intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quản lí quá trình dạy học ở trường phổ thông

Chia sẻ: ViCaracas2711 ViCaracas2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

56
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Quản lí quá trình dạy học trong nhà trường phổ thông cần đảm bảo tính hệ thống với ba cấp độ quản lí: Quản lí quá trình dạy học tổng thể trong nhà trường của chủ thể hiệu trưởng, quản lí quá trình dạy học trên lớp của chủ thể giáo viên và tự quản lí hoạt động học tập của chủ thể học sinh. Bài báo đã làm rõ những nội dung quản lí chủ yếu của ba cấp độ quản lí nói trên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quản lí quá trình dạy học ở trường phổ thông

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0072<br /> Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 6A, pp. 39-46<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> QUẢN LÍ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG<br /> <br /> Phạm Quang Huân<br /> Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> <br /> Tóm tắt. Dạy học là một quá trình trung tâm trong quá trình giáo dục tổng thể của nhà<br /> trường. Dạy học được xem là quá trình có mở đầu (input), diễn biến quá trình (process) và<br /> kết thúc (output) của các hoạt động dạy, hoạt động học nhằm đạt được các mục tiêu dạy<br /> học. Trong nhà trường phổ thông, dạy học bao gồm quá trình dạy học vĩ mô (quá trình dạy<br /> học tổng thể trong nhà trường) và quá trình dạy học vi mô (quá trình dạy học trên lớp) do<br /> ba loại chủ thể quản lí. Quản lí quá trình dạy học trong nhà trường phổ thông cần đảm bảo<br /> tính hệ thống với ba cấp độ quản lí: Quản lí quá trình dạy học tổng thể trong nhà trường<br /> của chủ thể hiệu trưởng, quản lí quá trình dạy học trên lớp của chủ thể giáo viên và tự quản<br /> lí hoạt động học tập của chủ thể học sinh. Bài báo đã làm rõ những nội dung quản lí chủ<br /> yếu của ba cấp độ quản lí nói trên.<br /> Từ khóa: Trường phổ thông, quá trình dạy học, quá trình dạy học vĩ mô, quá trình dạy học<br /> vi mô, quản lí, chủ thể quản lí, hiệu trưởng, giáo viên, học sinh.<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Dạy học là quá trình cơ bản và trung tâm của quá trình giáo dục tổng thể trong nhà trường.<br /> Về khái niệm, bản chất, đặc điểm, tính chất của dạy học đã được khoa học giáo dục truyền thống<br /> làm rõ. Nhiều công trình nghiên cứu lí luận xem xét dạy học như là một hệ thống hoạt động gồm<br /> hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của người học với các thành tố như mục tiêu, nội<br /> dung, phương pháp, phương tiện, kiểm tra đánh giá, môi trường dạy-học.<br /> Theo hướng tiếp cận xem dạy học như là một quá trình, ở đó các hoạt động dạy và học cùng<br /> các yếu tố liên quan diễn tiến từ điểm khởi đầu tới điểm kết thúc, các nhà giáo dục học Hà Thế<br /> Ngữ, Đặng Vũ Hoạt coi quá trình dạy học là “quá trình nhận thức độc đáo của học sinh” [1]. Tác<br /> giả Hồ Ngọc Đại theo tiếp cận công nghệ học đã cho rằng dạy học chính “là cơ cấu và quy trình<br /> tác động đến người học và quá trình học”, trong đó nhấn mạnh vai trò tổ chức, hướng dẫn hỗ trợ<br /> của giáo viên là chỉ dẫn người khác thực hiện việc học [2]. Xu thế nghiên cứu dạy học với tư cách<br /> là một quá trình gần đây đã tiếp nối quan điểm này.<br /> Trong nhiều công trình nghiên cứu sâu của mình về lí luận dạy học, tác giả Thái Duy Tuyên<br /> tập trung làm rõ cấu trúc của quá trình dạy học, theo đó, một trong những điểm tựa là quan điểm<br /> của Babanxki - nhà giáo dục học Nga - đã xem xét dạy học bao gồm các bước diễn biến cơ bản của<br /> một quá trình sau đây: Bước khởi động quá trình dạy học; bước thực hiện nội dung dạy học; bước<br /> kết thúc quá trình dạy học. Các bước này có mối quan hệ tương tác và tập hợp thành một chỉnh thể<br /> hệ thống và làm nên các khâu của quá trình dạy học [3].