VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HOÀNG HUYÊN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN

TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THĂNG BÌNH,

TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN LONG HẢI

HÀ NỘI, năm 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.

Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính

xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai

công bố trong bất cứ công trình nào khác.

Quảng Nam, ngày tháng năm 2021

Tác giả

Trần Thị Hoàng Huyên

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được thực hiện tại Học Viện khoa học xã hội, cơ sở tại

thành phố Đà Nẵng.

Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự động

viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể, quý thầy cô. Trước hết, tôi xin bày

tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đến thầy Nguyễn Long Hải đã tận tình

hướng dẫn tôi thực hiện đề tài của mình.

Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc chân thành tới các thầy cô giáo, người đã

trang bị và đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ vô cùng có ích trong những

năm học vừa qua. Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới quý thầy cô giáo đã tạo

điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã

luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài

nghiên cứu của mình.

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NUỚC VỀ CÔNG TÁC

THANH NIÊN ............................................................................................... 10

1.1. Quản lý nhà nước về công tác thanh niên ................................................ 10

1.2. Chủ thể, nội dung quản lý nhà nước về công tác thanh niên ................... 17

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thanh

niên .................................................................................................................. 23

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC

THANH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH

QUẢNG NAM ............................................................................................... 27

2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Thăng Bình,

tỉnh Quảng Nam .............................................................................................. 27

2.2. Tình hình quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn Huyện

Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam ......................................................................... 34

2.3. Đánh giá quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn Huyện

Thăng Bình, Tỉnh Quảng Nam ........................................................................ 45

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN

LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN .................................... 53

3.1. Những giải pháp chung cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà

nước về công tác thanh niên trong phạm vi cả nước. ..................................... 53

3.2. Những giải pháp riêng cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà

nước về công tác thanh niên trên địa bàn huyện Thăng Bình. ........................ 60

KẾT LUẬN .................................................................................................... 67

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1

2 CNXH Chủ nghĩa xã hội

3 QLNN Quản lý nhà nước

4 UBND Ủy ban nhân dân

5 XHCN Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu Tên bảng Trang Bảng

Đặc điểm giới tính, độ tuổi thanh niên huyện Thăng 31 2.1 Bình

DANH MỤC CÁC HÌNH

Số hiệu Tên hình Trang hình

2.1 Bản đồ hành chính huyện Thăng Bình 29

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài .

Trong tiến trình phát triển của xã hội Việt Nam, thanh niên luôn được

quan tâm hết mức như là rường cột, là chủ nhân tương lai của đất nước.

Thanh niên là một lực lượng hùng mạnh đông đảo, chiếm tỷ lệ phần lớn trong

dân cư, là chủ thể cải tạo xây dựng xã hội, lớp người sáng tạo ra tương lai, lực

lượng có vai trò quan trọng thúc đẩy lịch sử phát triển và duy trì sự sống.

Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hàng

triệu thanh niên đáp lời kêu gọi của non sông hăng hái lên đường chống giặc

ngoại xâm, đã ngã xuống vì độc lập tự do cho dân tộc, viết tiếp những trang

sử vẻ vang, tạo nên những thế hệ thanh niên anh hùng của một dân tộc anh

hùng. Với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy

tương lai”, “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “hay là ta sẽ đến nơi đâu còn

giặc ta chưa về khi Tổ quốc chưa yên…”, hăng hái tham gia các phong trào

"Ba sẵn sàng", “Năm xung phong” ... Ở nước ta, thanh niên là lực lượng nòng

cốt đi đầu trong phong trào tranh đấu vì Tổ quốc độc lập và tự do, vì nhân dân

hạnh phúc. Nhân dịp tổ chức Đại hội Đoàn toàn quốc lần II (từ 25/10 -

04/11/1956), Hồ Chí Minh đã xác nhận rằng: Đảng, Chính phủ có thể tự hào

là đã tạo một thế hệ thanh niên dũng cảm như các cháu, mong các cháu tiếp

tục nỗ lực phấn đấu hăng hái cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nước

nhà. Với yêu cầu cấp thiết đó, cần bồi dưỡng cho thanh niên về lối sống hơn

là cách sống như “ Thép đã tôi thế đó”, “ đời người chỉ sống một lần, sống

làm sao cho khỏi xót xa và ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí,

vì những dĩ vãng ty tiện để đến khi nhắm mắt xuôi tay ta có thể nói rằng: “Tất

cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời,

đó là sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc”.

