trung – Mĩ bước vào thời kì khó khăn nhất từ khi hai bên thiết lập quan hệ
ngoại giao chính thức.
2.4. Quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa sau sự kiện Thiên An Môn đến 1991
2.4.1. Thế giới những năm 1989 – 1991
Khoảng thời gian 1989 – 1991 thế giới có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, đặc biệt là sự sụp đổ mô
hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, mà chính quyền Bush gọi là “sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản
Đông Âu” [6;640], mở đầu cho một thế giới đơn cực với trật tự mới.
Chiến tranh lạnh chấm dứt, do bị xói mòn và tác động bởi một loạt các nhân tố chủ quan và
khách quan. Cuộc chiến khởi đầu bởi Xô – Mĩ, vì thế khi hai nước này ở vào trạng thái suy yếu thì
những mục tiêu, chiến lược mà họ dựng lên cũng với tình trạng như thế. Đa số các học giả cho rằng
thập niên 80 là thập niên trong đó các siêu cường không còn được coi là vượt trội nhiều hoặc có thể
vượt lên tất cả các quốc gia khác để tạo nên một sự riêng biệt. Sự suy giảm về quyền lực và uy tín của
nước Mĩ được cho là tự nó gây ra, xuất phát từ hệ quả của những sai lầm, tính toán nhầm lẫn trong
quản lí kinh tế cũng như trong chính sách đối ngoại, và sự trì trệ này kéo dài cho đến khi chiến tranh
lạnh kết thúc. Khi Reagan rời khỏi chính trường năm 1989 từ một chủ nợ lớn nhất thế giới Mĩ biến
thành con nợ lớn nhất thế giới, nợ ngoại thương vượt 660 tỉ USD và tăng 25% chỉ trong một năm, thâm
hụt nước ngoài lên đến 12 tỉ USD một tháng và tiền lãi phải trả cho nợ nước ngoài tiêu tốn 50 tỉ
USD/năm, hoạt động xuất khẩu bị tê liệt, tài sản nước ngoài bán hết [37;72]. Trong nhiệm kì của tổng
thống Bush (cha) tình hình kinh tế cũng không khả quan hơn, khi bị quy kết là chính phủ của ông quá
chú trọng đến phối hợp quân sự trong ngoại giao mà bỏ rơi vấn đề mở rộng kinh tế lẫn thị trường cho
nền kinh tế Mĩ. Điều này làm Bush mất đi sự tín nhiệm từ cử tri tháng 12/1992, mặc dù về mặc đối
ngoại cả chính quyền Mĩ đã thành công trong “việc đưa Trung và Đông Âu ra khỏi chế độ cộng sản và
sự triệt tiêu siêu cường thứ hai của thế giới” [37;73].
Về tình hình của Liên Xô cũng có những biến động, thập niên 80 là thời kì bùng phát những sai
lầm, thiếu sót trong suốt quá trình xây dựng, phát triển liên bang. Việc tồn tại với tư cách là một liên
bang đã làm cho quốc gia này vấp phải nhiều rắc rối khi xử lí những vấn đề phát sinh thiếu tính linh
hoạt. Gorbachev lên cầm quyền ở Liên Xô năm 1985, đã nhanh chóng nhận thấy cần phải thay đổi
trong hệ thống, đây là điều cần thiết để liên bang này tồn tại. Ông đã đề ra một loạt các cải cách nhằm
cải tổ lại nền kinh tế và cấu trúc toàn bộ hệ thống chính trị, nhưng “một cuộc cải cách – perestroika –
được khởi xướng như một tất yếu, song lại quá muộn màng với những sai lầm nghiệm trọng trong quá
trình tiến hành. Nó không chỉ mang lại tính bất khả thi mà còn chôn vùi những thành tựu kinh tế, xã hội
được xây đắp bằng xương máu của hàng chục triệu công dân Xô Viết” [35;340] và nhân vật khởi
xướng cũng chịu chung số phận khi “trở thành kẻ phản bội lớn nhất trong lịch sử 74 năm tồn tại và
phát triển của liên bang Xô Viết” [35;340]. Như vậy, cuộc cải cách của Gorbachev đã không thể ngăn
chặn sự sụp đổ của một hệ thống đã phát triển một cách cứng nhắc từ nhiều năm. Năm 1989, bức tường
Berlin – biểu tượng cho sự đối đầu hai hệ tư tưởng – sụp đổ báo hiệu sự kết thúc vai trò của Liên Xô ở
Đông Âu và hai năm sau đó quyền lực của chính phủ Xô Viết tương tự, điều này đồng nghĩa với việc
tập hợp lực lượng theo ý thức hệ để đối đầu không còn. CNXH hiện thực bước vào giai đoạn đầy khó
khăn sau hơn 7 thập kỉ ra đời và phát triển.
Chiến tranh lạnh kết thúc, cục diện lưỡng cực bị sụp đổ một cực (Liên Xô), thế giới bắt đầu cho
một hành trình mới. Mĩ – cực duy nhất còn lại, kẻ chiến thắng trong cuộc chiến tranh lạnh có cơ hội
thực hiện chiến lược toàn còn của mình với vai trò lãnh đạo thế giới khi lực lượng đối đầu không ngăn
trở, ngay trong diễn văn nhậm chức (20/01/1989) tổng thống Bush (cha) đã tuyên bố: tự do và hòa bình
đang được khôi ở nữa kia của thế giới, thời đại của những kẻ độc tài đã lùi vào dĩ vãng, Mĩ sẽ làm tất
cả để đưa làn gió tự do khắp thế giới.
Vấn đề tự do và dân chủ là một trong những công cụ của Mĩ trong chính sách đối ngoại thời
Bush “dân chủ thuộc về tất cả chúng ta và tự do như một con diều đẹp có thể bay cao hơn, cao hơn
nữa nhờ gió”. Chính quyền Bush áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế hay áp đặt các điều kiện gắn
với viện trợ nước ngoài, nếu một nước nào đó vi phạm dân chủ, nhân quyền theo tiêu chuẩn, nguyên
tắc mà Mĩ soạn thảo. Chính sách dân chủ, nhân quyền áp dụng với Trung Quốc là điển hình sau khi sự
kiện Thiên An Môn diễn ra, đã đưa quan hệ Mĩ – Trung bước vào giai đoạn lạnh nhạt.
2.4.2. Quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa 1989 – 1991
Sự kiện Thiên An Môn năm 1989 còn được gọi là phong trào 4/6, nó chính thức được khởi phát
từ cái chết của Hồ Diệu Bang, là cuộc biểu tình trong hòa bình của giới tri thức, nhân sĩ,…….yêu cầu
chính phủ phải tiến hành những cải cách mạnh mẽ để ổn định tình hình kinh tế - xã hội: như yêu cầu
những người lãnh đạo nhà nước phải công khai tài sản của cá nhân và gia đình mục đích là chống tham
ô, quan liêu; xác định tự do ngôn luận và báo chí, bỏ các lễ cấm diễn hành trên đường phố tức vấn đề tự
do dân chủ cần phải được tôn trọng hơn. Hồ Diệu Bang – nhân vật với những bài phát biểu mang đầy
tính “cải cách” tự do, dân chủ nhưng kết quả sau cái chết của ông, giới tri thức phải gửi yêu cầu đánh
giá lại công tội đúng sai để khôi phục danh dự cho ông. Khi phong trào diễn ra ngoài sự kiểm soát của
chính phủ thì trong nội bộ giới cầm quyền Bắc Kinh cũng có nhiều quan điểm khác nhau để ổn định
trật tự. Cuối cùng phái chủ trương cuộc vận động “chống ô nhiễm tinh thần” đã thắng thế, với nhận
định “phong trào học sinh này không phải là sự kiện học sinh gây rối loạn bình thường, mà là một
cuộc vận động loạn chính trị, mục đích là gây hỗn loạn để phủ định sự lãnh đạo của Đảng và chế độ
xã hội chủ nghĩa” [10;428] và tuyên bố “sẽ áp dụng hành động cương quyết để đối pho với một cuộc
gây rối loạn vạch trần âm mưu chính trị của một số ít người” [10;424]. Ngay sau đó, ngày 20/5/1989
tuyên bố thiết quân luật và các mệnh lệnh nhằm ổn định trật tự đã được ban hành: cấm diễu hành, thị
uy, bãi khóa bãi thị, giao quyền cho quân đội khi cần có thể dùng vũ luật để giải quyết, cấm mọi kí giả
đưa tin nếu không được phép….Kết quả thế giới bị choáng ngợp bởi những hình ảnh đơn giản của sinh
viên tay không chống lại và cuối cùng bị đàn áp bởi các lực lượng vũ trang theo mệnh lệnh của chính
phủ. Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh cho rằng “xử lí” trường hợp Thiên An Môn là cần thiết để ngăn ngừa
một cuộc hỗn loạn dẫn đến những cuộc chiến tranh dân sự, ảnh hưởng đến an ninh nước nhà. Dù nó
mang ý nghĩa quốc gia nhưng về cơ bản Thiên An Môn đã ảnh hưởng rất lớn hình ảnh Trung Quốc đối
với thế giới, phản ứng tức thời và mạnh mẽ một loạt nước đã hạ cấp trong quan hệ với Bắc Kinh, mối
quan hệ Mĩ – Trung cũng thay đổi.
Với những tin tức được tường thuật về Washington, Quốc hội nước này đã có các cuộc họp yêu
cầu tổng thống Bush kí sắc lệnh cắt đứt quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh, triệu hồi đại sứ và áp đặt
lệnh trừng phạt nghiêm khắc, dù có những bất đồng trong chính phủ nhưng những hệ lụy sau ngày 4/6
“đã buộc Bush phải leo thang trừng phạt” [50;600]. Theo đó, Mĩ tạm ngưng bán các loại vũ khí và xuất
khẩu thương mại giữa chính phủ với chính phủ; việc viếng thăm giữa các nhà lãnh đạo quân sự cũng
tương tự; các yêu cầu kéo dài thời gian đối với các lưu học sinh học tập tại Mĩ của sinh viên Trung
Quốc được suy nghĩ thỏa thuận [26;926]. Hạ tuần tháng 6, chính phủ Mĩ tiếp tục những chính sách
trừng phạt Trung Quốc bằng việc tạm ngừng các cuộc gặp cấp cao, can thiệp vào Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) để ngừng cung cấp các khoản cho vay nước này. Tóm lại, trong suốt năm 1989 với chính sách
ngoại giao nhân quyền Mĩ đã liên tục ban hành những biện pháp trừng phạt Bắc Kinh, điều này được
cho là phù hợp với nội dung cốt yếu trong chính sách dân chủ, nhân quyền của nước này: là dân chủ,
nhân quyền cần phải được thúc đẩy thường xuyên qua lên án công khai hoặc qua con đường ngoại giao.
Bắc Kinh ngay sau đó đã có những phản ứng đáp trả các động thái được cho là can thiệp vào
công việc nội bộ nước này với Mĩ “chính sách trừng phạt của Mĩ đối với Trung Quốc trước hết là
không sáng suốt bởi vì quan hệ giao lưu rên lĩnh vực kinh tế, mậu dịch, kĩ thuật, văn hóa…phù hợp với
lợi ích căn bản của nhân dân hai nước. Về lâu dài mà nói, những trừng phạt Trung Quốc không chỉ là
Trung Quốc tổn thất, đối với lợi ích của Mĩ cũng có tổn thất ” và “quan hệ Trung – Mĩ sau bao năm
ngăn cách do con người gây nên được khôi phục và phát triển, không phải vì quan niệm giá trị song
phương tương đồng mà là vì lợi ích chung to lớn” [26;928]. Trong cuộc tiếp xúc với đặc phái viên Mĩ,
Đặng Tiểu Bình đã khẳng định lại: Trung Quốc có tầm quan trọng đặc biệt trên trường quốc tế liên
quan đến ổn định và an ninh tình quốc tế, nếu nước này xảy ra động loạn thì vấn đề sẽ là rất lớn, điều
này đương nhiên sẽ ảnh hưởng đến thế giới và không mang lại tốt lành cho cả Trung Quốc và Mĩ và
không nên quên nhắc nhở sự quan tâm không cần thiết của Mĩ vào công việc nội bộ của Trung Quốc,
cho rằng Trung Quốc không thể sao chép chế độ của Mĩ, chế độ của Mĩ có tốt hay không hãy để cho
người Mĩ tự soi xét, Bắc Kinh không có ý kiến. Điều này đồng nghĩa hai nước cần phải tôn trọng lẫn
nhau, khi mà “Trung Quốc không thể đe dọa được Mĩ, Mĩ không nên coi Trung Quốc là đối thủ đe dọa
mình, chúng tôi (lời Đặng) không làm bất cứ điều gì có hại đến Mĩ. Trong 17 năm, kể từ 1972 đến nay
tình hình thế giới nói chung là khá ổn định, sự phát triển của quan hệ Trung – Mĩ là một trong những
nguyên nhân hình thành nên tình hình thế giới này” [12;252]. Mặc dù có những lời lẽ được cho là
“chân thành” nhưng đều đó không làm Washington gỡ bỏ các biện pháp trừng phạt. Thể hiện quan
điểm là một nước tự chủ, Bắc Kinh cũng đã từng khẳng định “Đừng bao giờ kì vọng Trung Quốc xin
Hoa Kì dỡ bỏ lệnh trừng phạt, nếu nó kéo dài 100 năm người Trung Quốc cũng sẽ chẳng làm điều đó”
[50;606] và nếu Trung Quốc không tôn trọng mình thì Trung Quốc không thể đứng vững được, không
còn tư cách quốc gia gì nữa. Với thái độ gay gắt, Trung Quốc cũng đã chỉ trích các phương tiện thông
tin đại chúng Mĩ, Phương Tây đã đưa thông tin “bịa đặt, thiếu trung thực” làm “phức tạp” thêm tình
hình “nói một cách thẳng thắn là động loạn và bạo loạn phản cách mạng xảy ra cách đây không lâu tại
Bắc Kinh, trước hết là do sự kích động của trào lưu tư tưởng chống cộng, chống CNXH từ các nước
phương Tây. Rất tiếc Mĩ đã dính sâu vào vấn đề này…..đài tiếng nói Hoa Kì…..đến sự thành thật tối
thiểu cũng không có [12;246,247]. Việc Mĩ và phương Tây sử dụng chiến lược ngoại giao nhân quyền
với khẩu hiệu dân chủ hóa quốc tế đã bị phía Trung Quốc phản đối “các nước phương Tây nói chúng ta
(Trung Quốc) xâm phạm nhân quyền, kì thực họ mới chính là xâm phạm nhân quyền. Trung Quốc đã
lật lại lịch sử đã chứng minh cho lời buộc tội của họ, Mĩ giúp Tưởng Giới Thạch gây nội chiến, ủng hộ
Nam Triều Tiên tiến hành chiến tranh và hơn nữa thế kỉ qua cuộc xâm lược của thực dân, đế quốc (bao
gồm Mĩ) làm cho nhân dân Trung Quốc chịu bao nhiêu tổn thất, vì vậy “nói tới nhân quyền là không
đủ tư cách” [26;973] và “nước ấy (Mĩ) chính trị cường quyền làm căn bản không có tư cách nói nhân
quyền, họ đã làm phương hại đến nhân quyền của bao nhiêu người trên thế giới” [26;973].
Như vậy, cả Mĩ và Trung Quốc điều đưa ra những luận điệu để biện luận cho hành động của
mình, nhưng lại trên cơ sở, quan điểm nhìn nhận vấn đề không giống nhau, điều này đã đưa quan hệ hai
nước trở lại sự bất bình thường dù lợi ích dân tộc luôn là cái mà hai nước muốn đạt đến. Có thể nói sau
sự kiện 4/6 quan hệ Mĩ – Trung rơi vào trạng thái lạnh nhạt nhưng không bị phá vỡ, nó xuất phát từ lợi
ích quốc gia trên cơ sở những toan tính từ hai nước.
Nhận định này dựa trên cơ sở, bởi vì, dù thông qua lệnh trừng phạt Trung Quốc nhưng phía Mĩ
lại mong muốn duy trì quan hệ bình thường với nước này, chẳng bao lâu sau nghị quyết trừng phạt,
Quốc hội Mĩ lại thông qua văn kiện xét lại chính sách cấm vận Bắc Kinh, với “Pháp lệnh ủy quyền
quan hệ ngoại giao năm tài chính 1990 – 1991” ngày 16/2/1991, pháp lệnh một mặt quy định các biện
pháp trừng phạt Bắc Kinh trên phương diện pháp luật, mặt khác cho Tổng thống có quyền xử lí linh
hoạt căn cứ vào “tiến triển” cải cách chính trị ở Trung Quốc hay vượt qua yêu cầu lợi ích của Mĩ, từ đó
có thể giảm hoặc toàn bộ chính sách trừng phạt. Việc Washington đi đến quyết định các biện pháp
trừng phạt Trung Quốc phải vượt qua nhiều quan điểm không thống nhất trong nội các Nhà Trắng. Cựu
tổng thống Nixon đã có cuộc điện đàm với tổng thống đương nhiệm Bush ngay sau nhận được những
“hình ảnh” từ Bắc Kinh “đừng phá vỡ mối quan hệ này” “điều xảy ra đã được xử lí tồi tệ và đáng
trách, nhưng hãy có cái nhìn dài hạn” [50; 594], Bush cũng nhanh chóng nhận ra tầm quan trọng của
vấn đề “sẽ là một thảm kịch đối với tất cả nếu như Trung Quốc bị lôi lại kỉ nguyên cô lập và đàn áp
trước năm 1972” [50; 295] và thể hiện không áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế hay triệu hồi đại sứ tại
Trung Quốc về nước. Một số Nghị sĩ ở cả hai viện dựa vào nhân quyền đã có những phản ứng để gây
áp lực cho tổng thống “Ông (Tổng thống Bush) không thể không phản ứng với những hình ảnh này
(Thiên An Môn) trên truyền hình” [50;595] và yêu cầu tổng thống phải nói điều gì đó để thể hiện sự
xúc phạm mà người dân cảm thấy về hành động này không thể được chấp nhận ra sao. Tuy bị áp lực
như vậy, nhưng trên cơ sở lợi ích lâu dài của nước Mĩ, Bush đã có những bước đi nhằm nổ lực duy trì
và phát triển mối quan hệ với Trung Quốc. Việc cử trợ lí an ninh quốc gia Brent Scowcroft làm đặc
phái viên bí mật sang thăm Bắc Kinh vào tháng 7/1989 là dấu hiệu cho thấy chính sách ngoại giao hai
mặt của Washington. Trợ lí mang theo quan điểm của Bush, những hoạt động gần đây là vấn đề nội bộ
của Trung Quốc, Mĩ không có ý định can thiệp vào nhưng cần phải chú ý đến thái độ, quan điểm của
Mĩ và toàn bộ giới phương Tây, đến tháng 12 cùng năm lộ trình cải thiện quan hệ hai nước được Mĩ
công bố. Phía Mĩ tuyên bố nới lỏng các biện pháp trừng phạt như chấm dứt việc không cho phép ngân
hàng xuất nhập khẩu của Mĩ cung cấp các khoản cho vay dùng để phát triển kinh tế Trung Quốc, hợp
tác trong lĩnh vực quốc phòng được nối lại…..Đến tháng 11/1991 quốc vụ khanh Mĩ Beck – lần đầu
tiên một quan chức cấp cao của Mĩ thăm Trung Quốc kể từ tháng 6/1989, đánh dấu mốc mới cho việc
khôi phục lại quan hệ ngoại giao giữa hai nước “chúng ta có những vấn đề khó khăn phải thảo luận,
chuyến thăm của tôi có nghĩa là trên thực tế các biện pháp trừng phạt tạm thời tiếp xúc giữa các quan
chức cấp cao giữa hai nước không tồn tại nữa” [34;45].
Việc Mĩ một mặt ban hành chính sách trừng phạt, nhưng mặt khác lại cử người sang điều hòa
quan hệ đã góp phần nâng Bắc Kinh lên một vị trí quan trọng trong quan hệ ngoại giao với
Washington. Thực tế chính sách mở cửa của Trung Quốc trong quá trình thực hiện đã đạt được những
thành tựu bước đầu khiến thế giới không thể không chú ý, điều này khiến Mĩ không yên tâm nhưng lại
không thể ngăn chặn được sự phát tiển vượt bậc này, Trung Quốc với thị trường chiếm ¼ dân số thế
giới trở thành nơi đầu tư của nhiều đối tác, và tư bản Mĩ không thể đánh mất cơ hội kinh doanh tại đây.
Lí do kinh tế là nguyên nhân lí giải sự nhượng bộ của Mĩ về vấn đề nhân quyền tại Trung Quốc cuối
thập niên 90. Một điều lưu ý, Mĩ không phải đơn phương chủ động đề ra và sau đó hủy bỏ các lệnh
trừng phạt đối với Trung Quốc nếu nước này không có các phản ứng, biện pháp tìm cách thoát khỏi áp
đặt, “trừng phạt” của Mĩ lẫn phương Tây. Bắc Kinh triển khai chiến lược “đàm phán riêng lẽ với từng
nước đồng minh của Mĩ, các tổ chức quốc tế, sử dụng thị trường rộng lớn của Trung Quốc để lôi kéo
đối thủ cạnh tranh của Mĩ trên thị trường” và kết quả đã mang lại sự thành công bước đầu.
Khoảng thời gian 1984 – 1988 là thời kì Trung Quốc bước vào cải cách kinh tế toàn diện, qua
quá trình cải cách, kết cấu thành phần kinh tế đã chuyển biến rõ rệt, từ năm 1978 – 1987 tỉ trọng kinh tế
tập thể tăng từ 22,4% lên 34,6%, kinh tế tư doanh từ con số 0 trước cải cách đến đầu năm 1987 chiếm
5,6% trong tỉ trọng kinh tế quốc dân. Sau sự kiện Thiên An Môn tình hình kinh tế Trung Quốc rơi vào
trạng thái bất ổn “Thiên An Môn là mối hiểm họa đẩy Trung Quốc trở lại tình trạng hỗn độn và bạo
loạn, đình đốn thêm 100 năm nữa” [8;610]. Trong hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, Đảng Cộng sản
Trung Quốc phải thông qua nghị quyết về việc tiếp tục chữa trị, chỉnh đốn và đưa các cải cách vào
chiều sâu (1989 – 1991).
Ngoài việc nỗ lực của bản thân, Bắc Kinh cũng tăng cường chính sách, mở rộng đối ngoại để
tạo đà kích thích đất nước phát triển. Trên cơ sở nghiên cứu chính sách ngoại giao của Trung Quốc, các
nhà nghiên cứu cho rằng sự kiện Thiên An Môn đã tạo cơ hội cho Trung Quốc lưu tâm hơn đến vai trò
của các nước láng giềng. Có một sự so sánh trong khi các nước tư bản phát triển như Mĩ , EU, G7…..
không ngừng lên tiếng chỉ trích chính sách nhân quyền của Bắc Kinh kèm theo đó là một loạt các biên
pháp trừng phạt; các nước làng giềng Châu Á thì “kiềm chế” tránh lên án Trung Quốc một cách mạnh
mẽ, có thái độ quan ngại đến hậu quả cô lập Trung Quốc vì “họ không mong ước Trung Quốc một lần
nữa rút vào vỏ của mình, với một tầng lớp lãnh đạo luôn nghi kị và sợ sệt thế giới bên ngoài và nhân
dân Trung Quốc bị đóng cửa với thế giới” và vì “đã tận mắt chứng kiến được các lợi ích cho an ninh
và cuộc sống an lành của mình khi Trung Quốc hội nhập với thế giới bên ngoài nhiều hơn với thập
niên 1980, họ rất sợ trở về thời kì ngăn chặn Trung Quốc vào các thập niên 1950 và 1960” [57; 367].
Quan điểm này đã tồn tại ở Nhật Bản từ lâu, việc Mĩ mở cửa với Trung Quốc, Tokyo nhận thấy cần
nhanh chóng bình thường hóa quan hệ với nước làng giềng này. Sau thời kì quan hệ căng thẳng, năm
1978 Hiệp định hòa bình hữu nghị Nhật – Trung được kí kết, với các tuyên bố được nêu rõ “Trung
Quốc và Nhật Bản là hai nước láng giềng gần gũi, có hữu nghị lịch sử truyền thống lâu đời. Nhân dân
hai nước thiết tha mong muốn kết thúc tình trạng không bình thường tồn tại cho đến nay giữa hai
nước…sẽ mở ra một trang sử mới cho lịch sử quan hệ hai nước” [34;82]. Theo đó, bình thường hóa
quan hệ không chỉ phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước mà còn góp phần hòa dịu căng thẳng
trong khu vực, thúc đẩy tiến trình hòa bình thế giới. Đây chính là những cơ sở pháp lí cho ngoại giao
giữa hai nước phát triển, trong lĩnh vực kinh tế Trung Quốc thu được vốn, kĩ thuật, khoa học công nghệ
và kinh nghiệm quản lí của Nhật cho quá trình cải cách kinh tế mở cửa thành công hơn. Với số dân lớn
Trung Quốc trở thành thị trường đầu tư và tiêu thụ hàng xuất khẩu rộng lớn của Nhật, năm 1984 kinh
ngạch thương mai hai nước vượt 10 tỉ USD, đến 1991 đạt 29 tỉ USD [34; 85]. Về mặt chính trị, cải
thiện quan hệ giữa hai nước sẽ góp phần tăng vị thế của hai nước trên trường quốc tế, trước hết là khu
vực Đông Á. Lợi ích quốc gia luôn là yếu tố hàng đầu trong sự phát triển đất nước, mặc dù cùng với
Mĩ, Phương Tây đều áp đặt biện pháp trừng phạt Trung Quốc khi sự kiện 4/6 diễn ra nhưng không lâu
sau đó Nhật Bản là nước đi đầu tuyên bố nối lại các nguồn vốn cho vay, viện trợ, đầu tư cũng như trở
lại bình thường trong quan hệ chính trị và đóng vai trò là trung gian hòa giãi giữa Trung Quốc với
phương Tây. Trung Quốc cũng cho thấy với những bước đi thận trọng và khôn khéo trong chính sách
ngoại giao của họ, không chỉ thành công với việc cải thiện quan hệ với Tokyo, mà còn phá vỡ trạng
thái bị cô lập với nhiều nước khác như Nga – cuối năm 1989, hai nước đã kí kết kỉ yếu hội đàm nhất trí
các nguyên tắc chỉ đạo song phương quan hệ giữa hai nước, sau khi Liên Xô sụp đổ các văn kiện này
trở thành điểm khởi đầu trong việc xây dựng mối quan hệ mới giữa Nga với Trung Quốc, các vấn đề do
lịch sử để lại cũng được hội đàm để giải quyết nổi bật là việc khai thông biên giới hai bên.
Bắc Kinh cũng tỏ ra mềm dẻo trong việc xử lí các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia đang
tranh chấp với Ấn Độ, Việt Nam. Do những thay đổi mạnh mẽ của tình hình thế giới, xu thế hòa bình
hợp tác đang gia tăng nên giữa các nước luôn cố gắng tạo nên một không gian đồng thuận để tạo nên
tiếng nói chung giải quyết các bất đồng. Trong vấn đề Kashimir ở Ấn Độ, Trung Quốc tỏ ra trung lập
hơn và không còn công khai thách thức vị thế nước này ở khu vực Nam Á. Trong thông cáo Việt Nam
– Trung Quốc tháng 11/1991 có nêu, hai nước sẽ phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện
trên cở sở tôn trọng 5 nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không xâm phạm
lẫn nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng cùng có lợi; cùng tồn tại hòa bình.
Với tuyên bố này đặt cơ sở cho việc bình thường hóa quan hệ hai nước sau những năm căng thẳng do
tác động của chiến tranh lạnh cũng như những nhân tố xuất phát từ quan hệ song phương. Việc thiết lập
quan hệ ngoại giao với khối ASEAN còn góp phần tạo ra môi trường hòa bình xung quanh để Trung
Quốc tập trung phát triển kinh tế với sức mạnh tổng hợp được tăng cường, xây dựng hình tượng một
nước lớn trong khu vực.
Như vậy, với đường lối ngoại giao đa phương Trung Quốc đã từng bước phá vỡ thế cô lập quốc
tế, việc chủ động quan hệ, xúc tiến ngoại giao đã buộc Mĩ và Phương Tây đánh giá lại chính sách cô
lập Bắc Kinh, họ sẽ được và mất gì.
Kết quả sau một thời gian lạnh nhạt, quan hệ Mĩ –Trung bước vào tuần trăng mật mới, tạo nên
một chu kì quan hệ hai nước. Điều này cho thấy cả Mĩ và Trung Quốc đều cần đến nhau “mặc dù thế
giới có những biến đổi lớn lao nhưng lợi ích chung giữa hai nước Trung – Mĩ vẫn luôn tồn tại”
[26;929], dù đó là trên cơ sở tính toàn chiến lược của mỗi bên.
Tiểu kết chương 2
Có thể thấy, sự biến chuyển trong quan hệ quốc tế đã tác động đến hòa hoãn Mĩ –Trung, mở đầu
bằng sự kiện ngoại giao bóng bàn năm 1971, trước đó là các cuộc tiền trạm bí mật của Washington.
Đây được xem là thời kì chuyển tiếp từ trật tự thế giới hai cực sang trật tự thế giới đa cực, đa trung tâm
với sự xuất hiện rõ dần tam giác chiến lược Mĩ – Xô – Trung. Chuyến thăm tổng thống Nixon (21 –
28/2/1972) với bản thông cáo chung Thượng Hải là một bước đột phá trong quan hệ Mĩ – Trung.
Trong suốt tiến trình hòa hoãn Mĩ là nước chủ động thông các biện pháp, chủ trương, sách lược
ngoại giao, nhưng nếu Trung Quốc không có thái độ bày tỏ sự bình thường hóa với Mĩ thì các cuộc tiếp
xúc ngoại giao trước đó cũng bằng không. Mất một khoảng thời gian để “hiểu nhau” (1972 – 1979) đến
ngày 1/1/1979 hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Sau khi đạt được sự thỏa thuận phù
hợp với lợi ích cả hai bên, các cuộc viếng thăm cấp cao giữa chính phủ hai nước được diễn ra thường
xuyên hơn. Ngày 17/8/1982, Thông cáo Trung – Mĩ tiếp tục những thoả thuận, được xem là thông cáo
thứ 3, là một văn bản thứ 3 chỉ đạo quan hệ song phương.
Qua đây giúp cho chúng ta thấy quan hệ Mĩ – Trung theo hướng phát triển sau thời kì căng
thẳng. Điều này có lợi cho cả hai; Mĩ mong muốn đạt sự thoả thuận với Trung Quốc, Liên Xô….để đạt
kết quả tốt nhất cho chiến lược toàn cầu, việc chạy đua vũ tranh đã làm cho kinh tế Mĩ yếu đi rất nhiều,
tránh căng thẳng xung đột để Mĩ lấy lại vị thế của mỉnh trong hệ thống TBCN và thế giới. Trung Quốc
thời kì này đang tiến hành cải cách đất nước “hoà bình, ổn định” là điều kiện căn bản để nước này có
cơ sở tiến hành thành công chính sách mở cửa đất nước và điều quan trọng Mĩ đã chịu bỏ ngõ vấn đề
Đài Loan trong hạn định.
Khoảng thời gian 1989 – 1991, quan hệ quốc tế tiếp tục có nhiều biến đổi: CNXH ở Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ. Mĩ đã thành công trong việc làm tan rã CNXH ở Liên Xô và Đông Âu theo đúng ý đồ
trong chiến lược toàn cầu đã đề ra, bắt tay hoà hoãn với Trung Quốc từ thập niên 70 là một trong những
biện pháp để Washington cạnh tranh quyền lực toàn cầu với Moscow và bao gồm cả việc kiềm chế sự
trỗi dậy của Bắc Kinh. Cả Mĩ và Trung Quốc đều đạt được những mục tiêu căn bản mang tính chiến
lược khi tiến tới bình thường hoá quan hệ. Dù vậy trong quan hệ hai nước vẫn luôn mang tính dè chừng
lẫn nhau, sự nóng, lạnh trong quan hệ Mĩ – Trung luôn thường trực, khi gặp cơ hội thích hợp nó sẽ bị
đối phương sử dụng phục vụ cho chính sách ngoại giao của mình. Sự kiện Thiện An Môn (6/1989) là
một điển hình, Washington đã sử dụng sự kiện này tiến hành thực hiện chính sách cấm vận toàn diện
với Trung Quốc. Điều này đã gây cho Bắc Kinh nhiều khó khăn trong cuộc cuộc cải cách toàn diện đất
nước. Trung Quốc đã triển khai chiến lược “đám phán riêng rẽ với từng nước đồng minh của Mĩ, các tổ
chức quốc tế, sử dụng thị trường rộng lớn của Trung Quốc để lôi kéo đối thủ cạnh tranh của Mĩ trên
thị trường”, với biện pháp này buộc Mĩ phải xem xét lại chính sách ngoại giao “quan tâm quá mức”
vào công việc nội bộ của Trung Quốc. Sự lạnh nhạt trong quan hệ Mĩ – Trung Quốc kéo dài đến năm
1996 khi tổng thống B.Clinton nên nắm chính quyền.
Như một sự khẳng định, bình thường hóa quan hệ Mĩ – Trung không phải từ “thiện chí” của mỗi
nước, mà là trên cơ sở những toan tính chiến lược.
Chương 3. NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ HOA KÌ – CHND TRUNG HOA (1972 – 1991)
3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao Hoa Kì – CHND Trung Hoa
Nhìn lại việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Mĩ và Trung Quốc là cả một quá trình thăng trầm
và phức tạp. Cả Mĩ và Trung Quốc chưa bao giờ đạt được sự thỏa mãn với nhau vì còn quá nhiều vần
đề bất đồng cũng như một loạt các yếu tố chi phối. Vì sao hai nước xích lại gần nhau, câu trả lời nằm
ngay trong mục đích về chính sách ngoại giao đương thời mà hai nước tiến hành. Bàn về những yếu tố
tác động đến quá trình thiết lập ngoại giao chính thức giữa Washington và Bắc Kinh có thể thấy, có
những yếu tố tham gia tác động đến mối quan hệ này trong suốt chiến tranh lạnh (Liên Xô, Việt Nam),
có những yếu tố trở nên xuyên suốt kéo dài đến hiện nay (Đài Loan , Tây Tạng).
3.1.1. Yếu tố Liên Xô
Đây là yếu tố luôn hiện hữu trong chính sách đối ngoại của hai nước từ khi quan hệ Mĩ – Xô, Xô
– Trung thiết lập và nó chấm dứt khi yếu tố này sụp đổ.
Mĩ – Xô là hai nhân vật chủ chốt của chiến tranh lạnh, chi phối quan hệ quốc tế gần nữa thế kỉ.
Dưới tác động của tình hình chính trị thế giới đến những năm 50 về cơ bản thế giới bị phân chia thành
3 nhóm, Mĩ dẫn đầu khối phương Tây bao gồm các nước có hệ thống chính trị “dân chủ”; Liên Xô
đứng đầu với các nước theo hệ thống chính trị cộng sản; nhóm thứ 3 là nhóm các nước không liên kết,
không muốn bị gàn buộc vào một trong hai cực Đông hoặc Tây. Dù vậy, thế giới về cơ bản vẫn bị chi
phối bởi hai cực. Việc phân chia thế giới một cách rõ ràng không đồng nghĩa trong mỗi nhóm sẽ thống
nhất nhiều vấn đề chỉ dựa trên hệ tư tưởng chung làm nền tảng mà nó có sự đấu tranh nội bộ vì lợi ích
quốc gia, chẳng hạn trong khối XHCN, từ những năm cuối thập niên 50 lợi ích quốc gia một số nước
đã trỗi dậy mạnh mẽ tạo nên những bất đồng giữa các nước, điển hình là sự chia rẽ Xô – Trung, khi
mâu thuẫn không thể đều hòa nó đã gây ra những xung đột gây ảnh hưởng đến các mối quan hệ quốc
tế.
Cấu trúc hệ thống quốc tế trong hai thập niên cuối chiến tranh lạnh có sự thay đổi so với trước
kia, nó được hình dung như một tam giác chiến lược gồm Mĩ – Liên Xô – Trung Quốc, mặc dù CHND
Trung Hoa từ khi ra đời nước này chỉ ảnh hưởng mang tính tầm khu vực nếu so sánh với hai thế lực
toàn cầu là Xô – Mĩ, nhưng nước này đã làm cho cục diện thế giới trong chiến tranh lạnh có nhiều biến
đổi. Trước hết, nó là nước duy nhất trên thế giới tự tin có khả năng tự bảo vệ chống lại hai siêu cường
từ liên minh với Liên Xô, sau đó hợp tác với Mĩ; kế đó sẵn sàng chống cả hai siêu cường này. Trung
Quốc được hưởng lợi ích do vị trí địa lí và tiềm lực chính trị, kinh tế của mình, điều quan trọng giới
lãnh đạo Bắc Kinh đã biết nắm bắt và phân tích tình hình quốc tế tận dụng nó vào chiến lược ngoại
giao có lợi ích cho dân tộc.
Về cơ bản trong giai đoạn 1972 – 1991 mối quan hệ Xô – Mĩ – Trung nằm trong tình trạng tam
cực phân quyền, giai đoạn này chia làm hai thời kì, từ 1972 – 1979 Mĩ tìm cách giảm căng thẳng với
Liên Xô, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, trong khi đó mâu thuẫn Xô – Trung trở nên căng
thẳng với các cuộc xung đột quân sự dọc biên giới. Từ năm 1980 – 1989 chính quyền mới của
Washington với “cuộc chiến tranh giữa các vì sao” đã đưa cuộc chạy đua vũ trang trở lại với Moscow
gây ra sự căng thẳng trong quan hệ hai nước, khi đó quan hệ Xô – Trung đang dần được cải thiện, sau
đó quan hệ 3 nước trở lại cân bằng, đánh dấu việc bình thường hóa quan hệ Xô – Trung, Xô – Mĩ.
Cuộc chiến tranh lạnh chấm dứt.
Có thể thấy, mối quan hệ Xô – Mĩ - Trung mang tính đa dạng, phức tạp. Có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến mối quan hệ tay ba này, điều quan trọng bản thân của mỗi nước trong mỗi giai đoạn tự trở
thành “con bài” chiến lược được các nước khác sử dụng để bảo đảm lợi ích an ninh quốc gia. Tuy
nhiên, quốc gia được coi là con bài ngoại giao không cho phép mình được sử dụng để mặc cả quan hệ,
điều này được thể hiện trong chính sách ngoại giao đa phương mà các nước áp dụng. Trong tiến trình
bình thường hóa quan hệ Washington – Bắc Kinh, Moscow đã trở thành một trong những yếu tố chính
để hai nước này từ đối đầu sang đối thoại đầu thập niên 70.
Bất đồng trong mối quan hệ Liên Xô – Trung Quốc
Đầu năm 1969, xung đột biên giới Xô – Trung xảy ra. Đây là hệ quả của những năm tháng nóng
lạnh trong quan hệ giữa hai nước phe XHCN, dù trước đó cả Xô – Trung đều tuyên bố tình đoàn kết
anh em đời đời không thể phá vỡ. Ngay trong tuyên bố thành lập nước CHNDTH, Mao Trạch Đông
cũng cho rằng cần thiết phải phát triển mối quan hệ đặt biệt với Moscow. Trong khoảng thời gian 1949
– 1950 một liên minh chiến lược với Liên Xô đã đạt được sau những nỗ lực của lãnh đạo Trung Quốc
đánh dấu bằng hiệp ước 14/2/1950. Nhưng sự biến chuyển của lịch sử không như hai nước dự kiến.
Khi cuộc chiến tranh lạnh đang phát triển, đối đầu Xô – Mĩ ngày gia tăng. Ngày 30/6/1949 Đảng
cộng sản Trung Quốc đại diện là Mao Trạch Đông tuyên bố chính sách “ngả hẳn một bên” (nhất biên
đảo – lean to one side) trong đường lối ngoại giao của nước này, theo đó sẽ trở thành đồng minh với
Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân, giai cấp vô sản nhằm hình thành một mặt trận quốc tế thống nhất
chống lại Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mĩ. Độc lập, an ninh quốc gia được xem là nhân tố hàng đầu
để Bắc Kinh đưa ra tuyên bố trên. Cuối những năm 40, giới lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã
nhận thấy trật tự thế giới sau thế chiến hai sẽ chia thành hai phe, một dưới sự lãnh đạo của Liên Xô,
phần còn lại do Mĩ và Trung Quốc đã xem cuộc cách mạng mà họ đang tiến hành theo hệ tư tưởng vô
sản là một phần không thể tách rời của phong trào cách mạng vô sản do Liên Xô đi đầu. Đây là một sự
lựa chọn bắt buộc, không thể tồn tại với thái độ trung lập trong bối cảnh đương thời, điều này cho thấy
“không thể do ý nguyện của bản thân Trung Quốc quyết định được, mà mấu chốt là thái độ của Mĩ và
Liên Xô” [26;151]. Với sự lựa chọn ngã hẳn về một bên vì an ninh quốc gia, trước mắt là sự đe dọa từ
Mĩ, trong cuộc nội chiến Đảng cộng sản Trung Quốc đã tỏ ra mong muốn Mĩ sẽ đóng vai trò là trung
gian hòa giải với Quốc dân Đảng nhằm chống lại cuộc nội chiến với nhân dân. Nhưng niềm tin đó đã
nhanh chóng bị tan vỡ vì sự can thiệp của Washington đã làm cho việc đi đến một nước Trung Quốc
trở nên khó khăn hơn, lâu dài hơn. Trong cuộc họp của bộ chính trị tháng 1/1949 với báo cáo “tình hiện
hiện nay và nhiệm vụ của Đảng năm 1949” việc Mĩ tham gia vào nội chiến đã trở thành chủ đề quan
tâm của hội nghị, Mao đã phát biểu “khi chúng ta lập kế hoạch chiến tranh, chúng ta luôn đưa ra dự
kiến Mĩ có thể gửi quân chiếm một số thành phố ven biển và đụng đầu trực tiếp với chúng ta. Chúng ta
nên chuẩn bị cho đều này từ ngay bây giờ nếu đều đó xảy ra” [97]. Và, Đảng cộng sản Trung Quốc có
niềm tin rằng: nếu cách mạng nước này thành công, các nước đế quốc sẽ can thiệp quân sự cũng giống
như những gì mà họ đã làm đối với cách mạng Bonsevich Nga 1917. Do vậy, bằng cách liên minh với
Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Mao và Đảng cộng sản Trung Quốc hy vọng nước này sẽ có một vị trí
tương xứng đủ thế và lực để đối phó với một nước Mĩ thù địch.