<br /> <br /> Ngày nhận bài: 20/1/2015. Ngày nhận đăng: 25/4/2015.<br /> Liên hệ: Phạm Quang Huân, e-mail: huankhgd@gmail.com.<br /> <br /> 39<br /> Phạm Quang Huân<br /> <br /> <br /> Đồng quan điểm trên của Babanxki, Thái Duy Tuyên..., tác giả Nguyễn Văn Đản cho rằng,<br /> trong nhà trường, quá trình dạy học bao gồm nhiều cấp độ: Có quá trình dạy - học tổng thể chung<br /> của nhà trường (quá trình dạy học vĩ mô), lại có quá trình dạy - học cụ thể theo các bộ môn và<br /> được phân chia theo lớp học, lấy bài học là đơn vị hạt nhân cơ bản (quá trình dạy học vi mô) do<br /> các chủ thể khác nhau (hiệu trưởng, giáo viên, học sinh) thực hiện [3, 4].<br /> Những kết quả nghiên cứu về quá trình dạy học của Babanxki, Thái Duy Tuyên, Nguyễn<br /> Văn Đản, Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt... đều thống nhất xác lập vị thế chủ thể của quá trình dạy<br /> học là giáo viên và học sinh: Giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy và học sinh là chủ thể của<br /> hoạt động học. Đây là căn cứ lí luận cho việc xác định rõ chủ thể, cơ cấu, nội dung của hoạt động<br /> quản lí dạy học.<br /> Quản lí dạy học là nhiệm vụ quản lí trung tâm trong quản lí nhà trường, là khâu mấu chốt<br /> có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng giáo dục của mỗi trường học. Lâu nay, ở Việt Nam, các<br /> nghiên cứu về quản lí dạy học trong nhà trường mới chỉ tập trung nhấn mạnh tới vai trò và hoạt<br /> động quản lí của hiệu trưởng trường học. Vai trò, chức năng của giáo viên và học sinh trong quản<br /> lí hoạt động dạy học chưa được quan tâm nghiên cứu thỏa đáng. Một số công trình nghiên cứu về<br /> quản lí dạy học gần đây [6, 7] đã góp phần làm rõ hệ thống các chủ thể quản lí dạy học trong nhà<br /> trường và xác định tương ứng vai trò, chức năng, nội dung quản lí dạy, quản lí học cho mỗi chủ thể<br /> nói trên.<br /> Trên cơ sở tiếp cận quá trình, bài báo này sẽ tiếp tục làm rõ các vấn đề bản chất, cấu trúc,<br /> đặc điểm, tính chất của dạy học, các chủ thể quản lí dạy học trong nhà trường phổ thông và cách<br /> thức quản lí dạy học theo các cấp độ quản lí khác nhau (nhưng trong quan hệ tương tác, biện<br /> chứng) tạo nên một hệ thống quản lí dạy học đầy đủ, hiệu quả trong nhà trường phổ thông.<br /> <br /> 2. Nội dung nghiên cứu<br /> 2.1. Quá trình dạy học ở trường phổ thông<br /> * Quan niệm<br /> Dạy học là một trong hai thành tố kiến tạo nên quá trình giáo dục tổng thể trong nhà trường;<br /> Dạy học là tác động qua lại giữa hoạt động “dạy” (truyền đạt - hướng dẫn - điều khiển)<br /> mang tính chủ đạo của người dạy và hoạt động “học” (lĩnh hội - tự điều khiển) mang tính tích cực<br /> chủ động của người học.<br /> Mục đích của dạy học là giúp người học lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người<br /> (tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ . . . ) để phát triển những năng lực và phẩm chất ở người học.<br /> * Bản chất<br /> Từ kết quả nghiên cứu cho rằng quá trình dạy học là “quá trình nhận thức độc đáo của học<br /> sinh” [1] và dạy học chính “là cơ cấu và quy trình tác động đến người học và quá trình học (. . . )<br /> là chỉ dẫn người khác học” [2], có thể khẳng định: Bản chất của quá trình dạy học là tổ chức và<br /> điều khiển quá trình nhận thức của học sinh cho phù hợp logic của khái niệm khoa học và quy luật<br /> nhận thức, nhằm mục đích phát triển việc học, qua đó phát triển người học.