1

Ở bối cảnh quốc tế hiện nay có nhiều biến động khôn lường và trước áp

lực thách thức của toàn cầu hoá và thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp

4.0, yêu cầu đòi hỏi mỗi thanh niên Việt Nam cần nỗ lực phát huy các khả

năng lợi thế của mình, bằng sức trẻ và lòng trung thành, nhiệt huyết để đóng

góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đúng như

Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: “Thanh niên là chủ nhân tương lai của nước nhà.

Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu là phần lớn do thanh niên "

[16; tr 84]

Thanh niên Việt Nam là lực lượng quần chúng đặc biệt của Đảng và Nhà

nước ta, thanh niên có các yêu cầu và lợi ích chính đáng về nhiều mặt trong

thực tiễn đời sống xã hội, đó là được: học hành, việc làm, giải trí vui chơi

lành mạnh, tình yêu, hôn nhân, gia đình... Theo Hồ Chủ tịch: “Phải quan tâm

đến đời sống, công tác và học tập của thanh niên”[17, tr 166]; “cần đi sâu sát

vào đời sống để hiểu rõ tâm lý của thanh niên và giúp đỡ họ giải quyết những

vấn đề thiết thực" [17, tr 290].

Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, Quốc hội nước ta khoá XI

tại kỳ họp Thứ tám đã ban hành Luật Thanh niên vào ngày 29/11/2005. Trong

đó, có quy định nghĩa vụ và quyền của thanh niên; quy định trách nhiệm của

gia đình, Nhà nước và xã hội đối với thế hệ thanh niên; quy định về tổ chức

của thanh niên. Kể từ khi Luật Thanh niên có hiệu lực đến nay, nhận được sự

lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của các cấp uỷ đảng, sự tham gia vào cuộc của hệ

thống cơ quan Nhà nước từ TW đến địa phương, cùng với sự phối hợp khá

chặt chẽ của các ngành và tổ chức đoàn thể, nên quá trình quản lý Nhà nước

ta về công tác thanh niên đã có nhiều chuyển biến thuận lợi: nhận thức của

thanh niên được nâng cao, gia tăng ý thức tích cực của thanh niên trong chấp

hành chủ trương đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước – với phần

lớn họ có lối sống tốt, gắn kết trách nhiệm với cộng đồng; nghĩa vụ và các

2

quyền của thanh niên được pháp luật bảo vệ và bảo đảm; vị thế và trách

nhiệm của họ ngày càng được nâng cao thông qua việc tham gia tích cực vào

phát triển KT-XH, xuất hiện nhiều tấm gương thanh niên sản xuất giỏi, nhiều

mô hình thanh niên khởi nghiệp, thanh niên làm kinh tế giỏi, thanh niên sáng

kiến cải tiến áp dụng khoa học - công nghệ... . Qua đó, đời sống của thanh

niên được cải thiện, đóng góp vào việc đẩy nhanh phát triển KT-XH.

Song dù vậy, với sự biến động phức tạp khó lường của tình hình thế

giới, sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường và yêu cầu đặt ra ngày càng

cao trong quá trình đẩy mạnh CNH- HĐH ở Việt Nam hiện nay, một tỷ lệ

không nhỏ trong lực lượng thanh niên nước ta đang còn hạn chế về một số

kiến thức và kỹ năng cần thiết trước yêu cầu mở cửa - hội nhập và phát triển;

một số thì chưa xác định rõ về lý tưởng nghề nghiệp và lý tưởng cách mạng,

còn lệch lạc về quan niệm sống và lối sống, ý thức chấp hành pháp luật chưa

cao, lười lao động và dễ sa ngã vào tệ nạn xã hội. Đúng như cố Tổng Bí thư

Lê Duẩn đã từng nói: Người có lý tưởng cách mạng hiểu rõ mình sống vì ai,

lao động để làm gì có những hoài bão ước mơ cao đẹp vượt qua những ham

muốn tầm thường và suy tính nhỏ nhen, người có lý tưởng cách mạng hiểu rõ

tương lai hạnh phúc của mình không tách rời vận mệnh của dân tộc.

Trước hiện trạng trên cho thấy, công tác thanh niên hiện nay đang là

nhiệm vụ cấp thiết, đòi hỏi công tác này phải có sự ưu tiên đầu tư chăm lo

thích đáng của Đảng và Nhà nước, xác định công tác thanh niên phải là nhiệm

vụ sống còn của quá trình thực hiện sự nghiệp cách mạng.