Và khi cách mạng Trung Quốc thành công, những phản ứng của chính quyền Washington như
cấm vận kinh tế, ban bố quyết định bảo vệ Đài Loan, sau đó là cuộc chiến tranh Triều Tiên diễn ra, Bắc
Kinh ngày càng tin Mĩ đã đặt họ vào vị trí tiền tiêu trong cuộc chiến tranh lạnh ở Châu Á, là mục tiêu
chính trong chiến lược ngăn chặn và cô lập của Washington. Vì vậy, chính sách nhất biên đảo ngày
càng được củng cố thêm niềm tin cho Đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc “trên trường quốc tế,
chúng ta (Trung Quốc) thuộc trận tuyến chống đế quốc do Liên Xô đứng đầu, sự viện trợ hữu nghị
chân chính có thể tìm thấy ở đây, không thể tồn tại được ở trận tuyến chống đế quốc” [26;157]. Sau khi
thiết lập ngoại giao chính thức, để tăng thêm tinh thần đoàn kết XHCN trãi qua các cuộc đàm phán đến
ngày 14/2/1950 “Hiệp ước hữu nghị, liên minh và tương trợ lẫn nhau Trung –Xô” đã được kí kết giữa
hai nước, theo đó những hiệp ước kí kết giữa Liên Xô và chính phủ Quốc Dân Đảng trước đó bị hủy
bỏ. Nội dung của hiệp ước được quy định rõ ràng, hai bên cam kết thực hiện tất cả các biện pháp cần
thiết trong khả năng của mình để ngăn chặn một cuộc chiến tranh xâm lược có thể tái diễn ra trực tiếp
hay gián tiếp; nếu có chiến sự xảy ra thì bên kia sẽ lập tự viện trợ quân sự và các phương tiện hỗ trợ có
thể; không bên nào tham gia bất kì liên minh nào để chống lại bên kia. Điều quan trọng Trung – Xô sẽ
hợp tác trên một tinh thần hữu nghị, phù hợp với các nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng lẫn
nhau về chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không được phép can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; hợp
tác không chỉ về mặt chính trị mà còn thúc đẩy sự giao lưu văn hóa, phát triển kinh tế. Hiệp ước có ý
nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn an ninh của cả hai bên, duy trì hòa bình khu vực Viễn Đông như
một phần của thế giới, tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước và thúc đẩy sự nghiệp xây
dựng CNXH. Trên tinh thần chung quan hệ Trung – Xô những năm 50 đã phát huy cao độ tinh thần
hiệp ước, khi Mao chỉ ra rằng “muốn cách mạng thì phải có Đảng cách mạng…..Đảng cộng sản Trung
Quốc là đảng được xây dựng và phát triển dựa theo khuôn mẫu của Đảng cộng sản Liên Xô” [26; 150]
và “đối với sự phát triển của CNXH ở Trung Quốc, khi bắt đầu xây dựng một nhà nước mới, chúng ta
cần sao chép Liên Xô như một con đường duy nhất” và “trong khoảng thời gian 3 năm đầu tiên khôi
phục đất nước sau giải phóng chúng ta khá bối rối về sự phát triển, tuy kế hoạch 5 năm lần 1 chúng ta
cũng chưa rõ ràng về nó. Vì vậy về cơ bản chúng ta cần phải làm theo nhũng gì Liên Xô đã làm” [80].
Tuy nhiên, “việc liên minh đã ràng buộc nước CHND Trung Hoa vào sự lệ thuộc Liên Xô không dễ
dàng chút nào” vì “xuất phát từ nhu cầu cấp thiết và trong điều kiện thiếu tin tưỏng lẫn, liên minh này
tuy đưa đến cho Mao một hiệp ước an ninh chống lại sự tiến công của Mĩ, nhưng bù lại ông ta (Mao)
phải công nhận nền độc lập của Mông Cổ và phải nhượng bộ một loạt các đặc quyền cho Liên Xô ở
Mãn Châu và Tân Cương hơn cả thời kì Sa Hoàng” [57; 205]. Theo nhận xét này, để có hiệp ước bảo
trợ về an ninh, viện trợ phát triển đất nước từ Liên Xô thì chính quyền Bắc Kinh phải đổi lấy bởi một
phần quyền lợi quốc gia và khi chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy, đã trở thành nguyên nhân chính dẫn đến
quan hệ Xô –Trung bước vào thời kì 20 năm đầy sóng gió (1959 – 1979), nó trở thành cơ hội cho chiến
lược ngoại giao toàn cầu của một số nước – điển hình là Mĩ.
Mâu thuẫn giữa hai nước lớn nhất trong khối XHCN bắt đầu từ sự bất đồng giữa hai Đảng thể
hiện ngay trong Đại hội Đảng lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô (1956). Đại hội được triệu tập từ sau
cái chết của Stalin (1953), với báo cáo gửi đến Bộ chính trị của Khrushev đã dấy lên các cuộc tranh
luận không chỉ trong nội bộ Đảng Liên Xô mà còn trong khối XHCN. Đánh giá lại vai trò quyền lực
của nhà nước Liên bang cùng một số vấn đề liên quan, trong nội dung quan trọng là đánh giá lại vai trò
của Stalin “làm thế nào Stalin đã tàn phá nền dân chủ XHCN và đứng trên hệ thống XHCN”. Điều này
phá vỡ hình ảnh của Stalin trong mắt của những người, tổ chức, những nước theo mô hình XHCN sùng
bái ông, mở ra phong trào “chống sùng bái cá nhân” trong tổ chức Đảng và “chủ nghĩa xét lại”. Trong
Đại hội, Liên Xô còn nêu rõ đường lối đối ngoại là chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ xã
hội khác nhau. Phía Trung Quốc đã có những phản ứng mang tính nhận thức đối với Đại hội 20 của
Đảng cộng sản Liên Xô, trong việc tán thành tệ sùng bái cá nhân “Việc Đảng cộng sản Liên Xô dũng
cảm phê bình những khuyết điểm của mình chứng minh tính tự nguyên tắc cao của Đảng và sức sống vĩ
đại của chủ nghĩa Mác – Lênin…..cuộc đấu tranh chống sùng bái cá nhân tại đại hội….là một cuộc
đấu tranh vĩ đại, anh dũng…đã quét sạch những chướng ngại về tư tưởng trên con đường đi lên tiến
bộ. Đảng cộng sản Trung Quốc chào mừng những thắng lợi to lớn đã giành được trong cuộc đấu tranh
có ý nghĩa lịch sử mà Đảng cộng sản Liên Xô tiến hành chống tệ sùng bái cá nhân” [51;41]. Đảng
cộng sản Trung Quốc tán thành một số khía cạnh trong bài phát biểu của Khrushev nhưng trong tư
tưởng ngoại giao chung sống hòa bình trước hết với Mĩ, Bắc Kinh không đồng nhất với quan điểm này
khi cho rằng “đế quốc Mĩ là nguồn gốc của chiến tranh và là kẻ thù tàn ác nhất của nhân dân thế giới”
[48;33,34], sự thỏa hiệp Xô – Mĩ sẽ đi ngược lại với tư tưởng XHCN “Liên Xô chỉ đơn phương đưa ra
quan điểm và áp đặt các nước cùng tư tưởng theo hướng chủ ý của mình”, việc tham khảo ý kiến của
nhau phải là thật chứ không mang tính hình thức, rằng sự đoàn kết giữa các Đảng cộng sản sẽ bị tổn hại
nếu “Đảng này áp đặt quan điểm của mình lên Đảng khác” [17;184]. Việc Khrushev đưa ra kế hoạch
xây dựng kinh tế để vượt Mĩ trong khoảng 15 năm và nếu muốn thành công thì cần điều kiện hòa bình
vững chắc, trước hết giảm nhiệt chiến tranh lạnh với Mĩ. Đây là căn cứ để Trung Quốc lên tiếng cho
rằng Liên Xô chỉ nghĩ đến lợi ích quốc gia. Thực tế trong giai đoạn này quan hệ Mĩ – Trung đang căng
thẳng về vấn đề Đài Loan, nó liên quan đến độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia này.
Các cuộc đàm phán về cắt giảm vũ khí chiến lược giữa hai cực Xô – Mĩ cũng gây ra sự phản ứng từ
Bắc Kinh, đặc biệt việc phát triển vũ khí hạt nhân mà trước đó Liên Xô đồng ý hỗ trợ công nghệ phát
triển hạt nhân cho nước này. Tại hội nghị các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế diễn ra ở Moscow
tháng 1/1957 Mao Trạch Đông đã tuyên bố “trong cuộc chiến tranh hạt nhân thế giới nếu như một nữa
loài người bị tiêu diệt, vẫn còn lại một nữa thế nhưng chủ nghĩa đế quốc sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt và
trên thế giới chỉ còn CNXH, và sau nữa thế kỉ hoặc một thế kỉ dân số sẽ phát triển thậm chí còn lớn
hơn một nữa” [51;51]. Đây là luận điểm “gió Đông thổi bạt gió Tây” mà Mao sử dụng để thay thế cho
khẩu hiệu có tính giai cấp đấu tranh giữa CNXH và chủ nghĩa đế quốc, qua đó thể hiện quan điểm của
quốc gia này trên diễn đàn các nước XHCN. Theo đó, tư tưởng xây dựng XHCN theo cách riêng của
Trung Quốc hình thành, ngay từ giữa những năm 50 Trung Quốc đã bắt tay tìm kiếm đường lối xây
dựng CNXH mang tính linh hoạt trong đường lối đối nội, đối ngoại, giảm bớt sự “chỉ đạo” từ Liên Xô.
Năm 5 nguyên tắc chung sống hòa bình mà Bắc Kinh đề xuất đã thể hiện rõ quan điểm này, trên cở sở
đó Bắc Kinh đã vận dụng tư tưởng “gậy ông đập lưng ông” đối với Moscow trong vấn đề đối ngoại.
Liên Xô thực hiện chính sách hòa hoãn với phương Tây, chung sống hòa bình thì không có lí do gì giữa
các nước XHCN không chung sống hòa bình trên cở sở những nguyên tắc đó vì các nước XHCN đều là
những quốc gia có chủ quyền, độc lập đồng thời lại đoàn kết với nhau trong tinh thần quốc tế vô sản và
lý tưởng XHCN [26;336]. Trong thời gian tiến hành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, bên cạnh những kết
quả đạt được, Trung Quốc cũng gặp nhiều sai lầm trong phong trào “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua
tiếng” và “Đường lối ba ngọn cờ hồng” (1958) trong kế hoạch 5 năm lần thứ 2. Những diễn biến tại
Bắc Kinh đã được báo cáo về Moscow trên cơ sở đó “Khrushev và một số nhà lãnh đạo Xô Viết đã kín
đáo phê phán công xã nhân dân và Đại nhảy vọt” [15;120]. Đây chẳng khác nào sự vi phạm vào một
trong 5 nguyên tắc hòa bình mà Trung Quốc đề xuất với khối XHCN.
Như vậy, mối quan hệ nồng ấm Xô – Trung chỉ khoảng 3 năm đầu khi hiệp ước hữu nghị được
kí kết, từ sau cái chết của Stalin xuất phát từ chiến lược ngoại giao nước lớn nên tình hữu nghị, hợp tác
giữa hai nước XHCN này bắt đầu có sự chia rẽ ngầm trong Đảng. Khi nhận định rằng lí do quan trọng
nhất là các nhà lãnh đạo Liên Xô muốn sử dụng Trung Quốc để duy trì vị trí dẫn đầu trong hệ thống
các nước XHCN; phong trào cộng sản quốc tế và khi địa vị chính trị vững vàng nước này sẽ “cọ xát”
mạnh với tư cách là nước lớn, nếu một quốc gia XHCN nào đó “chệch hướng” theo “chỉ đạo” của
Moscow. Phía Bắc Kinh muốn có được viện trợ nhiều nhất từ Liên Xô trong quá trình triển khai các kế
hoạch năm năm, do vậy hợp tác với Liên Xô lí do chính là kinh tế chứ không phải là chính trị chủ đạo.
Điều này đã được minh chứng bằng một loạt các viện trợ từ Liên Xô sang Trung Quốc, tính đến năm
1959 dựa trên kết quả hợp tác hai nước, một nhà nghiên cứu đánh giá “đây là sự chuyển nhượng kĩ
thuật toàn diện nhất trong lịch sử công nghiệp hiện đại” [14;183]. Vào khoảng thời gian 1958 căng
thẳng trong quan hệ Xô – Trung trở nên rõ ràng trong những quan điểm khác nhau về một số vấn đề
liên quan đến chính sách đối ngoại của các bên. Đầu tiên là việc Trung Quốc khởi động cuộc khủng
hoảng eo biển Đài Loan lần thứ 2 từ ngày 23/8/1958 bằng các đợt pháo kích vào đảo Kim Môn, Mã Tổ
với tuyên bố, đối với nhân dân Trung Quốc bất cứ hiệp định nào kí kết giữa Mĩ và chính quyền Tưởng
đều không có cơ sở pháp lí, lên án Washington là kẻ xâm lược nhưng điều quan trọng Bắc Kinh muốn
Moscow nhận thức lại quan điểm của nước này và chính sách chung sống hòa bình của Liên Xô với
phương Tây. Vì cuộc pháo kích này ý đồ “buộc đội quân phòng vệ của Đài Loan phải đầu hàng mà
không có sự phản ứng từ Mĩ, để chứng tỏ cho Khrushchev thấy quan tâm của Bắc Kinh, sự bất lực của
Washington và thái độ không thích đáng của Matxcova” [57;212]. Ngày 7/9/1958 đại Moscow gửi đến
tổng thống Aixenhao lời cảnh báo để thực hiện đúng cam kết như trong hiệp ước 14/2/1950 với Bắc
Kinh rằng nếu Mĩ thực hiện một cuộc tấn công chống lại Trung Quốc đó sẽ là cuộc tấn công chống lại
Liên Xô, và sẽ nhắc nhở nếu sử dụng bom hạt nhân vào Trung Quốc, Liên Xô sẽ đáp trả để bào vệ
đồng minh. Không có cuộc đối đầu quân sự trực tiếp xảy ra, do vậy tuyên bố bảo vệ Trung Quốc của
Liên Xô trước đế quốc Mĩ đã bị các nhà lãnh đạo lên án đó chỉ là những thủ đoạn tuyên truyền. Đường
lối ngoại giao nhất biên đảo của Bắc Kinh khoảng thập niên 60 đang chuyển dần sang “lưỡng biên
phản” vì cho rằng Xô, Mĩ đang liên kết với nhau để chống lại mình, mặc dù quyền lợi của hai nước cơ
bản đối nghịch nhau.
Trong đại hội XXI các Đảng cộng sản đầu năm 1959, Khrushchev đề nghị thành lập một vùng
phi hạt nhân ở Viễn Đông – Thái Bình Dương nhưng đã bị Trung Quốc bác bỏ. Ngày 20/6 Liên Xô
thông báo với Trung Quốc do sự thỏa thuận giữa nước này với Mĩ về việc hạn chế cấm thử nghiệm vũ
khí hạt nhân, nên Moscow sẽ không cung cấp thêm cho Bắc Kinh bất kì sự hỗ trợ nào về công nghệ hạt
nhân, do đó thỏa thuận kí kết năm 1957 sẽ không còn hiệu lực. Với việc chính sách hỗ trợ hạt nhân bị
đảo ngược đã góp phần gia tăng thêm căng thẳng trong quan hệ hai nước, mãi sau này trong báo cáo
tháng 8/1963 Trung Quốc đã chỉ trích “đấy là quà tặng mà các nhà lãnh đạo Liên Xô dành cho
Eisenhower trong chiến thăm đến Hoa Kì tháng 9/1959” [62], vì chuyến thăm Mĩ, cả hai nước đã có
những thỏa thuận quan trong về một số vấn đề vốn trước đây khác nhau về quan điểm. Quan hệ Xô –
Trung tiếp tục căng thẳng khi một quyết định được cho là đơn phương gây ra cú sốc cho nền kinh tế
Trung Quốc khi nước này đang ra sức khắc phục khó khăn từ phong trào Đại nhảy vọt, tháng 7/1960
Liên Xô quyết định thu hồi tất các hỗ trợ về kinh tế, chuyên gia kĩ thuật đang làm việc tại Trung Quốc:
khoảng 1390 chuyên gia, 343 hợp đồng liên quan đến hỗ trợ kĩ thuật, 275 dự án hợp tác khoa học kĩ
thuật không được hoàn thành sau đại hội III Đảng cộng sản Rumani tháng 6/1960. Như vậy sự bất đồng
về hình thái ý thức giữa hai Đảng đã mở rộng sang quan hệ cấp nhà nước.
Vào tháng 8/1962 cuộc xung đột biên giới Trung - Ấn diễn ra sau một thời gian đàm phán
không mang lại kết quả bởi hai bên. Thông tấn xã Liên Xô tuyên bố bày tỏ hối tiếc cuộc xung đột giữa
hai nước, trước đó trong công bố 10/9/1959 đã đề cập “trong giới lãnh đạo Liên Xô biểu lộ sự tin tưởng
rằng chính phủ CHND Trung Hoa và chính phủ Cộng hòa Ấn Độ sẽ không để cho sự kiện này làm lợi
cho lực lượng không muốn làm dịu tình hình quốc tế mà muốn làm cho tình hình đó căng thẳng thêm,
không muốn có sự giảm bớt căng thẳng đang được nhận thấy trong quan hệ giữa các nhà nước”
[51;64]. Tuyên bố 1959, 1962 đối với Trung Quốc thì Liên Xô đã hầu như thông qua một chính sách
ủng hộ Ấn Độ “về vấn đề xung đột biên giới Trung - Ấn phía Liên Xô đã bên vực Ấn Độ, chỉ trích
Trung Quốc thi hành phương châm chiến lược địa lí ở châu Á” [26;446]. Đầu những năm 60, sự chia rẽ
trở nên rõ ràng và thực tế, trong hệ thống lưỡng cực dấu hiệu rạn nứt đã xuất hiện khi Trung Quốc đang
khẳng định với Liên Xô về vai trò lãnh đạo thế giới cộng sản. Khoảng thời gian 1963 – 1964, hai bên
đã công kích kịch liệt lẫn nhau, trong đó nỗi bật là những lá thư tuyên bố giữa hai Đảng [48;34], quan
hệ giữa hai nước bị cắt đứt vào năm 1966 khi cuộc Cách mạng văn hóa diễn ra mạnh mẽ ở Trung Quốc,
xem xét lại mối quan hệ với Liên Xô. Cuộc chiến tranh Việt Nam là nhân tố để hai nước còn qua lại
bởi các viện trợ cho nhân dân Việt Nam chống Mĩ. Một năm sau Cách mạng văn hóa diễn ra cao độ,
không kiểm soát chính quyền Bắc Kinh tuyên bố sử dụng quân đội để lập lại trật tự, phía Liên Xô đã
công khai lên án cuộc cách mạng này là một thảm kịch lớn đối với nhân dân Trung Quốc, kèm theo các
ngôn từ chỉ trích lẫn nhau là sự gia tăng quân đội dọc biên giới hai nước. Chiều hướng quan hệ ngày
càng xuống thấp, đầu năm 1969 từ sự tranh chấp ý thức hệ đã dẫn đến đối đầu quân sự trực tiếp, Liên
Xô loan tin sẽ dùng vũ khí hạt nhân để tấn công, Trung Quốc ra sức phát động chiến dịch toàn quốc
nhằm chống lại cuộc xâm lược từ điện Kremlin. Biên giới quốc gia được xem là bất khả xâm phạm, tôn
trọng toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia là điều kiện cho sự tồn tại hòa bình trước hết đối với hai
nước. Chiều dài biên giới Xô –Trung trên 7000km, việc tranh chấp là vấn đề thuộc về lịch sử. Khi quan
hệ hai nước còn nồng ấm thỏa thuận có thể làm dịu đi tranh chấp, khi bất đồng nó là một trong những
nhân tố soi xét lại mối quan hệ. Trung Quốc cho rằng nước này đã mất nhiều đất dưới thời Sa Hoàng
do ở vào địa vị nước yếu, sau năm 1949 yêu cầu phía Liên Xô giải quyết nhưng không đạt được kết quả
như mong muốn.
Như vậy mốc năm 1969 đánh dấu sự thay đổi hoàn toàn quan hệ Xô – Trung, từ đồng minh
chiến lược sang đối đầu bằng các cuộc xung đột vũ trang. Cuộc chiến tranh lạnh vẫn hiện hữu với hai
cực và trong mỗi cực lại có chia rẽ, điều này sẽ là cơ hội cho cực còn lại lợi dụng những bất đồng trong
cuộc chiến lãnh đạo thế giới, khẳng định tính ưu trội của hệ tư tưởng mà nước đó đang đi theo.
Moscow chính thức trở thành một trong những yếu tố đưa Mĩ – Trung xích lại gần nhau, điều này trước
hết giúp thúc đẩy một sự cân bằng quyền lực có lợi cho Mĩ ỡ Đông Á.
Mĩ với ý đồ lợi dụng mâu thuẫn giữa Liên Xô – Trung Quốc
Từ khi Liên Xô xuất hiện, nó được xem như một quyền lực toàn cầu thực sự, sự gia tăng ảnh
hưởng và vị thế nước này trên trường quốc tế đã làm cho Mĩ lo ngại và bày tỏ quan điểm rằng vấn đề
của thời đại chúng ta là làm thế nào quản lí sự xuất hiện của Liên Xô là một siêu cường. Trong cuộc
cạnh tranh quyền lực cả Mĩ và Liên Xô đều cố gắng thu hút lực lượng về mình để tạo nên đồng minh
vững chắc. Khu vực Châu Á đã có sự phân tuyến giữa hai hệ tư tưởng, Mĩ tồn tại với các liên minh
Nhật, Hàn Quốc, khối SEATO…..Liên Xô trong mối quan hệ với Việt Nam, Bắc Hàn, quan trọng là
CHND Trung Hoa. Thập niên 60 sự đối đầu của hai nước lớn trong khối XHCN là thời điểm “mong
chờ” của Mĩ, là cơ hội để cho Mĩ kéo về phía nước này, tăng thêm đồng minh và sức mạnh để chống
Liên Xô [48;37] và thực tế cho thấy “những chia rẽ Xô – Trung chuẩn bị cho quá trình hòa giải Trung
– Mĩ bắt đầu vào những năm 70” [87]. Đỉnh cao xung đột Xô – Trung là thời điểm Mĩ đang diễn ra
cuộc bầu cử tổng thống, kết quả Richard Nixon đắc cử. Những tin tức được báo cáo về Washington
trong thời gian này chưa tạo nên nhiều sự chú ý đậm nét về cuộc xung đột giữa hai nước lớn nhất trong
khối XHCN, khoảng một thời gian ngắn sau đó Nhà Trắng đã nhận ra lợi ích của vấn đề nếu biết tận
dụng nó một cách hợp lí, đúng thời điểm. Trong một báo cáo của tình báo Nhà Trắng về các vấn đề
nóng bỏng của tình hình thế giới đã kết luận “dựa vào thực tế mà Liên Xô và Trung Quốc hiện nay,
dường như nhìn về nhau với sự thù địch hơn là đối với Mĩ và sử dụng các mối quan hệ của mình với Mĩ
như một cách thức đánh bại chính sách của kẻ thù” [50;100]. Rõ ràng Mĩ đang đánh giá cao vị trí và
tầm quan trọng của họ theo tư tưởng “kẻ thù của kẻ thù là bạn” vì thực tế cả Trung Quốc và Liên Xô
đang có những động thái thân thiện với Washington như một cách gia tăng đồng minh trong cuộc xung
đột.
Trong khoảng hai thập kỉ (1949 – 1972) quan hệ Mĩ – Trung không tồn tại chính thức, dù vậy kể
từ năm 1960 cả hai nước dần nhận ra rằng việc hợp tác với nhau sẽ có lợi cho cả hai. Quá trình này
cũng phải mất nhiều năm để hiểu nhau.
Khi Nixon vào Nhà Trắng phải đối mặt với một loạt “các hỗn độn xuất hiện để đe dọa đến hình
ảnh nước Mĩ”, một mặt sự gia tăng chỉ trích trong nước về cuộc chiến tranh mà nước này đang tiến
hành tại Việt Nam, và cuộc chiến này cũng kéo hình ảnh đối ngoại của Mĩ theo hướng giảm dần, tức
sức mạnh và vai trò trung tâm trong các vấn đề thế giới đang bị thách thức. Nhận thức được tình hình
khó khăn, chính quyền Nixon bắt đầu đánh giá lại chiến lược ngoại giao khi thế giới những năm 60
đang chuyển dần từ 2 cực sang đa phận cực. Học thuyết Guam mà Nixon công bố tháng 7/1969 như là
một giải pháp lấy lại hình ảnh nước Mĩ, trước hết thông qua một loạt các cam kết giảm căng thẳng tại
Châu Á, trong đó Mĩ đang tiến hành làm dịu quan hệ với Trung Quốc, điều này được các nhà bình luận
khẳng định “không nghi ngờ gì, Washington đã quyết định lợi dụng cuộc xung đột Xô – Trung với thái
độ kiên quyết hơn” [50;116]. Đây là sự chuyển biến ngoại giao của Mĩ sau các thỏa thuận với Moscow
không thành công trong một số vấn đề quốc tế như thuyết phục Liên Xô xem xét lại sự hỗ trợ cho Bắc
Việt Nam, kiềm chế Trung Quốc khi nước này đạt sự tiến bộ bất ngờ về cộng nghệ hạt nhân và tên lửa
những năm 60 đưa Trung Quốc chính thức gia nhập “câu lạc bộ hạt nhân” trở thành cường quốc quân
sự có thể cạnh tranh trực tiếp với Mĩ và Liên Xô. Trong giai đoạn chống cả hai siêu cường (1959 –
1969) Bắc Kinh đã từng tuyên bố sử dụng vũ khí hạt nhân nhằm ngăn chặn các cuộc tấn công từ Mĩ
hoặc Liên Xô. Phải thừa nhận Trung Quốc tại thời điểm đó dân số và địa lí rộng lớn nhưng về mặt kinh
tế, quân sự chỉ trung bình nhưng sự tích lũy hạt nhân của nước này đang gia tăng tại Châu Á thậm chí
có thể thực thi quyền lực lớn hơn trong cộng đồng quốc tế - theo nhận định của Washington. Mĩ cho
rằng họ đang đối đầu với hai đối thủ lớn tại Châu Á, Liên Xô cũng nhận thức được sự tiến bộ hạt nhân
của Trung Quốc nên trong cuộc xung đột biên giới nước này đã từng triển khai hệ thống phòng thủ tên
lửa đạn đạo (ABM) dọc biên giới với nước láng giềng vốn trước đây chỉ nhằm vào Mĩ. Cho thấy cả Xô,
Mĩ đều quan tâm đến Trung Quốc, dù vậy theo nhận định của Mĩ dường như Moscow “đang độc lập
hành động mà chẳng cần quan tâm tới sự tham gia hay đồng ý của Washington” [50;117], quan ngại
nếu Liên Xô thành công trong việc lật đổ Mao chắc chắn quyền lực của điện Kremlin sẽ gia tăng tại
khu vực Châu Á, chính quyền Nixon cũng tính tới trường hợp liệu Liên Xô có tấn công Trung Quốc
bằng vũ khí hạt nhân không, điều này được thể hiện qua các cuộc tiếp xúc với Moscow, Washington
luôn cố gắng xác nhận thông tin này. Rõ ràng Mĩ đang lo ngại quyền lợi toàn cầu của họ sẽ bị ảnh
hưởng hơn là sự an ninh của Trung Quốc cộng sản khi nước này bị tấn công.
Thực tế lãnh đạo Liên Xô đã bàn tính nhiều đến khả năng tấn công Trung Quốc bằng vũ khí hạt
nhân “nếu muốn trừng trị họ (Trung Quốc) mà lại tránh cho chúng ta phải tổn thất quá nặng nề thì hãy
nên để cho bom nguyên tử của chúng ta tỏ rõ uy lực, muốn loại trừ tận gốc mối đe dọa từ phía Trung
Quốc thì phải sự dụng vũ khí hạt nhân giáng một đoàn tiêu diệt vào các cơ sở hạt nhân của Trung
Quốc, chỉ có dùng “phẫu thuật ngoại khoa”như vậy mới có thể loại bỏ được cái u ác tính của Châu Á”
[26;578]. Chính quyền Bắc Kinh cũng nhận thấy lực lượng quân đội đang gia tăng dọc biên giới, một
cuộc chiến tranh đang đến gần, nhưng họ cũng có cơ sở để giảm bớt mối quan ngại đó, dự trên quan
điểm mặc dù Xô – Mĩ có những thỏa thuận chung sống hòa bình, nhưng Mĩ vẫn luôn xem Liên Xô là
đối thủ chủ yếu và Trung Quốc cũng chung quan điểm này, do vậy Liên Xô sẽ không dám gây ra một
cuộc chiến tranh chống cả hai mặt trận, vì nước ở thế “tọa sơn quan hổ đấu” sẽ hượng được lợi. Trung
Quốc đã nắm được cốt lõi của vấn đề trong giải quyết mâu thuẫn với Liên Xô trên cơ sở không nhượng
bộ “những kẻ xét lại, Liên Xô có xâm chiếm Trung Quốc hay không còn phụ thuộc rất lớn vào thái độ
của Mĩ. Cho tới nay, Mĩ vẫn không cho phép Liên Xô cảm thấy thoải mái và trên thực tế là mối quan
ngại lớn nhất đối với Liên Xô” “và chủ nghĩa đến quốc Mĩ hoàn toàn không muốn nhìn thấy Liên Xô
giành thắng lợi trên bất cứ cuộc xung đột Xô – Trung nào và do đó thành lập một siêu nhà nước có
ngồn tài nguyên và sức mạnh con người vượt Mĩ” [50;131]. Những quan điểm này được thể hiện trong
báo cáo phân tích mối quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô, Mĩ, bản báo cáo cũng chỉ ra rằng lợi ích
chiến lược của Trung Quốc muốn đạt được trong giai đoạn này cần thiết phải lợi dụng sự căng thẳng
giữa Liên Xô và Mĩ để tăng vị thế theo hướng có lợi nhất. Đây là một trong những nguyên nhân Bắc
Kinh đồng ý nối lại đàm phán tại Warsaw với Washington tháng 9/1969. Điều này cùng cho thấy Bắc
Kinh đang chủ động sử dụng Mĩ như con bài trong cuộc đối đầu với Liên Xô.
Nhận định xung đột Xô – Trung đóng vai trò quan trọng trong định hình quan hệ Trung – Mĩ
cuối thập niên 60 đầu thập niên 70 là hoàn toàn có cơ sở. Marshall Green – đại sứ Mĩ tại Indonesia năm
1967 trong cuộc tiếp xúc với Nixon từng phát biểu “nếu Mĩ muốn chống lại sức mạnh của Liên Xô cần
thiết phải sử dụng Trung Quốc” “con đường tới Matxcova nằm xuyên qua Bắc Kinh” [50;101]. Đến
đầu năm 1969, Kissinger đã viết về khả năng rạn nứt Xô – Trung khi cho rằng “không thể bỏ qua” nếu
nó xảy ra Mĩ nên tận dụng lợi thế của nó. Washington đã chuyển hướng từ việc chỉ chú tâm trong cuộc
chiến tại Đông Dương sang Trung Quốc vì trong nhận thức điều “tồi tệ” nhất sẽ xảy ra với Mĩ nếu Liên
Xô “chiếm” được Trung Quốc. Washington dựa trên nhận định các nhà lãnh đạo Liên Xô muốn tìm
cách để kiềm chế Trung Quốc trực tiếp, bên cạnh đó còn tìm kiếm quan hệ quan hệ gần gũi với các
nước trong khu vực nhằm ngăn cản nước này có cơ hội “tiếp xúc” với đối thủ của Kremlin. Chính sự
nghi ngờ này là cơ hội cho Nhà Trắng thông qua chiến lược ngoại giao tam giác, như việc tìm cách tiếp
cận Trung Quốc, Mĩ sẽ buộc Liên Xô nhìn nhận lại cuộc chiến đang diễn ra với tư cách là đồng minh
viện trợ chính.
Trở lại tư tưởng chung sống hòa bình của Khrushchev với tất cả các nước tư bản từ thập niên 50
đã làm Bắc Kinh hụt hẫng và nghi ngờ, khi trong gian đoạn này Trung Quốc vẫn xem Mĩ là kẻ thù, vì
thế nếu muốn sử dụng Trung Quốc cho chiến lược ngoại giao thì điều đầu tiên Mĩ phải xóa bỏ đi quan
điểm Xô – Mĩ đang cấu kết chống lại Trung Quốc “chúng ta (Mĩ) cần phải làm rõ để người Trung
Quốc thấy chúng ta không thông đồng với Liên Xô” [62]. Những động thái ngoại giao thời Nixon cho
thấy Mĩ sẵn sàng tìm bất kì cách nào, bất kì cơ hội nào có thể bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc. Trung Quốc ý thức được là nước yếu kém trong các cuộc xung đột với Liên Xô, khoảng thời
gian 1966 – 1967 nước này bắt đầu thay đổi chiến lược ngoại giao linh hoạt hơn, đàm phán với Mĩ là
biện pháp để gây ra sự mất cân bằng cho Liên Xô bằng cách khuyến khích sự căng thẳng Xô – Mĩ. Từ
quan điểm này Washington kết luận mối đe dọa bởi Liên Xô sẽ nhắc nhở Trung Quốc cần dành vị trí
ưu tiên trong chính sách đối ngoại với Mĩ. Tóm lại nếu Washington có thể khôi phục lại quan hệ và liên
kết với Bắc Kinh thì Mĩ có thể sử dụng Trung Quốc là nhân tố trong chính sách ngoại giao nhằm tạo ra
sự đối trọng để kiềm chế tham vọng của Moscow, đẩy Liên Xô đi đến giảm căng thẳng và chấp nhận
các điều kiện theo hướng có lợi cho Nhà Trắng.
Giảm căng thẳng với Trung Quốc có thể ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô tại Châu Á có thể
tác động gây ra sự chú ý từ đồng minh Châu Âu và bắt tay với Trung Quốc sẽ cho phép nước này duy
trì sự cân bằng toàn cầu hình thành một cơ cấu mới trong bang giao quốc tế. Vấn đề rò rỉ thông tin Liên
Xô sử dụng vũ khí hạt nhận để tấn công Trung Quốc, Mĩ đã sử dụng tin tức thu thập này cung cấp cho
Bắc Kinh như một yếu tố tạo nên lòng tin. Trong cuộc họp nội các chính phủ, Nixon đã chỉ đạo “nên
tìm cách thông báo nhanh chóng cho Trung Quốc biết ý đồ của Liên Xô để họ chuẩn bị biện pháp đối
phó cần thiết” [26;579]. Ngày 28/8 Mĩ đã tìm cách đưa thông tin mật này lên báo tạo nên một phản
ứng mạnh mẽ từ Moscow và sự quan tâm của thế giới về một cuộc chiến tranh hạt nhân sẽ xảy ra, đến
này 15/10 Kissinger đại diện Nhà Trắng đưa ra cảnh báo nếu Mĩ sẽ không giữ thái độ trung lập trong
trường hợp Liên Xô tấn công Trung Quốc và nước này sẽ tấn công 130 thành phố của Liên Xô để trả
đũa, hàm ý đã được đưa ra “lợi ích của Trung Quốc liên quan mật thiết đến lợi ích của Hoa Kì. Hoa Kì
không thể thờ ơ ngồi nhìn hành động của Liên Xô, một khi cuộc chiến tranh bùng nổ Hoa kì có thể cho
rằng cuộc chiến tranh thế giới thứ ba sẽ bắt đầu và Hoa Kì sẽ áp dụng hành động như vậy đối với Liên
Xô. Đoàn hạt nhân Liên Xô đối với Trung Quốc tất cả sẽ dẫn đến hành động trả đũa từ phía Trung
Quốc, sự ô nhiễm do chiến tranh hạt nhân gây ra trực tiếp sẽ đe dọa tới an nguy của hành chục vạn
quân nhân Mĩ đóng ỏ Châu Á và sẽ làm cho sự cân bằng sinh thái trên toàn cầu bị phá hoại, đó là điều
Hoa Kì không thể tha thứ” [26;580]. Thông điệp này được nhằm vào Bắc Kinh, dựa trên thông điệp
này nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Mĩ đã giúp Trung Quốc thoát khỏi cuộc tấn công hạt nhân từ phía
Liên Xô vì 5 ngày sau đó Moscow đã hủy bỏ kế hoạch tấn công Trung Quốc, trở lại đàm phán với nước
này. Nhưng Trung Quốc vẫn thận trọng “lòng tốt” từ Mĩ vì hiểu Washington có thái độ cứng rắn với
Moscow vì đang muốn trả đũa việc điện Kremlin đã từ chối hợp tác với nước này trong việc ngăn chặn
Trung Quốc phát triển vũ khí hạt nhân từ năm 1964. Vì vậy, Trung Quốc vừa có bước chuẩn bị đối phó
Liên Xô vừa kiểm tra độ chính xác thông tin.
Có 3 sự lựa chọn để Trung Quốc thoát khỏi mối đe dọa từ Liên Xô; thứ nhất nước này sẽ chấp
nhận những quan điểm, tư tưởng mà Moscow đưa ra; thứ hai xây dựng một nước Trung Quốc tự chủ
hùng mạnh đủ sức đối phó các cuộc tấn công từ đối phương; thứ ba liên kết với một lực lượng thứ ba.
Hai lựa chọn đầu tiên không thể xây dựng, đáp ứng một nước Trung Quốc hùng mạnh, cường thịnh,
nước này đã chọn Mĩ là lực lượng liên minh chiến lược. Điều này phù hợp với tư tưởng cân bằng mối
đe dọa trong lí thuyết quan hệ quốc tế mà nước này và nhiều nước đương thời áp dụng, theo đó khi
quyền lợi quốc gia đang bị đe dọa một nước sẽ thiết lập quan hệ với một nước hay một nhóm nước đối
nghịch để tạo nên sự đối trọng từ một nước hay một nhóm nước đang đe dọa.
Trung Quốc lựa chọn Mĩ là một đối tác liên minh hơn là tư cách một quốc gia, khi hai nước này
có quyền lợi cần bảo đảm an ninh cho sự phát triển. Trung Quốc thừa biết Mĩ hợp tác với họ để tạo nên
một liên minh chống Liên Xô và có cơ hội thậm nhập vào nền kinh tế đầy tiềm năng này. Bằng sự tính
toán Trung Quốc đã đạt được những gì họ mong muốn nhưng không phải có những nhượng bộ đáng kể
ảnh hưởng đến quyền lợi quốc gia.
Như vậy, sự xích lại gần nhau trong quan hệ Mĩ – Trung là một trong những kết quả xung đột
Xô – Trung kéo dài từ thập niên 50, 60 góp phần hình thành nên tam giác ngoại giao ba bên – sự điều
khiển chính sách có toan tính trong quan hệ song phương và ba bên giữa Mĩ, Liên Xô và Trung Quốc
[5;366,367]. Đánh dấu việc Mĩ xem xét lại chính sách toàn vẹn với Trung Quốc, thông cáo 1972 – kết
quả thành công trong chính sách ngoại giao ba bên, trước hết đối với Mĩ đã biết cách khai thác tinh tế
làm sao cho hai nước vốn trước đây là đồng minh không trở lại với nhau ban đầu. Sự tinh tế này được
thể hiện:
Thứ nhất, Mĩ sẽ kìm nén ý muốn nhằm thúc đẩy các vấn đề có thể làm ngăn cách sâu sắc thêm
quan hệ Xô – Trung mà chỉ dựa trên những động thái của sự kiện vốn nảy sinh tất yếu từ hai nước
XHCN này.
Thứ hai, không để cho Trung, Xô nhận ra Mĩ sẽ nghiêng hẳn về bên nào. Nếu làm tốt những
điều trên sẽ có lợi cho lợi ích nước Mĩ, lịch sử đã chứng minh điều này. Mĩ là nước chủ động tiếp xúc
với Trung Quốc, và điều quan trọng phía Trung Quốc cũng có những động thái tương tự. Ván bài Liên
Xô đã được sử dụng trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Mĩ – Trung.
3.1.2. Yếu tố Việt Nam
Trong khoảng thời gian còn là phó tổng thống dưới thời chính quyền Aixenhao, Nixon đã từng
sang Việt Nam (1952) và có lời phát biểu tại đây “đe dọa đối với nước này (Việt Nam) dù dưới hình
thức là một cuộc nội chiến, vẫn có nguồn sức mạnh ở ngoài nước. Nguồn đó gọi đúng tên nó là chủ
nghĩa cộng sản chuyên chế” [1;233]. Với lời phát biểu này Nixon muốn ám chỉ lực lượng ủng hộ cho
Bắc Việt Nam trong cuộc chiến chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân đó là chính Liên Xô, Trung Quốc –
hai nước có vai trò lớn cung cấp nguồn viện trợ kinh tế, tài chính, quân sự. Để khi dính líu tại Việt
Nam, Mĩ nhận ra muốn ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản từ Bắc Việt Nam xuống Nam Việt Nam ngoài
việc hậu thuẫn cho lực lượng đồng minh ở nước sở tại thì cô lập ngoại giao là biện pháp quan trọng để
giảm sức mạnh và buộc đối phương phải chấp nhận các điều kiện của cuộc chiến theo hướng có lợi
nhất cho nước này.
Đến những năm 70, việc can thiệp trực tiếp và sâu rộng vào cuộc chiến tại Việt Nam đã gây ra
cho chính quyền Washington nhiều khó khăn trong và ngoài nước. Để giải quyết những khó khăn, Mĩ
đặt ra nhiều giải pháp nhằm cân nhắc và lựa chọn:
- Nếu đơn phương rút khỏi cuộc chiến, Mĩ tự nhận là kẻ xâm lược, uy tín trong mắt đồng minh
sẽ giảm đi;
- Nếu tiếp tục tăng cường quân sự để nhanh chóng đạt được một thắng lợi hoàn toàn thì nước
này không thể đạt được một cách trọn vẹn, đôi khi “bế tắc sẽ ngày càng bế tắc”. Quyết định cuối cùng,
Washington chọn giải pháp rút khỏi cuộc chiến nhưng phải tính toán theo hướng có lợi nhất cho Nhà
Trắng, lợi dụng xu hướng hòa hoãn trong quan hệ quốc tế cũng như những mâu thuẫn giữa các nước có
viện trợ cho Bắc Việt Nam cuối thập niên 60 đầu thập niên 70, Mĩ đã tiến hành thương lượng, đàm
phán với Liên Xô, Trung Quốc nhằm gây ra sức ép với Hà Nội phải chấp nhận các đề xuất kết thúc
chiến tranh do Washington đưa ra.
Cuộc chiến tranh thống nhất tổ quốc của nhân dân Việt Nam chính thức được sử dụng làm “lá
bài” ngoại giao giữa các nước lớn thập niên 70.
Can thiệp và bế tắc trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam của Mĩ
Khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, là nước không tham chiến trực tiếp trong cuộc chiến tại
Đông Dương, chính phủ Mĩ ra tuyên bố: Mĩ ghi nhận những thỏa thuận đạt được tại Giơnevơ vào ngày
20/7/1954….Mĩ sẽ kiềm chế, không đe dọa hay sử dụng vũ lực để phá hoại các thỏa thuận này, phù
hợp với điều 2 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc….Mĩ tái khẳng định lập trường truyền thống của
mình rằng các dân tộc đều được tự quyết tương lai của mình và sẽ không tham gia bất kì một sự sắp
xếp nào cản trở đều này, không có điểm nào trong tuyên bố của mình có ý hay cho thấy Mĩ rởi bỏ lập
trường này. Với tuyên bố này cho thấy Mĩ tôn trọng độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia tại
Đông Dương, nhưng thực tế nước này dần làm trái lại những gì mà họ từng tuyên bố, trong tuyến bố
của Aixenhao đã thể hiện rằng: Mĩ không phải là bên tham chiến trong cuộc chiến tranh này (chiến
tranh do Pháp gây ra tại Đông Dương)….do đó, mặt ngoại giao không phải là một bên và không bị ràng
buộc bởi các quyết định của hội nghị….thỏa thuận này có những điểm mà chúng tôi không thích,
nhưng thỏa thuận này còn phụ thuộc rất nhiều là sẽ được thực hiện như thế nào….chúng tôi tuyên bố
rằng bất cứ một cuộc tái xâm lược của cộng sản sẽ được xem xét với một quan ngại sâu sắc.