<br /> * Cấu trúc<br /> Xét về mặt cấu trúc nội dung, quá trình dạy học được tạo thành từ các yếu tố: Mục đích dạy<br /> học, nội dung dạy học, hoạt động của thầy (phương pháp và hình thức), hoạt động của trò (phương<br /> pháp và hình thức); phương tiện dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học... Tất cả yếu tố trên<br /> tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ, làm thành một hệ thống cấu trúc thống nhất.<br /> <br /> <br /> 40<br /> Quản lí quá trình dạy học ở trường phổ thông<br /> <br /> <br /> Xét về mặt cấu trúc quá trình, Babanxki xem xét quá trình dạy học bao gồm các bước diễn<br /> biến cơ bản sau đây: (i) Kích thích động cơ, thái độ học tập (bước khởi động); (ii) Tổ chức điều<br /> khiển học sinh hoạt động để nắm tri thức mới, củng cố tri thức, rèn luyện kĩ năng (bước thực hiện<br /> nội dung); (iii) Kiểm tra và đánh giá kết quả học tập để kiểm soát khả năng nắm tri thức, kĩ năng,<br /> kĩ xảo của học sinh (bước kết thúc). Các bước này có mối quan hệ tương tác và tập hợp thành một<br /> chỉnh thể hệ thống và làm nên các khâu của quá trình dạy học [3].<br /> Quá trình dạy học trong nhà trường phổ thông không phải chỉ diễn ra dưới một hình thái,<br /> một cấp độ mà dưới nhiều hình thái, cấp độ, rất cụ thể và đa dạng:<br /> - Dưới góc độ thời gian, quá trình dạy học có thể diễn biến dài ngắn khác nhau: Quá trình<br /> dạy học trong một tiết học (giờ học - một quá trình cụ thể nhưng trọn vẹn), quá trình dạy học trong<br /> một buổi học, một tuần học, một năm học hoặc một cấp học. . .<br /> - Dưới góc độ không gian, quá trình dạy học có thể tiến hành ở những nơi khác nhau với<br /> những hình thức khác nhau: Giờ lên lớp (là hình thức dạy học cơ bản), các hoạt động trải nghiệm<br /> ngoài giờ lên lớp như ngoại khoá, xemina và các hoạt động học tập khác. . . Quá trình dạy học còn<br /> mở rộng biên độ không gian tới tận gia đình, diễn ra ở các cơ sở sản xuất ngoài nhà trường...<br /> - Dưới góc độ chủ thể tổ chức cũng như mức độ phạm vi của quá trình dạy học trong nhà<br /> trường phổ thông, có thể chia quá trình dạy học thành quá trình vĩ mô và quá trình vi mô [4].<br /> + Quá trình dạy học vĩ mô là quá trình tổng thể (hệ thống lớn) bao gồm nhiều quá trình vi<br /> mô, tương ứng với môn học, lớp học, cấp học, diễn ra trong thời gian dài (tuần, tháng, kì học, năm<br /> học, . . . ). Quá trình này do hiệu trưởng nhà trường tổ chức quản lí.<br /> + Quá trình dạy học vi mô là quá trình tổ chức các hoạt động dạy của thầy và học của trò<br /> trong giờ lên lớp (theo các bộ môn), trên cơ sở phối hợp sử dụng các nguồn lực (như tài liệu học<br /> tập, thiết bị dạy học, cơ sở vật chất lớp học, kinh phí phục vụ dạy học, . . . ) nhằm dẫn dắt học sinh<br /> từ chỗ chưa biết đến chỗ hình thành sản phẩm học tập bao gồm hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo,<br /> thái độ theo mục tiêu dạy học và tương ứng với từng đơn vị tiết học, bài học (khái niệm khoa học).<br /> Quá trình dạy học vi mô là hệ thống con, mang tính hạt nhân, do người giáo viên tổ chức.<br /> * Tính chất<br /> Theo Hà Thế Ngữ, dạy học “vừa có tính toàn vẹn thống nhất, vừa có tính quá trình” [5].<br /> + Tính toàn vẹn, thống nhất: Đây là sự thống nhất biện chứng giữa dạy học và giáo dục,<br /> giữa dạy và học, giữa các thành tố cấu trúc của quá trình dạy học, giữa các khâu, giữa các yếu tố<br /> nội lực và ngoại lực của quá trình dạy học;<br /> + Tính quá trình. Thuộc tính quá trình là tính chất đặc trưng của quá trình dạy học, cũng<br /> như quá trình giáo dục tổng thể nói chung. Quá trình dạy học là tập hợp của chuỗi vô số các hoạt<br /> động: Hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò kế tiếp nhau trong mối quan hệ tương tác,<br /> theo tiến trình thời gian từ thời điểm bắt đầu cho tới khi kết thúc.