Liên hệ đến huyện Thăng Bình (Quảng Nam), về công tác thanh niên đã

được Huyện ủy và UBND huyện Thăng Bình quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo bằng

các nghị quyết, đề án, kế hoạch, chương trình hành động (Chiến lược phát

triển thanh niên huyện Thăng Bình giai đoạn 2016 – 2020; kế hoạch thường

niên về công tác thanh niên…) với sự tham gia khá tích cực của các phòng,

3

ban trực thuộc và sự phối hợp tổ chức thực hiện khá đồng bộ của Đoàn thanh

niên với những đoàn thể nhân dân từ tuyến huyện đến các xã, thị trấn. Từ cơ

sở định hướng này, thanh niên trên địa bàn huyện Thăng Bình hàng năm đã

được tuyên truyền phổ biến pháp luật, hỗ trợ và tư vấn về pháp lý, về sức

khoẻ và môi trường; được giáo dục toàn diện trong các trường học trên địa

bàn huyện; gắn kết với các đề án, chương trình phát triển KT-XH của tỉnh

Quảng Nam… Nhờ đó đã tạo thuận lợi các điều kiện để thanh niên Thăng

Bình tiếp cận được nghề theo nguyện vọng và sở trường; được hỗ trợ, định

hướng và tư vấn nghề nghiệp. Có các câu lạc bộ/ mô hình tiêu biểu xuất hiện

trên địa bàn đã được hàng nghìn thanh niên hưởng ứng tham gia tích cực,

như: mô hình thanh niên tự quản, CLB sau cai, CLB tuổi trẻ trong phòng

chống các tội phạm và tệ nạn xã hội; mô hình thanh niên làm kinh tế giỏi, mô

hình thanh niên tham gia các công trình phát triển KT-XH ở địa phương (công

trình giao thông bê tông nông thôn và giao thông nội đồng; công trình trồng

cây xanh; mô hình thắp sáng đường quê; công trình tôn tạo nghĩa trang liệt sĩ;

nhà tình nghĩa; mô hình nâng bước em đến trường... Thông qua đó giúp cho

nhiều thanh niên được trang bị nhiều kiến thức và các kỹ năng sống, được đào

tạo nghề cơ bản để lập thân – khởi nghiệp; cũng như thông qua đó giúp nhiều

thanh niên ý thức được nghĩa vụ công dân, tự nguyện viết đơn nhập ngũ để

phục vụ quân đội... Tuy vậy, một số mặt vấn đề đặt ra hiện nay: (1) Sự nhận

thức về vị trí vai trò của thanh niên của một bộ phận cán trên địa bàn Thăng

Bình còn chưa đồng bộ, dẫn đến sự điều hành quản lý ở một số đơn vị còn

chưa đúng mức, biểu thị là vẫn có tình trạng khoán trắng cho tổ chức Đoàn

Thanh niên cấp huyện, cấp xã và Hội liên hiệp thanh niên; (2) Trong khi cán

bộ, công chức làm công tác đoàn thanh niên chủ yếu là kiêm nhiệm thì công

tác phối hợp giữa các phòng ban liên quan và một số đoàn thể cũng chưa

đồng bộ, thiếu chặt chẽ và vai trò trách nhiệm của cơ quan nhà nước còn chưa

4

rõ trong quá trình tổ chức thực hiện Luật Thanh niên; (3) Thiếu một số văn

bản chính sách cụ thể dành cho đối tượng thanh niên ở từng ngành, lĩnh vực.

Với lý do cấp thiết trên, tác giả đăng ký chọn nghiên cứu đề tài “Quản

lý nhà nước về công tác thanh niên từ thực tiễn Huyện Thăng Bình, tỉnh

Quảng Nam” để thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hiến pháp -

Luật hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:

Nghiên cứu thanh niên và lĩnh vực quản lý nhà nước về công tác thanh

niên vốn dĩ đã được khá nhiều nhà chính trị, nhà quản lý và giới khoa học

nghiên cứu. Tiêu biểu có:

Tác giả Lê Duẩn với Sách “Thanh niên với cách mạng, xã hội chủ

nghĩa”, do Nxb. Thanh niên ấn hành năm 1978, Hà Nội; Sách “Tuổi trẻ anh

hùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, do Nxb. Sự

Thật ấn hành năm 1980, Hà Nội,... Hai tài liệu này đã trình bày khái quát có

hệ thống về quá trình ra đời và phát triển trưởng thành của những thế hệ thanh

niên nước ta; khẳng định vai trò đóng góp quan trọng của thanh niên trong

lịch sử dân tộc ta; qua đó xác nhận thanh niên là lực lượng tiên phong đi đầu

trong hoạt động sự nghiệp cách mạng.

Liên quan đến công tác thanh niên và lĩnh vực quản lý nhà nước về công

tác thanh niên, có nhiều công trình tài liệu nghiên cứu, điển hình như:

- Sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên trong cách mạng

Việt Nam” của tác giả Trần Quy Nhơn, do Nxb Thanh niên ấn hành năm

2004, Hà Nội.