Theo nhiều nhà nghiên, đến cuối năm 1949 Mĩ chưa thật sự quan tâm rõ nét đến tình hình tại
Đông Dương, nước này đại diện là tổng thống Truman đã từng lên án cách hành xử của chủ nghĩa thực
dân Pháp đối với người dân tại xứ này bằng các biện pháp cai trị đã trở nên lỗi thời, nhưng nước này
cũng không có thái độ gì trước yêu cầu của chính phủ VNDCCH giúp nước này thoát khỏi cảnh là một
nước thuộc địa “chúng tôi (VNDCCH) yêu cầu nước Mĩ với tư cách là người bảo vệ và những chiến sĩ
của công bằng thế giới, có bước quyết định ủng hộ nền độc lập của chúng tôi” [1;36] – trích bức thư
của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho tổng thống Mĩ Truman ngày 16/02/1946.
Đến những năm 1950 tình hình chiến sự tại Đông Dương có những chuyển biến theo hướng có
lợi cho chủ nghĩa cộng sản, khi phong trào cách mạng ở đây ngày càng phát triển đã tác động đến sự
chú tâm của chính quyền Washington. Tháng 4/1950, Truman thông qua bản ghi nhớ quan trọng (mang
mã số NSC 64) về Đông Dương, đây là một tài liệu đề cấp đến việc viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến
tại bán đảo này. Đến khi cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ cùng với những sự kiện tác động trước
đó: sự sụp đổ của Quốc Dân Đảng (Trung Quốc); Liên Xô thử nghiệm thành công vũ khí nguyên tử đã
làm cho Mĩ tin rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ trở thành mối đe dọa thật sự đến thế giới tự do tại Châu Á.
Trong suốt cuộc chiến tranh lạnh, Mĩ muốn tập hợp nhiều đồng minh để đối trọng với Liên Xô và đồng
minh Moscow, nếu không có biện pháp tối ưu và kịp thời thì “bất kì một sự mở rộng thêm lãnh thổ của
điện Kremli sẽ dẫn đến khả năng không tập hợp nổi một liên minh nào đủ mạnh để đối đầu vối
Kremlin” [13;23].
Kế hoạch can thiệp vào Đông Dương của Mĩ từng bước được tiến hành, đi từ gián tiếp đến trực
tiếp “chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam đã từng bước diễn ra từ từ có vẻ như là tình cờ qua một quá trình
leo thang chầm chậm hầu như khó mà xác định được điểm xuất phát” [25;152]. Việc giúp Pháp cứu
vãn cho cuộc chiến lần hai tại Đông Dương cũng nằm trong sự tính toán của Mĩ “việc tăng viện trợ là
kết quả nỗ lực của Mĩ mua sự ủng hộ của Pháp trong các vấn đề về Châu Âu” “Mĩ coi cố gắng (quân
sự) của Pháp có tầm quan trọng chiến lược cho lợi ích chung của cộng đồng quốc tế chứ không phải
chỉ phục vụ lợi ích riêng của nước Pháp và đó là điều chủ yếu với an ninh của thế giới tự do không
những ở Viễn Đông mà còn ở Trung Đông và Châu Âu [8;45]. Như vậy, cho thấy Mĩ đang đề cao vị trí,
“trách nhiệm” của mình đối với việc bảo vệ thế giới tự do, biện hộ cho các hành động can thiệp vào
nước khác dưới hình thức làm “nhiệm vụ” quốc tế.
Cuộc chiến ở Đông Dương vẫn tiếp tục, dần dần viện trợ của Mĩ trở thành yếu tố sống còn đối
với quân viễn chinh Pháp, nhưng điều này cũng không cứu vãn được những khó khăn mà thực dân gặp
phải, Điện Biên Phủ - nơi đã chấm dứt hoàn toàn ý đồ thống trị lần 2 của Pháp tại Đông Dương. Điều
này đồng nghĩa sự tính toán của Washington thất bại. Sự thất bại của Pháp diễn ra trong bối cảnh cuộc
chiến tranh lạnh đối đầu Đông – Tây đang ở cao độ, với tư cách là bảo vệ thế giới tự do Mĩ không dễ
chấp nhận sự thật này. Từ quan điểm “muốn tiếp tục chiến tranh chống lại Việt Minh nhưng lại không
muốn tham gia trực tiếp vào cuộc chiến này” [46;840] Washington chuyển sang thái độ quyết tâm hơn
thay âm mưu đưa quân vào Đông Dương cứu nguy cho thực dân Pháp bằng quyết định gạt Pháp, trực
tiếp đặt chân vào bán đảo này “để chứng minh sức mạnh và quyết tâm của phương Tây trong việc đánh
bại chủ nghĩa cộng sản rằng thắng lợi cuối cùng phải thuộc về thế giới tự do” [9;38]. Trước những
biến đổi của tình hình thế giới, của khu vực Châu Á, vị trí Việt Nam được Mĩ đánh giá cao hơn trong
chiến lược ngăn chặn làn sóng đỏ lan rộng xuống vùng Đông Nam Á “Việt Nam như cái nút của chiếc
bình, nếu mở ra thì CNXH sẽ tràn vào làm chìm ngập thế giới tự do ở Đông Nam Á” [25;151] và nếu
“nếu khu vực này (Đông Nam Á) bị chủ nghĩa cộng sản kiểm soát, chúng ta (Mĩ) sẽ phải gánh chịu một
thất bại thảm hại về mặt chính trị mà ảnh hưởng của nó sẽ lan toàn diện trên toàn thế giới” [25;13].
Với nhận định này Mĩ ý thức được việc để mất khu vực rộng lớn về diện tích và dân số, tài nguyên này
có thể sẽ đẩy Mĩ vào thế hạ phong vì cán cân lực lượng đang bị lệch chuyển. Điều quan trọng tuyến
phòng thủ của Mĩ ở Thái Bình Dương sẽ gặp nguy hiểm hơn một khi nó bị gãy khúc trong trường hợp
chiến tranh diễn ra. Việt Nam chính thức trở thành quân cờ Đomino đầu tiên, nếu quân cờ này sụp đổ
(rơi vào tay cộng sản) thì theo hiệu ứng, các nước còn lại ở Đông Nam Á cũng sẽ chung số phận “về
mặt chiến lược, việc mất Nam Việt Nam cho cộng sản sẽ đưa ra sự kiểm soát của họ thêm hàng trăm
km trong một vùng cho tới nay còn tự do. Các nước khác ở Đông Nam Á sẽ bị đe dọa tấn công từ mạn
sườn, 12 triệu dân ở Nam Việt Nam sẽ mất tự do ngay tức khắc và 150 triệu người khác ở các nước kế
bên sẽ có nguy cơ nghiêm trọng. Việc để mất Nam Việt Nam sẽ mở đầu cho quá trình sụp đổ, nếu tiếp
tục phát triển lên sẽ có thể dẫn đến tới hậu quả nghiêm trọng cho chúng ta và cho tự do” [8;103,104].
Vì vậy trong tuyên bố về hiệp định Giơnevơ, Mĩ đã tuyên bố không có lí do gì buộc nước này phải tuân
thủ các điều kiện kí kết, không đặt bút kí tức Mĩ sẽ không vi phạm khi can thiệp vào sân khấu chính trị
tại Việt Nam.
Vĩ tuyến 17 cũng giống như vĩ tuyến 38 ở Triều Tiên, sau hiệp định Giơnevơ từ trạng thái mờ
nhạt, nó đã chia cắt Việt Nam hơn hai mươi năm bởi ý đồ của chủ nghĩa đế quốc. Khi từ tháng 7/1954,
một chính quyền thân Mĩ đã được xây dựng tại Nam Việt Nam, trở thành đối trọng chống lại cuộc
“xâm lược” của Bắc Việt Nam, đi đến việc chia cắt lâu dài Việt Nam. Với “mục tiêu cao cả là giải
phóng Miền Nam, thống nhất tổ quốc bảo vệ Chủ nghĩa xã hội ở tiền đồn phía nam và góp phần tích
cực bảo vệ nền hòa bình thế giới” [25;141], quân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
đã đánh bại từng chiến lược chiến tranh qua các đời tổng thống Mĩ cũng như chính quyền thân Mĩ tại
miền Nam Việt Nam.
Sau thời gian can thiệp vào Việt Nam, từ năm 1968 chính quyền Washington bắt đầu nhìn nhận
lại cách thức mà họ đang can thiệp vào Đông Dương, Việt Nam, vì cái gọi là “thảm họa Việt Nam”
đang dần xuất hiện trong mắt dân chúng Mĩ. Đây là những năm cuối nhiệm kì của tổng thống Johnson,
với những thất bại liên tiếp tại chiến trường Việt Nam, sau này trong hồi kí đã làm ông phải thốt lên
một cách đầy bi đát “kết thúc năm 1968, sau nhiều năm gây cấn vì cuộc chiến ở Việt Nam, tôi thật sự
không tin rằng có thể sống sót nếu ở lại Nhà Trắng thêm một nhiệm kì nữa”. Sự thật sau khi kết thúc
nhiệm kì Johnson không tuyên bố ứng cử cho nhiệm kì kế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng với tuyên bố
này nó như là sự cứu vớt cho danh dự của ông sau thời kì cầm quyền lận đận toàn diện về quân sự,
chính trị cả kinh tế - tài chính trong nước và ở Việt Nam, tất cả đã vượt qua dự kiến của chính quyền
ông. Sự can thiệp sâu rộng vào chiến tranh Việt Nam được thể hiện qua các con số lính viễn chinh Mĩ
không ngừng gia tăng, cuối năm 1965 là 180.000, đến cuối năm 1966 là 400.000, cuối 1967 là 470.000,
năm 1968 đỉnh cao là 550.000, ngân sách quốc phòng chi viện cho cuộc chiến cũng tỉ lệ thuận theo,
nhưng lại tỉ lệ nghịch cho việc cứu vãn tỉ lệ thương vong hàng ngày của binh lính Mĩ và đồng minh trên
chiến trường Đông Dương. Cuộc chiến này đã trở thành cuộc chiến dài nhất và bị mất lòng dân nhất
của lịch sử nước Mĩ, điều quan trọng nó “không thể quay lưng lại với thực tế là cuộc chiến tranh ở
Đông Nam Á đang gây ra một cuộc chiến ngay trên đất Mĩ” [13;359]. Cuối cùng thì dân Mĩ cũng nhận
ra “giá trị chiến tranh” thật sự mà Mĩ đang tiến hành ở Đông Dương, các phong trào phản chiến liên tục
diễn ra sau nhiều năm họ bị chính quyền khỏa lấp dưới chiêu bài ngăn ngừa sự “độc tài” của chủ nghĩa
cộng sản. Những chia rẽ bên trong nội bộ Nhà Trắng cũng gây cho Washington những khó khăn trong
việc tìm ra một giải pháp an toàn và hiệu quả cho cuộc chiến gần 1000 ngày “chúng ta đang cố mất sự
sáng suốt…chúng ta đang cố áp đặt một số hình ảnh của Mĩ lên những dân tộc xa xôi mà chúng ta
không thể hiểu được họ (hơn nữa chúng ta có thể là một thế hệ trẻ hơn họ) và chúng ta đang làm cho
sự việc kéo dài một cách vô lí” [38;248,249]. Như vậy, với những bế tắc trong cuộc chiến tại Việt Nam
đã khiến “năm 1968 cũng là năm khai tử sự nghiệp chính trị của Lyndon B. Johnson” [35;272].
Với lời hứa trong quá trình tranh cử là nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, đưa lính Mĩ về nước,
Nixon được dân Mĩ tin rằng người sẽ mang lại hòa bình ở Việt Nam đã thắng cử “nếu chính quyền
Johnson bất lực, không thể chấm dứt chiến tranh thì chúng ta sẽ bầu một chính quyền mới, rồi chúng ta
sẽ chấm dứt chiến tranh này và sẽ tránh cho nước Mĩ khỏi sa vào những Việt Nam khác”. Nixon bước
vào Nhà Trắng nhiệm vụ đầu tiên là lãnh đạo nước Mĩ lấy lại hình ảnh cường thịnh một thời, muốn vậy
trước hết phải vượt qua những khó khăn đang gặp phải: đó là nước Mĩ đang ở giai đoạn suy yếu từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai; Liên Xô ngày càng tăng cường ảnh hưởng trên các mặt để đối trọng với
Mĩ; Tây Âu, Nhật Bản những đồng minh một thời mang tính phụ thuộc đang tạo nên tiếng nói độc lập
hơn với Washington trong các vấn đề đối nội và đối ngoại; sự vùng lên của các nước thế giới thứ 3
nhằm khẳng định sự độc lập trên các diễn đàn chính trị thế giới đều này góp phần gây cản trở cho chiến
lược toàn cầu của Mĩ. Ngay cả Nixon cũng mặc nhiên thừa nhận điều này “so với địa vị mà chúng ta có
được sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai không lâu, nước Mĩ đang gặp phải những thách thức
mà thậm chí cho đến nằm mơ cũng không nghĩ ra, xét từ góc độ kinh tế, nước Mĩ không là quốc gia
đứng đầu thế giới nữa và cũng chỉ không còn có hai siêu cường…….ngày nay trên thế giới có 5 trung
tâm lực lượng mới, đó là Mĩ, Tây Âu, Liên Xô, Trung Quốc Đại lục, tất nhiên còn Nhật Bản” [24;578].
Như vậy, “điều kiện quyết định tư tưởng chính sách ngoại giao và thực tiễn của Mĩ từ năm 1945 đến
nay cũng theo đó mà trở thành quá khứ”, căn nguyên góp phần tạo nên sự yếu thế của Mĩ trong giai
đoạn chiến tranh lạnh có nhiều biến chuyển có nhiều nhưng một trong những yếu tố quan trọng đó là
cuộc chiến tranh Việt Nam – cuộc chiến “là một sai lầm xa rời lí tưởng Mĩ” [24;575].
Giải pháp cho cuộc chiến tại Việt Nam – đàm phán Mĩ – Trung
Sau sự kiện Mậu Thân 1968, Washington buộc phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán để lập lại
hòa bình tại Đông Dương mà nước này đã và đang phá vỡ, và trãi qua 4 năm sau đó Mĩ chính thức tôn
trọng nền độc lập của đối phương bằng văn bản chính thức. Cuộc đàm phán diễn ra theo quan điểm
“vừa đàm, vừa đánh” với quan điểm Mĩ chỉ rút khỏi cuộc chiến theo hướng có lợi nhất, do vậy Nixon
và nội các của ông dần đánh mất lời hứa về việc kết thúc chiến tranh tại Việt Nam, Đông Dương trong
thời gian tranh cử. Việc học thuyết Nixon được công bố với vấn đề Châu Á là điểm nhấn “việc Châu Á
do người Châu Á tự giải quyết” được cam kết như một biện pháp giải quyết khó khăn mà nước này gặp
phải. Thực tế, học thuyết này “làm cho Mĩ thực hiện mục tiêu kết thúc cuộc chiến tại Việt Nam, thoát
khỏi gánh nặng do cuộc chiến tranh mang lại…..việc thực hiện nó còn làm cho quan hệ Mĩ – Xô có dịu
đi và phá vỡ nền tảng cứng nhắc trong quan hệ Trung – Mĩ , sáng tạo điều kiện bình thường hóa quan
hệ hai nước Trung – Mĩ [24;580].
Trong quá trình đàm phán với Hà Nội, Washington đưa ra nguyên tắc “có đi, có lại” nếu muốn
xuống thang chiến sự. Biết rõ ý đồ từ nguyên tắc này, Hà Nội không chấp nhận những điều kiện mang
tính phi thực tế. Để đạt được điều kiện đưa ra, một mặt Mĩ tiếp tục tăng cường hoạt động quân sự, gây
áp lực bên bàn đàm phán, mặt khác ra sức vận động ngoại giao, nhất là đối với nhóm nước “hậu thuẫn”
cho Bắc Việt bằng sức ép buộc Hà Nội phải chấp nhận các giải phán đàm phán do Washington đề xuất.
Những gì lịch sử diễn ra cho thấy, cuối thập niên 60 đầu thập niên 70 Washington đã khởi động
ngoại giao để giảm căng thẳng trong quan hệ với Moscow và Bắc Kinh vì hai chính phủ này có ảnh
hưởng một phần đến cuộc chiến chống chiến tranh mà Hà Nội tiến hành. Tiến trình bình thường hóa
quan hệ với CHNDTH không nằm ngoại sự toan tính của chính quyền Washington, trực tiếp hay gián
tiếp giao hảo với Trung Quốc - một nước cộng sản lớn trong hai thập kỉ đã được xem như một địch thủ
chủ yếu của Mĩ ở Đông Nam Á, dĩ nhiên phải tăng cường được thế của Mĩ trong quan hệ với Liên Xô
và nhất là trong đàm phán với Hà Nội [8;263,264]. Và thực tế với phương châm “sức mạnh tăng cường
– sức ép tối đa” sẽ buộc đối phương chấp nhận tham vọng của Mĩ trên cả chiến trường và trên bàn hội
nghị. Nixon đi một nước cờ mới trong 23 năm trước đó (1949 – 1972) chưa một tổng thống nào nghĩ
đến “dùng con bài Bắc Kinh hòng chiếu tướng Hà Nội” [13;373]. Bởi vì theo quan điểm của Mĩ “một
nước được xếp hạng 4 như Bắc Việt Nam ắt phải có đểm yếu” [13;373].
Trước khi bình thường hóa quan hệ, Mĩ và Trung Quốc luôn trong tư thế đối đầu, vì vậy cuộc
kháng chiến mà nhân dân Việt Nam tiến hành luôn nhận được sự ủng hộ một phần về vật chất, tinh
thần từ nước xã hội chủ nghĩa này. Theo quan điểm của Bắc Kinh giúp Hà Nội chống Mĩ cũng là đang
giúp nước này chống lại các cuộc xâm lược của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mĩ, Mĩ thì cho rằng
“Bắc Kinh đóng vai trò đứng đầu thế giới thứ ba” - quan điểm này được nhận thức từ khi CHNDTH
thành lập. Bắc Kinh thì quan điểm các nước chậm phát triển ở Châu Á, Châu Phi có “quan hệ họ hàng
máu thịt”, so sánh chiến tranh giải phóng dân tộc tại Việt Nam – trên phạm vi quốc tế giống như cuộc
chiến của những người cộng sản Trung Quốc từ nông thôn để bao vây thành thị - ccác nước công
nghiệp phương Tây (trong phong trào Đại nhảy vọt tư tưởng này đã trở thành quốc sách nhằm xây
dựng một nước XNCH đặc trưng riêng của Trung Quốc). Sự giúp đỡ của Trung Quốc (cộng sản) đối
với cách mạng Việt Nam bắt đầu từ những năm 1950 đã góp một phần về kinh tế, viện trợ kĩ thuật,
chuyên gia tư vấn quân sự để làm nên chiến thắng đỉnh cao của Bắc Việt Nam năm 1950 đưa cuộc
kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Điều này tạo nên sự ghi nhận sâu sắc sự giúp đỡ của
các nước XHCN, lực lượng yêu chuộng hòa bình thế giới nói chung và của Trung Quốc nói riêng trong
cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam.
Bước sang cuộc kháng chiến chống Mĩ, nhất là trong những năm Mĩ đưa chiến tranh sát biên
giới Trung Quốc, tạo nên tâm lí cho các nhà lãnh đạo Bắc Kinh cuộc đối đầu trực tiếp lần hai với
Washington có thể xảy ra. Vì thế Trung Quốc tiếp tục “giúp” Việt Nam vừa làm nghĩa vụ đối với đồng
minh vừa vì lợi ích chiến lược kiềm chế, ngăn chặn Mĩ, làm cho Mĩ suy yếu, bảo đảm an ninh cho
Trung Quốc [22;34]. Do vậy, suốt quá trình gây chiến tại Việt Nam, Mĩ chưa bao giờ tấn công lên biên
giới đe dọa Trung Quốc, vì hệ quả cuộc đụng độ với Bắc Kinh tại chiến tranh Triều Tiên vẫn còn đó,
ngay cả phía Trung Quốc đã tuyên bố: nếu Mĩ không tấn công Trung Quốc thì không cớ gì nước này sẽ
triển khai quân ngoài lãnh thổ nước mình. Dù vậy, trong thời gian Trung – Mĩ chưa thân thiện thì lãnh
đạo Bắc Kinh có quyền nghi ngờ những hành động tiếp theo mà Washington có thể triển khai khi gặp
cơ hội thuận lợi, chẳng hạn sau khi bình định xong Bắc Việt Nam. Vì thế chặn ngay ý đồ từ khi nó
chưa trở thành sách lược là biện pháp bảo đảm an ninh quốc gia. Dù cho theo nhiều nhà phân tích chính
sách ngoại giao của Bắc Kinh có nhiều toan tính nhưng sự giúp đỡ Việt Nam là điều ghi nhận, ngay cả
trong giai đoạn nước này mâu thuẫn với Liên Xô “chỉ tính riêng hành quân sự năm 1967 – 1968 lên tới
65,70 vạn tấn, viện trợ lương thực thuốc men cũng rất lớn” [22;133], “viện trợ của Trung Quốc chiếm
khoảng trên 50% viện trợ quốc tế”. Đó là sự ủng hộ vật chất đáng ghi nhận.
Như đã đề cập, trong thời gian mâu thuẫn với Mĩ, để đề phòng trường hợp bị bất ngờ tấn công
ngoài việc viện trợ quân sự, kinh tế cho Bắc Việt Nam, chính quyền Trung Quốc còn tự trang bị, lên kế
hoạch phòng ngự để bảo vệ đất nước. Kế hoạch Phòng Tuyến Ba ra đời giai đoạn 1964 – 1966 đã nói
lên sự lo lắng đó, tuyến phòng thủ ra đời trong thời kì Mĩ leo thang chiến tranh tại Việt Nam đe dạo an
ninh Trung Quốc, tháng 4/1964 Chu Ân Lai cảnh báo “nếu Mĩ muốn mở rộng chiến tranh chống phá
Việt Nam Dân Chủ cộng hòa hoặc đưa thêm quân, tức gây chiến ở ngay cạnh Trung Quốc, chúng ta sẽ
không đơn giản ngồi yên” [96], lãnh đạo Bắc Kinh đã chia sẽ lối “tư duy chiến lược” này đến Bắc Việt
“cần thiết phải xây dựng một phòng tuyến thứ 2 và thứ 3 ở Việt Nam, không chỉ ở nơi đất bằng mà còn
ở vùng đồi núi” [96]. Đến gần cuối thập niên 60, chuyển biến trong quan hệ quốc tế đã tác động đến
quan hệ song phương của từng nước với nhau. Trong đó, cuộc chiến tranh Việt Nam đã trở thành một
trong những tác nhân tạo nên tam giác ngoại giao Xô – Trung – Mĩ, những “tư tưởng” lớn đã gặp nhau
trên cùng một con đường. Với Mĩ “ngoài những lợi ích của ngoại giao tay ba, còn có những lí do hứng
khởi, ấy là Việt Nam. Một cuộc chiến mở đường vào Trung Quốc có thể cho phép chúng ta chấm dứt
cuộc chiến tranh nhức nhối đó” [ 22; 90].
Sau những tín hiệu ngoại giao gửi trước đó và được đối phương chấp nhận. Nixon và các thành
viên trong nội các Nhà Trắng đã có một tuần ở Bắc Kinh, tạo nên sự thay đổi lớn trong nền ngoại giao
thế giới đương thời. Và giải pháp về một cuộc chiến tranh tại Việt Nam tất yếu sẽ nằm trong chương
trình nghị sự giữa Washington với Bắc Kinh.
Mĩ đã tin tưởng đem vấn đề Việt Nam ra trao đổi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sẽ
thành công, vì đây là thời điểm thích hợp “danh dự lớn nhất và lịch sử có thể ban cho là danh hiệu
người đưa lại hòa bình danh dự đó bây giờ dành cho nước Mĩ” [1;248]. Trong nhận thức của tổng
thống Nixon, ông tin rằng Việt Nam Dân chủ cộng hòa là một quốc gia với những mục tiêu cứng nhắc
cho nên không thể đàm phán trực tiếp với họ để thành công trong việc cứu vãn Việt Nam Cộng hòa, trừ
khi tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc – hai đồng minh thân tín cộng với việc Mĩ gia tăng
sức ép sẽ thành công như mong muốn. Một khi cuộc chiến tranh bằng quân sự bế tắc, leo thang cao hơn
sẽ không thành công nếu nó không gắn kết với một chiến lược ngoại giao song song. Vì thế “thế tam
giác của mối quan hệ Mĩ – Xô – Trung là con đường có thể góp sức gây sức ép đối với Việt Nam Dân
chủ cộng hòa”. Ngoại trưởng Kissinger đại diện cho Nhà Trắng để mang đến Bắc Kinh những điều
kiện đàm phán, kết quả của chuyến đi được khẳng định “không nghi ngờ gì, Việt Nam là vấn đề trung
tâm trong các cuộc thượng lượng…..” [1;367]. Và, sau nhiều thập niên thù địch cuộc gặp chính thức
diễn ra, cuộc hội đàm ngày 22/2/1972 được coi là quan trọng nhất vì liên quan đến nhiều vấn đề trong
quan hệ hai nước: Việt Nam, Đài Loan, cán cân lực lượng tại Châu Á, khi đề cập đến việc binh lính
viễn chinh Mĩ có mặt tại Đông Dương, Nixon cho rằng đó là nhằm vào Liên Xô chứ không phải Trung
Quốc và nêu thẳng quan điểm “nếu Bắc Kinh giúp làm giảm căng thẳng trong vùng đó (ví dụ Việt
Nam) thì không có lí do gì các lực lượng của Mĩ tại Đài Loan không bỏ đi” [49;699]. Cho thấy thông
điệp của Washington “Mĩ sẵn sáng thỏa hiệp vấn đề Đài Loan để đổi một giải pháp ở Việt Nam”
[1;374]. Phía Bắc Kinh bày tỏ “quan điểm của chúng tôi là một khi ông (Nixon) vẫn tiếp tục duy trì
chính sách Việt Nam hóa, Lào hóa và Campuchia hóa chiến tranh và nếu là họ (Hà Nội) vẫn kiên trì
đấu tranh thì chúng tôi có thể không làm gì ngoài việc tiếp tục ủng hộ họ” [50;237]. Cuộc hội đàm tiếp
diễn với các quan điểm khác nhau, Nixon thể hiện “ông không có ảo tưởng về khả năng giải quyết cuộc
chiến tại Bắc Kinh, nhưng vẫn hy vọng điều này, và nhấn mạnh chỉ có Liên Xô là người vẫn muốn tiếp
tục chiến tranh”. Rõ ràng, Mĩ đang sử dụng Liên Xô để kích thích mối quan tâm từ Bắc Kinh, vì “nước
Mĩ đang ở trong tình trạng suy yếu, và Nixon phải tiếp cận thế lực đỡ tệ hại hơn trong hai thế lực của
phe cộng sản” [50;241]. Washington không ngừng gợi ý cho Bắc Kinh nên thể hiện một thái độ “cứng”
hơn với Hà Nôi, yêu cầu chính quyền Bắc Việt chấp nhận các giải pháp được đề xuất đi đến hòa bình
“nếu tôi (Nixon) ngồi cùng bàn với bất kì ai là nhà lãnh đạo của Bắc Việt Nam và nếu chúng tôi có thể
thương lượng một cuộc ngừng bắn và hồi hương tù binh của chúng tôi thì tất cả người Mĩ sẽ rút khỏi
Việt Nam trong vòng 6 tháng kể từ ngày đó” [1;375]. Như vậy, Mĩ chính thức đưa ra điều kiện và
“nhờ” Bắc Kinh chuyển thông điệp này đến Hà Nội. Kết thúc một tuần gặp gỡ, Bắc Kinh mặc dù
không đưa ra một tuyên bố cụ thể xác nhận giúp Mĩ “nói chuyện” với Hà Nội trên bàn ngoại giao,
nhưng chấp nhận thông qua bản Thông cáo về những vấn đề có liên quan đến thiết lập quan hệ ngoại
giao bình thường giữa hai nước. Trong vấn để Đài Loan, Mĩ bày tỏ “khẳng định sự quan tâm của Mĩ
đối với việc do người Trung Quốc tự giải quyết hòa bình vấn đề Đài Loan. Xem xét đến triển vọng này,
Mĩ xác nhận mục tiêu cuối cùng rút toàn bộ lực lượng vũ trang và thiết bị quân sự của Mĩ ra khỏi Đài
Loan. Trong thời gian đó, Mĩ sẽ giảm bớt lực lượng vũ trang và thiết bị quân sự của mình ở Đài Loan
theo sự hòa bình của tình hình coăng thẳng ở khu vực này” [27;529;530]. “Trong thời gian này” rõ
ràng đây là sự nhắc khéo của Washington dành cho Bắc Kinh nếu muốn có một giải pháp về vấn đề
Đài Loan thì nhất thiết Trung Quốc cần giúp Mĩ “làm dịu” căng thẳng với Bắc Việt Nam. Chuyến thăm
của Nixon đến Trung Quốc dù không thành công mĩ mãn nhưng nó cũng không thất bại, nó như một
đoàn tâm lí cảnh báo các đối thủ của Mĩ “từ nay Nixon và bản thân ông, yên tâm về Trung Quốc, chỉ
cần hướng về Moscow và nghiền nát Việt Nam” [49;701]. Tóm lại khai thông với Trung Quốc trong
giai đoạn đầy khó khăn này bản thân Nixon “là một sự khẳng định ông có thể thoát khỏi ra sự không
linh hoạt về chính trị của phe cách hữu của Đảng cộng hòa và dẫn dắt Đảng từ từ trung tâm….sự trả
thù ngọt ngào phê phán của Đảng Dân chủ yếu kém trong vấn đề Trung Quốc trong những năm tháng
Kennedy – Johnson và chiến thắng ngọt ngào để tuyên bố không phải học thuyết Đomino sai nhưng Mĩ
đã chiến thắng trong một cuộc chiến lớn trong việc ngăn chặn sự bành chướng của chủ nghĩa cộng sản
tại Châu Á” [50;168], làm một việc mà trước đó các đời tổng thống trước không làm được – hòa đàm
với Bắc Kinh, điểm ghi cho Nixon chạy đua vào Nhà Trắng. Vấn đề đang bế tắc, đó là tạo cơ sở cho
việc rút khỏi cuộc chiến tranh tại Việt Nam, theo đó khai thông ngoại giao với Trung Quốc, Mĩ sẽ đóng
một “cái niêm” giữa nước này với Bắc Việt Nam, với hy vọng Trung Quốc sẽ ngừng viện trợ (trực tiếp
và quá cảnh) dẫn đến tìm lực Việt cộng bị cạn kiệt không đủ khả năng duy trì lực lượng quân đội ở cả
hai miền, hạn chế các trận đánh lớn. Khai thông với Trung Quốc, Mĩ được lợi thế trên bàn chính trị
trong quá trình hội đàm vì Bắc Kinh đã “nhắc nhở” Bắc Việt Nam cần phải làm gì trước đó.
Như vậy, từ khi Nixon lên nắm quyền ông đã nhận thức được những khó khăn thật sự nguy
hiểm đang đe dọa đến hình ảnh và vị thế nước Mĩ. Vì thế, Nixon mong muốn khi đương quyền sẽ có
một chính sách đối ngoại đặt nước Mĩ ở một vị thế trung tâm và vị thế siêu cường thế giới. Việc dính
líu vào cuộc chiến tại Việt Nam là trở ngại lớn với những thất bại liên tiếp tại đây đã buộc Mĩ ý thức
cần phải nhanh chóng kết thúc sự can thiệp này, nhưng theo hướng không phải là tự rút đi mà theo tư
tưởng “hòa bình trong danh dự”, thời gian càng sớm càng tốt, nếu không muốn nó tác động tiêu cực
đến chính sách đối ngoại, xói mòn chính sách đối nội của nước này.
Đẩy mạnh hoạt động quân sự không thể đạt được mục đích vì “toàn bộ chiến thắng quân sự
không thể là sự kéo dài”, biện pháp để đạt hiệu quả cao là cố gắng dàn xếp một cuộc thương lượng với
đối phương và đồng minh đối phương, nếu chiến lược ngoại giao thành công thì uy tín trong nước và
đối với đồng minh sẽ được nâng cao. Mấu chốt để rút khỏi cuộc chiến tại Việt Nam được Mĩ nhận thức
không phải trong tay cộng sản Bắc Việt Nam mà là trong tay Moscow và Bắc Kinh, vì nếu không có sự
tiếp tục viện trợ với số lượng lớn của hai nước cộng sản lớn này thì Bắc Việt sẽ không có khả năng
phản công lại quân viễn chinh và quân đội chính quyền sở tại. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã trở thành
nhân tố hòa dịu trong quan hệ Mĩ – Xô, xích lại gần nhau giữa Mĩ – Trung.
3.1.3. Yếu tố Đài Loan
Xem xét về nhiều yếu tố chi phối mối quan hệ Mĩ – Trung một sử gia đã đưa ra nhận xét, so
sánh với thời điểm chiến tranh Việt Nam đang diễn ra “trở ngại chính cho quan hệ tiến tới sự bình
thường hóa quan hệ giữa hai nước không phải là cuộc chiến tranh tại Việt Nam đúng hơn là Đài Loan”,
“Vấn đề Đài Loan luôn là vấn đề quan trọng nhất và nhạy cảm nhất thuộc trọng tâm của quan hệ Trung
– Mĩ và nếu có điều già rắc rối xảy ra đối với vấn đề Đài Loan thì quan hệ Trung – Mĩ sẽ khó có thể
tiến triển, thậm chí còn có thể bị thoái lui”. Thật vậy, yếu tố Đài Loan có thể được xem là nhân tố then
chốt nhạy cảm trong quan hệ Mĩ – Trung, ở một chừng mực rất lớn nó tạo nên sự cung bậc thăng trầm
trong quan hệ giữa hai nước từ quá khứ đến hiện tại.
Ngày 01/01/1979 Mĩ và CHND Trung Hoa thiết lập quan hệ ngoại giao sau gần 3 thập kỉ thăng
trầm trong quan hệ. Quá trình này diễn ra nhiều năm đến 1972 với Thông cáo Thượng Hải là sự thừa
nhận chính thức chính phủ Bắc Kinh của Washington. Điều này là một sự rõ ràng, sự tranh cãi về vị thế
của Đài Loan luôn là vấn đề trung tâm trong quan hệ giữa hòn đảo này với chính quyền Đại lục, cả hai
đều tuyên bố chỉ có một Trung Quốc, nhưng mỗi bên cũng thừa nhận là chính phủ hợp pháp của nhân
dân Trung Quốc. Sự căng thẳng giữa hai bờ eo biển sẽ không nóng, lạnh để lại hệ quả đến nay nếu
không có sự can thiệp của lực lượng thứ ba – đó là Mĩ. Trung Quốc phản đối chính quyền Mĩ có quan
hệ ngoại giao với cả Đại lục và Đài Loan, vì tin rằng Washington đang thừa nhận sự tồn tại của hai
chính quyền là Bắc Kinh và Đài Bắc. Phía Trung Quốc nói rõ lập trường vấn đề Đài Loan là công việc
nội bộ, thống nhất hai bờ eo biển sẽ do người Trung Quốc tự giải quyết, Mĩ không được phép can
thiệp. Trong tiến trình đàm phán tiến tới bình thường hóa quan hệ, Trung Quốc thể hiện lập trường này
với Mĩ nếu muốn thiết lập quan hệ ngoại giao, theo đó Mĩ phải cắt đứt 3 điều kiện: cắt đứt quan hệ
ngoại giao; bãi bỏ các hiệp ước phòng thủ; rút lực lượng quân sự ra khỏi đảo Đài Loan. Trong các
thông cáo 1972, 1978, 1982 Washington chấp nhận các nguyên tắc này, đây được xem là một sự thắng
lợi trong chính sách ngoại giao của Bắc Kinh về việc ngăn chặn sự chia cắt đất nước. Tuy nhiên, với
Mĩ hòn đảo gây tranh cãi này được xem là tuyến phòng thủ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
nhằm ngăn chặn sự lan rộng của Chủ nghĩa cộng sản; sự trỗi dậy của những đối thủ cạnh tranh quyền
lực, do vậy việc bỏ rơi Đài Loan là không hoàn toàn.
Mĩ từ thái độ “căng thẳng” chuyển sang “hòa dịu” với CHNDTH về vấn đề Đài Loan. Đây là
một quá trình, từ khi vấn đề Đài Loan phát sinh đến khi đạt được một số thỏa thuận cơ bản về nó trong
tiến trình bình thường hóa quan hệ Mĩ – Trung.
Nguồn gốc vấn đề Đài Loan
Đài Loan là một phần của đế quốc Nhật Bản cho đến năm 1945 theo điều ước Mã Quan (1895)
kí kết giữa chính quyền Mãn Thanh với Nhật hoàng. Vào giữa những năm 40 khi chiến tranh thế giới
thứ 2 bước vào giai đoạn cuối với sự thắng lợi đang nghiêng về phái đồng minh, ngày 26/11/1943, cuộc
họp tại Cairo (Ai Cập) giữa Mĩ – Anh – Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch) đã tuyên bố “tôn chỉ của ba
nước tính từ bắt đầu đại chiến thế giới lần 1 năm 1914, lấy lại tất cả những đảo Nhật cướp hoặc chiếm
đóng ở Thái Bình Dương, phần lãnh thổ của Trung Quốc do Nhật cướp được như Mãn Châu, Đài
Loan, Bành Hồ…đều trả về cho Trung Quốc” [47;9]. Trong tuyên bố Postdam (26/7/1945) và trong
văn kiện đầu hàng của Nhật Bản (02/9/1945) đã tái khẳng định các điều khoản trong bản tuyên ngôn
Cairo phải được thực hiện. Như vậy, trước năm 1949 không có sự tranh cãi về vị thế của Đài Loan bởi
vì nó được mặc nhiên thừa nhận là một bộ phận, một tỉnh của Trung Quốc. Cho đến khi cuộc nội chiến
Quốc – Cộng khởi phát trở lại, những người cộng sản tuyên bố thành lập chính phủ mới tại Đại lục, còn
Quốc Dân Đảng phải tháo chạy ra đảo Đài Loan và sử dụng nó “thành nơi quyết chiến sau cùng giữa
Quốc – Cộng” [47;37], thì vấn đề Đài Loan dần xuất hiện.
Sự can thiệp sâu rộng của Mĩ về vấn đề Đài Loan
Mĩ là nước bảo trợ cho việc xây dựng một nước Trung Quốc hòa bình, thịnh vượng với tư cách
là một nước lớn trong Hội đồng Bảo An sau khi thế chiến thứ hai kết thúc, nhưng Trung Quốc được
hiểu ở đây là Trung Quốc không cộng sản. Trong cuộc nội chiến Quốc – Cộng, Mĩ có vai trò làm trung
gian hòa giải giữa hai thế lực nhằm đi đến việc thành lập một chính phủ liên hiệp, thực tế điều này nằm
trong sự tính toán của Mĩ, những quyền lợi từ cuối cuộc chiến tranh thế giới hai đã tạo ra những mâu
thuẫn giữa các nước đồng minh là minh chứng rõ ràng. Cuộc đối đầu ý thức hệ dẫn đến việc tập hợp
lực lượng giữa hai thế lực Xô, Mĩ. Nhằm ngăn chặn sự ảnh hưởng của Liên Xô, sự lan rộng của Chủ
nghĩa cộng sản tại Châu Á, Mĩ chủ trương xây dựng một nước Trung Quốc thân Washington. Tuy
nhiên với sự yếu kém và bất lực của chính quyền Tưởng Giới Thạch đã làm cho Mĩ mất đi sự nhiệt tình
dẫn đến những tuyên bố chấm dứt các cam kết với Trung Hoa Dân Quốc, rút khỏi vai trò trung gian nội
chiến. Điều này đồng nghĩa sự toan tính về việc thành lập một chính phủ Trung Hoa thân Mĩ gần như
thất bại. Người Mĩ dần trở nên hững hờ với thái độ rõ ràng việc chính quyền Đài Loan thành lập, ngay
trước sự kiện 05/01/1950 Trung Quốc đại lục mở cuộc tấn công thu hồi Đài Loan, tổng thống Truman
“Mĩ không có ý thu lợi hay đặc quyền hoặc xây dựng căn cứ quân sự ở Đài Loan, Mĩ cũng không muốn
vũ trang can dự vào cục diện hiện nay của nó, chính phủ Mĩ không muốn theo bất cứ cái gì để cuốn
nước Mĩ vào con đường tranh chấp với nội bộ Trung Quốc…Mĩ không cung cấp viện trợ quân sự và
cung cấp ý kiến cho quân đội Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch) ở Đài Loan”. Bộ trưởng Mĩ Echeson tái
khẳng định “chúng tôi không dung quân đội của chúng tôi dính liếu đến tình thế hiện nay của Đài
Loan, chúng tôi không có ý định chiếm đảo này, chúng tôi không can dự vào việc quân sự của Đài
Loan” [47;43,44]. Như vậy, Mĩ không còn đánh giá cao “người bạn chống cộng” với tư cách là đồng
minh như trước đây, cũng không quan tâm đến số phận của chính quyền Tưởng bởi vì sự sụp đổ của
Quốc Dân Dảng là do bản thân của chế độ Quốc Dân Đảng, nhân dân Mĩ nếu tiếp tục ủng hộ chính
quyền Tưởng thì sẽ mất đi uy tín kèm theo lời chỉ trích can thiệp vào nội bộ của Trung Quốc.
Cuộc chiến tranh lạnh do Mĩ, Xô phát động gây sự chia rẽ trong hệ thống quan hệ quốc tế thành
Đông –Tây, với vai trò là một nước lớn về diện tích, dân số nên sự ra đời của CHNDTH đã trở thành
một tác nhân quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến cán cân quyền lực Xô – Mĩ, điều này đã đưa nước
này trở thành một quân cờ có trọng lượng trên ván cờ chính trị thế giới. Thực tế với việc thi hành chính
sách ngoại giao nghiêng hẳn về một bên trong thời gian đầu thành lập nước, Trung Quốc đã làm chính
quyền Mĩ lo ngại về sự lan rộng của Chủ nghĩa cộng sản. Với việc bùng nổ chiến tranh Triều Tiên 1950
đã buộc Mĩ đánh giá lại chính sách ngoại giao tại khu vực Châu Á, Mĩ chính thức sử dụng Đài Loan
cho chiến lược đảm bảo an ninh trên cơ sở đưa ra nhận định toàn cục “nếu Mĩ mất Nam Triều Tiên ở
phía Bắc, phía nam mất Đài Loan, Nhật Bản sẽ bị kịp giữa Nam Bắc, Philippin và các nước chống
cộng ở Đông Nam Á sẽ bị uy hiếp, phòng tuyến Tây Thái Bình Dương sẽ bị chặt thành mấy khúc”
[47;52]. Hạm đội 7 ngay sau đó có mặt tại đây làm nhiệm vụ, Mĩ tiến hành chính sách bao vây, cô lập
cộng sản Trung Quốc và quan hệ Mĩ – Tưởng trở lại nồng ấm. Như vậy, chính sách của Mĩ đối với
Trung Quốc có sự dao động theo biện độ đi từ can thiệp đến không can thiệp, cuối cùng thâm nhập sâu
rộng, điều này thể hiện trạng thái tự mâu thuẫn của Washington về nhiệm vụ đối ngoại. Hệ quả làm
quan hệ Mĩ – Trung leo thang suốt hai thập niên xung quanh vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Tầm quan trọng của cung phòng thủ Thái Bình Dương đã đưa đảo Đài Loan là một chốt điểm
quan trọng, đây là sự chuyển biến trong tầm nhìn sách lược của Mĩ.