<br /> Có thể thấy quá trình dạy học bao gồm 3 giai đoạn, tương ứng với 3 trạng thái sau: a) Trạng<br /> thái ban đầu của quá trình dạy học; b) Trạng thái diễn biến trung gian của quá trình dạy học; c)<br /> Trạng thái kết thúc của quá trình dạy học. Sự chuyển đổi từ trạng thái này sang trạng thái kia là<br /> một quá trình vận động liên tục, bao gồm sự kết hợp nhiều hoạt động, nhiều nguồn lực nhằm huy<br /> động người học tích cực, chủ động chiếm lĩnh đối tượng học tập. Ngay trong một trạng thái, cũng<br /> hàm chứa sự vận động nội tại giữa các yếu tố tham gia quá trình dạy học. Thông qua chủ thể dạy<br /> và học, các yếu tố mục đích - nội dung - phương pháp - phương tiện - kiểm tra đánh giá kết quả . . .<br /> được gắn chặt trong mối quan hệ tương tác giữa chúng với nhau và với chủ thể dạy - học cũng như<br /> giữa các yếu tố của quá trình với môi trường.<br /> <br /> <br /> 41<br /> Phạm Quang Huân<br /> <br /> <br /> Có thể tóm tắt diễn biến của quá trình dạy học trong sơ đồ sau:<br /> <br /> Trạng thái ban Trạng thái trung Trạng thái kết<br /> đầu (Input) gian (Process) thúc (Output)<br /> - Các hoạt động dạy<br /> học kế tiếp nhau.<br /> - Định hướng kế - Kiểm tra, đánh giá<br /> - Người dạy hướng<br /> hoạch cho dạy. kết quả học tập.<br /> → dẫn người học để →<br /> - Định hướng chuẩn - Đo lường hiệu quả<br /> chiếm lĩnh từng<br /> bị cho học. vận dụng thực tế.<br /> đơn vị kiến thức<br /> ...<br /> <br /> Muốn quản lí, tổ chức và điều khiển quá trình dạy học, cần phải nhận dạng một cách chính<br /> xác, cụ thể sự vận động của quá trình này qua các giai đoạn khác nhau cùng những quy luật chi<br /> phối sự vận động ấy.<br /> <br /> 2.2. Quản lí quá trình dạy học ở trường phổ thông<br /> 2.2.1. Các chủ thể quản lí quá trình dạy học trong nhà trường phổ thông<br /> Quá trình dạy học bao gồm những hoạt động dạy và học diễn ra liên tục, đồng thời và thống<br /> nhất biện chứng với nhau, trong đó hoạt động dạy của giáo viên đóng vai trò chủ đạo nhằm tổ<br /> chức, hướng dẫn, điều khiển hoạt động học chủ động, tích cực, tự giác của học sinh theo mục tiêu<br /> dạy học. Về bản chất, quan hệ giáo viên - học sinh là mối quan hệ quản lí rất cơ bản giữa chủ thể<br /> quản lí là giáo viên và đối tượng quản lí là học sinh.<br /> Quản lí quá trình dạy học trong nhà trường, về bản chất là quản lí các mối quan hệ con<br /> người trong công việc, là tạo ra những tác động phù hợp nhằm tổ chức phối hợp hoạt động của<br /> giáo viên, học sinh nhằm đạt được mục tiêu đã định.<br /> Các chủ thể quản lí quá trình dạy học ở trường phổ thông bao gồm [6]:<br /> - Chủ thể quản lí thứ nhất là hiệu trưởng, có chức năng quản lí quá trình dạy học vĩ mô của<br /> nhà trường;<br /> - Chủ thể quản lí thứ hai là giáo viên, chức năng là quản lí quá trình dạy học ở trên lớp và<br /> định hướng quá trình học ở nhà của học sinh theo từng đơn vị bài học của từng môn học;<br /> - Chủ thể quản lí thứ ba là học sinh - người học, tự quản lí quá trình học tập của bản thân ở<br /> trên lớp cũng như ở ngoài lớp, dưới sự hướng dẫn của giáo viên.<br /> Nếu nhà trường nào xác lập rõ ràng và đảm bảo sự tồn tại hiện thực của 3 chủ thể nói trên<br /> cũng như mối quan hệ quản lí giữa các chủ thể ấy, sẽ đảm bảo cho việc quản lí quá trình dạy học<br /> thực sự được dân chủ hóa, nhờ vậy mà phát huy hiệu quả hơn ý thức trách nhiệm và sự sáng tạo<br /> của mọi thành viên trong nhà trường cho thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục.<br /> 2.2.2. Ba cấp độ quản lí quá trình dạy học ở trường phổ thông<br /> Quản lí quá trình dạy học trong trường phổ thông là quản lí theo 3 cấp độ tương ứng 3 chủ<br /> thể quản lí [6]:<br /> Quản lí quá trình dạy học tổng thể trong nhà trường<br /> Chủ thể quản lí quá trình dạy học tổng thể trong nhà trường là hiệu trưởng; giúp việc cho<br /> hiệu trưởng là hiệu phó phụ trách chuyên môn.