- Luận án tiến sĩ ngành lịch sử năm 2001: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về

vai trò của thanh niên và sự vận dụng của Đảng Cộng Sản Vỉệí Nam trong

công cuộc xây dựng đất nước giai đoạn 1975 - 1996” của tác giả Trần Thị

Nhơn, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

5

- Luận văn thạc sĩ ngành lịch sử năm 2002: “Đảng Cộng sàn Việt Nam

lãnh đạo công tác thanh niên trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Tô Thành

Phát, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

- Tác giả Quang Vinh với tác phẩm sách “Hồ Chí Minh về giáo dục và

tổ chức thanh niên”, do Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành năm 2000, Hà Nội.

- Đề tài năm 1998: “Thanh niên tỉnh Cà Mau: Thực trạng, giải pháp và

chính sách đối với thanh niên trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội”

của tác giả Phạm Văn Uýnh làm chủ nhiệm.

- Bài viết “tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thanh niên và công tác thanh

niên” của tác giả Hồ Đức Việt đăng Báo Tiền Phong năm 2011.

- Bài viết “Quản lý nhà nước về công tác thanh niên hiện nay” của tác

giả Nguyễn Hồng Kiên, đăng trên trang Website: http://tochucnhanuoc.gov.vn

cập nhật ngày 10/7/2013.

- Cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về thanh

niên và công tác thanh niên” , Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, năm 2008.

Công trình này được sưu tầm từ Hồ Chí Minh toàn tập, Văn kiện Đảng toàn

tập, các văn kiện khác của Đảng nhằm giúp nghiên cứu một số bài viết, lời

dạy của Bác và Đảng đối với thanh niên.

- Bài viết “Chính sách phát triển thanh niên trong thời kỳ đổi mới và

kiến nghị sửa đổi Luật Thanh niên” của Ths. Lê Thị Hương Thủy (Viện

Nghiên cứu lập pháp), đăng trên Website: http://thanhtravietnam.vn/ cập nhật

ngày 28/4/2020.

- Bài viết “Đổi mới sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác thanh niên

trong thời kỳ mới” của TS. Nguyễn Văn Hùng (Hội đồng Lý luận Trung

ương), đăng trên Website: http://hdll.vn/ cập nhật ngày 18/3/2021.

6

- Bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác bồi dưỡng thanh niên”

của tác giả Bùi Hoàng Tùng (Phó Bí thư Đoàn Khối các cơ quan TW), đăng

trên Website: http://dukcqtw.dcs.vn/ cập nhật ngày 18/3/2021.

Các tài liệu sách, báo, tạp chí và các công trình nghiên cứu được đề cập

trên, về cơ bản đã xác nhận vai trò rất quan trọng của thanh niên trong đóng

góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong lịch sử phát triển đất

nước. Mặt khác, nhiều công trình nghiên cứu đã góp phần hệ thống hóa các

quan điểm của Đảng về công tác thanh niên. Tuy vậy, nghiên cứu công tác

thanh niên ở góc nhìn quản lý nhà nước thì chưa có công trình nào nghiên

cứu có hệ thống, chuyên sâu – nhất là đề cập những nội dung quản lý nhà

nước đối với công tác này...

Từ đây cho thấy, việc nghiên cứu đề tài này không có sự trùng lặp với

những công trình trước đó đã công bố; cũng như đối với một địa bàn cụ thể tại

huyện Thăng bình (Quảng Nam).

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề xuất phương hướng và các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả,

hiệu lực quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn huyện Thăng

Bình hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Một là, hệ thống hóa làm rõ hơn về một số vấn đề lý luận quản lý nhà

nước về công tác thanh niên.

Hai là, phân tích tình hình quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên

địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Ba là, đánh giá làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về công tác thanh

niên trên địa bàn huyện Thăng Bình và các vấn đề hạn chế/ bất cập đang đặt

ra.

7

Bốn là, đề xuất phương hướng, giải pháp góp phần nâng cao hiệu lực,

hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thanh niên tại huyện Thăng Bình hiện

nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Quản lý nhà nước về công tác thanh niên tại huyện Thăng Bình, tỉnh

Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Quản lý nhà nước về công tác thanh

niên.

- Phạm vi không gian nghiên cứu: Tại huyện Thăng Bình (Quảng Nam).

- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Chủ yếu từ 2015 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên các phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự quản lý nhà nước bằng pháp luật, cải cách

nền hành chính nhà nước,…

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được luận văn sử dụng, đó là:

Phương pháp phân tích văn bản tài liệu, lịch sử lôgic được sử dụng

nhằm hệ thống hóa những chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta và

tư tưởng của Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên.