Các nhà hoạch định chiến lược Nhà Trắng xem Trung Quốc gắn liền với lợi ích an ninh của
nước họ, nhất là tại khu vực châu Á trong bối cảnh chiến tranh lạnh và sẽ là một mối đe dọa nghiệm
trong nếu Trung Quốc “cấu kết” với Liên Xô. Trong báo cáo của hội đồng an ninh quốc gia tháng
4/1953 Mĩ nhận định nước này đang đối phó với “vấn đề trung tâm” rằng chế độ cộng sản ở Liên Xô
đang liên minh chặt chẽ với Trung Quốc nhằm kiểm soát Mĩ và đe dọa thế giới tự do, luận cứ này dựa
trên Hiệp ước tương trợ Xô – Trung kí tháng 2/1950 giữa hai nước XHCN. Trong tài liệu mang tên
“chiến lược để tăng cường sức mạnh và vị trí của Hoa Kì tại Viễn Đông” 4/1954 tiếp tục nhấn mạnh:
nếu được hỗ trợ từ Liên Xô, thậm chí chỉ dựa vào bản thân Trung Quốc, nếu Mĩ không có khả năng
chống đỡ cộng sản Trung Quốc có thể chinh phục toàn bộ khu vực Đông Nam Á theo đó các nước
không cộng sản ở Đông Á sẽ bị ảnh hưởng, mối đe dọa trực tiếp lúc này không phải từ Liên Xô đến mà
từ phía Trung Quốc. Việc Mĩ triển khai quân đội ngoài khơi đảo Đài Loan nhằm xóa đi lo lắng này
được thể hiện ngay khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ vì quan ngại Đại lục sẽ chinh phục Đài Loan
“bộ đội cộng sản chiếm lĩnh đảo Đài Loan sẽ uy hiếp trực tiếp đến an toàn của khu vực Thái Bình
Dương và quân đội Mĩ có trách nhiệm thi hành chức vụ hợp pháp và cần thiết ở khu vực này” [47;56].
Như vậy nỗi lo chủ nghĩa cộng sản sẽ xóa đi vị trí địa chiến lược này tại Châu Á – một phần trong
chiến lược toàn cầu của Mĩ đã phủ lên tư tưởng lãnh đạo Nhà Trắng. Trong quá trình triển khai tư
tưởng Mĩ đang phân vân làm thế nào để đối mặt với Trung Quốc một cách hiệu quả, có hai giải pháp
được đề xuất; thứ nhất thực hiện chia rẽ Xô – Trung nhằm cô lập nước này đi đến việc loại bỏ toàn bộ
sự cai trị của chủ nghĩa cộng sản; thứ 2, tăng cường “hợp tác” chính trị, kinh tế, quân sự ở Đông và
Đông Nam Á nhằm tạo nên một vòng cung phòng vệ ven Thái Bình Dương. Biện pháp thứ nhất Mĩ chỉ
có thể trở thành “ngư ông đắc lợi” những năm cuối thập niên 60, vào năm 1952 Acheson đã chia sẽ với
thủ tướng Anh Churchill rằng sự can thiệp của Trung Quốc vào cuộc chiến tranh Triều Tiên “đã làm
cho hi vọng sự chia rẽ Xô – Trung xem ra rất xa vời và không thể thành tựu trong lúc này” [15;136].
Còn giải pháp thứ 2, tuyến vòng cung đã được hình thành từ những năm 50, vì vậy sự toàn vẹn của
chuỗi phòng thủ trở thành trụ cột trong chính sách của Mĩ đối với Châu Á và vai trò của Đài Loan là
hiển nhiên.
Như vậy đến đầu năm 1950 cả 3 thế lực – CHND Trung Hoa; Mĩ ; Trung Hoa Dân Quốc đi từ
những tuyên cáo lẫn nhau đến những xung đột quân sự xung quanh địa vị pháp lí của Đài Loan.
Với Mĩ, như đã đề cập Đài Loan là điểm nút giao thoa nối liền Đông Bắc Á xuống Đông Nam Á
nếu chiến tranh nổ ra Mĩ không muốn hòn đảo nào rơi vào tay đối thủ của mình nhất là Liên Xô, vì
Moscow sẽ đặt căn cứ quân sự tại đây khi thành công trong việc thỏa thuận với Bắc Kinh. Đó là ý
nghĩa về chiến lược an ninh, quân sự.
Về mặt kinh tế, hòn đảo này giàu tài nguyên, nơi cung cấp nguồn lương thực cho Nhật Bản,
nguồn cung này sẽ bị thắt chắt nếu Trung Quốc cộng sản chiếm giữ, Nhật được Mĩ xây dựng, nâng lên
thành “lô cốt trung tâm bao vây chống cộng sản ở Đông Á”, vì lợi ích quốc gia Nhật sẽ thỏa hiệp với
Trung Quốc cộng sản, điều này phá tan kế hoạch của Washington. Đài Loan nằm phía Đông Nam Đại
lục, nơi gần nhất cách bờ biển khoảng 100 hải lí, Mĩ dễ dàng biến nó thành phám hạm chống lại một
nước Trung Quốc không thân thiện, thiếu tính tự do, dân chủ. Với quan điểm trên, Mĩ đã tiến hành
“làm đông lạnh địa vị của Đài Loan” [47; 60], để lí giải việc đưa quân vào án ngữ eo biển không vi
phạm chủ quyền của Trung Quốc vì địa vị pháp lí của hòn đảo này chưa được xác định – thuộc về
Trung Hoa hay tồn tại với tư cách là một quốc gia độc lập.
Đối với Tưởng, hòn đảo này là nơi trú ngụ cuối cùng của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc, nơi
sẽ khôi phục lại lực lượng chờ cơ hội phản công giành lại Đại lục từ tay Đảng cộng sản. Ý định chọn
Đài Loan đã được lực chọn trước khi Tưởng tháo chạy khỏi đất liền “chỉ cần có Đài Loan, Đảng cộng
sản sẽ không làm gì được chúng ta ngay cả khi toàn bộ Đại lục bị Đảng cộng sản chiếm, chỉ cần giữ
được Đài Loan thì ta có thể khôi phục lại được Đại lục”. Để tạo chổ dựa vững chắc ngoài sự nỗ lực,
chính quyền Tưởng phải cần đến chiếc ô bảo hộ của Mĩ về kinh tế, quân sự, ngoại giao. Từng bước Đài
Loan dưói quyền của Quốc Dân Đảng tuyên bố trở thành đồng minh của Mĩ.
Đối với Đảng cộng sản Trung Quốc thì cuộc nội chiến chỉ chấm dứt trên đất liền với Quốc Dân
Đảng, việc thu hồi Đài Loan dưới quyền quản lí của Đảng cộng sản sẽ là điểm cuối cùng để nước nhà
được thống nhất, điều quan trọng góp phần củng cố hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng với với dân
chúng. Trước những động thái từ Mĩ, Trung Quốc đã lên tiếng phản đối vì Đài Loan là bộ phận của
Trung Quốc, đây là công việc nội bộ, để chứng minh cho tuyên bố Bắc Kinh đã đưa ra những luận
chứng mà Mĩ và đồng minh đã từng thừa nhận: các văn kiện quốc tế Cairo 1943, Postdam 1945 – đây
là sự thật hiển nhiên. Lập trường của nước này là cứng rắn và rõ ràng.
Những biến đổi xung quanh vấn đề Đài Loan góp phần đưa quan hệ Mĩ – Trung thăng trầm theo
sự biến đổi đó.
Sau khi Hạm đội 7 của Mĩ được đều tới eo biển tháng 6/1950 nhằm “đề phòng một cuộc xung
đột có thể có giữa Đài Loan và Trung Quốc” [15;136], hai tháng sau tổng thống Truman chấp nhận lập
quan hệ với Đài Loan, theo đó các gọi viện trợ quân sự, kinh tế được thực hiện – đánh dấu việc Mĩ giúp
đỡ chính quyền Tưởng bảo vệ sự “toàn vẹn” của Đài Loan . Như vậy, địa vị của Đài Loan, Bành Hồ
dần được quốc tế hóa do những tuyên bố được cho là “không rõ ràng” bởi sự tính toán của các thế lực
có tham vọng sử dụng hoàn đảo được xem là mang tính chiến lược này. Vào tháng 6/1951, hai lần Liên
Xô đề nghị tiến hành hội nghị ngoại trưởng 4 nước ( Mĩ – Anh – Liên Xô – Trung Quốc cộng sản)
chuẩn bị cho việc kí kết hòa ước với Nhật để phân rõ địa vị của Đài Loan, nhưng Washington phản đối
vì cuộc họp có sự tham gia của Bắc Kinh và dựa trên quan điểm thuyết địa vị của Đài Loan chưa xác
định. Mĩ chỉ đồng ý thông qua hòa ước về Nhật Bản, có nội dung Nhật từ bỏ mọi quyền lực ở Đài
Loan, Bành Hồ và các đảo khác mà chưa quy định Đài Loan thuộc về ai. Bắc Kinh lập tức có thái độ
đáp trả, tuyên bố mọi hòa ước kí kết với Nhật Bản liên quan đến quyền lợi của CHNDTH mà không có
sự tham gia của nước này đều là phi pháp, vô hiệu, Đài Loan không có quyền đại diện Trung Quốc
tham gia kí kết các hiệp ước với Nhật Bản hay bất kì nước nào.
Trong cuộc bầu cử tổng thống Mĩ năm 1952, chính sách ngoại giao với Trung Quốc cộng sản
xung quanh vấn đề Đài Loan trở thành vấn đề để ghi điểm cho ứng viên nào có tư tưởng “thân Đảng
Quốc Dân”, tổng thống Truman đã thất cử do bị phê phán bởi một chính sách ngăn chặn tiêu cự, vô ích
và vô đạo lí đã “bỏ mất” Trung Quốc [15; 137]. Vì vậy ứng viên Đảng Cộng hòa sau khi lên nắm chính
quyền đã tiến hành những bước đi nhằm “giữ chặt” Đài Loan. Khi cuộc chiến tranh Triều Tiên đang
dần đi vào bế tắc, với những khó khăn nhất định Mĩ muốn tìm một giải pháp để thoát khỏi cuộc chiến
này, tổng thống Mĩ đã tuyên bố ủng hộ chính sách trung lập hóa biển Đài Loan, thực tế đang ra sức gây
sức ép với Trung Quốc buộc nước này đi vào bàn đàm phán. Trong thông điệp liên bang tháng 2/1953
tổng thống đã bày tỏ thái độ “không tiếp tục sử dụng hạm đội 7 làm lá chắn cho Trung cộng
nữa…chúng ta (Mĩ) tuyệt nhiên không có nghĩa vụ bảo vệ cho một đất nước đã đánh nhau với chúng ta
ở Triều Tiên” [24;277]. Tuyên bố này đã được chính quyền Tưởng ngầm hiểu họ đang được một lực
lượng lớn hậu thuẫn nên các cuộc xung đột quân sự giữa hai bờ eo biển là điều không tránh khỏi.
Thời điểm chiến tranh Triều Tiên diễn ra song hành với các tuyên bố mạnh mẽ về vấn đề Đài
Loan được các nhà phân tích cho rằng Nhà Trắng đang ra sức gây sức ép buộc Bắc Kinh nhượng bộ tại
cuộc chiến. Hội nghị Giơnevơ được triệu tập năm 1954 để giải quyết vấn đề Triều Tiên và Đông
Dương, nhằm tạo lập lại nền hòa bình tại các điểm nóng khu vực, nhiều vấn đề được bàn luận nhưng
vấn đề Đài Loan không được đề cập đến. Tư cách tham dự hội nghị của Trung Quốc cũng gây nên sự
bàn cãi, đại diện tham gia là CHNDTH hay Trung hoa Dân Quốc, cuối cùng CHNDTH được tham dự
nhưng Mĩ nhấn mạnh rằng, việc ngồi chung bàn đàm phán với Trung Quốc cộng sản sẽ không đồng
nghĩa với việc thừa nhận nước này là chính phủ duy nhất của người Trung Quốc. Bên lề cuộc đàm phán
đại sứ hai nước có gặp mặt nhằm tìm giải pháp cho vấn đề Đài Loan nhưng chỉ “là các cuộc đối thoại
giữa những người điếc” vì lập trường hai bên khác nhau. Mĩ vẫn giữ thái độ không được dùng vũ lực
giải quyết vấn đề này và tiếp tục công nhận địa vị quốc tế của Trung Hoa Dân Quốc tại Liên Hiệp
Quốc với luận điểm: có hai nước Triều Tiên, hai nước Việt Nam, hai nước Đức tại sao không thể tồn
tại hai nước Trung Hoa.
Khi hiệp định Bàn Môn Điếm đã kí kết, Bắc Kinh nghĩ đến việc triển khai quân giải phóng Đài
Loan bởi vì “đế quốc Mĩ rất kiêu căng, ngạo mạn….Trung Quốc nếu không tỏ thái độ gì về vấn đề Đài
Loan, mặc cho Mĩ tự do hành động thực hiện am mưu “một Trung Quốc, một Đài Loan”, ‘hai nước
Trung Quốc” hoặc quốc tế hóa vấn đề Đài Loan, thời gian cứ như thế trôi đi sẽ tạo cho thế giới ấn
tượng Đài Loan tách khỏi Đại lục” [26;268] “ Triều Tiên đình chiến, gánh nặng trên vai chúng ta nhẹ
đi rất nhiều nhưng e rằng chưa thể lơ là, phải chuẩn bị sẵn sàng đề phòn ngọn lửa chiến tranh lại bùng
nổ…..chúng ta hiện nay có thể rãnh tay, tôi (Mao) nghĩ cần tập trung giải quyết vấn đề Đài Loan,
…không giải phóng Đài Loan là không xong” [26;627]. Nhưng ý định này chưa thực hiện vì nước này
ý thức được thực lực của mình, nhất là với những tổn thất vừa thoát khỏi cuộc chiến tại Triều Tiên “3
năm chiến tranh Triều Tiên đã tiêu hao của nước Trung Quốc mới một khối lượng vật tư khổng lồ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần nhất, nguyên khí chưa kiệp phục hồi, nếu
muốn vượt biển Đài Loan tất phải ném vào đó một khối lượng lón tài lực, vật lực và nhân lực, rất bất
lợi cho công cuộc xây dựng kinh tế trong nước” và điều quan trọng “tình hình thế giới có xu hướng
hòa hoãn, nếu hành động quân sự với quy mô lớn ở eo biển Đài Loan sẽ không có lợi cho việc làm dịu
tình hình quốc tế, cũng không có lợi cho việc kiến thiết đất nước…hành động đó có thể gây phản ứng
mạnh mẽ từ phía Mĩ, đó là tấm thảm kịch…” [26;267,268]
Cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất đã diễn ra (từ tháng 9 đến 11/1954) kết quả từ
sự khác nhau về quan điểm của vấn đề này. Đây là đòn đánh phủ đầu mang tính cảnh báo âm mưu của
Mĩ và Đài Loan của Trung Quốc sau khi cả hai thế lực đang có thỏa thuận đi đến kí kết “Hiệp ước
phòng thủ chung” (Joint defense trecity), đến đầu tháng 12/1954 Hiệp ước Mĩ – Đài chính thức được kí
kết gây nên một sự công kích mạnh mẽ từ Bắc Kinh: đây là một sự khiêu khích chiến tranh nghiêm
trọng chống CHNDTH và nhân dân Trung Quốc; hiệp ước Mĩ – Tưởng là hiệp ước mang tính chất xâm
lược…Đài Loan là lãnh thổ của nhân dân Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc quyết giải phóng Đài
Loan…chỉ có giải phóng Đài Loan thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của….Tưởng Giới Thạch nhân dân
Trung Quốc mới hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước hoàn toàn, góp phần bảo vệ nền hòa bình ở
Châu Á và thế giới. Mọi chủ trương về cái gọi là “nước Đài Loan độc lập, trung lập hóa Đài
Loan…trên thực tế điều là những âm mưu chia cắt lãnh thổ của Trung Quốc…can thiệp vào công việc
nội bộ của Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc quyết không thể đồng ý” [26;290].
Cuộc khủng hoảng nhanh chóng trở thành tiêu điểm nóng của quốc tế, trong khoảng thời gian
này trong chính quyền Washington tồn tại những luồng ý kiến cho rằng xét về mặt phòng thủ Đài Loan
và những đảo lận cận không quan trọng về mặt quân sự nhưng lại tán thành nếu Mĩ không viện trợ cho
Quốc Dân Đảng thì chính quyền này khó giữ được đảo bởi các cuộc tấn công từ Đại lục và điều này
ảnh hưởng đến chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Châu Á, Mĩ sẽ tự mình vi phạm một số
nguyên tắc cam kết cho Đài Loan đã kí trong hiệp ước phòng thủ chung.
Ngoài việc “quốc tế hóa” vấn đề Đài Loan ra Liên Hiệp Quốc, Mĩ có ý định sử dụng vũ khí hạt
nhân để giải quyết khủng hoảng nhưng ý đồ này đã bị phản đối vì quan ngại một cuộc khủng hoảng
mang tính quốc tế sẽ lôi kéo nhiều nước tham gia. Sự đơn phương hành động của Mĩ ngày càng tăng
được thể hiện qua một loạt các hiệp ước, hiệp định như ngày 28/1/1955 Thượng viện Mĩ thông qua
“Nghị quyết về vấn đề Đài Loan”, trao quyền cho tổng thống Mĩ có thể áp dụng các biện pháp cần thiết
và thích hợp để can thiệp vào Đài Loan bất kì lúc nào mà không cần thông qua nhà cầm quyền Đài
Loan. Chính quyền Đài Loan không thể hiện thái độ về nghị quyết mang tính áp đặt này vị họ đang phụ
thuộc vào Washington về nhiều mặt.
Như vậy, tình trạng căng thẳng ngày càng tăng tại eo biển Đài Loan đã gây lo ngại cho nhiều
nước. Phía Trung Quốc cũng bày tỏ quan điểm cần giải quyết mâu thuẫn Trung – Mĩ về vấn đề Đài
Loan trong hòa bình trước khi tham gia dự hội nghị Á – Phi (Bandung) để nâng uy tín nước này trong
thế giới thứ ba. Do vậy, Mĩ – Trung đã tiến hành các cuộc gặp cấp đại sứ để tìm kiếm một giải pháp tối
ưu “nếu hai bên có thiện chí như nhau sẽ góp phần làm dịu căng thẳng Trung – Mĩ”. Kết quả sau trên
10 vòng đàm phán một hiệp nghị được thông qua nhưng “đây là một bản thông cáo kì hoặc đã được
lao tâm khổ tứ nặn ra trong tình trạng hai bên không công nhận lẫn nhau” [26;309]. Các cuộc đàm
phán Trung – Mĩ vẫn tiếp tục được tiến hành nhưng lại theo phương châm “kéo dài nhưng không làm
tan vỡ” vì vậy một giải pháp đổng thuận cho hai bờ eo biển và chấm dứt sự hiện diện của quân đội Mĩ
tại đây vẫn bỏ ngõ.
Những chuyển biến trong quan hệ quốc tế, cùng thái độ, quan điểm không đồng thuận của các
bên tiếp tục gây ra cuộc khủng hoảng hai bờ eo biển lần thứ 2 năm 1958. Đây cũng là cuộc pháo kích
bởi chính quyền Đại lục, sự kiện bất ngờ này đưa Đài Loan tiến hành ban bố tình trạng khẩn cấp luôn
trong tư thế sẵn sang đáp trả. Các đợt pháo kích dữ dội vào các đảo ven biển tỉnh Phúc Kiến – nơi có
quân đội Đài Loan đồn trú vào tháng 8/ 1958, một lần nữa đặt ra cho Washington “nhiệm vụ bảo vệ sự
toàn vẹn cho Đài Loan”, 6 tàu chiến cùng 2000 lính thủy đánh bộ được đều động tăng cường cho hạm
đội 7 ở eo biển Đài Loan.
Có thể thấy các cuộc xung đột quân sự tại khu vực eo biển chỉ xảy ra khi sự tham gia đàm phán
của các bên đi vào gián đoạn, bế tắc. Giải quyết bằng quân sự không được xem là giải pháp tốt nhất
cho các bên liên quan. Vì vậy, trong thời gian xung đột cả Mĩ, Đài Loan và Trung Quốc tiến hành hoạt
động ‘vừa đánh, vừa đàm”. Sau đó các cuộc xung đột lắng xuống nhưng quan hệ Trung Quốc với Mĩ,
Đài Loan vẫn căng thẳng. Cho thấy, việc tranh cãi về địa vị pháp lí của Đài Loan là nguyên nhân gây ra
các cuộc khủng hoảng hai bờ eo biển. Vấn đề có thể chuyển biến theo hướng khác nếu sự giải quyết đó
bao gồm Đảng cộng sản và Quốc Dân Đảng nhưng tình hình lại chuyển biến với các cuộc xung đột bởi
có sự hiện diện của Mĩ. Điều này tạo nên bản chất mối quan hệ Trung Quốc – Mĩ trước thập niên 70 là
thù địch, cảnh giác lẫn nhau.
Mĩ – Trung trong các cuộc đàm phán về địa vị pháp lí của Đài Loan
Một thập niên (1960 – 1970) những chuyển biến trong xu hướng quan hệ quốc tế, hoàn cảnh nội
tại từng nước đã tác động ít nhiều đến chính sách đối ngoại Mĩ, Trung giành cho nhau. Về căn bản,
căng thẳng giữa hai nước tiếp tục leo thang vào đầu thập kỉ 60 với một loạt các sự kiện tác động, Mĩ
đang can thiệp sâu rộng vào cuộc chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc giai đoạn này là đồng minh viện
trợ cho Bắc Việt Nam chống Mĩ. Trong khoảng thời gian này những mâu thuẫn trong quan hệ Xô –
Trung đã nảy sinh và ngày càng sâu sắc, đến cuối thập niên 60 lên đến đỉnh cao. Chiến tranh tại Việt
Nam gây cho Mĩ nhiều khó khăn nhất định: kinh tế chính trị giảm sút, uy tín trên trường quốc tế giảm
ảnh hưởng rõ nét. Dù vậy cuộc chiến đối đầu với Liên Xô vẫn không sao lãng, tìm kiếm thêm đồng
minh vừa là giải pháp giảm bớt những khó khăn đang gặp phải, vừa để cân bằng chiến lược với
Moscow luôn được Washington chú trọng. Khi mâu thuẫn với Liên Xô cần giải quyết, Trung Quốc đã
nhận ra “vai trò, giá trị” của Mĩ, dù mâu thuẫn với Liên Xô không phải là nhân tố duy nhất để nước này
xích lại gần Mĩ bởi vì nước này muốn thay đổi địa vị trên trường quốc tế trước hết là trở thành đại diện
duy nhất của nhân dân Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế, giải pháp Đài Loan đã
đem đến cho nước này cơ hội để thể hiện ý muốn trên.
Các cuộc đàm phám Mĩ – Trung được xúc tiến trở lại, Đài Loan trở thành trung tâm của các
chương trình nghị sự. Thời kì Nixon nắm quyền, Nhà Trắng có sự chuyển biến trong chính sách ngoại
giao với Trung Quốc theo hướng mở hơn, tổng thống cho rằng, cần thiết phải tạo lập một cuộc đối
thoại với Bắc Kinh và sẽ không có một thách thức nào để góp phần đưa CHNDTH hòa nhập với cộng
đồng thế giới, trước hết là tại Châu Á. Một vấn đề lớn đặt ra cho Nixon là phải giải quyết được mối
quan hệ với hai chính phủ Trung Quốc, chính phủ nào là chính phủ hợp pháp duy nhất của người Trung
Quốc, khi trước đây Mĩ chỉ công nhận Đài Bắc. Đây chính là mối thắt nếu Mĩ muốn “thận thiện” với
Bắc Kinh, và nếu công nhận chính phủ Đảng cộng sản thì Washington sẽ phải tìm cách “ứng xử” khéo
léo bởi phản ứng từ chính quyền Đài Loan.
Thông qua các kênh ngoại giao gián tiếp hai bên bắt đầu bày tỏ quan điểm về Đài Loan, Chu Ân
Lai đại diện Trung Quốc thông qua tổng thống Pakistan tháng 11/1970 gởi thông điệp nếu Mĩ thật sự
có nguyện vọng và biện pháp hòa giải thì nước này sẵn sang hoan nghênh tiếp kiến. Đây là thông điệp
mở sau khi Bắc Kinh nhận được tin hiệu từ Washington mong muốn tiến hành đối thoại với người
Trung Quốc bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Ngày 9/7/1971 ngoại trưởng Mĩ chính thức đặt chân đến
Bắc Kinh mở đầu cho lịch sử “hợp tác” vì lợi ích hai bên sau “cái bắt tay không bình thường sau 29
năm xa cách” [26;624]. Nhà Trắng đưa ra 5 điểm xung quanh vấn đề Đài Loan ngay sau khi hội đàm
được diễn ra:
1. Chính phủ Hoa Kì dự định sau khi chiến tranh Đông Dương kết thúc sẽ rút 2/3 quân số ra
khỏi đảo và sẵn sang giảm bớt lực lượng quân sự còn lại ở đây theo tiến trình cải thiện quan hệ hai
nước;
2. Không ủng hộ chủ trương hai nước Trung Quốc hoặc một Trung Quốc, một Đài Loan nhưng
mong muốn giải quyết vấn để này trong hòa bình về vấn đề này;
3. Thừa nhận Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc;
4. Hiệp ước Mĩ – Tưởng dành lại cho lịch sử giải quyết;
5.Và Mĩ sẽ không chỉ trích và cô lập Trung Quốc, ủng hộ vị thế của nước này tại Liên Hiệp
Quốc nhưng kèm theo đó không tán thành việc trục xuất đại biểu Đài Loan.
Đây là dự thảo mang tính đơn phương từ Mĩ, không thể tác động đến lập trường trước sau của
Trung Quốc về vấn đề Đài Loan. Do vậy, dự thảo này cùng chuyến thăm bí mật của Kissinger chỉ
nhằm dọn đường cho một chuyến thăm cấp cao hơn vào năm sau nên thành công của chuyến đi này là
nhận được cái gật đầu đồng ý đàm phán về sau. Một tháng sau cuộc gặp, Kissinger trở lại Trung Quốc
xúc tiến mạnh mẽ cho chuyến thăm lịch sử của Nixon, trên cơ sở dự thảo đề xuất trước đó, ngoại
trưởng trao cho Trung Quốc bản chính thức với những vấn đề sẽ là nội dung chính để đàm phán với
Tổng thống Mĩ tháng 2/1972. Sau khi nhận được Bắc Kinh biểu hiện sự không hài lòng với Mĩ về một
số vấn đề vì nó mang tính cá nhân từ phía Washington, dự thảo vẫn xem Đài Bắc là một chính phủ độc
lập. Để cho Trung Quốc chấp nhận, ngoại trưởng Mĩ lập luận “nếu chúng tôi bắt đầu quan hệ giữa
chúng ta (Mĩ – Trung) mà vứt bỏ bạn cũ (Đài Loan) của chúng tôi thì người Trung Quốc sẽ không tôn
trọng chúng tôi….chúng tôi không cắt đứt quan hệ với Đài Loan, vấn đề giữa chúng ta phải để cho lịch
sử giải quyết, chứ không phải giải quyết bằng vũ lực” [42;361], “hai bên Trung – Mĩ còn có những bất
đồng to lớn, nếu chúng ta dùng ngôn ngữ ngoại giao để che đậy những bất đồng đó, lấy thông cáo
ngụy trang quan điểm nhất trí từ nay về sau làm sao giải quyết được vấn đề” [27;501]. Rõ ràng Bắc
Kinh không hài lòng với những tuyên bố mang tính chất lý thuyết suông và không rõ ràng, bởi vì nhận
thấy những điều đó không có giá trị pháp lí để bắt buộc các bên tuân thủ vấn đề cần giải quyết. Điều
này càng cho thấy, thông cáo chỉ thể hiện lập trường của các bên, còn việc thực hiện đúng tinh thần
chung đã tuyên bố hay không còn là vấn đề tùy thuộc vào hoàn cảnh tác động “thông cáo do hai bên tự
trình bày lập trường quan điểm bất đồng”. Vấn đề Đài Loan trở nên căng thẳng bởi các bên tham gia
thảo luận, Trung Quốc vẫn cho rằng cách làm của Mĩ là “không thể chấp nhận” được, Mĩ là người buộc
chuông theo cách nghĩ gây ra vấn đề Đài Loan nếu muốn bình thường hóa quan hệ thì phải tự cởi
chuông. Đánh giá thái độ của Washington hiện tại, Trung Quốc chỉ trích “các ông không những không
có bất cứ thay đổi gì đối với hiện thực đó, mà còn tiếp tục phong tỏa, cô lập chúng tôi trên các mặt”
[27;504], nước này đặt vấn đề liệu Nhà Trắng có thiện chí muốn thay đổi quan hệ với Trung Quốc hay
không khi vẫn kiên trì quan điểm “không bỏ rơi Đài Loan” và đề cập vấn đề này có thể kéo dài 100
năm nếu thật sự Mĩ có thiện chí bình thường hóa quan hệ. Mặc dù có những tuyên bố gây khó chịu cho
Washington nhưng phía Bắc Kinh cũng nhận thấy không thể để vấn đề Đài Loan gây ảnh hưởng toàn
diện đến quan hệ giữa chính phủ hai nước. Cả Mĩ và Trung Quốc đang cần đến nhau trong giai đoạn
quốc tế với nhiều sự kiện tác động, Đài Loan chỉ là một trong hàng loạt vấn đề, vì thế nếu đạt được một
sự nhượng bộ cần thiết cả hai bên sẽ đạt được những điều mong muốn trong chính sách đối nội lẫn đối
ngoại. Dù chưa đạt được sự thỏa mãn hoàn toàn giữa hai bên nhưng chuyến đi POLO 2 của Kissinger
cũng thành công khi đạt được một số thỏa thuận với Bắc Kinh những nội dung sẽ đem ra bàn luận
chính thức năm 1972.
Trong cuộc vận động bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, phía Mĩ đều cố gắng tận dụng
đôi khi chấp nhận một số điều kiện làm hài lòng đối phương xem như đó là thiện chí cần thể hiện. Việc
chấp nhận để Đài Loan bị trục xuất khỏi Liên Hiệp Quốc là một sự nhượng bộ của Mĩ, dù cho sự
nhượng bộ này nằm trong sự tính toán chiếc lược. với nghị quyết 2758 (ngày 25/12/1971) của Đại hội
đồng đã đưa CHNDTH chính thức đại diện hợp pháp và duy nhất cho nhân dân Trung Quốc sau khi
Trung Hoa Dân Quốc bị khai trừ. Đây là một thắng lợi quan trọng mang ý nghĩa ngoại giao dù Mĩ có
chấp nhận hay không, đối với Trung Quốc đó là một sự thật hiển nhiên: Đài Loan là của Trung Quốc,
thống nhất bằng giải pháp gì do người Trung Quốc tự giải quyết. Điều quan trọng, sau này Mĩ trở lại sự
“thân mật” với Đài Loan phải chú ý đến thái độ của nhiều nước không riêng gì Trung Quốc và nước
này sẽ có đủ giá trị pháp lí mang tính quốc tế bắt buộc các nước khác phải tôn trọng chủ quyền toàn
vẹn lãnh thổ “chiếm ¼ dân số thế giới, nước CHNDTH lực lượng mới trỗi dậy thực sự đại diện cho
nhân dân đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức quốc tế” [26;338]. Sự đơn phương hành động
của một nước dựa trên sức mạnh tổng hợp quốc gia trong chính sách đối ngoại đối với một nước hay
một nhóm nước luôn gây sự lo lắng từ đối phương. Với chiến lược toàn cầu mà Mĩ triển khai luôn gây
sự “bất bình, phản ứng” của các nước vì Washington dựa trên giá trị Mĩ, hòa bình, dân chủ kiểu Mĩ
mang tính áp đặt, can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Lịch sử đã chứng minh cho nhận định
trên, việc giành thắng lợi trên trường quốc tế về vấn đề Đài Loan cũng chưa thể cam kết hay nói lên
điều gì để đảm bảo cho sự toàn vẹn lãnh thổ, vì Trung Quốc nhận thấy Mĩ sẽ không dễ dàng chấp nhận
vấn đề này, khi lòng tự tôn của nước này bị “xúc phạm” nhất là trong mắt đồng minh vị thế và vai trò
bị giảm sút do không thể bảo vệ được “bạn bè”. Trong thời kì chiến tranh lạnh việc tập hợp đồng minh
là một trong những yêu cầu cần và đủ để chống lại các thế lực đối lập. Vì vậy, trong một tuần viếng
thăm Trung Quốc của tổng thống Mĩ Nixon, Bắc Kinh muốn Washington cam kết bằng văn bản về vấn
đề Đài Loan, để nó mang giá trị pháp lí hơn và là cơ sở để Mĩ không thể đơn phương can thiệp vào mối
quan hệ giữa hai bờ eo biển. Thông cáo Thượng Hải 1972 là ghi nhận cuối cùng sau tuần lễ hội đàm
giữa đại diện hai nước, về vấn đề Đài Loan lần lượt được xác nhận, hai bên đã nhận thấy sự tranh chấp
lâu dài nghiêm trọng giữa Trung Quốc và Mĩ. Trung Quốc tái khẳng định: vấn đề Đài Loan là vấn đề
cản trở việc bình thường hóa quan hệ giữa hai bên, chính phủ CHNDTH là chính phủ hợp pháp duy
nhất của người Trung Quốc; Đài Loan là một tỉnh của nước này trong một thời gian dài đã trở về quê
hương; việc giải quyết vấn đề Đài Loan là việc nội bộ, không quốc gia nào có quyền can thiệp, tất cả
các lực lượng quân sự Mĩ phải rút khỏi hòn đảo này. Điều quan trọng của tuyên cáo, chính phủ Trung
Quốc kiên quyết phản đối bất kì hoạt động nào nhằm tạo ra một nước Trung Quốc, một nước Đài Loan
hay một nước Trung Quốc hai chính phủ hay chỉ trương tình trạng của đảo Đài Loan là không xác định.
Phía Mĩ cũng tuyên bố: Mĩ xác nhận rằng tất cả người Trung Quốc ở hai bên bờ eo biển Đài Loan chỉ
có một nước Trung Quốc, Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc, chính phủ Mĩ sẽ không thách thức
vị trí đó; tái khẳng định giải quyết vấn đề Đài Loan trong hòa bình, chính phủ Hoa Kì sẽ rút toàn bộ lực
lượng vũ trang và các thiết bị quân sự của Mĩ ra khỏi Đài Loan khi vấn đề được giải quyết một cách
hòa bình trong tương lai. Trong thời gian này, Mĩ sẽ giảm dần lực lượng quân sự cùng các căn cứ ra
khỏi Đài Loan để giảm sự căng thẳng trong khu vực.
Mặc dù thông cáo 1972 được nhận định “nhìn chung mang tính không rõ ràng” [6;626] nhưng
nó đánh dấu sự kết thúc chính sách ngăn chặn mang tính thiếu thiện cảm đối với Trung Quốc và đạt
được một số thỏa thuận đầu tiên chính thức về giải pháp Đài Loan, thay đổi cách can thiệp của Mĩ vào
công việc nội chiến của Trung Quốc từ cuộc chiến tranh Triều Tiên. Đến đây nhân tố bế tắc trong quan
hệ giữa hai nước đã được khai thông “giải quyết vấn đề Đài Loan là điều kiện tiên quyết để giải quyết
các xung đột khác” [61].
Vấn đề Đài Loan được khai thông là một tín hiệu đáng mừng cho chính quyền Bắc Kinh, nhưng
đối với Washington lại là một sự tranh cãi trong nội các Nhà Trắng, nhất là nó được các đối thủ đối lập
sử dụng như một thiết yếu cho quyền lợi của họ “một khi chúng ta bán rẽ (Đài Loan) cho Trung Quốc
thì chẳng có bất kì sự khác biệt nào” [50;249] và “Bản thông cáo tượng trưng cho một sự g công nhận
khôn chính thức về chính quyền cộng sản. Nó là một sự phản bội đối với Đài Loan” [50;250]. Đây
không phải là lần đầu tiên những người có tư tưởng chống việc Mĩ – Trung thỏa thuận liên quan đến
địa vị pháp lí của đảo Đài Loan, ngay sau khi có kết quả bỏ phiếu trục xuất Đài Loan tại Liên Hiệp
Quốc đã có sự phản ứng mạnh mẽ tử phe ủng hộ Đài Loan. Nhưng lợi ích chiến lược nếu hòa hoãn với
Trung Quốc đã mang lợi thắng thế cho phe ủng hộ tư tưởng hòa giải.
Đạt được những cam kết như thế, nhưng phía Bắc Kinh còn phải tiếp tục nổ lực đấu tranh đòi
Washington phải nghiêm chỉnh thực hiện các tuyến bố. Thực tế cho thấy thông cáo 1972, như đề cập
xét ở một góc độ nào đó chưa tạo nên bước đột phá lớn về ngoại giao giữa hai nước, mãi đến năm
tuyên cáo năm 1978 với việc tuyên bố chính thức bình thường hóa quan hệ giữa hai nước thì vấn đề
Đài Loan dần trở nên rõ ràng hơn, nó được xem là văn bản chính thức hợp pháp hóa.
Sau chuyến thăm lịch sử đến Trung Quốc, Nixon bước vào cuộc tranh cử tổng thống và đã đắc
cử nhiệm kì hai nhưng sự nghiệp chính trị của ông phải kết thúc không lâu sau đó bởi vụ bê bối chính
trị Watergate. Các chuyên gia về quan hệ Mĩ – Trung nhận định nếu không có vụ bê bối này, quan hệ
Mĩ – Trung có thể sẽ được mở rộng hơn trong nhiệm kì hai của ông. Sau khi Nixon từ chức, phó Tổng
thống Ford lên thay nên tiến trình khởi động bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc được tiếp tục,
trong chuyến thăm tới Bắc Kinh 12/1975 của Ford “về việc giải quyết vấn đề Đài Loan, hai bên không
nêu ra sáng kiến gì mới” [26;673]. Vì sau khi kết thúc hội đàm trong chuyến thăm này, hai bên không
kí kết văn kiên hay ra tuyên bố chung vì vậy chuyến công du của Ford “không mất cái gì mà cũng
chẳng được cái gì” [26;674] nhưng Đài Loan vẫn ngầm hiểu nó là nguyên tắc chỉ đạo song phương cho
tiến trình công nhận hoàn toàn và lập quan hệ ngoại giao chính thức, bởi vì trong bất kì các cuộc tiếp
xúc nào giới lãnh đạo Bắc Kinh đều yêu cầu chính phủ Mĩ phải có tuyên bố dứt khoát về Đài Loan.
Trước chuyến thăm của Ford, vào tháng 11/1975 Kissinger đã đến Trung Quốc đưa ra phương án giải
quyết vấn đề Đài Loan theo “phương thức Nhật Bản”: Mĩ sẽ đồng ý sau đó rút hết quân đội tại đảo Đài
Loan cuối năm 1977, xem xét hiệp ước phòng thủ Mĩ – Đài Loan nếu Trung Quốc tuyên bố giải quyết
vấn đề trong hòa bình và Mĩ sẽ lập một phòng liên lạc tại hòn đảo này trong quá trình mở cửa đại sứ
quán tại Bắc Kinh . Rõ ràng một bộ phận giới chức Nhà Trắng vẫn có tư tưởng “Hiệp ước phòng thủ
chung với Đài Loan có thể sẽ mất tính hiệu lực pháp lí sau khi Washington phá vỡ quan hệ với Đài Bắc
và do đó Hoa Kì sẽ không còn cơ sở pháp lí nào để can thiệp vào một cuộc sung đột ở Đài Loan” do
vậy “an ninh của Đài Loan sẽ có thể phải dựa chủ yếu trên các tuyên bố” [50;316,317]. Trung Quốc
tiếp tục thể hiện thái độ kiên quyết trong đàm phán, việc thiết lập văn phòng liên lạc tại Đài Loan
chẳng khác nào vẫn duy trì phương thức một Đài Loan, một Trung Quốc “Trung Quốc dứt khoát không
thể chấp nhận được”, vấn đề hiệp ước phòng thủ chung Mĩ – Đài cũng “cần phải xóa bỏ theo nguyên
tắc của thông cáo Trung – Mĩ, sau khi Mĩ cắt đứt quan hệ ngoại giao, xóa bỏ hiệp ước với Đài Loan, rút
quân, vấn đề Đài Loan nên để cho người Trung quốc tự giải quyết, đó là công việc nội bộ của Trung
Quốc, giải quyết theo phương thức nào cũng là công việc của người Trung Quốc”. Đây là điệp khúc
nhắc nhở mà Bắc Kinh luôn muốn Washington thực hiện nghiêm chỉnh mỗi dịp tiếp xúc diễn ra. Như
vậy quan điểm vể một giải pháp cho tương lai Đài Loan tiếp tục bị bỏ ngõ, dù có lần Mĩ phát biểu
“không chúng tôi không cần Đài Loan” [50;340], nhưng không tạo lòng tin cho Trung Quốc vì “dường
như Mĩ vẫn cần Đài Loan” [50;340].
Từ Nixon rồi đến Ford, đều tồn tại tư tưởng trong nhiệm kì của họ sẽ sẽ thực trọn vẹn việc thiết
lập quan hệ đầy đủ với Trung Quốc, nhưng lịch sử đã diễn ra với nhiều thăng trầm, tác động làm cho
dự tính đôi khi không đạt được. Cater trên cơ sở kế thừa, tiếp nối nền tảng mà các tổng thống trước tạo
dựng, thực hiện hoàn chỉnh việc bình thường hóa quan hệ với CHNDTH. Trãi qua một số cuộc tiếp
xúc, cuối cùng hai bên đi đến tuyên bố chung cho vấn đề luôn gây tranh cãi – Đài Loan: Hoa Kì thừa
nhận lập trường của Trung Quốc là chỉ có một nước Trung Quốc, Đài Loan là một bộ phận của Trung
Quốc, thừa nhận chính phủ nước CHNDTH là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc trong
khuôn khổ đó, nhân dân Mĩ chỉ duy trì các quan hệ phi chính phủ về văn hóa, thương mại….với nhân
dân Đài Loan. Trước đó Mĩ cũng đã đưa ra điều kiện “sau khi bình thường hóa quan hệ Trung – Mĩ
phải đảm bảo không để ảnh hưởng đến các quan hệ mậu dịch, đầu tư, thương mại…giữa Mĩ và Đài
Loan và cho phép quan chứ Mĩ tiếp tục ở lại Đài Loan theo sự dàn xếp phi chính thức” [26;694]. Với
quan điểm này, Trung Quốc đã có sự nhượng bộ, không gay gắt như các tuyên bố trước đó. Trung
Quốc chấp nhận, yêu cầu Mĩ phải “có đi có lại” đồng ý các điều kiện quan trọng.