<br /> <br /> 42<br /> Quản lí quá trình dạy học ở trường phổ thông<br /> <br /> <br /> Hiệu trưởng là chủ thể quản lí cao nhất là người đại diện cho nhà nước về mặt pháp lí, có<br /> trách nhiệm và có thẩm quyền cao nhất về hành chính và chuyên môn trong trường, chịu trách<br /> nhiệm trước nhà nước về tổ chức và quản lí toàn bộ hoạt động của nhà trường.<br /> Trong nhà trường phổ thông có nhiều quá trình, nhiều hoạt động là đối tượng mà người hiệu<br /> trưởng cần và phải quản lí. Nhưng quá trình dạy học là quá trình trung tâm mang tính đặc thù của<br /> nhà trường. Quá trình dạy học là tập hợp những hoạt động liên tiếp của giáo viên và của học sinh<br /> được giáo viên hướng dẫn. Bởi vậy quản lí quá trình này cũng là nội dung và nhiệm vụ trọng tâm<br /> trong công tác quản lí của hiệu trưởng. “Quản lí quá trình dạy học là quản lí quá trình dạy của giáo<br /> viên và quá trình học của học sinh, vốn là hai quá trình thống nhất, gắn bó hữu cơ” [7].<br /> - Về mức độ phạm vi, hoạt động quản lí quá trình dạy học trong nhà trường có tầm vĩ mô,<br /> có tính bao quát, tổng thể ở cấp độ cao nhất;<br /> - Về đối tượng và nội dung quản lí, việc quản lí quá trình dạy học của hiệu trưởng thể hiện<br /> qua: (i) Quản lí hoạt động dạy của giáo viên; (ii) Quản lí hoạt động học tập của học sinh; (iii) Quản<br /> lí hệ thống cơ sở vật chất và phương tiện dạy học (sách, thiết bị); (iv) Quản lí môi trường dạy học;<br /> - Về việc sử dụng các chức năng quản lí, hiệu trưởng quản lí các trạng thái diễn biến của<br /> quá trình dạy học bằng các chức năng quản lí: (i) lập kế hoạch cho các hoạt động dạy học trong<br /> nhà trường; (ii) tổ chức bộ máy nhân sự (giáo viên - học sinh ), tạo điều kiện cho việc thực hiện<br /> các hoạt động dạy học phân công chuyên môn, tổ chức khối, lớp học. . . ); (iii) chỉ đạo các hoạt<br /> động dạy học thực hiện kế hoạch dạy học của Bộ, Sở, Phòng GD-ĐT; (iv) kiểm tra, xem xét đánh<br /> giá hoạt động dạy của giáo viên và thông qua đó, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh...<br /> - Hiệu trưởng quản lí dạy học của giáo viên thông qua tổ chuyên môn. Tổ chuyên môn có<br /> chức năng tổ chức triển khai thực hiện cụ thể mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học theo môn<br /> học, khối, lớp căn cứ vào chương trình và kế hoạch của nhà nước. . .<br /> Quản lí quá trình dạy học ở trên lớp<br /> Chủ thể quản lí trực tiếp là giáo viên. Trong nhà trường, do quá trình dạy học là một hệ<br /> thống vừa có tính chất điều khiển được, lại vừa có khả năng tự điều khiển, nên giáo viên vừa là<br /> đối tượng vừa là chủ thể quản lí. Quan hệ giữa giáo viên và học sinh trong hoạt động dạy và hoạt<br /> động học là quan hệ điều khiển, giáo viên là người điều khiển, tổ chức, hướng dẫn, là “nhà quản lí<br /> đích thực” quá trình dạy học.<br /> Giáo viên chẳng những là chủ thể tổ chức, quản lí mọi hoạt động của học sinh trong lớp học<br /> do mình phụ trách mà còn là chủ thể trực tiếp quản lí hoạt động dạy của cá nhân và mọi công việc<br /> của bản thân trong quá trình tham gia các hoạt động của nhà trường.<br /> Công việc chủ đạo của người giáo viên là quản lí, tổ chức quá trình dạy học ở trên lớp. Quá<br /> trình này chia thành nhiều khâu, qua nhiều trạng thái.<br /> - Quản lí khâu soạn bài, tương ứng với việc tổ chức trạng thái đầu vào cho quá trình: Giáo<br /> viên tổ chức phối hợp các yếu tố của quá trình dạy học, thiết kế thành bản kế hoạch lên lớp (bài<br /> soạn) theo một phương án tối ưu, phù hợp với những yêu cầu của bộ môn và đặc điểm học sinh. . . ;<br /> đồng thời, tự tiến hành kiểm tra điều chỉnh bản thiết kế ấy.