Phương pháp phân tích – tổng hợp, thống kê, so sánh … được sử dụng

nhằm đánh giá quá trình quản lý nhà nước về công tác thanh niên chủ yếu từ

năm 2015 tới nay.

8

6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài:

6.1. Về mặt lý luận

Luận văn hệ thống hóa nhằm xác định rõ hơn một số cơ sở lý luận quản

lý nhà nước về công tác thanh niên.

6.2. Về mặt thực tiễn

Luận văn góp phần làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về công tác

thanh niên trên địa bàn Huyện Thăng Bình (cả kết quả đạt được và vấn đề hạn

chế đặt ra). Qua đó cung cấp các luận cứ thực tiễn, để đưa ra các kiến nghị đề

xuất giải pháp nhằm đóng góp vào việc khắc phục mặt hạn chế/ bất cập trong

quá trình quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở huyện Thăng Bình hiện

nay.

Đồng thời, các đề xuất này còn góp phần vào việc tăng cường vai trò

lãnh đạo của cấp ủy Đảng và nâng cao năng lực chính quyền trong quản lý

điều hành về công tác thanh niên ở huyện Thăng Bình và các địa phương có

đặc điểm tương đồng; cũng như góp phần hoàn thiện các văn bản pháp luật về

công tác thanh niên.

7. Kết cấu của luận văn:

Bên cạnh mục mở đầu, mục kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố

cục nội dung của luận văn gồm có 03 chương sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về công tác thanh

niên

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa

bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về

công tác thanh niên.

9

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NUỚC VỀ CÔNG TÁC

THANH NIÊN

1.1. Quản lý nhà nước về công tác thanh niên

1.1.1. Thanh niên và công tác thanh niên

1.1.1.1. Khái niệm thanh niên

Trong xã hội, thanh niên là một bộ phận đông đảo của cộng đồng dân

cư, những người trong độ tuổi thanh niên (ở Việt Nam và phần lớn các nước

trên thế giới đều tính độ tuổi thanh niên từ 15 - 35) chiếm một tỷ lệ đáng kể.

Theo Liên hợp quốc, thanh niên là đội ngũ những người từ 15 – 24 tuổi.

Theo pháp luật thực định của Nhà nước ta, tại Điều 1 thuộc Chương I

của Luật Thanh niên năm 2020 (Luật số: 57/2020/QH14): Thanh niên là công

dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi.

Như vậy, thanh niên là lực lượng có độ tuổi trưởng thành (từ 16 - 30

tuổi) gắn liền với sự phát triển tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh về mọi mặt.

Chính với độ tuổi sức trẻ trưởng thành này, gắn liền với sự phát triển

mọi mặt tương đối hoàn chỉnh mà trong mọi tiến trình lịch sử cách mạng dưới

sự lãnh đạo của Đảng ta, thanh niên là lực lượng xung kích, tiên phong với: ý

chí Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh; tinh thần “Năm xung phong” và “Ba sẵn

sàng”; chương trình "Khi tôi 18"; các phong trào “Tuổi trẻ Việt Nam học tập

và làm theo lời Bác”,“Sáng tạo trẻ ”, “Xung kích trong phát triển kinh tế - xã

hội và Bảo vệ Tổ quốc”, "Thanh niên cùng chung tay xây dựng nông thôn

mới”... , nên họ đều đóng vai trò tích cực và rất quan trọng đối với sự phát

triển của xã hội cả trong thời chiến và thời bình, cả trong quá khứ, hiện tại và

tương lai.

Hiện nay, thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, xung kích, sáng tạo, đi

đầu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN;

10

có vai trò quan trọng trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, hội nhập quốc tế

và xây dựng CNXH. (Khoản 1, Điều 4 của Luật Thanh niên năm 2020)

1.1.1.2. Công tác thanh niên

Công tác thanh niên là một loại hoạt động xã hội hàm chứa sự tác động

qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể xã hội và thanh niên, nhằm đáp ứng nhu cầu

phát triển của thanh niên và yêu cầu phát triển của xã hội.

Tại Điều 4 ở Chương I thuộc Nghị định 120/2007/NĐ-CP ngày 23 tháng

7 năm 2007 về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh niên nêu rõ:

Công tác thanh niên là những hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội để

giáo dục, bồi dưỡng, tạo mọi điều kiện môi trường thuận lợi cho thanh niên

nỗ lực phấn đấu và trưởng thành; đồng thời phát huy vai trò tiên phong xung

kích của thanh niên, mở sức sáng tạo và tiềm năng to lớn của họ trong công

cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Công tác thanh niên theo đó gắn liền với những giải pháp và phương

thức tổ chức thực hiện có sự phân cấp - phân công - phối hợp giữa nhiều chủ

thể quản lý để tạo các tác động tích cực trong quá trình tổ chức, bồi dưỡng,

đào tạo và phát huy vị thế, vai trò thanh niên.