Ngày 01/01/1979 hai bên chính thức thiết lập quan hệ đầy đủ, mặc dù nhiều vấn đề còn bấp cập
trong quan hệ hai nước. Phía Mĩ yêu cầu Trung Quốc ra một tuyên bố rõ ràng sẽ dùng hòa bình giải
quyết vấn đề Đài Loan, Trung Quốc lại nhấn mạnh đó là công việc nội bộ, việc dùng giải pháp nào thì
người Trung quốc sẽ tự khắc biết. Mĩ lại cho rằng việc bán vũ khí tiếp tục cho Đài Loan mục đích là
giúp hòn đảo này “tự vệ” bởi các cuộc tấn công từ bên ngoài. Trung Quốc phản đối điều này vì không
phù hợp với các nguyên tắc bình thường hóa quan hệ, ảnh hưởng đến hòa bình, an nhin khu vực vì Bắc
Kinh hiểu “mang tính chất phòng thủ đang ám chỉ và cảnh báo Đại lục không nên dung vũ trang thống
nhất Đài Loan nếu không muốn tình hình thêm phức tạp”. Hai bên luôn có cách hiểu vấn đề khác nhau,
dù tin rằng “bình thường hóa quan hệ Trung – Mĩ không chỉ vì lợi ích dân tộc Trung Quốc và Mĩ mà
còn góp phần vào sự nghiệp hòa bình ở Châu Á và thế giới” [64].
Tóm lại vấn đề Đài Loan đã gây ra sự thăng trầm, ảnh hưởng rõ nét đến quan hệ Mĩ – Trung nói
riêng và có tác động đến cục diện quan hệ quốc tế nói chung. Mĩ đã bảo trợ Đài Loan như một lực
lượng thách thức Trung Quốc cộng sản, tùy thuộc vào tình hình trong nước, xu thế quan hệ quốc tế lúc
bấy giờ mà chính sách ngoại giao của Washington đối với Bắc Kinh và Đài Bắc “lúc trầm, lúc bổng”.
Ba mươi năm (1949 -1979) tranh cãi về vị thế của Đài Loan đã có sự ngã ngũ bởi chính sách ngoại giao
đầy toan tính của Washington lẫn Bắc Kinh.
3.2. Tác động của quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa đến hai nước và các nước khác (1972 – 1991)
“Việc Trung Quốc được tham gia vào các cân quyền lực trung tâm giữa Mĩ và Liên Xô không
ảnh hưởng gì lớn đối với hệ thống lưỡng cực toàn cầu nhưng chắc chắn có hiệu quả tức thời trên khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương” [57;90]. Lịch sử đã chứng minh, quan hệ Mĩ – Trung ảnh hưởng
trước hết đến chính bản thân hai nước với nhau, cùng tất cả những yếu tố tạo nên mối quan hệ này:
Liên Xô, chiến tranh Việt Nam, vấn đề đài Loan và một số yếu tố khác, góp phần tạo nên sự đa dạng,
phức tạp trong suốt khoảng thời gian chiến tranh lạnh diễn ra.
3.2.1. Tác động đối với hai nước Hoa Kì và CHND Trung Hoa
Cả Mĩ và Trung Quốc đều đạt được những kết quả cơ bản như mong muốn giữa hai bên về
chính trị; kinh tế; an ninh, dù tùy thời điểm, trong từng trường hợp cụ thể, vì những lợi ích chiến lược
quốc gia Mĩ và Trung Quốc có những quan điểm tương đồng hay tương khắc. Trong quan điểm đối
ngoại từ khi bắt đầu khởi động cho tiến trình đàm phán, có những khoảng thời gian quan hệ hai nước bị
chững lại, không tiến triển nhưng hai bên vẫn cố gắng đảm bảo đàm phán không bị đổ vỡ hoàn toàn.
Với Mĩ, từ khi xung đột Trung – Xô diễn ra được xem là cơ hội cho nước này xây dựng nên mối
quan hệ tay ba và sử dụng nó vừa để đối trọng, kiềm chế Liên Xô vừa ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung
Quốc, Mĩ đã biết khai thác một cách tinh tế nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, tiến đến thực hiện trọn
vẹn chính sách ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản và chính sách toàn cầu. Trung Quốc là một quốc gia rộng
lớn về diện tích và dân số, tư tưởng lợi ích kinh tế này đã tồn tại trong giới lãnh đạo Nhà Trắng trước
cả thời kì chiến tranh thế giới thứ hai, đến cuối thập niên 60 chính sách ngoại giao hòa bình được thay
thế bằng chính sách quân sự đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư Mĩ có cơ hội đầu tư phát triển kinh tế
tại đây. “Chính sách đối ngoại của Hoa Kì luôn luôn …mang đặc tính của chủ nghĩa lí tưởng…nó
không phải là sự cố gắng đạt tới bất kì giải pháp nào có thể, song nó thực hiện điều đó trong khuôn
khổ các nguyên tắc và giá trị” – nhận xét này hoàn toàn có cơ sở trên nên tảng đúc kết lịch sử ngoại
giao của Mĩ.
Với Trung Quốc, sự thay đổi trong thái độ liên minh với Mĩ và Liên Xô là biện pháp để nước
này vừa bảo đảm lợi ích an ninh quốc gia vừa tận dụng tốt cơ hội thu hút đầu tư, viện trợ phát triển
kinh tế đất nước nhất là trong giai đoạn vốn và kĩ thuật công nghệ mà nước này đang thiếu, qua đó thể
hiện rõ bản chất: chính sách đối ngoại của một nước là sự tiếp nối và hơn nữa, quán triệt và phục vụ
chính sách đối nội của nước đó. Điều quan trọng Trung Quốc cũng muốn thể hiện là một quyền lực thật
sự trong một thế giới đang bị chi phối mạnh mẽ bởi hai cực và cuộc chiến tranh lạnh.
Từ khi ra đời năm 1949, nước này ý thức cần phải xây dựng một nước Trung Quốc mới dựa trên
những giá trị lịch sử hiện có nhằm thoát khỏi thời kì bị nô lệ dưới ách thực dân để không lạc hậu và bị
coi thường. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh phủ lên khắp thế giới, củng cố an ninh quốc gia và nâng
cao địa vị quốc tế là cách để Trung Quốc bảo đảm tính tự chủ, sự toàn vẹn lãnh thổ bởi vì sự kết hợp
giữa “nội loạn và ngoại loạn – có lúc chủ nghĩa đế quốc do Mĩ đứng đầu, đôi lúc là Liên Xô” luôn là
mối đe dọa thường trực đến an ninh quốc gia. Vì thế mục tiêu củng cố an ninh và nâng tầm địa vị quốc
tế luôn tương hỗ với nhau, với Trung Quốc an ninh quốc gia cần phải có sự cam kết và tìm kiếm những
phương cách bảo vệ đất nước về mọi mặt từ hệ tư tưởng, lãnh thổ đến nền độc lập – trong quá trình xây
dựng một nước Trung Quốc đã thể hiện điều đó, từ liên minh với Liên Xô như một cách để thỏa mãn
một số yêu cầu về an ninh và cho sự phát triển đất nước, đến việc bình thường hóa quan hệ với Mĩ cũng
như nhiều nước khác trên thế giới cũng xuất phát từ mục tiêu chung đó. Về địa vị quốc tế được hiểu
một cách rộng hơn, đó là sự toàn vẹn lãnh thổ, tiềm lực kinh tế, chính trị, tiếng nói trên các diễn đàn
quốc tế.
Như vậy, với chính sách ngoại giao thay đổi một cách linh hoạt Trung Quốc đã đạt được những
kết quả bước đầu như mong muốn trong bối cảnh quốc tế đầy biến động. Quyết định thay đối mối quan
hệ với Mĩ không những đáp ứng được lợi ích cho Trung Quốc mà còn phù hợp với xu hướng hòa bình,
hữu nghị, bình đẳng trong quan hệ quốc tế đang trỗi dậy mạnh mẽ.
3.2.2. Ảnh hưởng đến xu hướng hòa bình, dân chủ trong quan hệ quốc tế
Khi mà cuộc chiến tranh lạnh đang chi phối mối quan hệ quốc tế, chạy đua vũ trang gây ra các
cuộc xung đột quân sự cục bộ, dân tộc, sắc tộc….. khắp nơi. Tất cả đã tạo nên trạng thái bất an với tâm
lí một cuộc chiến tranh thế giới mới có thể bùng nổ bất cứ khi nào, một khi mâu thuẫn giữa các nước có
tư tưởng chiến lược toàn cầu không điều hòa được.
- Việc bình thường hóa quan hệ Mĩ – Trung góp phần xóa bỏ hiềm khích, sự nghi ngờ trước hết
đối với chính phủ, với nhân dân hai nước. Trong cuộc nội chiến tại Trung Quốc những năm 30, 40 Mĩ
đứng ra với vai trò là trung gian hoà giải giữa các thế lực đối lập nhằm tiến tới xây dựng một chính phủ
liên hiệp Quốc – Cộng, nhưng với mưu toan “không đánh mà vẫn chiếm được cả Trung Hoa” đã là cho
kế hoạch của Washington thất bại, việc CNCS thành công ở Trung Quốc đã buộc Mĩ phải có sự tính
toán lại chiến lược ngăn chặn và tiến tới tiêu diệt CNCS của mình. Vì thế, chính sách đối ngoại thù
địch, cô lập Trung Quốc đã được triển khai. Xung đột hai nước đạt đỉnh cao là cuộc chiến tại Triều
Tiên, cuộc chiến kết thúc sau 3 năm nhưng Nhà Trắng không từ bỏ ý đồ đối với Trung Quốc, thông qua
vấn đề Đài Loan nước này muốn Trung Quốc phải nhượng bộ. Phía Bắc Kinh cũng tỏ thái độ không
thân thiện với Washington do chính sách can thiệp vào nội bộ nước này. Đầu thập niên 70 bế tắc trong
quan hệ giữa hai nước mới được khai thông do một loạt yếu tố tác động, và quan hệ ngoại giao chính
thức được thiết lập từ tháng 1.1979, mở ra một chương mới trong lịch sử ngoại giao cả hai phía.
- Phá vỡ hiện trạng quyền lực toàn cầu bị chi phối bởi hai cực từ sau khi thế chiến thứ hai kết
thúc.
Do mẫu thuẫn về quyền lợi, Mĩ và Liên Xô đã góp phần tạo nên cuộc chiến phân chia phạm vi
ảnh hưởng, đưa thế giới vào trạng thái căng thẳng hình thành nên cục diện hai cực Ianta. Các nước,
đảng phái, lực lượng chính trị trong chiến tranh lạnh chỉ có một sự lựa chọn duy nhất hoặc theo cực
Đông hoặc nghiêng về cực Tây. Việc ra sức tập hợp đồng minh là giải pháp để Mĩ, Xô kiềm chế nhau.
CHND Trung Hoa đã ngã về phía Liên Xô như là một giải pháp vừa an toàn, vừa mang tính hiệu quả
cho sự phát triển đất nước ngay sau khi nước này thành lập, để nhận lấy viện trợ từ Moscow thì tất yếu
Bắc Kinh phải cùng nước này chống Washington và đồng minh. Ý thức tự tôn dân tộc là nền tảng để
mỗi quốc gia khẳng định giá trị đất nước, đối với Trung Quốc cũng thế, nhận sự “bảo trợ” từ Liên Xô,
nhưng không đồng nghĩa nghe theo, làm theo tất cả những gì Moscow đưa ra. Sau một thời gian thân
thiện, quan hệ Xô – Trung bước vào thời kì căng thẳng bởi các lời chỉ trích, công kích, phê phán chủ
trương, chính sách đối nội, đối ngoại lẫn nhau, đỉnh cao là các cuộc xung đột quân sự dọc biên giới hai
nước. “Giải pháp Washington” được Bắc Kinh lựa chọn nhằm ngăn ngừa một cuộc tấn công quân sự từ
Moscow với sách lược tránh một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù. Cuối thập niên 60, Mĩ cũng đang
đối mặt với một loạt thách thức, khó khăn nổi bật là sự lớn mạnh của đối thủ Liên Xô. Yếu tố Liên Xô
trở thành một trong nhiều yếu tố đưa Mĩ – Trung xích lại gần nhau, tạo nên mối quan hệ đầy phức tạp
Mĩ – Trung – Xô. Có thể thấy, Mĩ và Liên Xô đã góp phần đưa Trung Quốc trở thành một thế lực trong
cán cân quyền lực giữa hai cực này, sự toan tính của hai nước Mĩ, Liên Xô trong việc sử dụng “con bài
Trung Quốc” để kiềm chế lẫn nhau không phải lúc nào cũng thành công, bởi vì Trung Quốc ý thức
được vai trò, vị trí của nó trong trung gian quan hệ Mĩ – Xô, Bắc Kinh biết “mặc cả” đúng lúc với
Moscow và Washington nhằm phục vụ cho sự phát triển quốc gia về mọi mặt. Thập niên 70 quan hệ
Mĩ – Xô vẫn tiếp tục chi phối quan hệ quốc tế đế khi chiến tranh lạnh kết thúc, nhưng sự chi phối này
bắt buộc hai nước phải chú ý đến các yếu tố mới nổi – Trung Quốc là một yếu tố điển hình.
- Dù cho xuất phát từ lợi ích chiến lược nhưng sự hòa hoãn này tạo ra thế kiềm nhau giữa các
nước tránh xung đột bùng phát trên diện rộng.
Một đặc điểm nổi bật của chiến tranh lạnh là giữa các nước lớn (Mĩ, Liên Xô) luôn tránh một
cuộc xung đột quân sự trực tiếp diễn ra, các nước này chỉ là lực lượng hậu thuẫn cho các cuộc xung đột
mang tính cục bộ, khu vực, bởi vì hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai vẫn còn hiện hữu trong
tư tưởng các nước. Từ sau cuộc chiến tranh Triều Tiên quan hệ Mĩ – Trung tiếp tục căng thẳng, các
cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần 1 (1955), lần 2 (1958) là phản ứng của Trung Quốc trước hành
động can thiệp của Mĩ vào công cuộc thống nhất đất nước, nhưng vẫn tránh một cuộc xung đột vũ trang
trực tiếp giữa hai nước. Khi mẫu thuẫn Xô – Trung bùng nổ, nguy cơ xung đột vũ trang trên diện rộng
là rất lớn, hoà hoãn với Mĩ là biện pháp mà Trung Quốc tập trung tư tưởng để đối phó với Liên Xô;
Washington tạo được thế trong đối đầu với Moscow. Liên Xô cũng ý thức được ý đồ hai nước Mĩ,
Trung “bắt tay” nhau. Chính xuất phát từ đường lối ngoại giao đầy toan tính giữa các nước đã tạo nên
thế kiềm nhau của tam cực Mĩ – Xô – Trung, dù đối đầu gay gắt nhưng 3 cực này tránh một cuộc xung
đột trực tiếp, điều này góp phần kiềm chế chiến tranh diễn ra dù tình trạng căng thẳng luôn hiện hữu
giữa các nước, các khu vực.
- Trung Quốc là nước nổi lên trong thế giới thứ ba, góp một phần tiếng nói đáng kể và tạo niềm
tin cho các nước mới thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc để có vị trí và vai trò
mạnh mẽ hơn trên các diễn đàn chính trị thế giới.
Trước năm 1945 dòng chính trong quan hệ quốc tế là mối quan hệ giữa nước lớn – thống trị với
các nước nhỏ - thuộc địa, phụ thuộc. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, hàng loạt các nước phụ
thuộc, thuộc địa đã giành được độc lập dân tộc, ngày càng ý thức được sự tự chủ trong đường lối ngoại
giao. Với nội lực và đường lối ngoại giao khôn khéo Trung Quốc đã từng bước khẳng định vai trò
trong thế giới thứ ba, nước này đã từng đưa ra thuyết Ba thế giới nhằm khẳng định sự độc lập, không
muốn bị ảnh hưởng bởi hai cực Ianta. Mặc dù thế giới bị chi phối bởi hai cực Mĩ – Xô từ khi chiến
tranh lạnh diễn ra, nhưng hai thế lực này không thể không chú ý đến tiếng nói của Thế giới thứ ba,
trong quá trình tìm giải pháp cho các vấn đề quốc tế Mĩ, Xô phải chú ý đến thái độ của lực lượng này
mặc dù trong tính toán của “Xô, Mĩ ai nắm được thế giới thứ ba, người đó sẽ giành được lợi thế chi
phối toàn cục” [19;88]. Một đặc điểm nổi bật của trật tự thế giới hai cực là được duy trì bởi cuộc đấu
tranh của 3 dòng thác cách mạng, chính các cuộc đấu tranh của thế giới thứ ba góp phần xói mòn hai
cực Xô – Mĩ, thúc đẩy đi đến kết thúc chiến tranh lạnh, mở ra xu hướng mới trong quan hệ quốc tế: xu
thế hoà bình, dân chủ.
3.2.3. Đường lối ngoại giao của Liên Xô trước bình thường hoá quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa
Liên Xô là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến sự ra đời của thông cáo Trung – Mĩ năm
1972, tất yếu đường lối ngoại giao của Moscow sẽ bị ảnh hưởng theo hướng buộc phải đều chỉnh để
hạn chế sự cô lập, đối đầu tác động đến lợi ích an ninh quốc gia.
Khi mối quan hệ Xô – Trung đang đứng bên bờ vực của một cuộc chiến tranh toàn diện mà
không còn cơ hội hòa giải nào, Moscow đã trở nên nhạy cảm với các động thái ngoại giao từ Bắc Kinh
đặc biệt là chính sách thân thiện với Washington. Trong nhận thức của Liên Xô, khi Trung Quốc còn ở
vị trí thấp trong quan hệ quốc tế mà không có đồng minh hay một ủng hộ viên nào thì căng thẳng giữa
hai nước nên là vấn đề thuần túy, nếu lực lượng thứ ba can thiệp vào, tình thế chắc chắc sẽ phức tạp
hơn đồng nghĩa vị trí, vai trò của Liên Xô sẽ bị ảnh hưởng trên trường quốc tế. Kể từ khi Washington –
đối thủ chính của Moscow tồn tại ý định sử dụng xung đột Xô – Trung như một biện pháp gia tăng
đồng minh, sức ép thì mọi chính sách ngoại giao của Liên Xô điều nhằm mục đích ngăn ngừa nguy cơ
này.
Do vậy, khi những động thái cải thiện ngoại giao giữa Mĩ và Trung Quốc biểu hiện, Liên Xô bắt
đầu tiến hành xác định tính xác thực của các tin tức tình báo xung quanh vấn đề này và tất yếu Moscow
không thể xem nhẹ sự chuyển hướng bất ngờ trong quan hệ Mĩ – Trung. Ngày 20/10/1969 đại sứ Liên
Xô tại Mĩ – Dobrynin đã đưa ra thông điệp mạnh mẽ thể hiện sự quan tâm sâu sắc đầy hàm ý về chính
sách của Washington đối với Bắc Kinh: nếu “một ai đó” ở Mĩ cố tình lợi dụng xung đột Xô – Trung mà
không quan tâm đến thái độ của Liên Xô, và chỉ cần một hành động gây bất lợi cho Liên Xô, chúng tôi
sẽ thể hiện sự cảnh báo thẳng thừng, nếu vẫn cứ phớt lờ cảnh báo thì có thể dẫn đến “một sai lầm rất
nghiêm trọng”. Giải thích cho sự phản ứng gay gắt này Đại sứ Liên Xô cho rằng mục đích mong muốn
quan hệ giữa hai nước càng càng tốt đẹp hơn, đừng vì những lợi ích trước mắt mà gây ảnh hưởng lâu
dài trong quan hệ hai bên. Chiến lược ngoại giao của Liên Xô được đẩy mạnh nhằm đưa quan hệ giữa
nước này với các nước đối trọng vào trạng thái cân bằng nhất có thể.
Từ đầu thập niên 70, mối quan hệ Mĩ – Xô – Trung tạo nên tam cực phân quyền trong nền ngoại
giao thế giới, tam cực này kéo dài đến khi kết thúc chiến tranh lạnh. Ở những thời điểm nhất định, từng
nước thay nhau giữ trục chính quan hệ, đều này phụ thuộc vào sự thay đổi trong quan hệ quốc tế và
quan trọng bị tác động bởi chính sách đối ngoại mà hai nước còn lại giành cho nhau. Trong hai thập kỉ
cuối chiến tranh lạnh, nếu quan hệ Mĩ – Trung phát triển theo hướng đi lên thì quan hệ Xô – Trung với
những mâu thuẫn ngày càng tăng, khi quan hệ Xô – Trung được cải thiện thì cặp quan hệ Xô – Mĩ theo
hướng ngược lại. Điều quan trọng trong mối quan hệ tam giác này, nước được sử dụng làm con bài
ngoại giao sẽ được lợi nếu biết khai thác mâu thuẫn từ hai nước còn lại.
Từ sau đỉnh điểm cuộc xung đột biên giới năm 1969 và đến thông cáo Thượng Hải được thông
qua, quan hệ Trung – Xô không được cải thiện, thái độ và cách nhìn nhận các vấn đề trong quan hệ
quốc tế giữa hai nước hoàn toàn khác nhau. Mười năm (1969 – 1979) tiếp tục là các cuộc đối đầu về
quân sự, bao vây ngoại giao, mâu thuẫn về ý thức hệ, hạn chế các quan hệ kinh tế giữa Xô – Trung,
ngược lại với sự phát triển của thế giới là sự thay đổi về các quan hệ chính trị, kinh tế.
Khi thông cáo Thượng Hải được thông qua, quan hệ Trung – Mĩ được cải thiện dần “trục liên
hoành Mĩ – Trung tạo điều kiện cho cả Mĩ và Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động chống Liên Xô”
[48;37]. Năm 1972 được xem là điểm cơ bản để xem xét lại những thay đổi và suy đoán về những diễn
biến trong quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ tam giác Mĩ – Xô – Trung nói riêng. Trước khi có
bước đột phá căn bản trong quan hệ Trung – Mĩ, Trung Quốc đã ở trong trạng thái khó khăn do hậu quả
của Cách mạng Văn hóa và các mối quan hệ căng thẳng trong quan hệ Mĩ – Xô ảnh hưởng làm cho
nước này ở tình trạng cô lập.
Học thuyết của Brezhnev; các cuộc xung đột biên giới đưa quan hệ đồng minh Trung – Xô đóng
băng, gây ra hệ quả: Bắc Kinh tuyên bố không gia hạn hiệp ước đồng minh tương trợ lẫn nhau với
Moscow sau khi hết hiệu lực năm 1979 bởi vì tình hình thế giới đã thay đổi, địa vị Trung Quốc cũng
thay đổi, hiệp ước này từ lâu không còn tồn tại ngoại trừ tên gọi, phía Trung Quốc sẽ không chịu trách
nhiệm khi mà những khác biệt về nguyên tắc giữa Trung Quốc và Liên Xô quá lớn vì thế không nên có
sự ràng buộc giữa hai nước. Việc hiệp ước “Hữu nghị, liên minh, tương trợ Xô – Trung” được xem xét
lại cho thấy mối quan hệ giữa hai nước trở nên khó hòa giải, Trung Quốc cho rằng khi kí hiệp ước 1950
là sự không công bằng với họ với cái giá phải trả quá đắt để đổi lấy sự hỗ trợ về kinh tế, quân sự, khoa
học kĩ thuật bởi Liên Xô vì qua đó Moscow được tăng cường vị thế ở Châu Á, có thể sử dụng hiệp ước
nhằm ngăn chặn tham vọng chính trị, đối kháng nảy sinh giữa hai đồng minh sau này “Hiệp ước Xô –
Trung 1950 vẫn là một công cụ chính cho Moscow tìm cách áp đặt bá quyền đối với Trung Quốc”; ủng
hộ việc duy trì ở Châu Á – Thái Bình Dương hiệp ước an ninh Mĩ – Nhật; tán thành sự có mặt của Mĩ ở
Đông Nam Á; đặt quan hệ với NATO [48;37]. Tương tự như vậy Mĩ cũng tăng cường chạy đua vũ
trang; can thiệp vào Việt Nam như một sự răn đe sự bành trướng của Liên Xô tại Châu Á.
Học thuyết “Ba thế giới” được đưa ra vào tháng 8/1973 tại Đại hội X Đảng cộng sản Trung
Quốc, theo đó, hai siêu cường Mĩ, Liên Xô thuộc thế giới thứ nhất – là những kẻ thù địch chính trên
quy mô thế giới; các nước đế quốc phương Tây và Nhật Bản thuộc thế giới thứ hai – là một phần của
mặt trận thống nhất quốc tế chống lại các siêu cường; “đông đảo các nước phát triển, tuyệt đại đa số
các nước này trước kia là nước phụ thuộc của chủ nghĩa đế quốc. họ bị chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa
đế quốc áp bức và bóc lột lâu dài. Tuy họ đã giành được độc lập về chính trị, nhưng điều đang đứng
trước nhiệm vụ lịch sử là quét sạch tàn dư của chủ nghĩa thực dân, phát triển kinh tế dân tộc, cũng cố
độc lập dân tộc. Những nước này bị áp bức nặng nề nhất, yêu cầu chống áp bức, mưu cầu giải phóng
và phát triển cũng mãnh liệt nhất. Họ là lực lượng chính chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc,
nhất là những nước tiêu hóa lớn – gọi là thế giới thứ ba” [26;616]. Với các phân chia thế giới này
Trung Quốc xem họ “thuộc thế giới thứ ba, trong 5 nước thường trực hội đồng Bảo An Liên Hiệp
Quốc, Trung Quốc là nước thứ ba duy nhất, là người bạn và người phát ngôn kiên định của tất cả
những nước trong thế giới thứ ba” [26;617]. Chủ thuyết này xếp Liên Xô và Mĩ cùng vào bản chất đế
quốc như nhau, khi đó các nước đồng minh của Mĩ được hạ thấp trong mối quan hệ quốc tế nhưng lại
xếp các dân tộc bị áp bức ở Châu Á, Châu Âu và Mĩ La tinh cùng một mặt trận.
Việc triển khai chủ thuyết ba thế giới của Trung Quốc đi từ nhận thức đến một chiến lược mang
tính toàn diện. Khía cạnh quan trọng của lí thuyết Ba thế giới đã từng được Đặng Tiểu Bình trình bày
trong một báo cáo tại Liên Hiệp Quốc năm 1974, Trung Quốc tự cho họ có vai trò lãnh đạo thế giới thứ
ba và coi thế giới thứ ba là cơ sở để nâng địa vị ngang tầm với cả Liên Xô và Mĩ trên trường chính trị
thế giới vì nước này dựa trên cơ sở quyền lực mà họ đang xây dựng gồm 4 công cụ của sức mạnh quốc
gia: tính linh hoạt trong ngoại giao; mức độ và tốc độ phát triển kinh tế; sự khẳng định về văn hóa; và
củng cố sức mạnh quân sự [79].
Có thể nhận xét một điều chủ thuyết Ba thế giới là một chủ thuyết mang tính pháp lí, “bình
phong” liên Mĩ để chống lại Liên Xô, trong chuyến thăm Mĩ tháng 1/1979 nhà lãnh đạo Trung Quốc
Đặng Tiểu Bình đã phát biểu “về đại bá thì ngày nay chỉ có Liên Xô và Mĩ là có khả năng, nhưng từ
đầu những năm 70 chúng tôi cho rằng Mĩ đang trên đà thoái lui chiến lược, chúng tôi cho rằng lò lửa
chiến tranh thực sự là Liên Xô chứ không phải Mĩ” [56;131] và “từ trước đến này, chúng tôi tán thành
sự có mặt của Mĩ ở khu vực Thái Bình Dương, chúng tôi cho rằng để đối phó với bá quyền Liên Xô, chỉ
có nước Mĩ thì không đủ, nước Mĩ cần phải hợp tác với các nước đồng minh, còn phải hợp tác với tất
cả các lực lượng chống Liên Xô, đương nhiên bao gồm cả các nước thế giới thứ ba” [56;132]. Với
những tuyên ngôn và biện pháp hành động cụ thể đã góp phần đưa quan hệ Trung – Xô xuống thấp hơn
từ khi xung đột, mâu thuẫn công khai giữa hai nước khởi phát.
Đáp lại những lời tuyên truyền trong việc chống mình từ Bắc Kinh, Moscow cũng có những
động thái thể hiện vai trò là một nước lớn dùng mọi biện pháp để đưa cực đang lãnh đạo vào “trật tự”
“sang những năm 70 của thế kỉ XX, Liên Xô bắt đầu thị uy sức mạnh của mình ở Đông Dương, bên
cạnh đó coi thường việc Trung Quốc chống chủ nghĩa bá quyền” [48;38]. Việc Liên Xô triển khai các
hoạt động quân sự dọc biên giới Trung Quốc đã bị Bắc Kinh lên án rằng Moscow đang đe dọa trực tiếp
đến an ninh nước này, gây ra tình trạng toàn bộ biên giới Trung Quốc luôn không yên ổn. Năm 1979,
Liên Xô đưa quân vào Apganixtan khi chế độ thân Moscow có nguy cơ sụp đổ, chính quyền Bắc Kinh
xem đây như là một phần trong âm mưu của Liên Xô bao vây, cô lập họ “hành động của chủ nghĩa đế
quốc xã hội Xô Viết nhằm mục đích thể hiện trước Hoa Kì và Nhật Bản, đồng thời họ cũng đang chuẩn
bị vững chắc cho một cuộc chiến tranh xâm lược vào đất nước chúng ta”, vì thế tìm kiếm liên minh với
Mĩ và Pakistan là giải pháp mà Trung Quốc lựa chọn vừa chống lại thế bị đe dọa đến an ninh quốc gia
vừa làm nhiệm vụ quốc tế “ngăn chặn các cuộc xâm lược” mở rộng chủ nghĩa bá quyền từ Liên Xô.
Như vậy, ngoài việc đưa quân vào Apganixtan tạo ảnh hưởng trực tiếp đến Pakistan và Trung Quốc,
Liên Xô còn liên minh với Ấn Độ, Mông Cổ để đẩy Trung Quốc vào tình thế chịu sức ép dọc theo
tuyến biên giới Đông và Tây Nam. Khẳng định vai trò lãnh đạo, ảnh hưởng trong khối XHCN cũng là
biện pháp mà Liên Xô áp dụng để giải quyết mâu thuẫn với Trung Quốc, đưa nước này thoát khỏi thế
liên minh do Trung Quốc khởi xứng để chống Moscow. Cuộc chiến tranh tại Việt Nam là một điển
hình cho sự cạnh tranh mang tầm ý đồ chiến lược của hai nước lớn nhất trong khối XHCN, bởi vì
“cuộc kháng chiến chống Mĩ của Việt Nam phù hợp với chiến lược của Liên Xô, kiềm chế Mĩ góp phần
làm cho Mĩ suy yếu, tạo điều kiện để Liên Xô vươn lên cân bằng với Mĩ về chiến lược. Liên Xô giúp
Việt Nam vì lợi ích chiến lược đồng thời cũng là một đồng minh XHCN thân cận. Giúp Việt Nam, vị thế
của Liên Xô trong phong trào cách mạng thế giới càng được nâng cao và cũng để bác bỏ mưu toan của
Trung Quốc dùng vấn đề Việt Nam để hạ bệ Liên Xô ” [22;34]. Như vậy việc sử dụng chiến tranh Việt
Nam trở thành một trong những giải pháp để Liên Xô vừa tăng cường ảnh hưởng ở Đông Nam Á, vừa
phá vỡ thế bao vây từ liên minh Trung – Mĩ. Trong thời kì Mĩ còn được xem là kẻ thù, Trung Quốc
giúp Việt Nam vừa thể hiện vai trò của một đồng minh XHCN vừa ngăn chặn một cuộc chiến tranh có
thể diễn ra sát biên giới nước này, những thay đổi mạnh mẽ trong quan hệ quốc tế đã tác động đến sự
nhận thức về vị trí của cuộc chiến tranh tại Việt Nam “đến một lúc nào đó, họ (Trung Quốc) có thể
phát huy vai trò nước lớn trong một giải pháp chính trị cho một cuộc chiến tranh. Khi giúp Việt Nam,
Trung Quốc cũng tính đến vị thế của mình trong phòng trào cách mạng thế giới, đồng thời cũng muốn
phá vỡ ý đồ của Liên Xô nắm độc quyền ngọn cờ giúp Việt Nam” [22;34]. Thực tế, đến năm 1978 mối
quan hệ Xô – Việt Nam được nâng cao hơn bằng hiệp ước Tương trợ an ninh, Trung Quốc cho rằng
hiệp ước này nhắm vào họ, lúc này mối quan hệ Trung – Việt đã suy giảm mạnh thể hiện qua các cuộc
đụng độ quân sự dọc biên giới hai nước và cuộc chiến tại Campuchia.
Như vậy, Liên Xô không “hài lòng” với việc Mĩ – Trung xích lại gần nhau trong những năm đầu
thập niên 70, việc cải thiện quan hệ với Mĩ trong thời gian này là cách để Moscow cho Bắc Kinh thấy
rằng nước này mới là chủ chốt trong quan hệ với Washington, Trung Quốc thì chỉ được sử dụng như
giải pháp tạm thời giúp Mĩ giải thoát một số khóa khăn mà nước này gặp phải. Thực tế, từ đầu thập
niên 70 giữa Liên Xô và Mĩ đã tiến hành các cuộc đàm phán cấp cao gây cho Trung Quốc sự phàn nàn
Mĩ đang “đứng trên vai của Trung Quốc” để đạt được những lợi thế với Liên Xô là cách nói thể hiện
một phần nhận định đó. Các cuộc gặp cấp cao giữa Liên Xô và Mĩ vừa góp phần giảm đi nguy cơ về
một cuộc đụng độ quân sự, chiến tranh hạt nhân có thể xảy ra, thúc đẩy từng bước giải quyết các vấn đề
quốc tế lớn, làm dịu tình hình Châu Âu và quốc tế nhằm tác động đến nền hòa bình an ninh nhân loại;
điều quan trọng là Liên Xô đạt được với Mĩ những cam kết không trợ giúp quân sự hay các biện pháp
cần thiết cho các đối thủ góp phần đe dọa đến an ninh quốc gia nước này. Tất nhiên để đạt được một số
thỏa thuận với Mĩ, Liên Xô phải chấp nhận một số điều khoản do Washington đề xuất.
Tóm lại sự xích lại gần nhau giữa Mĩ – Trung buộc Liên Xô phải có hướng điều chỉnh trong
chính sách đối ngoại để phá vỡ thế liên minh mang tính bao vây đó, tăng cường thêm đồng minh; chấp
nhận hòa hoãn với một trong hai đối thủ nhằm tạo nên cán cân quyền lực không bị phá vỡ theo hướng
bất lợi nhất cho Moscow. Bằng nhiều sự kiện lịch sử đã chỉ rõ, mọi chính sách ngoại giao đều phải đảm
bảo lợi ích quốc gia là cao nhất.
3.2.4. Sự độc lập, tự chủ trong đường lối ngoại giao của Việt Nam
Trong hồi kí Nixon đã thừa nhận mối quan hệ với Trung Quốc và chính sách của Mĩ đối với
nước này như là một vấn đề “lý thuyết” và Cộng sản Trung Quốc hiếu chiến hơn so với bất kì nước
cộng sản nào khác vì thế thiết lập quan hệ với Trung Quốc phải kéo dài nhiều năm, mãi đến khi chiến
tranh Việt Nam bước vào giai đoạn kết thúc thì chính sách đối ngoại với Bắc Kinh mới chuyển từ “hư
sang thực”. Việc Mĩ sang Trung Quốc đàm phán ngoại giao trong đó sử dụng chiến tranh Việt Nam
như một sự trao đổi đã gây ra những phản ứng mạnh mẽ từ chính quyền Hà Nội: cuộc chiến tranh giải
phóng thống nhất đất nước chống sự can thiệp của đế quốc Mĩ tiếp tục được tiến hành với quyết tâm tự
chủ cao; với Trung Quốc, Hà Nội có sự nhìn nhận lại mối quan hệ với nước láng giềng XHCN này.
Trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc có sự thay đổi rõ nét, từ đồng minh chuyển sang
giai đoạn thù địch đỉnh cao là các cuộc xung đột biên giới giữa hai nước. Mười năm sau khi cuộc gặp
Mĩ – Trung (1972), đại diện Việt Nam đã từng phát biểu rằng “cái chổi của ông ta (Mao) không đủ dài
để quét Đài Loan cho sạch và cây chổi của chúng tôi (Việt Nam) không dài đủ để quét người Mĩ ra
khỏi Việt Nam. Ông muốn chúng tôi ngưng việc thống nhất đất nước và ép buộc chúng tôi phải công
nhận chế độ bù nhìn ở miền Nam. Ông ta đã hi sinh Việt Nam vì lợi ích của Mĩ” [57;220,221]. Đây là
sự đánh giá lại chính sách ngoại giao của Trung Quốc đối với Việt Nam trong suốt giai đoạn mà nước
này chiến tranh giải phóng đất nước, tất nhiên sự đánh giá này trong thời kì quan hệ giữa hai nước
xuống thấp.
Ngay sau cuộc tiếp xúc về Mĩ, đại diện Bắc Kinh Chu Ân Lai đã sang Hà Hội với phát biểu
“phía Trung Quốc không hứa hẹn điều gì mà chỉ khẳng định lập trường của Trung Quốc nêu với Mĩ là
muốn bình thường hóa quan hệ Trung – Mĩ, muốn làm dịu tình hình Viễn Đông thì trước hết phải giải
quyết vấn đề Việt Nam và Đông Dương” [22;97]. Tuyên bố này được xem như một sự trấn an tâm lí
cho Bắc Việt, Trung Quốc sẽ không hi sinh đồng minh để đổi lấy sự bình thường hóa quan hệ với Mĩ.
Bình thường hóa quan hệ Mĩ – Trung đó là xu thế tất yếu của lịch sử trước hết là lợi ích hai nước; góp
phần thúc đẩy xu thế hòa bình trong quan hệ quốc tế “việc bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kì và
CHND Trung Hoa bản thân nó không thể gây ra bất cứ sự thay đổi nào, các nước XHCN từ lâu đã ủng
hộ việc này” [51;156,157].
Dù trên cơ sở một đồng minh viện trợ và ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc Việt
Nam trong suốt thời gian đã qua, nhưng sự kiện này nó vẫn tác động trước hết là “về tinh thần, tình
cảm” [22;116], “mặc dù có các đảm bảo của Bắc Kinh, Bắc Việt đi đến kết luận không tránh được là
Trung Quốc coi trọng mói liên hệ của Trung Quốc với Hoa Kì hơn nhiệm vụ cách mạng đoàn kết với
Việt Nam Dân chủ cộng hòa” [22;116]. Đề cập đến tác động từ các động thái ngoại giao Mĩ – Trung
đầu thập niên 70 đến đường lối đối ngoại, kháng chiến của dân tộc Việt Nam, có thể nói không ảnh
hưởng lớn bởi vì Việt Nam luôn độc lập trong ứng xử ngoại giao giữa các nước lớn, vào tháng 3/1969
đại diện phái đoàn đàm phán Việt Nam đã tuyên bố: Mĩ chẳng có gì để kiếm chác qua việc tiềm cách
lợi dụng những bất đồng Xô – Trung. Trong giai đoạn Xô – Trung căng thẳng, Hà Nội ý thức được
rằng sẽ là hậu quả nghiệm trọng nếu hai đồng minh viện trợ chính đi đến thỏa thuận với Washington
gây sức ép buộc họ chấp nhận các giải pháp hòa bình trong đó có việc chia cắt lâu dài đất nước.
Vì thế nhiệm vụ phức tạp, nặng nề cho ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn các nước lớn “bắt
tay” nhau “là vừa đấu tranh chống lại thủ đoạn và chính sách ngoại giao thâm độc của Mĩ, vừa bảo đảm
duy trì viện trợ, sự ủng hộ đoàn kết của Liên Xô và Trung Quốc, không thể để cải thiện ngoại giao giữa
các nước lớn với nhau ảnh hưởng đến cuộc kháng chiến chống Mĩ và việc đàm phán kết thúc chiến
tranh giữa Việt Nam và Hoa Kì”. Điều này được thể hiện qua các tuyên bố mang tính tự chủ của Việt
Nam với Mĩ và cả hai đồng minh – Xô, Trung “Việt Nam kiên trì đường lối đấu tranh ngoại giao trên
cả 3 mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao không để chiến tranh mở rộng đe dọa hòa bình thế giới”,
chiến lược “vừa đánh, vừa đàm” được Bắc Việt Nam sử dụng trong giai đoạn này nhằm tạo ra thế căn
bản trên bàn đàm phán lẫn ngoại giao, vừa để cho các nước nhận thấy sự tự chủ trong ngoại giao, mọi
sách lược chia rẽ đối ngoại trở nên không tác dụng cao.
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống Mĩ, sự tự chủ trong đường lối kháng chiến đã được lãnh
đạo Hà Nội thể hiện dù rằng “Việt Nam thắng Mĩ bằng bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam cộng với vũ khí trang
bị của Liên Xô, Trung Quốc” [22;133], có thể đây là sự đánh giá mang tính chủ quan, nhưng Việt Nam
ghi nhận sự ủng hộ của Xô, Trung. Từ sau đại hội XX các Đảng cộng sản thế giới, Hà Nội bắt đầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội theo phương pháp riêng của họ mặc dù sự ảnh hưởng từ mô hình Liên Xô,
Trung Quốc còn bao quát. Khi mâu thuẫn Xô – Trung bùng phát thì yếu tố Việt Nam càng được tăng
cường “với những tính toán khác nhau về vấn đề lợi ích chiến lược giữa hai nước trong việc giúp Việt
Nam chống Mĩ”. Cả hai yêu cầu Hà Nội cần phải có sự lựa chọn, một là Trung Quốc; một là Liên Xô.
Năm 1964 Đặng Tiểu Bình có chuyến thăm bí mật sang Việt Nam đưa ra cam kết sẽ bao toàn bộ viện
trợ của Liên Xô cho Việt Nam nếu nước này đứng về phía Trung Quốc . Việc Hà Nội đề nghị các nước
XHCN thành lập mặt trận chống Mĩ cũng bị Trung Quốc phản đối do có sự tham gia của Liên Xô, ngày
7/3/1971 tại cuộc hội đàm ở Hà Nội, Chu Ân Lai phát biểu “nếu lập mặt trận chống Mĩ rộng rãi trên
thế giới và đưa Liên Xô vào thì chúng ta sẽ bị xỏ mũi” [22;44]. Rõ ràng, Trung Quốc muốn tăng cường
liên minh và đưa ra các cam kết “gây sức ép” buộc Hà Nội phải suy nghĩ lợi ích thiệt hơn. Nhằm ngăn
chặn ý đồ của Bắc Kinh, Moscow cũng đưa ra các tuyên bố không để Trung Quốc có cơ hội “đưa” Việt
Nam vào “quỹ đạo của mình”, các hiệp ước được kí kết nhằm tăng cường viện trợ cho Hà Nội sau một
thời gian thiếu đi sự quan tâm tại Châu Á, tháng 2/1965 hiệp ước hỗ trợ kinh tế, quan sự được kí giữa
Liên Xô – Bắc Việt. Sự tăng cường giúp đỡ Bắc Việt Nam đã tác động mạnh vào ý thức chính quyền
Nhà Trắng: nếu Hà Nội muốn thống nhất đất nước bằng quân sự họ phải phụ thuộc vào viện trợ nhiều
mặt từ Liên Xô và Trung Quốc. Vì vậy, tam giác ngoại giao Trung – Mĩ – Xô đã được hình thành cuối
thập niên 60, với Mĩ sử dụng Xô, Trung để gây sức ép tâm lí buộc Hà Nội phải chấp nhận các điều kiện
nếu muốn đạt được một giải pháp hòa bình. Nhưng với quyết tâm cao cho cuộc kháng chiến độc lập,
thống nhất đất nước cùng với các thắng lợi quân sự của Việt Nam, một giải pháp hòa bình đã được
thông qua ngày 27/1/1973. Mở ra một nước ngoặt cho quan hệ quốc tế hai thập kỉ cuối chiến tranh
lạnh.