<br /> - Quản lí khâu lên lớp, thực chất là tổ chức trạng thái diễn biến của quá trình dạy học. Ở<br /> đây, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn quá trình hoạt động cho học sinh nhằm thực hiện ý đồ<br /> định hướng và kế hoạch đã thiết kế. Đây là quá trình vận động biện chứng giữa dạy và học, cùng<br /> hướng tới nội dung tri thức, lập thành tam giác sư phạm: “khái niệm khoa học - dạy và học”. Đây<br /> cũng là quá trình vận động của tất cả các yếu tố tham gia quá trình từ trạng thái khởi động ban đầu<br /> của giờ học (học sinh chưa có hiểu biết về nội dung học vấn, đến trạng thái kết thúc của giờ học,<br /> <br /> <br /> 43<br /> Phạm Quang Huân<br /> <br /> <br /> học sinh đã chiếm lĩnh được tri thức, kĩ năng, thái độ dưới sự tổ chức, hướng dẫn, quản lí của giáo<br /> viên). Khâu lên lớp của người giáo viên có vai trò rất quan trọng, nó hiện thực hoá định hướng và<br /> kế hoạch lên lớp (trong bản thiết kế bài học) cho những đối tượng học sinh cụ thể, trong những<br /> hoàn cảnh, tình huống cụ thể một cách hiệu quả nhằm đạt được những mục tiêu dạy học.<br /> - Quản lí khâu kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh tương ứng việc tổ chức trạng<br /> thái cuối cùng của quá trình dạy học. Ở trạng thái đầu ra này, sản phẩm của quá trình dạy học đã<br /> được hình thành, đó là hệ thống tri thức, kĩ năng, thái độ thể hiện mức độ năng lực của người học.<br /> Sản phẩm dạy học là kết quả của quá trình hiện thực hóa mục tiêu bài học. Học sinh vừa là đối<br /> tượng tham gia quá trình chiếm lĩnh, tạo ra sản phẩm tri thức, vừa là người hưởng thụ, lĩnh hội sản<br /> phẩm đó, góp phần làm gia tăng giá trị, phát triển bản thân...<br /> Tóm lại, giáo viên vừa là đối tượng quản lí của hoạt động quản lí nhà trường vừa là chủ thể<br /> đích thực quản lí quá trình dạy học. Đây là những căn cứ xác định vai trò quyết định chất lượng<br /> giáo dục của người giáo viên.<br /> Quản lí hoạt động học<br /> i. Học sinh là chủ thể quản lí trực tiếp hoạt động học (yếu tố nội lực)<br /> Trong quá trình dạy học, học sinh không chỉ là đối tượng chịu sự quản lí điều khiển của<br /> giáo viên mà còn là chủ thể giáo dục. Việc học là phải do người học quyết định, người học là gốc,<br /> là yếu tố nội lực quyết định chất lượng học tập cùng với chất lượng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức,<br /> từ đó tạo nên chất lượng giáo dục chung của nhà trường.<br /> Về lí luận, vai trò chủ thể của học sinh trong quá trình dạy học được khẳng định, xét theo<br /> hai căn cứ: Thứ nhất, bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức độc đáo của học sinh,<br /> dạy học là dạy cho người khác làm chủ hoạt động học của mình. Thứ hai, tính chủ thể là một trong<br /> hai tính chất đặc thù của hoạt động. Như vậy, hoạt động học có chủ thể đích thực là người học.<br /> Việc xác định vai trò chủ thể của học sinh trong hoạt động học nói riêng và quá trình dạy<br /> học nói chung là tiêu chí mang tính bản chất để nhận diện các quan điểm, xu thế dạy học của một<br /> hệ thống giáo dục. R.RoySingh - chuyên gia giáo dục của UNESCO (1995) từng đánh giá: “Vị trí<br /> của người học ở trung tâm hay ngoại biên là nét đặc trưng phân biệt hệ thống giáo dục này với<br /> hệ thống giáo dục khác” [8]. Dạy học tập trung định hướng vào giáo viên là quan điểm dạy học<br /> truyền thống. Ngược lại, quan điểm dạy học hiện đại định hướng tập trung vào người học dựa trên<br /> sự nhận thức rõ về vai trò chủ thể của người học và coi trọng vai trò này.<br /> Học sinh là chủ thể trực tiếp tự quản lí hoạt động học của bản thân. Đây là nhân tố nội lực<br /> có ý nghĩa quyết định sự thành công hay thất bại trong việc học của người học. Bởi lẽ, không ai<br /> có thể học hộ ai, và còn bởi “việc học phải do chính người học chủ đạo”. Điều đó có nghĩa, chính<br /> người học quyết định việc học của mình.