1.1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về

thanh niên

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa

Mác - Lênin về vai trò thanh niên và công tác thanh niên trong điều kiện nước

ta. Nó được thể hiện đậm nét trong cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách

mạng của Người, thể hiện ra ở rất nhiều bài viết, tác phẩm, thư gửi và ngay cả

trong các buổi tiếp xúc gặp gỡ nói chuyện với thanh niên, thiếu niên, nhi

đồng.

Ngay sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945, Hồ Chí Minh đã chỉ

dẫn: “Nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, là một phần lớn do thanh niên

11

”[16, tr 84]. Nên đối với nhiệm vụ kiến quốc, Hồ Chí Minh đã xác định thanh

niên có vai trò mang tính quyết định khi chỉ rõ: “Trong công cuộc kiến thiết

đó, nước nhà trông mong và chờ đợi ở các cháu rất nhiều”; và “Việt Nam có

được vẻ vang và sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là

nhờ phần rất lớn ở công học tập của các cháu”[16, tr 61]. Đúng vậy, thanh

niên là động lực chủ yếu của cách mạng, là chủ nhân tương lai của đất nước,

nên trong mọi thời kỳ cách mạng Việt Nam: “Đâu cần thanh niên có, việc gì

khó có thanh niên”.

Đảng ta đã kế thừa và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư

tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đánh giá vai trò thanh niên, xây dựng

Đoàn TNCS và tổ chức phong trào thanh niên Việt Nam. Trải qua nhiều Đại

hội Đảng, nhấn mạnh vai trò thanh niên rất quan trọng trong công cuộc xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, điển hình là tại Nghị quyết TW 7

(khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên ở

thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, Đảng ta khẳng định: Thanh niên là

rường cột của nước nhà, là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng tiên

phong xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, một

trong các nhân tố quyết định đến sự thành bại của sự nghiệp CNH,HĐH đất

nước và hội nhập quốc tế, xây dựng CNXH. Đội ngũ thanh niên cần đặt vị trí

của họ ở trung tâm của chiến lược giáo dục, bồi dưỡng nguồn nhân lực và

phát huy nhân tố con người. Việc chăm lo đầu tư phát triển thanh niên không

chỉ là động lực, mà còn là mục tiêu đảm bảo cho sự phát triển ổn định và bền

vững của quốc gia. Nhà nước quản lý công tác thanh niên trên cơ sở thể chế

hoá đường lối của Đảng về công tác thanh niên thành hệ thống chính sách

pháp luật, chiến lược, đề án, quy hoạch, chương trình hành động và các kế

hoạch phát triển KT-XH, an ninh quốc phòng của các cấp ngành theo nhiệm

kỳ và hàng năm.

12

Với tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta đã nhìn nhận một

cách xác thực về vị trí, vai trò của thanh niên và các vấn đề của thanh niên

trong quá trình đấu tranh cách mạng cũng như về tiến trình phát triển lịch sử

của xã hội Việt Nam. Đánh giá cao và sâu sắc nhất về vai trò của thanh niên,

đây là tiền đề hết sức quan trọng để vạch ra đường lối, chiến lược có nội dung

giải pháp giáo dục, bồi dưỡng, quản lý thanh niên thành lực lượng chính trị

hùng hậu kế tục sự nghiệp cách mạng “vừa hồng vừa chuyên”như Bác đã

dạy.

1.1.2. Nhận thức về quản lý nhà nước công tác thanh niên

1.1.2.1.. Quan niệm, đặc điểm

Theo tác giả Nguyễn Vĩnh Oánh: Quản lý nhà nước về công tác thanh

niên là các hoạt động lập pháp, hoạt động lập quy của các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền nhằm chế định ra các quy định về công tác thanh niên [37,

tr.l]. Với tác giả Vũ Trọng Kim, quản lý nhà nước về công tác thanh niên đó

là hoạt động xây dựng thể chế về thanh niên, là sự quản lý của cơ quan nhà

nước theo chế định pháp luật, chính sách [37, tr.l]. Với tác giả Vũ Đăng Minh

(Bộ Nội vụ), quản lý nhà nước đó là quá trình tác động của hệ thống cơ quan

nhà nước về công tác thanh niên bằng luật pháp, chính sách [37, tr.2]… Từ

đây có thể xác định, quản lý nhà nước về công tác thanh niên là việc Nhà

nước thể chế hoá đường lối của Đảng về thanh niên trở thành hệ thống chính

sách pháp luật, đó là công việc ban hành hệ thống các văn bản pháp luật,

hoạch định các chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch phát triển thanh

niên, nhằm bồi dưỡng, giáo dục và tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho

thanh niên nỗ lực phấn đấu để trưởng thành và cống hiến, vì sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Hơn nữa, quản lý nhà nước về công tác thanh niên, đó là: hoạt động,