Tuy vậy, cuộc chiến vẫn tiếp tục, những xung đột, mâu thuẫn trong nền ngoại giao thế giới vẫn
còn ảnh hưởng rõ nét với đường lối ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn khắc phục, xây dựng đất nước
sau chiến tranh. Những tranh chấp, xung đột Trung – Xô, bình thường hóa quan hệ Trung – Mĩ, hợp tác
Xô – Việt…. tiếp tục là những tác nhân điển hình đến Việt Nam. Sau khi kết thúc can thiệp tại Việt
Nam, Mĩ thi hành đường lối cấm vận, không đặt quan hệ ngoại giao với Hà Nội xem đây như một biện
pháp trừng phạt khi “hội chứng Việt Nam” luôn ám ảnh giới cầm quyền Nhà Trắng. Và từ diễn tiến của
lịch sử, mối quan hệ Trung – Việt trở nên xấu đi từ khi Mĩ – Trung chính thức bình thường hóa quan
hệ; quan hệ Xô – Việt trở nên “thân thiết”. Trong giai đoạn này quan hệ Xô – Trung không được cải
thiện, sự thù địch vẫn hiện diện trong tư tưởng các nhà lãnh đạo hai bên, kéo theo hệ lụy những nước
có quan hệ “ngoại giao tốt” với đối thủ của đối thủ.
Cuộc xung đột biên giới tháng 2/1979 là hệ quả những năm tháng không nồng ấm trong quan hệ
Trung – Việt, một phần nguyên nhân xung đột quân sự là do Hà Nội đứng về phía Moscow “liên minh
Xô - Việt đã khiến Việt Nam trở thành chiếc trục trong cổ xe kiếm chế Trung Quốc. Do đó, dưới cái
nhìn của Trung Quốc, nỗ lực của Moscow nhằm bao vây Trung Quốc về mặt ngoại giao dường như
sắp thành công, nhận thức này đã dẫn đến việc Trung Quốc tấn công Việt Nam tháng 2/1979”“đây là
cuộc chiến tranh tự vệ, chống Việt Nam phản bội” vì “Việt Nam đã tỏ ra vô ơn đối với việc hỗ trợ của
Trung Quốc cho họ suốt gần 30 năm” [57;224]. Sau sự kiện Việt Nam đem quân vào Campuchia,
Trung Quốc cho rẳng cần phải thể hiện sứ mệnh giữ gìn hòa bình khu vực, trong chuyến thăm Mĩ tháng
1/1979, Đặng Tiểu Bình nói trước ủy ban ngoại giao Thượng viện nước này “chúng tôi không cho phép
Việt Nam gây rối loạn khắp nơi, vì hòa bình và ổn định của thế giới, vì chính đất nước mình, chúng tôi
có khả năng không thể không làm làm những việc mà chúng tôi không muốn làm” [93] và “nhân dân
Trung Quốc kiên định đứng về phía Campuchia phản đối xâm lược Việt Nam” [93], trong cuộc tiếp xúc
với giới chức Nhật Bản, Trung Quốc cũng bày tỏ “cần thiết phải tiến hành chế tài đối với Việt Nam”
[93]. Có thể thấy trước khi tấn công Việt Nam, Trung Quốc đã có các cuộc vận động ngoại giao nhằm
tìm kiếm sự ủng hộ từ các nước lớn vốn chưa có thiện cảm với chính quyền Hà Nội như Mĩ, Nhật. Kết
quả cuộc tấn công 2/1979, theo như nhiều nhà phân tích là một thất bại của Trung Quốc vì: không thể
buộc Việt Nam sớm phải rút quân khỏi Campuchia; không chấm dứt cuộc đụng độ biên giới; không tạo
được sư nghi ngờ về sức mạnh Liên Xô, không xóa bỏ đi sự nghi ngờ về sức mạnh thực sự của Bắc
Kinh; và cũng không thiết lập được đồng minh với Mĩ để chống bá quyền Liên Xô. Nhưng điều mà
Trung Quốc đạt được đó là sự cảnh báo về các động thái mà Moscow tiến hành trong chính sách ngoại
giao với Bắc Kinh: kí hiệp ước phòng thủ với Hà Nội 11/1978 để “bao vây Trung Quốc”; cái cớ để
chấm dứt hiệp ước hữu nghị, liên minh, tương trợ với Liên Xô 1950 nhằm tránh đi các điều khoản ràng
buộc ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia mà nước này đang theo đuổi, trên bình diện ngoại giao“Liên Xô và
đồng minh Việt Nam đã thật sự bị cô lập trong khu vực” [57;191]. Việc Moscow không phản ứng mạnh
mẽ trước động thái quân sự của Bắc Kinh đối với Hà Nội theo các cam kết đã thỏa thuận “tham vấn
ngay lập tức…nếu một trong hai nước bị tấn công hoặc đe dạ tấn công…nhằm loại bỏ các mối đe dọa
đó” tạo nên sự nhận thức ở Trung Quốc “Liên Xô chỉ là con gấu giấy”, Trung Quốc đã thành công phá
vỡ vòng vây của Liên Xô, loại bỏ nguy cơ Liên Xô sẽ tiến hành chiến tranh trên khắp mặt trận để
chống Bắc Kinh và “đã dạy cho Việt Nam một bài học về địa dư chính trị với ý nghĩa là,…Trung Quốc
luôn hiện diện như là một nước láng giềng hùng mạnh hơn” [57;225].
Như vậy từ trong khoảng thời gian quan hệ Mĩ – Trung trở nên nồng ấm, hiểu nhau hơn thì mối
quan hệ giữa Trung Quốc với các nước XHCN có sự xuống cấp trong quan hệ theo sự tương ứng. Mãi
đến thập niên 80 thì mới có sự chuyển biến trong quan hệ giữa các nước với việc tìm kiếm một sự đồng
thuận nhằm giải quyết tốt các mâu thuẫn, xung đột, để ổn định đất nước; khu vực và thúc đẩy xu thế
hòa bình, hợp tác thắng thế.
3.2.5. Cân bằng ngoại giao của Hoa Kì trước phản ứng của Đài Loan
Vấn đề Đài Loan luôn nằm trong chương trình nghị sự giữa CHNDTH và Mĩ, như một trong
những điều kiện trọng tâm để hai nước đi đến bình thường hóa quan hệ, tiến tới thiết lập quan hệ ngoại
giao từ khi vấn đề này nảy sinh.
Đầu năm 1979, Trung Hoa Dân Quốc đã chính thức trở thành “nạn nhân” của quyết định bình
thường hóa giữa Washington và Bắc Kinh, nhiều nước đã theo đó cũng “từ bỏ” Đài Bắc. Điều này tạo
nên tâm lí hụt hẫng cho chính quyền Đài Loan, từ chổ được coi là đồng minh, điểm nút trong tuyến
phòng thủ ở Châu Á – Thái Bình Dương, vì những lợi ích chiến lược hòn đảo này được Mĩ sử dụng để
mặc cả trong chính sách ngoại giao với Trung Quốc đại lục.
Vai trò lớn nhất của đảo Đài Loan chính là vị trí địa – chính trị của nó, nằm cách Đại lục khoảng
100 dặm ngoài biển, từ những năm 40 một số nhà chiến lược quân sự Mĩ đã xếp nó là một phần của
tuyến phòng thủ từ Aleutian (thuộc bang Alaska) đến Việt Nam, chắn ngang tuyến đường biển từ Bắc
Á. Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, nó trở thành “hàng không mẫu hạm” của Mĩ trong ý đồ ngăn chặn sự
lan rộng của Chủ nghĩa cộng sản phủ lên toàn châu lục này. Hàng loạt các cam kết viện trợ quân sự,
kinh tế từ Washington đã góp phần xây dựng nền chính trị ở đây như một chính thể độc lập, chính
quyền Đài Loan đã tận dụng tối đa sự viện trợ này để xây dựng lực lượng chờ thời cơ phản công Đại
lục giành quyền lãnh đạo toàn Trung Hoa. Do vậy, sự hợp tác của hai bên đều phục vụ cho ý đồ của họ,
dù đôi lúc sự hợp tác này không suông sẽ.
Đến những năm 70 thì liên minh Mĩ – Tưởng có sự thay đổi rõ nét, nó bị xói mòn bởi nhiều
nhân tố: môi trường an ninh và đặc biệt “bản chất” của đối thủ là cơ sở để một liên minh tự nhiên suy
yếu. Quá trình này bắt đầu từ những năm 70 khi Mĩ công khai chủ động thay đổi chính sách ngoại giao
đối với Trung Quốc đại lục, từ trạng thái bao vây không cô lập thay bằng chính sách đàm phán dù thời
gian này hai nước đều chưa công khai. Vì vậy khi Mĩ – Trung tuyên bố gặp gỡ chính thức, Đài Loan là
nhân tố bị tác động rõ nét nhất từ sự bình thường này.
Vấn đề khi Mĩ tham gia sâu rộng vào cuộc chiến tại Việt Nam (1964 – 1968), được xem đã góp
phần tác động đến mối quan hệ giữa Washington – Đài Bắc, khi đó Mĩ đã xác định Trung cộng là lực
lượng hậu thuẫn lớn cho Bắc Việt Nam “ xâm nhập” xuống Nam Việt Nam và lối tư duy Bắc Kinh
đang lợi dụng thời cơ này để “gia tăng” ảnh hưởng ở Châu Á nên Đài Loan tiếp tục được sử dụng cho
chiến lược ngăn chặn “hành động” từ phía Trung Quốc. Đến khi những khó khăn tại chiến trường Việt
Nam ngày càng gia tăng, để tìm một lối thoát trong danh dự thì ý nghĩa “chiến lược” của Đài Loan bị
đánh đổi. Mọi chuyện diễn ra nhanh chóng sau chuyến thăm bí mật của Kissinger đến Trung Quốc năm
1971, sau đó là năm 1972 của Nixon, chính quyền Đài Loan đã có những phản ứng ngay sau khi nhận
được tin tức tổng thống Nixon sẽ thăm chính thức CHND Trung Hoa với thái độ “phẫn nộ, khó hiểu và
kinh ngạc”, “Mĩ phải chịu trách nhiệm và mọi hậu quả nghiêm trọng do hành động đó gây ra”
[47;476]. Đây là một phản ứng thể hiện sự phản đối hành động của Mĩ khi sử dụng Đài Bắc như con
bài trao đổi ngoại giao, dù phía Washington đã cam kết rằng việc cải thiện quan hệ với Bắc Kinh sẽ
không phải đổi bằng cái giá “hi sinh” bàn bè cũ tức Đài Loan nhưng sau đó là khẳng định, đây là
chuyện Mĩ phải làm vì điều này không thể tránh được. Trong tuyên cáo Thượng Hải “địa vị của Đài
Loan chưa xác định rõ ràng” nhưng nó đã trở thành những năm “đáng nhớ” đối với chính quyền Đài
Bắc, những sự kiện liên tục diễn ra tạo nên các trạng thái tâm lí hi vọng tách khỏi Đại lục trở nên xa
vời; trạng thái quốc tế bị cô lập – năm 1970, 53 quốc gia công nhận CHNDTH, 68 nước cộng nhận
Trung Hoa Dân Quốc đến năm 1977 là 111 và 23; xói mòn dần trong quan hệ với đồng minh Mĩ, Đài
Loan dần trở thành “kẻ quan sát” sự cải thiện dần trong quan hệ giữa “kẻ thù cay đắng nhất với đồng
minh thân cận nhất” của mình.
Động thái của Mĩ đã gây ra tâm lí bất an cho tương lai Đài Loan, để hạn chế trạng thái bị cô lập,
Đài Loan đã xúc tiến ngoại giao mong muốn tạo nên các liên minh, như tiến hành đàm phán với Liên
Xô “mưu toan dùng con bài Liên Xô để dọa Mĩ” [47;484], trước đây giữa Moscow và Tưởng đã tồn tại
mối quan hệ, nghĩ đến Liên Xô như một sự cứu cánh những khó khăn mà Đài Loan đang đối mặt.
Nhiều thông tin sau này đã được giải mã việc “cấu kết” với Đài Loan cũng là “một phần trong âm mưu
của Liên Xô muốn tách Đài Loan ra khỏi Trung Quốc” [26;675].
Theo tuyên cáo cam kết với Trung Quốc, Mĩ bắt đầu thực hiện lộ trình giảm các mối quan hệ
với Đài Loan, tuyên bố tháng 7/1973 rút khỏi Đài Loan đại đội vận tải hành không chiến thuật 347 gồm
3000 lính không quân và máy bay và dự định đến tháng 3/1976 thì rút toàn bộ [47;493,494]. Dưới hai
thời tổng thống – Nixon và Ford quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh không ngừng được tăng cường
dù chỉ ở mức độ “từ từ” xét ở góc độ chiến lược. Trong khoảng thời gian từ 1972 – 1979 là khoảng thời
gian thể hiện rõ bản chất mối quan hệ này.
Dường như mối quan hệ Mĩ – Đài Loan – Trung Quốc chưa bao giờ đi đến hồi kết, việc Mĩ tiếp
tục hỗ trợ cho Đài Loan cho thấy nước này muốn quan hệ với cả hai, bởi vì theo nhiều nhà phân tích
dựa trên nghiên cứu bản chất thật sự từ chính sách của Mĩ đối với Trung Quốc, nếu Mĩ bỏ rơi Đài Loan
sẽ bắt đầu “thời kì suy tàn” của nước này. Do vậy, viện trợ cho hòn đảo này vẫn được duy trì, năm
1973 viện trợ quân sự cho Đài Loan là 40 triệu USD, con số này tăng gấp hai vào năm 1975 và đến
tháng 12/1977 “Hội đồng kinh tế Mĩ – Đài Loan” được thiết lập. Bắc Kinh hiểu rõ sự mập mờ về thái
độ của Washington trong các cam kết về mối quan hệ giữa hai bờ eo biển. Đến năm 1978, quan hệ Mĩ
– Xô căng thẳng trở lại sau một loạt các sự kiện tác động đưa thế giới bước vào thời kì không ổn định,
Mĩ quyết định bình thường hòa chính thức với Trung Quốc, 3 điều kiện theo “phương thức Nhật Bản”
đã được Washington chấp nhận. Ngày 1/1/1979 trên văn bản pháp lí Mĩ chính thức cắt đứt quan hệ với
Đài Bắc, tiếp tục tạo nên những phản ứng mạnh mẽ từ chính quyền Đài Loan (hơn cả năm 1972) và cả
phe phái thân Đài Loan trong nội các Nhà Trắng “đó là điều không thể tưởng tượng được, nó chỉ gây
tổn thất lớn lao cho nước tôi (Tưởng Kinh Quốc) mà còn là một sự bôi nhọ lớn lao, vừa thất tín với
nước tôi, cũng thất tín với thế giới, sau này không còn đồng minh nào tin ở Mĩ nữa” và “bất kì trên
góc độ nào, hành động này của Mĩ cũng gây tổn thất lớn lao cho sự tự do của nhân loại và các chế độ
dân chủ. Chắn chắc sẽ bị nhân dân yêu chuộng tự do, dân chủ các nơi trên thế giới lên án” [47;504].
Đạo luật quan hệ với Đài Loan (TRA) ra đời ngay sau đó, kết quả từ sự không hài lòng của một
số thành viên trong chính quyền Mĩ về việc bỏ rơi Đài Loan, đó là hành động “dối trá, miệt thị Hiến
pháp và Quốc hội Hoa Kì và bán rẻ Đài Loan” [50;462,463], bản thân tổng thống Mĩ Cater cũng bị chỉ
trích “quyết định của Cater như một sự bán rẻ an ninh của Đài Loan, một hành động làm suy giảm
lòng tin về người Mĩ trên thế giới và làm đen tối triển vọng hòa bình” [50;463]. Như vậy, việc “bỏ rơi”
Đài Loan đã tạo nên một sự chia rẽ về quan điểm đối ngoại trong Nhà Trắng, dù vậy việc ý thức được
lợi ích toàn cục, nhận thức được nếu Trung Quốc ngã vào cực nào – Liên Xô và Mĩ thì sẽ góp phần
thay đổi thế cân bằng lực lượng, ảnh hưởng dến cục diện quốc tế. Đạo luật TRA như một biện pháp để
xoa dịu đồng minh của Mĩ với các cam kết: bất kì nỗ lực để xác định tương lai của Đài Loan bằng cách
khác so với phương pháp hòa bình, kể cả cấm vận hay tẩy chay sẽ là một mối đe dọa đến hòa bình và
an ninh khu vực Tây Thái Bình Dương và là mối quan ngại trầm trọng đối với Mĩ, Mĩ sẽ duy trì năng
lực….để chống lại việc sử dụng vũ lực hay các hình thức cưỡng chế mà có thể gây nguy hiểm cho an
ninh hoặc hệ thống xã hội, kinh tế của người dân Đài Loan. Đài Loan sẽ được cung cấp vũ khí để duy
trì một khả năng tự vệ đầy đủ, tổng thống và Quốc hội Mĩ sẽ quyết định cung cấp cho Đài Loan các
hàng quốc phòng và các hậu cần phòng thủ với số lượng cần thiết cho phép hòn đảo này có thể duy trì
khả năng tự vệ đầy đủ.
Trên đây là những cam kết, tuyên bố đơn phương dành cho Đài Bắc để trấn an sự lo ngại của
chính quyền Đài Loan rằng Bắc Kinh sẽ sử dụng vũ lực để đưa hòn đảo này trở về dưới sự quản lí của
Đại lục. Như vậy, Mĩ vẫn duy trì chính sách hai mặt đối với Trung Quốc, Washington chưa thật sự tin
tưởng Bắc Kinh quyết tâm bắt tay với Mĩ tạo thành một liên minh trong cuộc đấu tranh chống tư tưởng
bá quyền ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương theo như tuyên bố năm 1979: hai bên không tìm kiếm
quyền bá chủ trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương hoặc bất kì khu vực nào khác trên thế giới và
sẽ nỗ lực ngăn cản bất kì nước nào hoặc nhóm các nước tiềm kiếm sự thiết lập bá quyền đó. Với chính
sách “nước đôi” như vậy, đương nhiên không làm hài lòng Bắc Kinh “hoàn toàn phản đối việc bán bất
kì một vũ khí nào cho Đài Loan, hi vọng Cater sẽ cực kì thận trọng đối với vấn đề đó” [50;469]. Chính
sự nhọc nhằng về mối quan hệ không rõ ràng của Mĩ đối với Trung Quốc về vấn đề Đài Loan đã làm
quan hệ hai nước trở nên thăng trầm hơn, trong cam kết ngày 17/8/1982 Mĩ tái khẳng định không theo
đuổi chính sách hai nước Trung Quốc hoặc một nước Trung Quốc, một nước Đài Loan, không theo
đuổi chính sách bán vũ khí lâu dài cho Đài Loan, việc bán vũ khí sẽ không vượt quá cả về số lượng lẫn
chất lượng kể từ hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao; dự định sẽ cắt giảm dần số lượng vũ khí bán cho
chính quyền hòn đảo này tới khi có giải pháp cuối cùng. Thực tế, trong quá trình đàm phám “giải pháp
cuối cùng” mà Mĩ đề xuất chưa bao giờ chính thức diễn ra, đây chỉ là biện pháp xoa dịu Bắc Kinh của
Washington như đã và đang tiến hành với Đài Bắc. Vấn đề Đài Loan trở thành vật cản trên con đường
phát triển ổn định và lâu dài trong quan hệ Mĩ – Trung, theo đó mối quan hệ giữa hai bờ eo biển luôn
trong tình trạng nóng, lạnh vì yếu tố Mĩ luôn hiện diện góp phần hình thành nên tam giác quan hệ: Mĩ –
Đài Loan – Trung Quốc. Sự hình thành nên mối tam giác này theo một dạng không đối xứng, Mĩ chiếm
nhiều ưu thế hơn, yếu tố Đài Loan mờ nhạt nhất trong mối quan hệ này. Điều này cần lưu ý, dù Bắc
Kinh và Đài Bắc luôn trong tình trạng đối nghịch nhau, nhưng do sự tác động của nhiều nhân tố trong
cuộc chiến tranh lạnh cả hai đều cố gắng “giành một quan hệ tốt” với Washington theo ý đồ riêng. Điều
này cho phép Mĩ có cơ hội mặc cả với cả hai bên, nhưng dù Mĩ chiếm ưu thế trong tam giác này sự
mặc cả chỉ ở mức độ nhất định. Điều này được lí giải, trước hết cả 3 đều không tin tưởng lẫn nhau, Mĩ
lo ngại Trung Quốc sẽ tiến hành các hoạt động quân sự chống Đài Loan cũng như quan ngại Đài Loan
sẽ gây ra các khiêu khích ngược lại. Trung Quốc nghi ngờ Mĩ có ý định chia tách Đài Loan hình thành
nên một nhà nước độc lập, Đài Loan luôn lo lắng sẽ bị thôn tính một khi mất đi khả năng phòng vệ,
cũng không muốn bị “tung hứng” quá nhiều trong “trò chơi” ngoại giao của Washington. Thứ hai, cả
Trung Quốc và Đài Loan đều công nhận sự nổi bật của Mĩ trong tam giác quan hệ này nhưng cả hai
không muốn bị chi phối nên luôn muốn tạo ra sự thay đổi, Bắc Kinh với những cố gắng giảm thiểu sự
can thiệp của Mĩ xung quanh vấn đề Đài Loan; khi đó Đài Loan cũng tìm cách thoát khỏi sự can thiệp
từ Trung Quốc, vì vậy Mĩ lợi dụng trạng thái cân bằng này.
Ba thông cáo cùng đạo luật quan hệ với Đài Loan là cơ sở pháp lí chỉ đạo mối quan hệ này, nó
không nêu ra các nguyên tắc, định chế cụ thể buộc các bên liên quan phải tôn trọng và tuân theo mà tùy
theo cách hiểu, nhận thức của mỗi bên để thực hiện, vì thế nó luôn gây ra sự tranh cải khi tiến hành áp
dụng.
Tóm lại ảnh hưởng rõ nét nhất đến bình thường hóa quan hệ Mĩ – Trung đó là sự ra đời của tam
giác ngoại giao Đài Loan – Mĩ – Trung Quốc và chính sách ngoại giao mang tính cân bằng của Mĩ
trong mối quan hệ tay ba này, hướng cao nhất là đảm bảo lợi ích chiến lược như Washington mong
muốn, mối quan hệ này được duy trì đến hiện nay. Đài Loan trở thành một trong những nhân tố quan
trọng chi phối mối quan hệ này – một mối quan hệ có tính chất phụ thuộc đan xen lẫn nhau vừa hợp
tác, vừa kiềm chế cạnh tranh dựa trên mẫu số chung là không để cho quan hệ đổ vỡ.
3.3. Đặc điểm mối quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa trong giai đoạn 1972 - 1991
Tìm hiểu về tính chất và đặc điểm không chỉ phản ánh thực chất mối quan hệ mà còn giúp chúng
ta lí giải được một cách chuẩn xác chiến lược và sách lược ngoại giao mà các nước giành cho đối
phương. Trong cuộc chiến tranh lạnh mối quan hệ Mĩ – Trung được tiến hành dựa trên một loạt các cơ
sở, nền tảng nhằm phục vụ chiến lược cho lợi ích phát triển quốc gia. Từ việc nghiên cứu lịch sử mối
quan hệ này chúng ta có thể rút ra một số nhận xét:
- Mối quan hệ Mĩ – Trung là mối quan hệ chiến lược, lợi ích không chỉ đối với bản thân hai
nước mà còn góp phần nào tác động đến sự xói mòn hệ thống lưỡng cực, hình thành nên cục diên tam
cực Mĩ – Xô – Trung từ thập niên 70 để đi đến kết thúc chiến tranh lạnh. Dù mối quan hệ này bao hàm
nhiều sự tính toán, nhưng với việc giảm căng thẳng giữa hai nước đã làm cho mối quan hệ quốc tế theo
hướng hoà dịu hơn tránh cho một cuộc chiến tranh nóng diễn ra, lôi kéo, tác động đến nhiều nước trong
khu vực khi hai bên không điều hoà được mâu thuẫn; đôi lúc sự bình thường hoá quan hệ Mĩ – Trung
cũng tạo nên những mâu thuẫn với các nước bị tác động. Điều này cho thấy chính sách ngoại giao của
Mĩ và Trung Quốc cần hướng đến sự cân bằng trên cơ sở xem xét nhiều yếu tố chủ quan lẫn khách
quan tác động.
- Mối quan hệ Mĩ – Trung chịu sự tác động của một loạt yếu tố chủ quan và khách quan. Quá
trình vận động quan hệ giữa hai nước biến thiên theo dạng hình sin, đều này tùy thuộc vào bối cảnh
quốc tế cũng như tình hình nội tại của mỗi nước trong những thời điểm lịch sử cụ thể. Suốt một thời
gian dài từ khi nước Trung Quốc mới ra đời đến khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, Mĩ và Trung
Quốc vẫn coi nhau là kẻ thù, bởi vì Trung Quốc Đại lục đã phá vỡ một phần trong chiến lược toàn cầu
của Mĩ, thể hiện ở ý đồ ngăn chặn sự lan rộng của CNCS cũng như ảnh hưởng của Liên Xô tại Châu Á.
Chiến tranh Triều Tiền, khủng hoảng eo biển Đài Loan là kết quả cho sự mâu thuẫn không thể giải
quyết bằng biện pháp hòa bình giữa hai bên, mặc dù có các cuộc tiếp xúc song phương bên lề một số
hội nghị hòa bình nhưng kết quả chỉ là cuộc đối thoại giữa những người điếc. Việc Trung Quốc không
thân thiện với Mĩ, một phần vì Washington đã gián tiếp tham gia vào nội chiến của nước này, đưa đến
hệ quả vấn đề Đài Loan nảy sinh mà không được giải quyết trọn vẹn, chính sách ngoại giao ngã hẳn về
Liên Xô trong thời gian đầu được xem là giải pháp an toàn vừa bảo đảm được an ninh quốc gia, vừa
tranh thủ được sự giúp đỡ từ khối XHCN phục vụ cho sự phát triển đất nước sau thời gian nội chiến
dài. Đến những năm cuối thập niên 60 khi mối bất hòa với Liên Xô trở nên căng thẳng, Trung Quốc
nhận thức rằng Mĩ có thể được sử dụng như một con bài nhằm hạn chế những mối đe dọa từ Moscow –
liên quan đến an ninh quốc gia, và trong bối cảnh nội tại Trung Quốc gặp nhiều khó khăn về phát triển
kinh tế cần vốn, công nghệ phương Tây, thì hệ tư tưởng không còn là rào cản lớn để nước này tiếp cận
“Mĩ là chìa khóa mở cửa kinh tế thế giới cho Trung Quốc” [57;103]. Mĩ cũng thấy rằng trong cuộc
chạy đua tranh giành ảnh hưởng, vị thế với Liên Xô thì mọi biện pháp đều có thể sử dụng nếu đáp ứng
được mục tiêu chiến lược.
Như vậy, quan hệ Mĩ – Trung đã chính thức được xác lập từ thập niên 70 là để đối phó với một
nước thứ ba hay liên quan đến một nước thứ ba, cho thấy tình hình thế giới và trong nước biến đổi thì
quan hệ hai nước cũng vận động theo hướng phù hợp nhất. Trong quá trình quan hệ đó cả hai nước có
những điểm thống nhất nhằm thúc đẩy sự hợp tác, bên cạnh đó là các mâu thuẫn còn tồn động, nó sẽ
bùng phát khi lợi ích chiến lược của hai bên không đều hòa được.
- Một đặc điểm có thể thấy trong mối quan hệ này, nó vừa hợp tác vừa đấu tranh. Điều này làm
cho quan hệ Mĩ – Trung thêm phần đa dạng, phức tạp, đặc điểm này cũng được vận động theo bối cảnh
lịch sử, lúc thì hợp tác là chủ đạo, lúc thì đấu tranh để phá vỡ thế bao quay từ đối phương, ngăn ngừa
sự xâm phạm chủ quyền, lợi ích an ninh quốc gia. Sự đấu tranh đôi lúc gây ra bế tắc trong quan hệ hai
nước nhưng theo tinh thần chủ đạo là không phá vỡ mối quan hệ, tức “đấu mà không phá, tranh mà
không vỡ”. Chẳng hạn, vấn đề Đài Loan luôn là nhân tố gây nóng lạnh trong quan hệ hai nước, Trung
Quốc luôn lên án Mĩ là nguyên nhân chính góp phần gây nên các cuộc khủng hoảng giữa hai bờ eo
biển. Trong tiến trình tiếp xúc xác lập quan hệ, Trung Quốc nêu ra nguyên tắc cứng rắn khi nào Mĩ
chấp nhận chỉ có một nước Trung Quốc thì nước này mới chấp nhận đàm phán, nhưng thực tế cho thấy
mặc dù tuyên bố chỉ có một nước Trung Quốc, Mĩ vẫn không “bỏ rơi” hòn đảo chiến lược này, sử dụng
Đài Loan để kiềm chế Bắc Kinh một cách nhất định. Cuối cùng bình thường hóa quan hệ giữa hai bên
đã đi đến thỏa thuận chinh thức, Mĩ vẫn quan hệ với chính quyền đảo Đài Loan và Trung Quốc cũng
không thể gây ra các cuộc xung đột chính trị - quân sự để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, ngăn chặn sự
can thiệp từ phía Mĩ, mà phải chấp nhận các tuyên bố “công việc nội bộ của Trung Quốc do người
Trung Quốc tự giải quyết” trên các văn bản pháp lí. Sự kiện Thiên An Môn cũng là điển hình cho chính
sách sách ngoại giao đấu tranh mà không phá vỡ trạng thái quan hệ. Có thể nói sau sự kiện 4/6/1989
quan hệ Mĩ – Trung trở lại chu kì khủng hoảng đến mức thấp nhất từ khi chính thức thiết lập ngoại
giao, Mĩ đã sử dụng vấn đề nhân quyền để xem xét lại chính sách ngoại giao với Bắc Kinh, trừng phạt,
cấm vấn kinh tế, ngoại giao là biện pháp để Washington “thức tỉnh” nước này cần tôn trọng dân chủ, tự
do hơn. Trung Quốc phản đối cái gọi là nền dân quyền kiểu Mĩ, bởi vì chẳng có tiêu chuẩn về dân chủ,
nhân quyền chung nào cả, tiêu chuẩn nhân quyền của Mĩ càng không thể áp dụng được cho Trung
Quốc. Xem xét về chính sách ngoại giao của Mĩ đối với Trung Quốc, nhận thấy dù tuyên bố cứng rắn
và thực thi các biện pháp trừng phạt Bắc Kinh nhưng Washington không đi đến quyết định cuối cùng là
cắt đứt quan hệ ngoại giao và chỉ mấy tháng sau đó chính sách nới lỏng trừng phạt đã được Mĩ tiến
hành. Phía Bắc Kinh cũng tìm cách giảm bớt căng thẳng không đáng có, tiếp tục thúc đẩy hợp tác với
Washington.
Có thể thấy, mối quan hệ Mĩ – Trung cũng như tất cả các mối quan hệ quốc tế khác, tất cả đều
có hợp tác – kiềm chế; phối hợp – cạnh tranh, tư tưởng này nằm trong khuôn khổ ngoại giao nhất định
“hợp tác không làm giảm đi tính chất kiềm chế lẫn nhau, và đấu tranh lúc căng thẳng nhất cũng không
triệt tiêu nhau. Hợp tác cũng không dẫn đến việc Mĩ – Trung liên minh với nhau. Đấu tranh nhưng
cũng không dẫn đến đối đầu, đổ vỡ quan hệ hoặc xung đột quân sự với nhau” [18;132]. Lịch sử đã
minh chứng Mĩ và Trung Quốc đều bày tỏ việc tập trung mọi điều kiện có thể để nâng cao sức mạnh
quốc gia, cho nên dù có những mâu thuẫn nhất định nhưng hai bên tránh cho một cuộc xung đột quân
sự trực tiếp như đã từng xảy ra tại cuộc chiến tranh liên Triều (1950 – 1953), khi xung đột chính trị, an
ninh quốc giao leo thang, có nguy cơ đe dọa đến chiến lược của mỗi nước, Mĩ và Trung Quốc sẽ ý thức
được lợi ích nào là tối quan trọng.
- Tính chủ động cũng góp phần tạo nên một đặc điểm trong ngoại giao hai nước. Trong tiến
trình “mở rộng” quan hệ ngoại giao với CHNDTH, Mĩ được xem là nước chủ động dù mục đích ngoại
giao của nước này là gì đi nữa, nhưng với tính chủ động Mĩ vừa thể hiện bản lĩnh của một nước lớn,
vừa góp phần gián tiếp “nâng cao” vị thế của đối tác, ở đây là Trung Quốc. Trong lịch sử Mĩ đã từng
chủ động “mở cửa” Trung Quốc theo đường lối ngoại giao phám hạm, thể hiện sức mạnh của chủ nghĩa
đế quốc, Trung Quốc phong kiến ở thế yếu nên phải chấp nhận trở thành nước nữa thuộc địa nữa phong
kiến.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ Mĩ cho rằng “một Trung Quốc an ninh và hùng
mạnh sẽ có ý nghĩa quyết định đối với sự ổn định khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, sự xáo động
hoặc chiến tranh ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trong thời kì cận đại đều có liên quan đến sự
mạnh hay yếu của Trung Quốc; một nước Trung Quốc ổn định, hùng mạnh và hợp tác với Mĩ là phù
hợp với lợi ích của Mĩ” [29;30], Trung Quốc thời kì này được hiểu là một chính phủ thân Mĩ.
Khi chiến tranh lạnh diễn ra; mâu thuẫn Mĩ – Xô hiện hữu; Mĩ sa lầy trong cuộc chiến tại Việt
Nam cùng với những khó khăn đương thời thì Trung Quốc (khi mâu thuẫn Xô – Trung bùng phát)
được xem là sự lựa chọn cho lợi ích chiến lược của Washington đối với Moscow tại khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương “do tiếp giáp với Liên Xô, cho dù Trung Quốc không liên minh với bất kì nước lớn
nào, thậm chí trong tình hình thiếu vũ khí hiện đại để tiến hành tiến công, thì về cơ bản cũng làm thay
đổi cán cân chiến lược địa lí toàn cầu. Do vậy, trừ chiến tranh ra, mối đe dọa lớn nhất đối với phương
Tây là sự hòa giải Trung – Xô, nó giống như điều ước Xô – Đức năm 1939, đó là tai họa mang tính
chiến lược” [31;30]. Có thể thấy, khi liên minh Xô – Trung được thiết lập đã gây nên sự lo lắng cho
chính sách ngăn ngừa làn sóng Đỏ của Mĩ tại Châu Á, vì thế khi liên minh này bất đồng Mĩ đã chủ
động, linh hoạt tận dụng nó như một cơ hội kiềm chế đối thủ. Và, Trung Quốc cũng nhận thấy an ninh
quốc gia là điều tối cần thiết để chấp nhận hòa hoãn với Mĩ. Bắc Kinh “dựa” vào Washington để đối
phó Moscow không đồng nghĩa nước này phụ thuộc một cách chặt chẽ vào đường lối ngoại giao của
Mĩ, mà luôn có sự tự chủ, xích lại gần Mĩ với một khoảng cách nhất định, tự nâng cao “giá trị” của
Trung Quốc với Mĩ, điều này xuất phát từ tư tưởng hợp tác hai bên cùng có lợi. Sự biến thiên trong
đường lối ngoại giao của Trung Quốc cho thấy nước này đã biết tận dụng một cách linh hoạt những
thay đổi trong quan hệ quốc tế để đề ra lối ngoại giao uyển chuyển, từ nhất biên đảo (những năm 50)
điều chỉnh thành lưỡng biên phản (những năm 60), rồi “nhất điều tuyến” (thập niên 70) và chính sách
“Độc lập cán” (suốt những năm 80), trong hội nghị Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ XII tháng 9
năm 1982 đã tuyên bố: Trung Quốc sẽ không bao giờ gắn kết mình với một cường quốc lớn hoặc một
nhóm cường quốc nào. Đường lối ngoại giao mang tính tự chủ đã góp phần đưa Trung Quốc trở thành
một “cực” trong hai thập kỉ cuối chiến tranh lạnh, dù chưa chính thức nhưng buộc hai cực Xô – Mĩ phải
chú ý đến, điều này thể hiện sự vươn lên của Trung Quốc mong muốn thoát khỏi ảnh hưởng mang tính
chi phối từ thế giới lưỡng cực, khẳng định vị thế độc lập hơn trên các diễn đàn chính trị quốc tế, nhu
cầu tái khẳng định mình là một nước lớn trên thế giới. Như vậy, Mĩ là nước chủ động bình thường hóa
quan hệ với Trung Quốc và Trung Quốc cũng mong muốn thay đổi thái độ ngoại giao với Mĩ, hai tư
tưởng lớn đã gặp nhau tạo nên nhân tố mới trong thời kì chiến tranh lạnh chi phối, Trung Quốc luôn
biết cách tự chủ trong đường lối ngoại giao không chỉ đối với Mĩ mà với cả các đối thủ của Mĩ.
Xem xét chính sách ngoại giao của Mĩ đối với Trung Quốc trong cuộc chiến tranh lạnh, chúng
ta có thể rút ra một số đặc điểm:
- Thứ nhất, chính sách đối ngoại mà Mĩ áp dụng đối với Trung Quốc là một bộ phận trong chiến
lược toàn cầu của nước này nói chung và khu vực Châu Á nói riêng, nhằm gia tăng sự ảnh hưởng phục
vụ cho lợi ích chiến lược của họ, kiềm chế đối thủ. Rõ ràng, khi tham gia mở cửa Trung Quốc từ giữa
thế kỉ XX, Mĩ đã muốn biến nước này là nước phụ thuộc, thuộc địa. Tham gia vào nội chiến Quốc –
Cộng không nằm ngoài ý đồ nắm lấy vị trí chiến lược này phục vụ cho chính sách ngặn chặn của mình,
Trung Quốc đóng ở vị trí then chốt trong chiến lược chống lại sự mở rộng của CNCS từ Liên Xô ở
Châu Á – Thái Bình Dương, hệ thống vòng cung an ninh từ quần đảo Aleutian ở phía Bắc ngang qua
Nhật Bản và Philippin xuống tận Úc và New Zeland ở phía Nam đã hình thành “phải tìm cách không
cho các lực lượng cộng sản tiến sâu hơn ở bất cứ nơi nào trên thế giới” [57;129]. Khi cách mạng
XHCN thành công ở Trung Quốc, CNXH dần trở thành một hệ thống thế giới, ý đồ của Mĩ trong việc
sử dụng nước này cho chiến lược ngăn cơ bản bị phá sản, nhưng điều này không làm Washington từ bỏ
chính sách ngăn chặn. Thất bại này trở thành cơ sở để Mĩ vạch ra kế hoạch mới, chính sách mới phù
hợp với nước Trung Quốc mới nhằm tiếp tục theo đuổi kế hoạch toàn cầu. Không bắt Trung Quốc phụ
thuộc, nhưng ít nhất cô lập, ngặn chặn nước nước này thành đồng minh với Liên Xô, các thế lực đối lập
thì Mĩ cơ bản thành công “chúng ta hướng về Trung Quốc không phải để chuộc lại các lỗi lầm của
chính sách về Trung Quốc vào cuối thập niên 1940 mà để hình thành thế lực cân bằng toàn cầu”
[57;148].
- Thứ hai, phương thức khơi sâu mâu thuẫn giữa Trung Quốc với đồng minh và “quan tâm” quá
mức cần thiết đến công việc nội bộ Trung Quốc là cách để Washington gây ảnh hướng ngoại giao đến
Bắc Kinh. Qua trường hợp mâu thuẫn giữa Trung – Xô là điển hình, Mĩ từng bước nhận thức được sự
chia rẽ trong hành ngũ các nước cộng sản là cơ hội để gia tăng ảnh hưởng, cạnh tranh toàn cầu “thông
cáo năm 1972 là thành quả to lớn đầu tiên của chính sách ngoại giao ba bên. Thực chất nó là một nỗ
lực của Mĩ nhằm khai thác sự thù địch giữa Trung Quốc và Liên Xô” [5;367], điều này giúp ích cho
chính sách ngoại giao của Mĩ rất nhiều “không có nó (sự chia rẽ Xô – Trung), Mĩ đã không thể xoay sở
được trong việc cắt giảm nguồn nhân lực quân sự để ủng hộ cho chương trình phát triển các loại vũ
khí công nghệ cao và dài hạn hơn….sự chia rẽ Xô – Trung đã khiến cho khối vũ khí hạt nhân và vũ khí
thông thường khổng lồ của Nga phải hướng vào Đông Bắc Á và điều đó làm giảm đáng kể khả năng
tiến hành chiến tranh của người Nga ở Châu Âu hay hỗ trợ cho cách mạng ở khu vực ngoại vi”
[5;370]. Trường hợp chiến tranh tại Việt Nam, Mĩ muốn Trung Quốc bày tỏ lập trường có lợi cho mình
để kết thúc cuộc chiến trong danh dự khi mà nước này đang lâm vào tình trạng bế tắc. Mĩ đề cao Trung
Quốc trong việc tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế vì trong những trường hợp nhất định tiếng nói
của Trung Quốc là cần thiết chứ không phải muốn nước này trở thành một quyền lực toàn cầu thật sự,
cạnh tranh ngang với họ và Liên Xô.