<br /> Học sinh tự quản lí việc học của cá nhân với những nội dung sau:<br /> - Tự xác định hướng mục tiêu, kế hoạch nội dung chuẩn bị các điều kiện cho quá trình học;<br /> - Tự tổ chức quá trình học ở trên lớp và ở nhà trên cơ sở xây dựng các kĩ năng và thói quen<br /> học tập, đồng thời sử dụng những thói quen và hệ thống kĩ năng học tập đã có để tự mình tích cực<br /> và chủ động khám phá, chiếm lĩnh hệ thống kiến thức, kĩ năng. Từ nội dung học vấn và hình thành<br /> thái độ, động cơ học tập đúng đắn, cũng như xây dựng ý chí, lòng quyết tâm và nghị lực học tập<br /> để có thể tự học thường xuyên, tự học có kết quả và chất lượng tốt;<br /> - Tự kiểm tra, đánh giá việc học của bản thân,<br /> - Thường xuyên rút kinh nghiệm và cải tiến phương pháp học tập để có kết quả và chất<br /> lượng học cao hơn.<br /> <br /> 44<br /> Quản lí quá trình dạy học ở trường phổ thông<br /> <br /> <br /> Những khả năng trên ở người học sinh không tự nhiên mà có được. Đó là kết quả của quá<br /> trình học tập và rèn luyện của người học theo sự tổ chức, hướng dẫn của người giáo viên.<br /> ii. Giáo viên là chủ thể quản lí gián tiếp hoạt động học (ngoại lực)<br /> Trong việc quản lí hoạt động học tập của học sinh, giáo viên có vai trò định hướng, tư vấn,<br /> hướng dẫn, điều khiển, kiểm soát và trọng tài đối việc thực hiện nhiệm vụ học tập theo kế hoạch<br /> người học đã xác định.<br /> Về nội dung, giáo viên quản lí quá trình học thể hiện ở các hoạt động sau:<br /> - Giáo viên định hướng, tư vấn và hướng dẫn học sinh chuẩn bị tốt kế hoạch cho quá trình<br /> dạy học (xác định mục đích học, nội dung, phương pháp, điều kiện và phương tiện học tập, xác<br /> định động cơ, thái độ học tập. . . );<br /> - Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh trong quá trình học trên lớp, học ở nhà trên cơ sở<br /> phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác;<br /> - Giáo viên kiểm tra, đánh giá và hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập.<br /> Tóm lại, học sinh cần có năng lực tự quản lí, kiểm soát việc học của mình, đây là yếu tố “nội<br /> lực” quyết định kết quả của hoạt động học, cũng là nội lực của quá trình dạy học. Do đó, người học<br /> và hoạt động học cũng là nội lực trung tâm của chất lượng dạy học trong mỗi nhà trường. Vai trò<br /> của giáo viên là “ngoại lực” tác động để định hướng, hỗ trợ, rèn luyện học sinh hình thành kĩ năng<br /> tự quản lí việc học của bản thân. Không có “ngoại lực” này, số đông người học khó hoàn thành<br /> nhiệm vụ học tập của mình, vì thế nó rất quan trọng. Đó là cơ sở để khẳng định: Quản lí hoạt động<br /> học tập của học sinh ở trên lớp cũng như ở nhà thực sự là nhiệm vụ trọng tâm của mỗi giáo viên.<br /> Ba cấp độ quản lí trong nhà trường đã trình bày ở phần trên tạo thành ba hệ thống quản lí<br /> dạy học. Mỗi hệ thống có chức năng, nhiệm vụ quản lí riêng với những điểm đặc thù; tuy nhiên<br /> giữa chúng có mối liên hệ qua lại mật thiết với nhau. Hệ thống quản lí dạy học trong nhà trường do<br /> người hiệu trưởng điều khiển là hệ thống quản lí vĩ mô, bao gồm và chi phối hai hệ thống còn lại.<br /> Hệ thống quản lí dạy học trên lớp do giáo viên điều khiển là sự cụ thể hóa, hiện thực hóa những<br /> tư tưởng và nội dung quản lí của hệ thống quản lí chúng trong nhà trường, đồng thời tạo ra những<br /> tác động có tính chỉ đạo và hướng dẫn chi phối hệ thống quản lí học tập của học sinh. Theo quan<br /> điểm dạy học tập trung vào người học và dạy học nhằm phát triển việc học, hệ thống quản lí hoạt<br /> động học tập của học sinh là khâu có ý nghĩa quyết định chất lượng của quá trình dạy học; đồng<br /> thời là nơi thể hiện hiệu quả cuối cùng của những tác động được tạo nên bởi hai hệ thống quản lí<br /> của hiệu trưởng và giáo viên.