điều hành của Nhà nước, về sự phối hợp các cơ quan, bộ máy hoặc tổ chức

13

đoàn thể liên quan tới công tác thanh niên… (tác giả Nguyễn Vĩnh Oánh) [37,

tr.1]. Vì vậy, quản lý nhà nước về công tác thanh niên không chỉ dừng lại ở

các hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, mà nó yêu cầu về sự phối hợp

đồng bộ, chặt chẽ của hệ thống chính trị các cấp. Nhà nước thực thi chức năng

quản lý về công tác thanh niên trên cơ sở của hoạt động phối hợp của các chủ

thể và huy động các nguồn lực thực hiện, nhất là trách nhiệm tham gia của các

tổ chức, cá nhân và cộng đồng xã hội đối với công tác thanh niên; kết hợp hài

hòa giữa phương pháp vận động, thuyết phục với phương pháp hành chính

trong công tác thanh niên hiện nay.

Như vậy: Quản lý nhà nước về công tác thanh niên là một dạng quản lý

xã hội tổng hợp, mang tính quyền lực nhà nước đối với thanh niên; là quá

trình tác động có tính hướng đích của hệ thống các cơ quan nhà nước đối với

công tác thanh niên và thanh niên bằng hệ thống công cụ luật pháp, chính

sách, cơ chế vận hành và tổ chức bộ máy để thực hiện có hiệu lực, hiệu quả

công tác thanh niên, nhằm tạo lập thuận lợi về môi trường kinh tế, chính trị,

văn hóa, xã hội trong việc định hướng cho thanh niên học tập, rèn luyện để

không ngừng trưởng thành mọi mặt và hoàn thiện nhân cách, phát huy mọi

tiềm năng lợi thế đóng góp vào sự nghiệp đổi mới đất nước.

Theo đó, quản lý nhà nước về công tác thanh niên có các đặc điểm chủ

yếu:

Một là,, chủ thể QLNN là hệ thống các cơ quan công quyền trong bộ

máy nhà nước được tổ chức chặt chẽ để thực hiện chức năng QLNN đối với

công tác thanh niên; đối tượng quản lý không chỉ là thanh niên mà còn là các

chủ thể xã hội trực tiếp hay gián tiếp tác động đến thanh niên và các chủ thể

xã hội tiến hành công tác thanh niên;

Hai là, các cấp, các ngành, các tổ chức đều có chức năng, nhiệm vụ tiến

hành công tác thanh niên phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Nói

14

cách khác, các ngành căn cứ vào nhiệm vụ, chức năng của mình để tiến hành

công tác thanh niên thông qua việc ban hành, triển khai thực hiện, giám sát

thực hiện và xử lý các vi phạm luật pháp, chính sách thanh niên hoặc liên

quan đến thanh niên. Bằng chính sách, luật pháp, cơ chế, tổ chức bộ máy và

nguồn lực, Nhà nước quản lý, điều phối các chủ thể xã hội trong quá trình tiến

hành thực hiện công tác thanh niên. QLNN đối với công tác thanh niên thông

qua các chủ thể xã hội hoặc có sự tham gia của các chủ thể xã hội như: Đoàn

TNCS Hồ Chí Minh, các tổ chức chính trị - xã hội khác và các đoàn thể nhân

dân.

Ba là, QLNN đối với công tác thanh niên là một dạng quản lý đối với

một lực lượng xã hội cụ thể, mà các vấn đề của nó liên quan trực tiếp đến mọi

mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nên nó là một dạng quản lý tổng hợp -

đa diện dưới sự lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi cần phải có sự phối hợp hài hòa,

thống nhất cao giữa các ngành, giữa các bộ phận trong cùng một ngành, giữa

các cấp, giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện công tác thanh niên. Điều

này cũng quy định chức năng quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên

được thực hiện thông qua hoạt động phối hợp, liên kết và huy động sự tham

gia có trách nhiệm của các tổ chức, các cộng đồng xã hội trong công tác thanh

niên với các nguồn lực có thể.