- Thứ ba, việc Mĩ can thiệp vào Trung Quốc không phải bằng lực lượng quân sự trực tiếp mà
thông qua các gói viện trợ kinh tế, hỗ trợ kĩ thuật, vũ khí cho các lực lượng đối lập, mưu toan sau khi
thành công chính phủ lực lượng đối lập sẽ “mang ơn” và phải “trả ơn” Mĩ. Từ thời nội chiến với vai trò
là lực lượng trung gian để sắp xếp, tổ chức một một chính phủ liên minh Quốc – Cộng, Mĩ đã không
thành công. Lí do giữa hai chính quyền luôn tồn tại sự đối đầu gay gắt với những toan tính thiếu đi tính
hòa hợp dân tộc, bên cạnh đó việc Mĩ có phần nghiêng về lực lượng Quốc Dân Đảng qua các hoạt động
viện trợ kinh tế, quân sự đã làm cho việc thống nhất đất nước trở nên khó khăn hơn. Mặc dù thất bại
trong việc ngăn chặn CNCS tại Trung Quốc “Mĩ đã cố gắng một cách vô ích trong việc là trung gian
giải quyết cuộc nội chiến ở Trung Quốc, còn Trung Quốc sẽ không đóng một vai trò quan trọng trong
nền trật tự quốc tế sau chiến tranh thế giới như ý nghĩ ban đầu của Mĩ”, ngay cả Mĩ cũng đã thừa nhận:
không phải bất cứ việc gì Mĩ làm trong những phạm vi hợp lí của khả năng mình, là điều có thể đạt
được kết quả, không phải bất cứ việc gì do Mĩ làm mà điều có thể gây được ảnh hưởng quan trọng,
nhưng vấn đề Đài Loan nảy sinh đã không chặn đứng việc Mĩ tiếp tục can thiệp vào công việc nội bộ
Trung Quốc. Vấn đề Đài Loan (bên cạnh các liên minh quân sự tại Đông Á) được Mĩ chính thức sử
dụng như một con bài để kiềm chế Trung Quốc một khi nước này “trỗi dậy” vượt qua giới hạn và ảnh
hưởng đến chính sách chung của họ. Lên tiếng thừa nhận không can thiệp vào việc thống nhất đất nước
của Trung Quốc, nhưng Mĩ lại phản đối việc Bắc Kinh dùng vũ lực hay các biện pháp quân sự để thu
hồi hòn đảo này; cam kết không bán vũ khí và quan hệ kiểu nhà nước với nhà nước nhưng Quốc hội Mĩ
lại thông qua các đạo luật buôn bán vũ khí để cho Đài Loan “tự vệ” hàng năm, đạo luật TRA – được
xem như đạo luật chỉ đạo quan hệ không chính thức giữa chính quyền Washington với chính quyền Đài
Bắc. Trong tiến trình đàm phán quan hệ bình thường với Trung Quốc, nhân tố Đài Loan đã trở thành
nhân tố xuyên suốt, kết quả cuối cũng vẫn bỏ ngõ. Rõ ràng Mĩ thi hành chính sách hai mặt. Bên cạnh
đó vấn đề Tây Tạng, dân chủ, nhân quyền trở thành những nguyên nhân để Mĩ “đánh giá” lại chính
sách ngoại giao với Trung Quốc theo hướng kiềm hãm sự nổi lên không cần thiết ảnh hưởng đến chiến
lược toàn cầu của họ.
- Thứ tư, Mĩ muốn Trung Quốc là “đối tác” quan hệ, chứ không phải là “đồng minh”, tìm đến
Trung Quốc cuối những năm 60 đầu những năm 70 là cách để Mĩ thoát khỏi những khó khăn đang gặp
phải ảnh hưởng đến sức mạnh, vị thế, hình ảnh của Mĩ: khôi phục kinh tế, cạnh tranh với Liên Xô,
kiềm chế đồng minh, khôi lòng tin dân chúng từ cuộc chiến tranh Việt Nam “Việc Mĩ can thiệp vào
Việt Nam lại hóa ra là tốt đối với Liên Xô. Về mặt chiến lược, nó dìm Mĩ vào việc thất thoát tài nguyên
rất lớn làm suy yếu Mĩ cả trong và ngoài nước…..về mặt đối ngoại, Liên Xô chiếm được lợi thế do Mĩ
gặp những khó khăn với các nước đồng minh của mình và bị các nước phi liên kết lên án” [57;183].
Mặc dù Trung Quốc vẫn có vai trò quan trọng, nhưng trọng tâm chính sách đối ngoại thời chiến tranh
lạnh của Mĩ vẫn là Liên Xô. Đây là thực tế hiển nhiên xét về mặt chiến lược quốc tế cũng như những
mối quan hệ trong khu vực trọng điểm, ngay tại Châu Á dù hợp tác với Trung Quốc, Mĩ vẫn cảnh giác
chủ thuyết chủ nghĩa cộng sản mà Trung Quốc theo đuổi “Trung Quốc vẫn được nhận thức là một đối
thủ nguy hiểm ở Châu Á và là kẻ xúi giục làm cách mạng ở khắp nơi trong thế giới thứ ba”. Mĩ nhìn
Trung Quốc có tầm quan trọng trong suốt thời kì hình thành tam cực phân quyền ( Xô – Mĩ – Trung),
nhưng cực Trung Quốc được Mĩ coi như nhân tố để kiềm chế Liên Xô, chứ không mong muốn biến nó
thành đồng minh chiến lược chia sẽ quyền lực trước hết là tại Châu Á – Thái Bình Dương “Trung Quốc
nhiều thập kỉ nay chưa phải là một cường quốc có tính toàn cầu” [57;158]. Trung Quốc nhận thức
được chính sách ngoại giao mà Mĩ dành cho họ, nên rất khôn khéo trong việc ứng phó với đường lối
ngoại giao mang đầy tính thực dụng từ đối phương “suốt 40 năm hiện hữu, nước CHND Trung Quốc
xử lí những vấn đề an ninh của mình trong khu vực để làm bàn đạp cho quan hệ với hai siêu cường”.
Như vậy, nhìn lại lịch sử quan hệ hai nước Mĩ – Trung (1949 – 1991) và cả giai đoạn sau chiến
tranh lạnh, đặc điểm nổi bật của mối quan hệ này là thăng trầm, đa diện.
3.4. Quan hệ Hoa Kì – CHND Trung Hoa: Mối quan hệ quan trọng trong thế kỉ XXI
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, cục diện chính trị quốc tế có những thay đổi lớn – cục diện
chiến lược thế giới là cơ cấu lực lượng có tác dụng chủ đạo và chi phối trong quan hệ quốc tế cũng như
trạng thái và hình thức chiến lược hình thành giữa các lực lượng trong một thời kì tương đối ổn định.
Lưỡng cực tan vỡ với sự mất đi cực Liên Xô, Mĩ được xem là siêu cường duy nhất của thế giới với việc
thống trị bốn cơ cấu quyền lực: kinh tế, tài chính, thương mại và tri thức đã trở thành nền tảng cho
chính sách ngoại giao thời hậu chiến tranh lạnh của chính quyền Washington.
Tuy nhiên, quan hệ quốc tế luôn hàm trước những nhân tố bất ngờ, Mĩ không thể đơn phương áp
đặt ý chí của mình trong các vấn đề quốc tế bởi sự trỗi dậy khẳng định của một loạt các nước, các tổ
chức, liên minh quốc tế: sức mạnh kinh tế Nhật Bản; tiềm lực quân sự, kinh tế Nga; sự thành công của
Liên minh Châu Âu; sự lớn mạnh của Ấn Độ và phải kể đến sự trỗi dậy “trong hòa bình” của Trung
Quốc……tất cả đã và đang thách thức cán cân quyền lực của Mĩ “cơ cấu trong quan hệ quốc tế xuất
hiện sau chiến tranh lạnh kết thúc thật mơ hồ, mất đi trục xung đột rõ rệt được xác định bởi sự đối đầu
giữa hai phe, chính sách đối ngoại của Mĩ không còn cho thấy được sự nhất quán cũng như chủ điểm
thống nhất để liên kết các phần khác nhau của thế giới” [57;261].
Quan hệ Mĩ – Trung vốn được hình thành và phát triển trong nhiều thập kỉ, đến khi cuộc chiến
tranh lạnh kết thúc mối quan hệ này tiếp tục được duy trì, nhưng trong bối cảnh quốc tế mới, do vậy
chính sách ngoại giao giữa hai nước được điều chỉnh mang tính linh hoạt hơn. Một số yếu tố làm nên
quan hệ Mĩ – Trung trong chiến tranh lạnh đã không còn nữa, thay vào đó là các yếu tố mới: vấn đề
toàn cầu hóa, hợp tác kinh tế, các lĩnh vực an ninh phi truyền thống…..tất cả tiếp tục tạo nên các gam
màu đậm nhạt, sắc thái trong quan hệ hai nước.
Với Mĩ, nước này đã loại bỏ được đối thủ của mình và vươn lên thành siêu cường duy nhất của
thế giới, điều này tác động đến đường lối ngoại giao luôn muốn ở tuyến trên của Mĩ. Trong bày phát
biểu nhậm chức tháng 1/1993 của B. Clinton: rõ ràng là nước Mĩ phải tiếp tục lãnh đạo thế giới, đây là
công việc mà trong quá khứ chúng ta mới nổ lực làm được. Mỗi đời tổng thống lên cầm quyền luôn
biết cách đề ra chính sách ngoại giao mang đậm dấn ấn bản thân họ nhưng điều căn cứ vào vị thế của
nước Mĩ cũng như các lực lượng thách thứ nước này. Thời kì B.Clinton với chiến lược ngoại giao “cam
kết và mở rộng”, nội dung chủ đạo của học thuyết này trước hết là bảo đảm vị trí lãnh đạo thế giới của
Mĩ: Hoa Kì dự định vẫn cam kết và dẫn đầu trong các quan hệ quốc tế và vẫn là chổ dựa cho nền hòa
bình; thực hiện ưu tiên việc phục hưng nền kinh tế Mĩ sau hệ quả chạy đua chiến lược với Liên Xô
trong chiến tranh lạnh, đang bị sự cạnh tranh gay gắt từ đồng minh “lợi ích kinh tế của Mĩ phải là trọng
tâm chủ yếu trong chính sách đối ngoại”; chủ động hơn trong chính sách liên minh hợp tác, chia sẽ
trách nhiệm với các nước đồng minh đồng thời sẽ thi hành chính sách cân bằng lực lượng với các nước
vừa là liên minh vừa là đối thủ, ngăn chặn sữ trỗi dậy của các lực lượng thách thức vai trò của Mĩ;
ngoài ra còn đề cao dân chủ, nhân quyền…….Như vậy có thể thấy, sau chiến tranh lạnh phát uy lợi thế
có sẵn, Mĩ can thiệp sâu rộng vào các vấn đề quốc tế hơn, bởi vì chưa có đối thủ nào cạnh tranh ngang
bằng, nước này cũng ý thức được rằng thế giới hậu chiến tranh lạnh đang trong trạng thái “nhất siêu,
nhiều cường”, chưa có sự phân tuyến một cách rõ rệt. Thời kì G.W.Bush (con) lên nắm quyền, Mĩ đối
mặt với một thế lực mới đó là chủ nghĩa khủng bố quốc tế, sau sự kiện 11/9/2001, chiêu bài chống
khủng bố được Mĩ sử dụng để gia tăng quyền lực toàn cầu hơn, nhưng đưa Mĩ đến nhận thức cần phải
có sự hợp tác giữa các nước trong một thế giới đầy biến động với nhiều nhân tố mới xuất hiện, những
nhân tố này vừa là cơ hội vừa là thách thức cho nền ngoại giao không chỉ đối với bản thân nước Mĩ mà
tất cả các nước “không có một quốc gia nào có thể tự đối phó với những thách đó của thế kỉ 21 hay là
có thể một mình đạt đến những lợi ích”. Trung Quốc là một nước đang phát triển nhất tất yếu trong
chính sách đối ngoại Mĩ sự lưu tâm về nước này là rất lớn.
Với Trung Quốc, sự điều chỉnh đường lối đối ngoại mang nhiều nét mới phù hợp với tình hình
quốc tế. Chính sách đối ngoại của Bắc Kinh chuyển từ việc lấy quan hệ với Xô, Mĩ làm trọng tâm sang
quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề toàn cầu, các lược lượng, tổ chức liên minh quốc tế, bởi vì nước
này không muốn phụ thuộc vào sự “lên xuống” như đã xảy ra trong mối quan hệ Mĩ – Xô thời chiến
tranh lạnh. Điều này có lợi cho sự nghiệp cải cách mở cửa nền kinh tế, tiến hành hòa nhập sâu vào thế
giới, tận dụng những thuận lợi do tình hình thế giới mang lại để khẳng định vị thế trên trường quốc tế
của Trung Quốc. Dựa trên nguyên tắc không đối kháng khi tăng cường mối quan hệ với các nước lớn,
cũng như không liên minh với nước nào nhằm tạo nên sự cân bằng trong thế giới đa cực, đây là một
trong những nguyên tắc nổi bật trong chính sách đối ngoại mới của Bắc Kinh. Coi trọng quan hệ với
các nước láng giềng là chiến lược để Trung Quốc khẳng định vị trí của mình trước hết tại khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương, Trung Quốc ngày nay được xem là một cường quốc khu vực. Ý thức hệ
không còn là rào cản để cho Trung Quốc thực hiện chiến lược ngoại giao đa phương, trong quan hệ với
Mĩ thì lợi ích kinh tế, an ninh quốc gia là điểm nổi bật.
Sự hợp tác giữa Mĩ và Trung Quốc đều mang lại lợi ích chiến lược cho cả hai, cùng nhau duy trì
môi trường hòa bình và ổn định sẽ giúp cả hai đạt được mục tiêu chiến lược đề ra, môi trường an ninh
sau chiến tranh lạnh đặt ra nhiều thách thức: phổ biến vũ khí hạt nhân, tội phạm xuyên quốc gia, khủng
bố quốc tế…tạo nên mối quan hệ chính trị - an ninh song trùng giữa hai nước. Chẳng hạn trong cuộc
chiến chống khủng bố quốc tế đã tác động đến chính sách ngoại giao cả Mĩ và Trung Quốc, hai nước
đều nhận thức được tính nghiệm trọng của an ninh quốc gia do thế lực phi truyền thống này tạo nên, Mĩ
phát động cuộc chiến chống khủng bố trên toàn cầu, đã nhận được sự ủng hộ của nhiều nước, trong đó
“mặt trận chống khủng bố của Mĩ không thể thiếu được Trung Quốc”, Trung Quốc cũng tuyên bố:
chính phủ Trung Quốc trước sau lên án và phản đối tất cả các phương thức bạo lực khủng bố. Cho thấy,
một mặt nước này tranh thủ thiện chí của Mĩ, thay đổi thái độ trong việc coi nước này là “một đối thủ
tiềm tàng” , không bị Mĩ quy vào đồng minh chống khủng bố, bởi vì sau sự kiện 11.9. 2001, Mĩ đã
tuyên bố thẳng thừng: các nước hoặc là đi theo Mĩ hoặc là đi theo khủng bố. Đưa Trung Quốc tham gia
vào đồng minh chống thế lực này, Mĩ mong muốn một sự chia sẽ trách nhiệm, tham gia giải quyết các
vấn đề quốc tế, và không muốn bị quy kết có tham vọng lớn trong các vấn đề toàn cầu.
Trong lĩnh vực kinh tế, công cuộc “bốn hiện đại hóa” trong cải cách kinh tế của Trung Quốc cần
thu hút vốn, khoa học công nghệ từ các nước có trình độ phát tiển trong đó có Mĩ. Đầu tư vào Trung
Quốc, Mĩ sẽ được một thị trường hơn 1 tỉ dân, giàu tiềm năng về nguồn nhân lực, nguyên nhiên liệu,
Mĩ muốn Trung Quốc duy trì vai trò là nền kinh tế năng động ở khu vực nhằm tạo môi trường ổn định
cho sự hợp tác hai bên. Ngày nay kinh tế được xem là nhân tố quyết định cho sức mạnh tổng hợp quốc
gia, nhìn lại lịch sử hai nước thì quan hệ kinh tế là một trong những nhân tố chi phối mạnh mẽ sự xích
lại gần nhau giữa hai bên. Hợp tác kinh tế Mĩ – Trung diễn ra trên hai lĩnh vực chủ yếu: quan hệ kinh tế
song phương và mối quan hệ trong các tổ chức kinh tế khu vực, quốc tế. Tỉ trọng kinh ngạch trao đổi
hai chiều không ngừng được tăng lên, cho thấy sự phụ thuộc chặt chẽ giữa hai nền kinh tế lớn của thế
giới: một thị trường chuyên về tiêu thụ - một thị trường xuất khẩu.
Toàn cầu hóa, khu vực hóa đang là xu hướng chủ đạo chính trong trạng thái quan hệ quốc tế
hiện nay, đưa đến sự tương tác ngày càng chặt chẽ và ngày càng mở rộng giữa các quốc gia và các tổ
chức quốc tế trong việc đánh giá tình hình, để từ đó tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề đang trở nên
bức xúc, bởi vì xu hướng này đụng chạm đến quyền lợi không chỉ của từng quốc gia riêng rẽ mà toàn
thể nhân loại. Cả Mĩ và Trung Quốc ra sức tận dụng những ưu thế vượt trội của họ để đạt được thành
quả tối đa có thể từ xu thế này mang lại, đồng thời sẽ hạn chế những tác động tiêu cực.
Cặp quan hệ Mĩ – Trung, với chính sách đối ngoại không chỉ tác động đến quan hệ hai nước mà
còn ảnh hưởng rất lớn đến chính sách ngoại giao của nhiều nước, đôi lúc những nước bị ảnh hưởng
buộc phải căn cứ vào cách “hành xử” của Mĩ, Trung Quốc để đề ra đường lối đối ngoại phù hợp, mang
lại hiệu quả nhất. Một học giả Mĩ đã đưa ra nhận xét “Quan hệ Mĩ – Trung có vai trò xúc tác, một khi
có thay đổi, ngoài quan hệ Âu – Mĩ ra, quan hệ Mĩ – Nga, Mĩ – Nhật đều có thể có những thay đổi, đó
là tính chiến lược của quan hệ Mĩ – Trung nhìn từ góc độ quan hệ quốc tế” [29;152]. Nhận định này
hoàn toàn có cơ sở bởi vì nó được minh chứng từ những tác động lịch sử cụ thể, sự tác động trước hết
diễn ra ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Thế kỉ XXI được nhận định là thế kỉ phát triển của khu
vực này, do vậy hầu hết các nước lớn trên thế giới đã và đang triển khai chính sách đối ngoại nhằm xác
lập một vị thế nhất định tại đây, trong chiến lược toàn cầu của Mĩ khu vực này là trọng điểm. Mĩ đã gặp
phải nhiều đối thủ mà trước hết là Trung Quốc, do vậy chính sách mà hai nước này dành cho nhau sẽ
ảnh hưởng đến môi trường kinh tế, chính trị, an ninh của cả khu vực. Nếu Mĩ – Trung êm ấm thì cục
diện khu vực sẽ ổn định hơn cho môi trường đầu tư, phát triển; ngược lại trạng thái nóng, lạnh do xuất
phát từ những lợi ích quốc gia, khu vực này sẽ biến động theo thái độ của cả hai, mặc dù tính tự chủ
của các nước trong khu vực này luôn được đề cao. Chẳng hạn khi Mĩ gia tăng quan hệ với Nhật, Hàn
Quốc, ASEAN thì Trung Quốc sẽ hướng đến sự thân thiện hơn với Nga, Ấn Độ cùng các đối tác cạnh
tranh với Mĩ. Điều này tạo nên sự dịch chuyển các mối quan hệ để thúc đẩy sự cân bằng hơn, và nếu
các nước đối tác Trung – Mĩ biết tận dụng tốt sự biến thiên mối quan hệ này thì sẽ có lợi cho họ.
Với Đông Nam Á, sự gia tăng quan hệ của Trung Quốc với ASEAN và chính sách tuyên bố
quay trở lại Đông Nam Á của Mĩ vừa tạo ra cơ hội đồng thời cũng là thách thức cho các nước khu vực
này trong việc xử lí khôn khéo mối quan hệ với các nước lớn, tránh được lòng nước này mà mất lòng
đối tác kia “ASEAN có nguy cơ bị chia rẽ nếu tình hình căng thẳng giữa Mĩ và Trung Quốc tiếp tục
tăng lên trở thành một cuộc chiến tranh lạnh và buộc nhóm nước khu vực này phải lựa chọn đứng về
bên nào. Phản ứng….của Trung Quốc đối với chính sách an ninh….của Mĩ sẽ có tác động sâu sắc đến
an ninh khu vực” [29;294] – lời nhận xét của một chuyên gia an ninh Thái Lan trong giai đoạn Mĩ –
Trung căng thẳng. Nhận xét này cho thấy sự bất ổn trong quan hệ hai nước luôn tồn tại, nó chỉ tạm gác
lại khi lợi ích hai nước được điều hòa. Trong vấn đề an ninh luôn tồn tại những bất đồng nhạy cảm,
ngay cả trong mục tiêu chiến lược của hai nước cũng thể hiện mâu thuẫn, Mĩ không bao giờ từ bỏ mục
đích vươn lên lãnh đạo thế giới và không muốn lực lượng nào cản trở. Với Trung Quốc mong muốn
thiết lập một thế giới đa cực, mỗi chủ thể sẽ là một cực trong hệ thống quan hệ quốc tế.
Để duy trì sức mạnh an ninh, Mĩ không ngừng tăng cường quan hệ quân sự với đồng minh (ở
Châu Á – liên minh Mĩ – Nhật; Mĩ – Hàn; ở Châu Âu không ngừng mở rộng khối NATO; triển khai hệ
thống tên lửa đạo đạo ở khắp nơi), điều này gây nên sự lo lắng cho chính quyền Bắc Kinh. Thực tế do
tính quan trọng về mặt chiến lược nên khu vực Châu Á - Thái Bình Dương dần trở thành khu vực “vũ
trang nặng nề nhất thế giới” trong thế kỉ này. Các cuộc chiến tranh kinh tế, chiến tranh tiền tệ vẫn
thường xuyên hiện hữu giữa hai đối tác Mĩ – Trung, điều này lại ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ chính
trị. Ý thức hệ, sự khác biệt về văn hóa “va chạm giữa các nền văn minh”, ngoài ra vấn đề Đài Loan
luôn là nhân tố then chốt trong mối quan hệ này, không một nhà lãnh đạo nào từ phía Trung Quốc tỏ
thái độ nhân nhượng khi Mĩ có thái độ quan hệ trên mức “cho phép” với đảo Đài Loan. Đây được xem
là “mặt trận chính trị cuối cùng” và là nhân tố duy nhất có thể kiến mối quan hệ Mĩ – Trung đổ vỡ hoàn
toàn.
Từ những việc tìm hiểu chính sách đối ngoại mà hai nước dành cho nhau từ sau chiến tranh lạnh
kết thúc đến nay, có thể thấy: hợp tác và cạnh tranh vẫn là đặc điểm xuyên suốt của mối quan hệ này
trong thế kỉ XXI, nếu chính phủ hai nước biết xử lí một cách khôn khéo những nhân tố trở ngại thì
quan hệ Mĩ – Trung sẽ phát triển hơn “vừa hợp tác, vừa cạnh tranh và cạnh tranh trong hợp tác sẽ là
trạng thái thông thường của quan hệ Mĩ – Trung, cọ xác là khó tránh, song quá mức sẽ dẫn đến không
khống chế nổi là không phù hợp với lợi ích căn bản của hai nước cũng như không phù hợp với trào lưu
thế giới” [29;252]. Mĩ – Trung vẫn cần có nhau, mối quan hệ này trở thành một trong những mối quan
hệ lớn nhất của thế kỉ XXI “Mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ định hình cho thế kỷ 21. Sự liên hệ
4
này làm cho nó quan trọng như bất cứ sự liên hệ song phương khác trên thế giới. Và điều này phải
P [135].
4 tuyên bố được đưa ra tại “Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ - Trung” diễn ra 27-28/7/2009 tại Washington bởi Tổng thống Mĩ Barack Obama.
thực sự củng cố sự hợp tác của chúng ta. Đây là trách nhiệm mà hai bên phải gánh vác”P3F
Tiểu kết chương 3
Quan hệ Mĩ – Trung 1949 – 1991 đặc biệt là giai đoạn 1972 – 1991 chịu sự tác động của nhiều
yếu tố, có những yếu tố kết thúc cùng với chiến tranh lạnh cũng có yếu tố kéo dài đến hiện nay: yếu tố
Liên Xô – “Liên Xô là một mối đe doạ lớn nhất vì vị trí địa lý của nó ở ngay bên cạnh Trung Quốc,
ông ta (Mao) muốn tìm sự hoà giải với Hoa kì để đương đầu với Liên Xô”, tất nhiên Moscow cũng là
một đối trọng giữ vai trò chủ đạo trong cuộc cạnh tranh quyền lực toàn cầu với Washington từ khi Liên
bang cộng sản này ra đời; yếu tố Việt Nam - Cuộc chiến tranh ở Việt Nam có liên quan đến Liên Xô,
Mĩ, Trung Quốc và các nước này đều sử dụng chiến tranh Việt Nam vì những lợi ích chiến lược của họ,
không nghĩ đến quyền lợi, độc lập dân tộc mà nhân dân Việt Nam đã và đang phải hi sinh để giành lấy;
yếu tố Đài Loan – yếu tố xuyên suốt trong quan hệ Mĩ –Trung từ 1949 kéo dài đến hiện nay, “Trung
Quốc coi sự hiện diện của quân đội Mĩ ở Đài Loan là vi phạm chủ quyền của Trung Quốc và ép quân
đội Mĩ phải rút hoàn toàn khỏi hòn đảo”, Cắt đứt quan hệ ngoại giao; bãi bỏ hiệp ước phòng thủ; rút
lực lượng quân sự ra khỏi đảo Đài Loan, là 3 điều kiện căn bản để đạt được sự thay đổi trong ngoại
giao Trung – Mĩ.
Những yếu tố này lại bị tác động trở lại sau cú “bắt tay” hòa hoãn giữa Mĩ và Trung Quốc: Quan
hệ Xô – Trung càng trở nên lạnh nhạt, mãi đến khi Gocbachev lên cầm quyền ở Liên Xô thì hai nước
mới dần đạt sự thỏa thuận đi đến bình thường hóa quan hệ, mối quan hệ giữa Mĩ - Xô vẫn trong tư thế
đối trọng lẫn nhau cho đến ki Liên Xô tan rã; Cuộc kháng chiến chống Mĩ can thiệp của nhân dân Việt
Nam quyết tâm được nâng cao hơn và đã thành công vào năm 1975, Quan hệ Việt – Trung cũng căng
thẳng không kém, đỉnh cao là cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước; Những thỏa thuận giữa Trung
Quốc và Mĩ về vấn đề thu hồi đảo Đài Loan của nước này cũng không thực hiện được một cách trọn
vẹn, và xem nó như con bài để trao đổi ngoại giao.
Đặc điểm nổi bật nhất của mối quan hệ này là thăng trầm, đa diện.
Thế kỉ XXI, hợp tác và cạnh tranh sẽ là dòng chính trong quan hệ Mĩ – Trung.
KẾT LUẬN
Quan hệ quốc tế luôn hàm chứa nhiều biến động phức tạp, nhìn lại mối quan hệ Mĩ – Trung từ
khi CHND Trung Hoa ra đời là một minh chứng đó nhận định đó, nhất là trong giai đoạn chiến tranh
lạnh chi phối. Ngày 21/2/1972 Tổng thống Mĩ Nixon đến Bắc Kinh, mở đầu cho sự kiện “tuần lễ ngoại
giao thay đổi thế giới”. Đây là chuyến thăm đầu tiên của nhà lãnh đạo một nước chưa thiết lập quan hệ
ngoại giao chính thức với Trung Quốc. Mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước, từ đối
đầu, căng thẳng đến hoà dịu, hợp tác được xem là cả một tiến trình lịch sử.
Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc đã đập tan kế hoạch ngăn chặn CNCS xuống Châu Á của
Mĩ, những chuyển biến mau nhanh chóng của tình hình Trung Quốc khiến chính phủ Mĩ phải có những
chính sách đối ngoại cần thay đổi với nước này. Sự cự tuyệt thừa nhận tính hợp pháp của chính quyền
Trung Quốc mới, thay vào đó là cộng nhận địa vị của chính quyền Đài Loan dẫn đến các cuộc khủng
hoảng giữa hai bờ eo biển; đụng độ tại cuộc chiến tranh Triều Tiên. Tất cả tác động đến chính sách
ngoại giao giữa hai nước dành cho nhau tạo nên những cung bậc thăng trầm.
Giữa thập niên 1950 Thủ tướng Chu Ân Lai đã “gợi ý” cho việc hòa giải với Mĩ với tư tưởng
nhân dân Trung Quốc không muốn xảy ra một cuộc đụng độ với người dân Mĩ, theo đó một loạt các
cuộc gặp cấp Đại sứ giữa hai bên đã diễn ra tại các hội nghị Giơnevơ; Warsaw, dù đàm phán không đạt
được qua các điều khoản đề xuất nhưng cũng đặt cơ sở cho mối quan hệ sau này. Yếu tố chính trị, hệ tư
tưởng vẫn là rào cản để hai bên thay đổi quan hệ theo hướng tốt đẹp hơn.
Cuối thập niên 60 đầu những năm 70 những diễn biến trong quan hệ quốc tế đã tác động đến
việc xem xét một cách cơ bản chính sách Mĩ – Trung dành cho nhau. Việc Liên Xô đưa quân vào Tiệp
Khắc 1968, các cuộc đụng độ biên giới Xô – Trung đỉnh cao năm 1969 gây cho Bắc Kinh sự quan ngại
về mối đe dọa từ đồng minh XHCN này, bên cạnh việc củng cố sức mạnh quốc gia thì tìm kiếm đồng
minh đối trọng với Moscow được xem là giải pháp cần thiết mà Bắc Kinh hướng đến – giải pháp
Washington “trong bá quyền chúng ta (Trung Quốc) nên tranh thủ lấy một, không đánh hai trận tuyến”
và “có thể lợi dụng mâu thuẫn giữa hai siêu cường và đây là chính sách của chúng ta”. Năm 1969 khi
Nixon nhậm chức tổng thống, ông nhận thấy việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc như là một
phần trong học thuyết toàn cầu của nước này tại Châu Á. Từng bước tinh tế, từ tiếp xúc bí mật đến
công khai, sự khác biệt về ý thức chính trị, hệ tư tưởng giữa hai nước đã nhường chổ cho lợi ích an
ninh quốc gia, năm 1972 – mốc đánh dấu cho giai đoạn lịch sử mới trong quan hệ Mĩ – Trung, “cuối
cùng thì cửa cũng đã mở để từ nay chúng ta tiếp xúc với nhau trên cở sở tình bạn”, “bắt đầu từ đây
tương lai thế giới nằm trong tay hai nước chúng ta”.
Sau thông cáo 1972, chuyển biến theo hướng bình thường hóa quan hệ Mĩ – Trung chưa có sự
tiến bộ rõ nét, dù văn phòng liên lạc được lập ra 1973 nhằm thúc đẩy trao đổi thương mại, văn hóa giữa
hai nước. Ngoại giao Mĩ – Trung mang đầy sự toan tính, khi cảm giác mối “đe dọa” càng tăng từ Liên
Xô, Trung Quốc kêu gọi một cách rõ ràng về việc thành lập mặt trận chống tư tưởng bá quyền XHCN
từ nữa sau thập niên 70; vốn, công nghệ rất cần thiết cho việc xây dựng một nước Trung Quốc hiện đại;
và nhằm để khẳng định vị trí là một nước lớn không muốn bị chi phối bởi song cực, Bắc Kinh đã gia
tăng mạnh sự hợp tác với Washington. Với Mĩ, việc bình thường hóa ngoại giao với Trung Quốc đã
nằm trong chính sách đối ngoại của nước này: về lợi ích quốc gia, địa vị trong quan hệ quốc tế. Đỉnh
cao của sự tăng cường hợp tác là sự ra đời của thông cáo 1978 – bình thường hóa quan hệ Mĩ – Trung
chính thức được thể hiện bằng văn bản mang tính pháp lí với những điều khoản được xem là ràng buộc
giữa hai bên.
Hơn 40 năm quan hệ (1949 – 1991), có thể chia mối quan hệ này thành 3 giai đoạn lớn: từ cuối
những năm 40 đến cuối những năm 60 là thời kì đối đầu căng thẳng, đối đầu; từ những năm 70 đến
giữa những năm 1980 thời kì có sự chuyển biến tích cực trong quan hệ hai nước, thiết lập quan hệ
ngoại giao và hợp tác toàn diện; từ giữa những năm 80 đến 1991 thời kì những căng thẳng mới xuất
hiện đưa quan hệ Mĩ – Trung chững lại. Đúng như nhiều nhà phân tích nhận định đặc điểm nổi bật
xuyên suốt trong quan hệ giữa Washington – Bắc Kinh: thăng trầm và đa diện. Sự thăng trầm này bị
chi phối bởi nhiều nhân tố: bối cảnh thế giới và khu vực, yếu tố nội bộ của từng nước tạo nên những
biên độ dao động khác nhau trong khuôn khổ quan hệ đối đầu Đông – Tây. Sự toan tính trong chính
sách ngoại giao Mĩ – Trung đã tác động vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực trong nền ngoại
giao quốc tế đương thời, nhất là những nước được sử dụng là nhân tố ngoại giao chính giữa hai bên.
Khi chiến tranh lạnh kết thúc cục diện đối đầu Đông – Tây mất đi, thế giới bước vào trạng thái
“nhất siêu, nhiều cường”. Với những nền tảng quan hệ được thiết lập từ những năm 70 thế kỉ XX, quan
hệ Mĩ – Trung tiếp tục định hình và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong bang giao quốc tế thế kỉ
XXI. Hợp tác và cạnh tranh sẽ đưa mối quan hệ này vào trạng thái cân bằng, điều này có lợi cho bản
thân hai nước và cho nền hòa bình, an ninh khu vực, quốc tế. Dù luôn tồn tại nhiều bất đồng, nhưng Mĩ
– Trung vẫn cần có nhau, ngạn ngữ có nói “không có đồng minh vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn,
chỉ có lợi ích quốc gia là lâu dài”. Điều này hoàn toàn đúng trong quan hệ giữa Mĩ và Trung Quốc
trong và sau chiến tranh lạnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. A.Amtơ, 1985, Lời phán quyết về Việt Nam, NXBCAND, Hà Nội.
2. Phi Bằng, 2001, Những sự kiện quan trọng trong quan hệ Mĩ – Trung Quốc, NXB Trẻ, TP HCM.
3. Mai Văn Bộ, 1985, Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật, NXBTPHCM.
4. U. Bơcset, 1986, Tam giác Trung Quốc – Campuchia – Việt Nam, NXBTT Lý luận, Hà Nội.
5. Mc.Cormick, 2004, Nước Mĩ nữa thế kỉ chính sách đối ngoại của Hoa Kì trong và sau chiến tranh
lạnh, NXB CTQG, Hà Nội.
6. Lê Vinh Danh, 2001, Chính sách công của Hoa Kì giai đoạn 1935 – 2001, NXB thống kê, Hà Nội.
7. Xuân Duy, Quỳnh Dung, 2000, Mưu lược Đặng Tiểu Bình, NXBCTQG, Hà Nội.
8. Nguyễn Phú Đức, 2009, Tại sao Mĩ thua ở Việt Nam, NXB Lao Động, Hà Nội.
9.Trịnh Thị Định, 2005, Về âm mưu can thiệp quân sự của Mĩ vào Đông Dương năm 1954, NCLS, số
6, Hà Nội.
10. Richard Evans, 2003, Đặng Tiểu Bình, NXBCAND, Hà Nội.
11. Ph. Gioayô, 1981, Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần nhất, NXBTT
Lý luận, Hà Nội.
12. Phan Thế Hải, 2002, Đặng Tiểu Bình nhà cải cách kinh tế hàng đầu của thế kỉ XX, NXB Thanh
Niên, Hà Nội.
13. G.C.Herring, 2004, Cuộc chiến dài ngày của nước Mĩ và Việt Nam (1950 – 1975), NXBCAND, Hà
Nội.
14. Lê Phụng Hoàng, 2005, Lịch sử quan hệ quốc tế ở Châu Âu trong chiến tranh lạnh (1949 – 1991),
ĐHSPTPHCM, Tài liệu lưu hành nội bộ.
15. Lê Phụng Hoàng, 2005, Lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến
cuối chiến tranh lạnh (1945 – 1991), ĐHSPTPHCM, Tài liệu lưu hành nội bộ.
16. Lê Phụng Hoàng, 2005, Các bài giảng chuyên đề về lịch sử các nước Tây Âu và Hoa Kì, Tập 1,
ĐHSPTPHCM, Tài liệu lưu hành nội bộ.
17. Lê Phụng Hoàng, 2007, Lịch sử quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945 -1975), tập
1, ĐHSPTPHCM, Tài liệu lưu hành nội bộ.
18. Học viện quan hệ quốc tế, 2003, Quan hệ của Mĩ với các nước lớn ở khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương, NXBCTQG, Hà Nội.
19. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001, Quan hệ quốc tế, Hà Nội.
20. Nguyễn Văn Hồng, 2003, Trung Quốc cải cách mở cửa những bài học kinh nghiệm, NXB Thế giới,
Hà Nội.
21. Nguyễn Quốc Hùng, Nguyễn Thị Thư, 2002, Lược sử Liên Bang Nga 1917 – 1991, NXBGD, Hà
Nội.
22. Nguyễn Khắc Huỳnh, 2010, Cuộc kháng chiến chống Mĩ của Việt Nam dưới tác động của những
nhân tố quốc tế, NXBCTQG, Hà Nội.
23. Lý Khải Thắng, 2003, Nội tình 200 năm Nhà Trắng, NXBVHTT, Hà Nội.
24. Hồ Sỹ Khoách, 1998, Lịch sử Việt Nam 1945 – 1975, NXB Mũi Cà Mau, TP.HCM
25. Lí Kiện, 2002, Ngọn lửa chiến tranh lạnh, NXB Thanh niên, tập 1,2,3, Hà Nội.
26. Lí Kiện, 2008, Trung – Xô – Mĩ cuộc đối đầu lịch sử, NXB Thanh niên, Hà Nội.
27. Mộ Kiệt, 2006, Bảy cuộc đàm phán siêu cấp, NXBVHTT, Hà Nội.
28. Lê Linh Lan, 2004, Về chiến lược an ninh của Mĩ hiện nay, NXBCTQG, Hà Nội.
29. Nguyễn Văn Lập, 2001, Quan hệ Trung – Mĩ có gì mới, NXB Thông Tấn, Hà Nội.
30. Hoàng Lê, 1981, Cách mạng Trung Quốc và Chủ nghĩa Mao, NXB TT Lý luận, Hà Nội.
31. Nguyễn Thành Lê,1981, Trung Quốc sau Đại hội lần thứ XII, NXB TT Lý luận, Hà Nội.
32.Thái Thị Bạch Liên, 2001, Mao Trạch Đông Tưởng Giới Thạch nữa thế kỉ giao tranh, NXBCAND,
Hà Nội.
33. Mao Mao, 2002, Cha tôi Đặng Tiểu Bình, NXBVHTT, Hà Nội.
34. Lê Văn Mĩ, 2009, Ngoại giao CHND Trung Hoa 30 năm cải cách mở cửa (1978 – 2008),
NXBKHXH, Hà Nội.
35. Trần Như, 2009, Cuộc chinh phục xuyên thế kỉ, NXBCAND, Hà Nội.
36. Vũ Dương Ninh, 2008, Một số chuyên đề lịch sử thế giới, NXB ĐHQGHN, Hà Nội.
37. Peter Calvocoressi, 2007, Chính trị thế giới sau năm 1945, NXB Lao Động, Hà Nội.
38. A. Pulo, 1987, Nước Mĩ và Đông Dương từ Rudoven đến Nichxon, NXBTT Lý luận, Hà Nội.
39. Trần Anh Phương, 2007, Chính trị khu vực Đông Bắc Á từ sau chiến tranh lạnh, NXBKHXH, Hà
Nội.
40. Lê Văn Quang, 1993, Quan hệ quốc tế ở Đông Á trong lịch sử, ĐH Tổng hợp TPHCM.
41. Nguyễn Duy Quý, 2004, Lịch sử hiện đại Trung Quốc, NXBCTQG, Hà Nội.
42. George Sandra , 2003, Nixon và vụ Watergate, NXB Lao Động, Hà Nội.
43. Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua, 1979, NXB Sự thật, Hà Nội.
44. Ngọc Thạch, 2003, Những sự kiện lịch sử thế kỉ XX, NXBVHTT, Hà Nội.
45. Nguyễn Anh Thái, 1990, Lịch sử Trung Quốc, NXBGD, Hà Nội.
46. Đinh Công Tuấn, 1998, Quá trình cải cách kinh tế xã hội của CHND Trung Hoa (1978 – nay),
NXBKHXH, Hà Nội.
47. Hoàng Gia Thụ, 1994, Đài Loan tiến trình hóa rồng, NXBVHTT, Hà Nội.
48. Nguyễn Thanh Thủy, 2009, Hai mươi năm sóng gió trong quan hệ Liên Xô - Trung Quốc (1959 –
1979), Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, Hà Nội.
49. Trần Trọng Trung, 2005, Nhà Trắng với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, NXBCTQG, Hà
Nội.
50. Patrick Tyler, 2008, Một thiên lịch sử sáu đời tổng thống Mĩ – Trung, NXBCAND, Hà Nội.
51. P.Varơnai, 1982, Chủ nghĩa Mao chống phong trào cộng sản thế giới, NXB TT Lý luận, Hà Nội.
52. Chu Thượng Văn – Trần Tích Hỷ, 1997, Sự phát triển của Trung Quốc không thể tách khỏi thế
giới, NXBCTQG, Hà Nội.
53. Trần Thị Vinh,2007, Lịch sử thế giới hiện đại, NXB ĐHSP, Hà Nội.
54. Lý Vĩnh, 1997, Mười năm Đại cách mạng văn hóa Trung Quốc, tập 3, NXB TPHCM.
55. Vladimirop, 1983, Những trang tiểu sử chính trị của Mao Trạch Đông, NXB Sự thật, Hà Nội.
56. Viện Mác Lênin, 1986, Trung Quốc những năm 80, NXB TT Lý luận, Hà Nội.
57. M. Yahuda, 2006, Các vấn đề chính trị quốc tế ở Châu Á – Thái Bình Dương, NXB Văn học, Hà
Nội.
Tài liệu Internet
58. 6Thttp://afe.easia.columbia.edu/special/china_1950_taiwan.htm6T, Taiwan and U.S.- China Relations.
59. 6Thttp://www.arts.auckland.ac.nz/FileGet.cfm?ID=9a619a76-5008-494e-a510-9b015591ec006T, The
Taiwan issue in US – China relations.
60. 6Thttp://armchairhistorian.tumblr.com/post/251176192/the-power-of-diplomacy-did-nixons-1972-
visit-to-china6T, 6TThe Power of Diplomacy: Did Nixon’s 1972 visit to China facilitate the reconstruction
of peaceful international relations?. 6T
61. 6Thttp://www.atimes.com/china/DD24Ad02.html6T, Henry CK Liu, US - China: The politics of
ambiguity.
62. 6Thttps://beardocs.baylor.edu/bitstream/2104/8053/1/Y_Shi_master.pdf6T, Yan Shi, M. A. Mentor:
Douglas Ferdon, Ph D, Sino-Soviet Border Clashes of 1969 and its Implications on the Making of U.S.
Foreign Policy.
63. 6Thttp://www.bbc.co.uk/history/worldwars/coldwar/korea_hickey_01.shtml 6T, 1TMichael Hickey, 1T The
Korean War: An Overview.
64. 6Thttp://www.china.org.cn/english/china-us/26243.htm&rurl 6T
Joint Communique on the Establishment of Diplomatic Relations Between the People's Republic of
China and the United States of America.