<br /> <br /> 3. Kết luận<br /> Dạy học trong nhà trường phổ thông là một quá trình tương tác giữa các chủ thể và giữa các<br /> hoạt động của các chủ thể ấy. Xuất phát từ việc phân tích quan niệm, bản chất, cấu trúc và tính chất<br /> của quá trình dạy học, ta có thể xác định rõ: Quá trình dạy học trong nhà trường do ba loại chủ thể<br /> quản lí thực hiện: Hiệu trưởng, giáo viên và học sinh. Quản lí dạy học trong nhà trường phổ thông<br /> thực sự là một hệ thống. Hệ thống này bao gồm: Một là các chủ thể quản lí hoạt động dạy và hoạt<br /> động học cùng với hệ điều kiện cho hai hoạt động đó; hai là hệ thống các chức năng và nhiệm vụ<br /> quản lí với ba cấp độ khác nhau trong mối quan hệ tương tác, biện chứng, trong đó việc quản lí<br /> học tập của học sinh có ý nghĩa quyết định chất lượng và hiệu quả dạy học cho toàn hệ thống quản<br /> lí ấy. Chỉ khi coi trọng vai trò quản lí của cả ba chủ thể dạy học và trang bị những năng lực quản lí<br /> cho các chủ thể ấy thì chất lượng dạy học nói riêng, chất lượng giáo dục nói chung trong mỗi nhà<br /> trường phổ thông mới được cải thiện và đảm bảo.<br /> <br /> <br /> 45<br /> Phạm Quang Huân<br /> <br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> [1] Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt, 1997. Giáo dục học, Tập 2. Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 18.<br /> [2] Hồ Ngọc Đại, 2005. Tâm lí học dạy học. Nxb Giáo dục, tr. 112.<br /> [3] Thái Duy Tuyên, 1996. Lí luận dạy học. Viện Khoa học Giáo dục, Hà Nội, tr. 32.<br /> [4] Nguyễn Văn Đản, 1997. Mối quan hệ về hoạt động dạy và hoạt động học trong quá trình dạy<br /> học. Tạp chí Thông tin Khoa học giáo dục, số 63, tr. 25,26,33.<br /> [5] Hà Thế Ngữ, 1997. Phương pháp tiếp cận toàn vẹn đối với quá trình sư phạm. Tạp chí Thông<br /> tin Khoa học giáo dục, số 1, tr. 15-17.<br /> [6] Phạm Quang Huân, 2011. Quản lí quá trình dạy học ở trường phổ thông theo tiếp cận Quản<br /> lí chất lượng tổng thể (TQM). Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 7, tr.<br /> 31-33.<br /> [7] Trần Kiểm, 2002. Khoa học quản lí nhà trường phổ thông. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,<br /> tr. 137.<br /> [8] Rayja Roysingh, 1995. Nền giáo dục thế kỉ hai mươi mốt - những vấn đề của châu Á - Thái<br /> Bình Dương. Người dịch: Đỗ Thị Bình. Viện Khoa học Giáo dục, Hà Nội, tr. 68.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> <br /> Managing the teaching process in general schools<br /> <br /> Teaching is a central task of the total educational process of the school. It can be considered<br /> as a process including its beginning (input), development (processing) and ending (output) of<br /> teaching and learning activities with a view to achieving the purpose of instruction. In general<br /> schools, teaching includes the macro teaching process (the total educational process of the<br /> school) and the micro teaching one (classroom teaching) managed by three subjects: Managing<br /> the teaching process must be systematic at three such levels as managing the total educational<br /> process of the school by the principal; managing classroom teaching by the teacher and by students<br /> themselves. The article clarifies the main content of the above-said three levels of management.<br /> Keywords: General school, teaching process, macro teaching process, micro teaching<br /> process, managing, managed subject, the principal, the teacher, the student.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 46<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2