65. 6Thttp://countrystudies.us/china/128.htm6T, Sino-Soviet Relations.
67. 6Thttp://www.diendan.org/tai-lieu/ho-so/muoi-cau-chuyen-ngoai-giao6T, Tiền Kì Tham, Mười câu
chuyện ngoại giao.
68. 6Thttp://www.findingdulcinea.com/news/on-this-day/Feb/On-this-Day--Nixon-Leaves-on-
Diplomatic-Trip-to-China.html6T, On This Day: Nixon Leaves for China.
6Thttp://www.foreignpolicyjournal.com/2010/05/17/sino-soviet-us-relations-and-the-1969-nuclear-
69.
threat/all/16T, Dr. K R Bolton, Sino-Soviet-US Relations and the 1969 Nuclear Threat.
70. 6Thttp://www.fmprc.gov.cn/eng/topics/3713/3715/t19064.htm6T, The Taiwan Question in China-U.S.
Relations.
71. 6Thttp://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB106/6T, 6TWilliam Burr6T, Nixon's Trip to China
Records now Completely Declassified, Including Kissinger Intelligence Briefing and Assurances on
5T72. 5T 6Thttp://www.history.com/this-day-in-history/nixon-announces-visit-to-communist-china6T, Nixon
Taiwan.
announces visit to communist china.
73. 5Twww.iir.nccu.edu.tw/attachments/journal/add/4/71-97.PDF5T, The U.S. Perception of Taiwan's
Sovereignty and the Future of Cross-Strait Relations.
74. 6Twww.issues.org/19.4/updated/graham2.pdf6T, Loren R.Graham, Toward a New Era in U.S.-Soviet
Relations.
75. 6Twww.joshuaisd.org/.../Microsoft_PowerPoint_-_94_-_Nixons_Foreign_Policy.pdf6T
Nixon’s Foreign Policy.
76. 6Twww.jstor.org/stable/4440916T, Problems of Sino – American relations.
77. 6Twww.jstor.org/stable/9871636T, Arthur W.Hummel, JR, China's Changing Relations with the U.S.
5T78. 5Twww.langson.vn/langsonqt/?q=node/287
and U.S.S.R.*
79. http://www.laocai.gov.vn/NHDLTNTQ/content/1010005_051.htm, Tính bất biến và khả biến trong
chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
80. 6Thttp://library.by/portalus/modules/english_russia/referat_readme.php?
subaction=showfull&id=1190295132&archive=&start_from=&ucat=20&6T, Cold war origins.
81. 5Twww.mgshistory.org/coldwar/SSR.pptx, 5T Sino-Soviet Relations 1949 – 1976.
82. www.mofa.go.jp/policy/other/bluebook/1971/1971-1-2.htm, Section 2. Relations between the
United States and the Soviet Union.
83. 6Thttp://www.nara.gov/exhall/featured-document/marshall/marshall.html6T, Why Did China Normalize
Relations With The United States in 1972?
84. 6Thttp://news.bbc.co.uk/onthisday/hi/dates/stories/february/21/newsid_2728000/2728761.stm6T, 1972:
Nixon makes historic visit to China.
85. 6Twww.rand.org/pubs/papers/2008/P6590.pdf5T6T, 5TRichard H. Solomon, The China factor in Ameriaca’s
foreign ralations: Perceptions and policy choices.
86. 6Thttp://revolution.allbest.ru/history/00003291_0.html6T, Graduation Paper on theme: US - Soviet
relations.
87. 6Twww.springerlink.com/index/T342186208658855.pdf6T, Robert G. Sutter, Sino – Soviet relations:
5T88. www.sunzi.lib.hku.hk/hkjo/view/44/4401807.pdf, Zhang Ru, 5T6TThe Chinese experience: Sino –
Recent developments and implications for the United States.
American arts Exchange 6T1972-1986.
89. 6Thttp://www.taiwandocuments.org/communique01.htm6T, Shanghai Communiqué 28 February 1972.
90. 6Twww.thanhnien.com.vn/News/Pages/200922/20090531224048.aspx1T6T.
5T91. 5Thttp://theses.gla.ac.uk/979/Jiaming Zhu, A Chinese Exploration of Sino-Soviet Relations since the
Bóng ma chiến tranh Triều Tiên.
Death of Stalin, 1953-1989.
92. http://www.tin247.com/quan_he_mytrung_%E2%80%9
Chop_tac_de_dinh_hinh_the_ky_21%E2%80%9D-2-21459424.html
93. www.viet-studies.info/kinhte/GiaiMatDangTieuBinhThamMy.htm, Mạng\Phượng Hoàng, Giải mật
vì sao Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ ngay trước khi khai chiến với Việt Nam.
94. http://vietnamnet.vn/viet_trung/tulieu/2005/07/469871/
95. 6Thttp://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/doc_ej0406_iii.html6T.
Những sự kiện quan trọng trong quan hệ đối ngoại của Hoa Kì (1900-2001).
96. 6Twww.viet-studies.info/.../VN_War_China_Third_Line_Defense.pdf1T6T, 1T Lorenz Lüthi, 6T"The Vietnam
War and China’s Third-Line Defense Planning before the Cultural Revolution, 1964–1966" 6T.
97. 6Twww.wilsoncenter.org/topics/pubs/ACFAE7.pdf6T
5T98. 5T6Twww.wilsoncenter.org/topics/pubs/ACFAE7.pdf5T6T, Chen Jian, The Sino – Soviet alliance and
The cold war international history project working paper series
China’s entry into the Korean war.
0T99. http://Wikipedia.org/wiki/kennedy-Doctrine
100. 6Thttp://watergate.info/nixon/inaugural-speech-first.shtml6T
101.http://vi.wikipedia.org/wiki/Chuy%E1%BA%BFn_th%C4%83m_Trung_Qu%E1%BB%91c_c%E
1%BB%A7a_Richard_Nixon.
PHỤ LỤC TƯ LIỆU
Phụ lục 1.
Joint Communique of the United States of America and the People's Republic of China February 28, 1972
1. President Richard Nixon of the United States of America visited the People's Republic of China at the
invitation of Premier Chou En-lai of the People's Republic of China from February 21 to February 28,
1972. Accompanying the President were Mrs. Nixon, U.S. Secretary of State William Rogers, Assistant
to the President Dr. Henry Kissinger, and other American officials.
2. President Nixon met with Chairman Mao Tsetung of the Communist Party of China on February 21.
The two leaders had a serious and frank exchange of views on Sino-U.S. relations and world affairs.
3. During the visit, extensive, earnest and frank discussions were held between President Nixon and
Premier Chou En-lai on the normalization of relations between the United States of America and the
People's Republic of China, as well as on other matters of interest to both sides. In addition, Secretary
of State William Rogers and Foreign Minister Chi Peng-fei held talks in the same spirit.
4. President Nixon and his party visited Peking and viewed cultural, industrial and agricultural sites, and
they also toured Hangchow and Shanghai where, continuing discussions with Chinese leaders, they
viewed similar places of interest.
5. The leaders of the People's Republic of China and the United States of America found it beneficial to
have this opportunity, after so many years without contact, to present candidly to one another their
views on a variety of issues. They reviewed the international situation in which important changes and
great upheavals are taking place and expounded their respective positions and attitudes.
6. The Chinese side stated: Wherever there is oppression, there is resistance. Countries want
independence, nations want liberation and the people want revolution--this has become the irresistible
trend of history. All nations, big or small, should be equal: big nations should not bully the small and
strong nations should not bully the weak. China will never be a superpower and it opposes hegemony
and power politics of any kind. The Chinese side stated that it firmly supports the struggles of all the
oppressed people and nations for freedom and liberation and that the people of all countries have the
right to choose their social systems according their own wishes and the right to safeguard the
independence, sovereignty and territorial integrity of their own countries and oppose foreign
aggression, interference, control and subversion. All foreign troops should be withdrawn to their own
countries. The Chinese side expressed its firm support to the peoples of Viet Nam, Laos and Cambodia
in their efforts for the attainment of their goal and its firm support to the seven-point proposal of the
Provisional Revolutionary Government of the Republic of South Viet Nam and the elaboration of
February this year on the two key problems in the proposal, and to the Joint Declaration of the Summit
Conference of the Indochinese Peoples. It firmly supports the eight-point program for the peaceful
unification of Korea put forward by the Government of the Democratic People's Republic of Korea on
April 12, 1971, and the stand for the abolition of the "U.N. Commission for the Unification and
Rehabilitation of Korea". It firmly opposes the revival and outward expansion of Japanese militarism
and firmly supports the Japanese people's desire to build an independent, democratic, peaceful and
neutral Japan. It firmly maintains that India and Pakistan should, in accordance with the United Nations
resolutions on the Indo-Pakistan question, immediately withdraw all their forces to their respective
territories and to their own sides of the ceasefire line in Jammu and Kashmir and firmly supports the
Pakistan Government and people in their struggle to preserve their independence and sovereignty and
the people of Jammu and Kashmir in their struggle for the right of self-determination.
7. The U.S. side stated: Peace in Asia and peace in the world requires efforts both to reduce immediate
tensions and to eliminate the basic causes of conflict. The United States will work for a just and secure
peace: just, because it fulfills the aspirations of peoples and nations for freedom and progress; secure,
because it removes the danger of foreign aggression. The United States supports individual freedom
and social progress for all the peoples of the world, free of outside pressure or intervention. The United
States believes that the effort to reduce tensions is served by improving communication between
countries that have different ideologies so as to lessen the risks of confrontation through accident,
miscalculation or misunderstanding. Countries should treat each other with mutual respect and be
willing to compete peacefully, letting performance be the ultimate judge. No country should claim
infallibility and each country should be prepared to reexamine its own attitudes for the common good.
The United States stressed that the peoples of Indochina should be allowed to determine their destiny
without outside intervention; its constant primary objective has been a negotiated solution; the eight-
point proposal put forward by the Republic of Viet Nam and the United States on January 27, 1972
represents a basis for the attainment of that objective; in the absence of a negotiated settlement the
United States envisages the ultimate withdrawal of all U.S. forces from the region consistent with the
aim of self-determination for each country of Indochina. The United States will maintain its close ties
with and support for the Republic of Korea; the United States will support efforts of the Republic of
Korea to seek a relaxation of tension and increased communication in the Korean peninsula. The
United States places the highest value on its friendly relations with Japan; it will continue to develop
the existing close bonds. Consistent with the United Nations Security Council Resolution of december
21, 1971, the United States favors the continuation of the ceasefire between India and Pakistan and the
withdrawal of all military forces to within their own territories and to their own sides of the ceasefire
line in Jammu and Kashmir; the United States supports the right of the peoples of South Asia to shape
their own future in peace, free of military threat, and without having the area become the subject of
great power rivalry.
8. There are essential differences between China and the United States in their social systems and foreign
policies. However, the two sides agreed that countries, regardless of their social systems, should
conduct their relations on the principles of respect for the sovereignty and territorial integrity of all
states, non-aggression against other states, non-in- terference in the internal affairs of other states,
equality and mutual benefit, and peaceful coexistence. International disputes should be settled on this
basis, without resorting to the use or threat of force. The United States and the People's Republic of
China are prepared to apply these principles to their mutual relations.
o progress toward the normalization of relations between China and the United States is in the interests
9. With these principles of international relations in mind the two sides stated that:
o both wish to reduce the danger of international military conflict o neither should seek hegemony in the Asia-Pacific region and each is opposed to efforts by any other
of all countries
o neither is prepared to negotiate on behalf of any third party or to enter into agreements or
country or group of countries to establish such hegemony
understandings with the other directed at other states.
10. Both sides are of the view that it would be against the interests of the peoples of the world for any
major country to collude with another against other countries, or for major countries to divide up the
world into spheres of interest.
11. The two sides reviewed the long-standing serious disputes between China and the United States. The
Chinese side reaffirmed its position: the Taiwan question is the crucial question obstructing the
normalization of relations between China and the United States; the Government of the People's
Republic of China is the sole legal government of China; Taiwan is a province of China which has long
been returned to the motherland; the liberation of Taiwan is China's internal affair in which no other
country has the right to interfere; and all U.S. forces and military installations must be withdrawn from
Taiwan. The Chinese Government firmly opposes any activities which aim at the creation of "one
China, one Taiwan", "one China, two governments", "two Chinas", an "independent Taiwan" or
advocate that "the status of Taiwan remains to be determined".
12. The U.S. side declared: The United States acknowledges that all Chinese on either side of the Taiwan
Strait maintain there is but one China and that Taiwan is a part of China. The United States
Government does not challenge that position. It reaffirms its interest in a peaceful settlement of the
Taiwan question by the Chinese themselves. With this prospect in mind, it affirms the ultimate
objective of the withdrawal of all U.S. forces and military installations from Taiwan. In the meantime,
it will progressively reduce its forces and military installations on Taiwan as the tension in the area
diminishes. The two sides agreed that it is desirable to broaden the understanding between the two
peoples. To this end, they discussed specific areas in such fields as science, technology, culture, sports
and journalism, in which people-to-people contacts and exchanges would be mutually beneficial. Each
side undertakes to facilitate the further development of such contacts and exchanges.
13. Both sides view bilateral trade as another area from which mutual benefit can be derived, and agreed
that economic relations based on equality and mutual benefit are in the interest of the peoples of the
two countries. They agree to facilitate the progressive development of trade between their two
countries.
14. The two sides agreed that they will stay in contact through various channels, including the sending of a
senior U.S. representative to Peking from time to time for concrete consultations to further the
normalization of relations between the two countries and continue to exchange views on issues of
common interest.
15. The two sides expressed the hope that the gains achieved during this visit would open up new prospects
for the relations between the two countries. They believe that the normalization of relations between
the two countries is not only in the interest of the Chinese and American peoples but also contributes to
the relaxation of tension in Asia and the world.
16. President Nixon, Mrs. Nixon and the American party expressed their appreciation for the gracious
USource: http://www.taiwandocuments.org/communique01.htm
hospitality shown them by the Government and people of the People's Republic of China.
Phụ lục 2.
Joint Communique of the United States of America and the People's Republic of China
January 1, 1979
(The communique was released on December 15, 1978, in Washington and Beijing.)
1. The United States of America and the People's Republic of China have agreed to recognize each
other and to establish diplomatic relations as of January 1, 1979.
2. The United States of America recognizes the Government of the People's Republic of China as
the sole legal Government of China. Within this context, the people of the United States will
maintain cultural, commercial, and other unofficial relations with the people of Taiwan.
3. The United States of America and the People's Republic of China reaffirm the principles agreed
on by the two sides in the 6TUShanghai CommuniqueU6T and emphasize once again that:
4. Both wish to reduce the danger of international military conflict.
5. Neither should seek hegemony in the Asia-Pacific region or in any other region of the world and
each is opposed to efforts by any other country or group of countries to establish such
hegemony.
6. Neither is prepared to negotiate on behalf of any third party or to enter into agreements or
understandings with the other directed at other states.
7. The Government of the United States of America acknowledges the Chinese position that there
is but one China and Taiwan is part of China.
8. Both believe that normalization of Sino-American relations is not only in the interest of the
Chinese and American peoples but also contributes to the cause of peace in Asia and the world.
The United States of America and the People's Republic of China will exchange Ambassadors and
establish Embassies on March 1, 1979.
USource:U 6Thttp://www.taiwandocuments.org/communique02.htm6T
Phụ lục 3.
Joint Communique of the People's Republic of China and the United States of America(17 August, 1982) August 17, 1982
(1) In the Joint Communique on the Establishment of Diplomatic Relations on January 1, 1979,
issued by the Government of the United States of America and the Government of the People's
Republic of China, the United States of America recognized the Government of the People's Republic
of China as the sole legal Government of China, and it acknowledged the Chinese position that there is
but one China and Taiwan is part of China. Within that context, the two sides agreed that the people of
the United States would continue to maintain cultural, commercial, and other unofficial relations with
the people of Taiwan. On this basis, relations between the United States and China were normalized.
(2) The question of United States arms sales to Taiwan was not settled in the course of
negotiations between the two countries on establishing diplomatic relations. The two sides held
differing positions, and the Chinese side stated that it would raise the issue again following
normalization. Recognizing that this issue would seriously hamper the development of United States-
China relations, they have held further discussions on it, during and since the meetings between
President Ronald Reagan and Premier Zhao Ziyang and between Secretary of State Alexander M. Haig,
Jr. and Vice Premier and Foreign Minister Huang Hua in October 1981.
(3) Respect for each other's sovereignty and territorial integrity and non-interference in each
other's internal affairs constitute the fundamental principles guiding United States-China
relations. These principles were confirmed in the Shanghai Communique of February 28, 1972 and
reaffirmed in the Joint Communique on the Establishment of Diplomatic Relations which came into
effect on January 1, 1979. Both sides emphatically state that these principles continue to govern all
aspects of their relations.
(4) The Chinese Government reiterates that the question of Taiwan is China's internal affair. The
message to Compatriots in Taiwan issued by China on January 1, 1979 promulgated a fundamental
policy of striving for peaceful reunification of the motherland. The Nine-Point Proposal put forward by
China on September 30, 1981 represented a further major effort under this fundamental policy to strive
for a peaceful solution to the Taiwan question.
(5) The United States Government attaches great importance to its relations with China, and
reiterates that it has no intention of infringing on Chinese sovereignty and territorial integrity, or
interfering in China's internal affairs, or pursuing a policy of "two Chinas" or "one China, one Taiwan."
The United States Government understands and appreciates the Chinese policy of striving for a
peaceful resolution of the Taiwan question as indicated in China's Message to Compatriots in Taiwan
issued on January 1, 1979 and the Nine-Point Proposal put forward by China on September 30, 1981.
The new situation which has emerged with regard to the Taiwan question also provides favorable
conditions for the settlement of United States-China differences over United States arms sales to
Taiwan.
(6) Having in mind the foregoing statements of both sides, the United States Government states
that it does not seek to carry out a long-term policy of arms sales to Taiwan, that its arms sales to
Taiwan will not exceed, either in qualitative or in quantitative terms, the level of those supplied in
recent years since the establishment of diplomatic relations between the United States and China, and
that it intends gradually to reduce its sale of arms to Taiwan, leading, over a period of time, to a final
resolution. In so stating, the United States acknowledges China's consistent position regarding the
thorough settlement of this issue.
(7) In order to bring about, over a period of time, a final settlement of the question of United
States arms sales to Taiwan, which is an issue rooted in history, the two Governments will make every
effort to adopt measures and create conditions conducive to the thorough settlement of this issue.
(8) The development of United states-China relations is not only in the interests of the two
peoples but also conducive to peace and stability in the world. The two sides are determined, on the
principle of equality and mutual benefit, to strengthen their ties in the economic, cultural, educational,
scientific, technological and other fields and make strong, joint efforts for the continued development
of relations between the Governments and peoples of the United States and China.
(9) In order to bring about the healthy development of United States-China relations, maintain
world peace and oppose aggression and expansion, the two Governments reaffirm the principles agreed
on by the two sides in the Shanghai Communique and the Joint Communique on the Establishment of
Diplomatic Relations. The two sides will maintain contact and hold appropriate consultations on
USource:U 6Thttp://www.china-embassy.org/eng/zmgx/zywj/t36258.htm6T
bilateral and international issues of common interest.
Phụ lục 4. United States Code
• Sec. 3301. Congressional findings and declaration of policy
TITLE 22 - FOREIGN RELATIONS AND INTERCOURSE CHAPTER 48 - TAIWAN RELATIONS
o
(a) Findings
o
The President having terminated governmental relations between the United States and the governing
authorities on Taiwan recognized by the United States as the Republic of China prior to January 1,
1979, the Congress finds that the enactment of this chapter is necessary -
(1) to help maintain peace, security, and stability in the Western Pacific; and
(2) to promote the foreign policy of the United States by authorizing the continuation of commercial,
cultural, and other relations between the people of the United States and the people on Taiwan.
o
(b) Policy
o
It is the policy of the United States –
o
(1) to preserve and promote extensive, close, and friendly commercial, cultural, and other relations
between the people of the United States and the people on Taiwan, as well as the people on the China
mainland and all other peoples of the Western Pacific area;
(2) to declare that peace and stability in the area are in the political, security, and economic interests of
the United States, and are matters of international concern;
(3) to make clear that the United States decision to establish diplomatic relations with the People's
Republic of China rests upon the expectation that the future of Taiwan will be determined by peaceful
means;
(4) to consider any effort to determine the future of Taiwan by other than peaceful means, including by
boycotts or embargoes, a threat to the peace and security of the Western Pacific area and of grave
concern to the United States;
(5) to provide Taiwan with arms of a defensive character; and
(6) to maintain the capacity of the United States to resist any resort to force or other forms of coercion
that would jeopardize the security, or the social or economic system, of the people on Taiwan.
o o Nothing contained in this chapter shall contravene the interest of the United States in human rights, especially with respect to the human rights of all the approximately eighteen million inhabitants of
(c) Human rights
Taiwan. The preservation and enhancement of the human rights of all the people on Taiwan are hereby
reaffirmed as objectives of the United States.
• Sec. 3302. Implementation of United States policy with regard to Taiwan
o
(a) Defense articles and services
o
In furtherance of the policy set forth in section 3301 of this title, the United States will make available
to Taiwan such defense articles and defense services in such quantity as may be necessary to enable
Taiwan to maintain a sufficient self-defense capability.
o o The President and the Congress shall determine the nature and quantity of such defense articles and services based solely upon their judgment of the needs of Taiwan, in accordance with procedures
(b) Determination of Taiwan's defense needs
established by law. Such determination of Taiwan's defense needs shall include review by United
States military authorities in connection with recommendations to the President and the Congress.
o
(c) United States response to threats to Taiwan or dangers to United States interests
The President is directed to inform the Congress promptly of any threat to the security or the social or
economic system of the people on Taiwan and any danger to the interests of the United States arising
therefrom. The President and the Congress shall determine, in accordance with constitutional
• Sec. 3303. Application to Taiwan of laws and international agreements
processes, appropriate action by the United States in response to any such danger.
o o The absence of diplomatic relations or recognition shall not affect the application of the laws of the United States with respect to Taiwan, and the laws of the United States shall apply with respect to
(a) Application of United States laws generally
Taiwan in the manner that the laws of the United States applied with respect to Taiwan prior to January
1, 1979.
o
(b) Application of United States laws in specific and enumerated areas
The application of subsection (a) of this section shall include, but shall not be limited to, the following:
(1) Whenever the laws of the United States refer or relate to foreign countries, nations, states,
governments, or similar entities, such terms shall include and such laws shall apply with respect to
Taiwan.
(2) Whenever authorized by or pursuant to the laws of the United States to conduct or carry out
programs, transactions, or other relations with respect to foreign countries, nations, states,
governments, or similar entities, the President or any agency of the United States Government is
authorized to conduct and carry out, in accordance with section 3305 of this title, such programs,
transactions, and other relations with respect to Taiwan (including, but not limited to, the performance
of services for the United States through contracts with commercial entities on Taiwan), in accordance
with the applicable laws of the United States.
(3)
(A) The absence of diplomatic relations and recognition with respect to Taiwan shall not abrogate,
infringe, modify, deny, or otherwise affect in any way any rights or obligations (including but not
limited to those involving contracts, debts, or property interests of any kind) under the laws of the
United States heretofore or hereafter acquired by or with respect to Taiwan.
(B) For all purposes under the laws of the United States, including actions in any court in the United
States, recognition of the People's Republic of China shall not affect in any way the ownership of or
other rights or interests in properties, tangible and intangible, and other things of value, owned or held
on or prior to December 31, 1978, or thereafter acquired or earned by the governing authorities on
Taiwan.
(4) Whenever the application of the laws of the United States depends upon the law that is or was
applicable on Taiwan or compliance therewith, the law applied by the people on Taiwan shall be
considered the applicable law for that purpose.
(5) Nothing in this chapter, nor the facts of the President's action in extending diplomatic recognition to
the People's Republic of China, the absence of diplomatic relations between the people on Taiwan and
the United States, or the lack of recognition by the United States, and attendant circumstances thereto,
shall be construed in any administrative or judicial proceeding as a basis for any United States
Government agency, commission, or department to make a finding of fact or determination of law,
under the Atomic Energy Act of 1954 (42 U.S.C. 2011 et seq.) and the Nuclear Non-Proliferation Act
of 1978 (22 U.S.C. 3201 et seq.), to deny an export license application or to revoke an existing export
license for nuclear exports to Taiwan.
(6) For purposes of the Immigration and Nationality Act (8 U.S.C. 1101 et seq.), Taiwan may be
treated in the manner specified in the first sentence of section 202(b) of that Act (8 U.S.C. 1152(b)).
(7) The capacity of Taiwan to sue and be sued in courts in the United States, in accordance with the
laws of the United States, shall not be abrogated, infringed, modified, denied, or otherwise affected in
any way by the absence of diplomatic relations or recognition.
(8) No requirement, whether expressed or implied, under the laws of the United States with respect to
maintenance of diplomatic relations or recognition shall be applicable with respect to Taiwan.
o
(c) Treaties and other international agreements
o For all purposes, including actions in any court in the United States, the Congress approves the continuation in force of all treaties and other international agreements, including multilateral
conventions, entered into by the United States and the governing authorities on Taiwan recognized by
the United States as the Republic of China prior to January 1, 1979, and in force between them on
December 31, 1978, unless and until terminated in accordance with law.
o
(d) Membership in international financial institutions and other international organizations
Nothing in this chapter may be construed as a basis for supporting the exclusion or expulsion of
Taiwan from continued membership in any international financial institution or any other international
• Sec. 3304. Overseas Private Investment Corporation
organization.
o
(a) Removal of per capita income restriction on Corporation activities with respect to investment
o During the three-year period beginning on April 10, 1979, the $1,000 per capita income restriction in clause (2) of the second undesignated paragraph of section 2191 of this title shall not restrict the
projects on Taiwan
activities of the Overseas Private Investment Corporation in determining whether to provide any
insurance, reinsurance, loans, or guaranties with respect to investment projects on Taiwan.
o o Except as provided in subsection (a) of this section, in issuing insurance, reinsurance, loans, or [1] guaranties with respect to investment projects on Taiwan, the Overseas Private Insurance P P
(b) Application by Corporation of other criteria
Corporation shall apply the same criteria as those applicable in other parts of the world. 1T[1] Note: So in
• Sec. 3305. The American Institute in Taiwan
original. Probably should be ''Investment''.
o
(a) Conduct of programs, transactions, or other relations with respect to Taiwan
Programs, transactions, and other relations conducted or carried out by the President or any agency of
the United States Government with respect to Taiwan shall, in the manner and to the extent directed by
the President, be conducted and carried out by or through -
(1) The American Institute in Taiwan, a nonprofit corporation incorporated under the laws of the
District of Columbia, or
(2) such comparable successor nongovernmental entity as the President may designate, (hereafter in
this chapter referred to as the ''Institute'').
o
(b) Agreements or transactions relative to Taiwan entered into, performed, and enforced
Whenever the President or any agency of the United States Government is authorized or required by or
pursuant to the laws of the United States to enter into, perform, enforce, or have in force an agreement
or transaction relative to Taiwan, such agreement or transaction shall be entered into, performed, and
enforced, in the manner and to the extent directed by the President, by or through the Institute.
o
(c) Preemption of laws, rules, regulations, or ordinances of District of Columbia, States, or political
o To the extent that any law, rule, regulation, or ordinance of the District of Columbia, or of any State or political subdivision thereof in which the Institute is incorporated or doing business, impedes or
subdivisions of States
otherwise interferes with the performance of the functions of the Institute pursuant to this chapter, such
• Sec. 3306. Services to United States citizens on Taiwan
law, rule, regulation, or ordinance shall be deemed to be preempted by this chapter.
o o The Institute may authorize any of its employees on Taiwan -
(a) Authorized services
(1) to administer to or take from any person an oath, affirmation, affidavit, or deposition, and to
perform any notarial act which any notary public is required or authorized by law to perform within the
[1]
United States;
P act as provisional conservator of the personal estates of deceased United States citizens; and
[1]
1TP
P Note: So in original. Probably should not be capitalized.
(2) To P
(3) to assist and protect the interests of United States persons by performing other acts such as are
authorized to be performed outside the United States for consular purposes by such laws of the United
States as the President may specify.
o o Acts performed by authorized employees of the Institute under this section shall be valid, and of like force and effect within the United States, as if performed by any other person authorized under the laws
(b) Acts by authorized employees
• Sec. 3307. Exemption from taxation
of the United States to perform such acts.
o o The Institute, its property, and its income are exempt from all taxation now or hereafter imposed by the United States (except to the extent that section 3310(a)(3) of this title requires the imposition of taxes
(a) United States, State, or local taxes
imposed under chapter 21of title 26, relating to the Federal Insurance Contributions Act) or by any
State or local taxing authority of the United States.
o
(b) Charitable contributions; transfers for public, charitable, and religious uses; charitable and similar
o For purposes of title 26, the Institute shall be treated as an organization described in sections
gifts
• Sec. 3308. Activities of United States Government agencies
170(b)(1)(A), 170(c),2055 (a), 2106(a)(2)(A), 2522(a), and 2522(b) of title 26.
o
(a) Sale, loans, or lease of property; administrative and technical support functions and services
Any agency of the United States Government is authorized to sell, loan, or lease property (including
interests therein) to, and to perform administrative and technical support functions and services for the
operations of, the Institute upon such terms and conditions as the President may direct.
Reimbursements to agencies under this subsection shall be credited to the current applicable
appropriation of the agency concerned.
o o Any agency of the United States Government is authorized to acquire and accept services from the Institute upon such terms and conditions as the President may direct. Whenever the President
(b) Acquisition and acceptance of services
determines it to be in furtherance of the purposes of this chapter, the procurement of services by such
agencies from the Institute may be effected without regard to such laws of the United States normally
applicable to the acquisition of services by such agencies as the President may specify by Executive
order.
o
(c) Institute books and records; access; audit Any agency of the United States Government making
funds available to the Institute in accordance with this chapter shall make arrangements with the
Institute for the Comptroller General of the United States to have access to the books and records of the
• Sec. 3309. Taiwan instrumentality
Institute and the opportunity to audit the operations of the Institute.
o
(a) Establishment of instrumentality; Presidential determination of necessary authority
Whenever the President or any agency of the United States Government is authorized or required by or
pursuant to the laws of the United States to render or provide to or to receive or accept from Taiwan,
any performance, communication, assurance, undertaking, or other action, such action shall, in the
manner and to the extent directed by the President, be rendered or provided to, or received or accepted
from, an instrumentality established by Taiwan which the President determines has the necessary
authority under the laws applied by the people on Taiwan to provide assurances and take other actions
on behalf of Taiwan in accordance with this chapter.
o o The President is requested to extend to the instrumentality established by Taiwan the same number of offices and complement of personnel as were previously operated in the United States by the governing
(b) Offices and personnel
authorities on Taiwan recognized as the Republic of China prior to January 1, 1979.
o
(c) Privileges and immunities Upon the granting by Taiwan of comparable privileges and immunities
with respect to the Institute and its appropriate personnel, the President is authorized to extend with
respect to the Taiwan instrumentality and its appropriate personnel, such privileges and immunities
(subject to appropriate conditions and obligations) as may be necessary for the effective performance
• Sec. 3310. Employment of United States Government agency personnel
of their functions.
o
(a) Separation from Government service; reemployment or reinstatement upon termination of Institute
employment; benefits
(1) Under such terms and conditions as the President may direct, any agency of the United States
Government may separate from Government service for a specified period any officer or employee of
that agency who accepts employment with the Institute.
(2) An officer or employee separated by an agency under paragraph (1) of this subsection for
employment with the Institute shall be entitled upon termination of such employment to reemployment
[1]
or reinstatement with such agency (or a successor agency) in an appropriate position with the attendant
P the officer or employee would have had or acquired had he or
rights, privileges, and benefits with P
she not been so separated, subject to such time period and other conditions as the President may
1T[1] Note: So in original. Probably should be ''which''.
prescribe.
(3) An officer or employee entitled to reemployment or reinstatement rights under paragraph (2) of this
subsection shall, while continuously employed by the Institute with no break in continuity of service,
continue to participate in any benefit program in which such officer or employee was participating
prior to employment by the Institute, including programs for compensation for job-related death,
injury, or illness; programs for health and life insurance; programs for annual, sick, and other statutory
leave; and programs for retirement under any system established by the laws of the United States;
except that employment with the Institute shall be the basis for participation in such programs only to
the extent that employee deductions and employer contributions, as required, in payment for such
participation for the period of employment with the Institute, are currently deposited in the program's
or system's fund or depository. Death or retirement of any such officer or employee during approved
service with the Institute and prior to reemployment or reinstatement shall be considered a death in or
retirement from Government service for purposes of any employee or survivor benefits acquired by
reason of service with an agency of the United States Government.
(4) Any officer or employee of an agency of the United States Government who entered into service
with the Institute on approved leave of absence without pay prior to April 10, 1979, shall receive the
benefits of this section for the period of such service.
o o Any agency of the United States Government employing alien personnel on Taiwan may transfer such personnel, with accrued allowances, benefits, and rights, to the Institute without a break in service for
(b) Employment of aliens on Taiwan
purposes of retirement and other benefits, including continued participation in any system established
by the laws of the United States for the retirement of employees in which the alien was participating
prior to the transfer to the Institute, except that employment with the Institute shall be creditable for
retirement purposes only to the extent that employee deductions and employer contributions, as
required, in payment for such participation for the period of employment with the Institute, are
currently deposited in the system's fund or depository.
o o Employees of the Institute shall not be employees of the United States and, in representing the Institute,
(c) Institute employees not deemed United States employees
shall be exempt from section of title 18.
o
(d) Tax treatment of amounts paid Institute employees
(1) For purposes of sections and 913 of title 26, amounts paid by the Institute to its employees shall not
be treated as earned income. Amounts received by employees of the Institute shall not be included in
gross income, and shall be exempt from taxation, to the extent that they are equivalent to amounts
received by civilian officers and employees of the Government of the United States as allowances and
benefits which are exempt from taxation under section 912 of title 26.
(2) Except to the extent required by subsection (a)(3) of this section, service performed in the employ
of the Institute shall not constitute employment for purposes of chapter 21 of title 26 and title II of the
Social Security Act (42 U.S.C. 401 et seq.).
• Sec.
3310a. Commercial personnel at American Institute of Taiwan
The American Institute of Taiwan shall employ personnel to perform duties similar to those performed
by personnel of the United States and Foreign Commercial Service. The number of individuals
employed shall be commensurate with the number of United States personnel of the Commercial
• Sec. 3311. Reporting requirements
•
Service who are permanently assigned to the United States diplomatic mission to South Korea.
(a) Texts of agreements to be transmitted to Congress; secret agreements to be transmitted to Senate
Foreign Relations Committee and House Foreign Affairs Committee
The Secretary of State shall transmit to the Congress the text of any agreement to which the Institute is
a party. However, any such agreement the immediate public disclosure of which would, in the opinion
of the President, be prejudicial to the national security of the United States shall not be so transmitted
to the Congress but shall be transmitted to the Committee on Foreign Relations of the Senate and the
Committee on Foreign Affairs of the House of Representatives under an appropriate injunction of
secrecy to be removed only upon due notice from the President.
o o For purposes of subsection (a) of this section, the term ''agreement'' includes -
(b) Agreements
(1) any agreement entered into between the Institute and the governing authorities on Taiwan or the
instrumentality established by Taiwan; and
(2) any agreement entered into between the Institute and an agency of the United States Government.
o
(c) Congressional notification, review, and approval requirements and procedures
Agreements and transactions made or to be made by or through the Institute shall be subject to the
same congressional notification, review, and approval requirements and procedures as if such
agreements and transactions were made by or through the agency of the United States Government on
• Sec. 3312. Rules and regulations
• The President is authorized to prescribe such rules and regulations as he may deem appropriate to carry
behalf of which the Institute is acting.
out the purposes of this chapter. During the three-year period beginning on January 1, 1979, such rules
and regulations shall be transmitted promptly to the Speaker of the House of Representatives and to the
Committee on Foreign Relations of the Senate. Such action shall not, however, relieve the Institute of
the responsibilities placed upon it by this chapter.
• Sec. 3313. Congressional oversight
o
(a) Monitoring activities of Senate Foreign Relations Committee, House Foreign Affairs Committee,
o The Committee on Foreign Affairs of the House of Representatives, the Committee on Foreign
and other Congressional committees
Relations of the Senate, and other appropriate committees of the Congress shall monitor -
(1) the implementation of the provisions of this chapter;
(2) the operation and procedures of the Institute;
(3) the legal and technical aspects of the continuing relationship between the United States and Taiwan;
and
(4) the implementation of the policies of the United States concerning security and cooperation in East
Asia.
o o Such committees shall report, as appropriate, to their respective Houses on the results of their
(b) Committee reports to their respective Houses
• Sec. 3314. Definitions For purposes of this chapter -
monitoring
o
(1) the term ''laws of the United States'' includes any statute, rule, regulation, ordinance, order, or
judicial rule of decision of the United States or any political subdivision thereof; and
o
(2) the term ''Taiwan'' includes, as the context may require, the islands of Taiwan and the Pescadores,
the people on those islands, corporations and other entities and associations created or organized under
the laws applied on those islands, and the governing authorities on Taiwan recognized by the United
States as the Republic of China prior to January 1, 1979, and any successor governing authorities
• Sec. 3315. Authorization of appropriations
•
(including political subdivisions, agencies, and instrumentalities thereof).
In addition to funds otherwise available to carry out the provisions of this chapter, there are authorized
to be appropriated to the Secretary of State for the fiscal year 1980 such funds as may be necessary to
• Sec. 3316. Severability
•
carry out such provisions. Such funds are authorized to remain available until expended.
If any provision of this chapter or the application thereof to any person or circumstance is held invalid,
the remainder of the chapter and the application of such provision to any other person or circumstance
shall not be affected thereby.
Source: 6Thttp://www.taiwandocuments.org/tra01.htm6T
Phụ lục 5.
Mutual Defense Treaty between the United States of America and the Republic
of China Signed at Washington 2 December 1954
Entered into Force 3 March 1955 by the exchange of instruments of ratification at Taipei
Terminated by the United States of America 1980
The Parties to this Treaty,
Reaffirming their faith in the purposes and principles of the 6TCharter of the United Nations6T and their
desire to live in peace with all peoples and all Governments, and desiring to strengthen the fabric of
peace in the West Pacific Area,
Recalling with mutual pride the relationship which brought their two peoples together in a common
bond of sympathy and mutual ideals to fight side by side against irnperialist aggression during the last
war,
Desiring to declare publicly and formally their sense of unity and their common determination to
defend themselves against external armed attack, so that no potential aggressor could be under the
illusion that either of them stands alone in the West Pacific Area, and Desiring further to strengthen
their present efforts for collective defense for the preservation of peace and security pending the
development of a more comprehensive system of regional security in the West Pacific Area,
1TArticle 11T
Have agreed as follows
The Parties undertake, as set forth in the Charter of the United Nations, to settle any international
dispute in which they may be involved by peaceful means in such a manner that international peace,
security and justice are not endangered and to refrain in their international relations from the threat or
1TArticle 2
use of force in any manner inconsistent with the purposes of the United Nations.
In order more effectively to achieve the objective of this Treaty, the Parties separately and jointly by
self-help and mutual aid will maintain and develop their individual and collective capacity to resist
armed attack and communist subversive activities directed from without against their territorial
1TArticle 3
integrity and political stability.
The Parties undertake to strengthen their free institutions and to cooperate with each other in the
development of economic progress and social well-being and to further their individual and collective
1TArticle 4
efforts toward these ends.
The Parties, through their Foreign Ministers or their deputies, will consult together from time to time
1TArticle 5
regarding the implementation of this Treaty.
Each Party recognizes that an armed attack in the West Pacific Area directed against the territories of
either of the Parties would be dangerous to its own peace and safety and declares that it would act to
meet the common danger in accordance with its constitutional processes.
Any such armed attack and all measures taken as a result thereof shall be immediately reported to the
Security Council of the United Nations. Such measures shall be terminated when the Security Council
10TArticle 6
has taken the measures necessary to restore and maintain international peace and security.
For the purposes of Articles 2 and 5, the terms "territorial" and "territories" shall mean in respect of the
Republic of China, Taiwan and the Pescadores; and in respect of the United States of America, the
island territories in the West Pacific under its jurisdiction. The provisions of Articles 2 and 5 will be
1TArticle 7
applicable to such other territories as may be determined by mutual agreement.
The Government of the Republic of China grants, and the Government of the United States of America
accepts, the right to dispose such United States land, air, and sea forces in and about Taiwan and the
10TArticle 8
Pescadores as may be required for their defense, as determined by mutual agreement.
This Treaty does not affect and shall not be interpreted as affecting in any way the rights and
obligations of the Parties under the Charter of the United Nations or the responsibility of the United
1TArticle 9
Nations for the maintenance of international peace and security.
This Treaty shall be ratified by the Republic of China and the United States of America in accordance
with their respective constitutional processes and will come into force when instruments of ratification
1TArticle 10
thereof have been exchanged by them at Taipei.
This Treaty shall remain in force indefinitely. Either Party may terminate it one year after notice has
been given to the other party.
IN WITNESS WHEREOF, The undersigned Plenipotentiaries have signed this Treaty
DONE in duplicate, in the Chinese and English languages, at Washington on this Second day of the
Twelfth month of the Forty-third Year of the Republic of China, corresponding to the Second day of
December of the Year One Thousand Nine Hundred and Fifty-four.
For the Republic of China: 10TGEORGE K.C. YEH
For the United States of America: 10TJOHN FOSTER DULLES
Source: 6Thttp://www.taiwandocuments.org/mutual01.htm6T
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
Thủ tướng Chu Ân Lai đón đoàn
vận động viên bóng bàn Mỹ
thăm Trung Quốc
Nguồn:6Thttp://a9.vietbao.vn/imag es/vi902/2005/7/20469871-
images688162_T6.jpg6T
Tổng thống Nixon và Chủ tịch Mao Trạch Đông năm 1972. Nguồn:6Thttp://a9.vietbao.vn/images/vi902/2 005/7/20469871-images688166_T7.jpg6T
Kissinger và Chủ tịch Mao Trạch Đông (1972)
Nguồn:6Thttp://a9.vietbao.vn/images/vi902/2005/7/20469871-images688170_T5.jpg6T
Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình trong chuyến thăm Mỹ năm 1979. Nguồn:6Thttp://a9.vietbao.vn/image s/vi902/2005/7/20469871
tuyển chụp đội
images688182_T4.jpg6T Ảnh bóng bàn Mỹ đến thực hiện màn "ngoại giao bóng bàn" tại Trung Quốc năm 1971 Nguồn:6Thttp://www.tin247.com/tha ng_tram_quan_he_ngoai_giao_m ytrung_qua_anh-2-21512736.html6T
Năm 1974-1975, ông George H. W. Bush (Bush cha) được bổ nhiệm đến 6TBắc Kinh6T làm Đại sứ (ảnh trái). Đến tháng 2/1989, ông trở lại Trung Quốc với tư cách là Tổng thống Mỹ (ảnh phải)
Nguồn:http://www.tin247.com/thang _tram_quan_he_ngoai_giao_mytrung _qua_anh-2-21512736.html
Quảng Trường Thiên An Môn (Trung Quốc)– nơi xảy ra sự kiện 4/6/1989, đưa quan hệ Mĩ – Trung xuống mức thấp nhất từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức (1979)
Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:Su_kien_Thien_An_Mon.jpg