Bốn là, QLNN về công tác thanh niên không chỉ là quá trình áp dụng các

chế định pháp luật bắt buộc phải thực hiện đối với thanh niên và tổ chức

thanh niên, mà do đặc thù lứa tuổi đặt ra yêu cầu khách quan áp dụng quá

trình vận động, thuyết phục, tư vấn, hướng dẫn và giáo dục (Mặc dù là chức

năng và nhiệm vụ của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về công tác thanh

niên có sự khác biệt khá rõ so với tính chất hoạt động của những tổ chức, cơ

quan tư vấn và phối hợp liên ngành trong quá trình thực hiện chính sách, pháp

luật về thanh niên). Nói cách khác, trong quản lý nhà nước đối với công tác

15

thanh niên, bên cạnh việc sử dụng phương pháp mệnh lệnh hành chính, Nhà

nước còn sử dụng phương pháp giáo dục, thuyết phục, tư vấn và vận động.

Việc kết hợp giữa phương pháp mệnh lệnh hành chính (phương pháp thứ yếu)

với phương pháp vận động, giáo dục thuyết phục, tư vấn (phương pháp chủ

yếu) một cách hài hòa cũng là đặc thù của quản lý nhà nước về công tác thanh

niên ở Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, trong thực tiễn cũng cho thấy, xuất phát

từ đặc điểm của hệ thống chính trị và vai trò rất quan trọng của thanh niên

cũng như công tác thanh niên, nên nhà nước chỉ có thể thực hiện tốt chức

năng quản lý thanh niên thông qua sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với nhiều

chủ thể xã hội khác, nhất là với tổ chức thanh niên và các đoàn thể.

1.1.2.2. Vai trò của quản lý nhà nước về công tác thanh niên

Hiện nay, vai trò quan trọng của quản lý nhà nước về công tác thanh

niên vừa là xuất phát từ tính tất yếu phát triển của thanh niên, vừa là yêu cầu

của sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Vai trò cụ thể của quản lý nhà

nước về công tác thanh niên, đó là:

Một là: Tạo lập hệ thống pháp luật, chính sách ổn định, bình đẳng, thuận

lợi cho thanh niên được học tập, rèn luyện và phát triển toàn diện về mọi mặt;

xây dựng môi trường văn hóa, xã hội và bảo đảm các điều kiện thuận lợi, phù

hợp trong tổ chức thực hiện công tác thanh niên.

Hai là: Định hướng và hướng dẫn sự vận động, phát triển các phong trào

thanh niên. Đưa ra phương hướng và giải pháp để giải quyết các vấn đề đặt ra

trong công tác thanh niên, nhằm phát huy các nguồn lực và sức sáng tạo

của lực lượng thanh niên đối với sự phát triển đất nước.

Ba là: giúp hình thành và tổ chức, sắp xếp hoàn thiện hệ thống bộ máy

quản lý Nhà nước cùng với việc sắp xếp, kiện toàn (đào tạo và đào tạo lại) đội

ngũ cán bộ QLNN về công tác thanh niên từ trung ương đến cơ sở.

16

Bốn là: Kiểm tra, kiểm soát và xử lý các vi phạm của các chủ thể tham

gia nhằm phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm chính sách, pháp

luật hiện hành liên quan đến công tác thanh niên, kể cả các cơ quan và cán bộ,

công chức QLNN liên quan đến lĩnh vực này – nếu có dấu hiệu sai phạm.

1.2. Chủ thể, nội dung quản lý nhà nước về công tác thanh niên

1.2.1. Chú thể quản lý nhà nước về công tác thanh niên

Chính phủ thống nhất hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh

niên.

Bộ Nội vụ có trách nhiệm tham mưu giúp Chính phủ thống nhất quản lý

nhà nước đối với thanh niên, Bộ Nội vụ thực hiện những nhiệm vụ sau:

Một là, xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về thanh niên theo

thẩm quyền, hoặc trình cấp có thẩm quyền để ban hành; xây dựng chiến lược

phát triển thanh niên theo giai đoạn phát triển quốc gia; xây dựng và đề xuất

Đảng và Nhà nước ta về chính sách phát triển thanh niên.

Hai là, các hoạt động hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra trong quản lý nhà

nước về công tác thanh niên đối với hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước và đội

ngũ nhân sự; tổ chức bồi dưỡng, đào tạo về nghiệp vụ chuyên môn cho cán

bộ, công chức ở cấp bộ, cấp tỉnh về công tác lĩnh vực này; thực hiện những

hoạt động đối ngoại nhà nước về công tác thanh niên.

Ba là, chủ trì các hoạt động phối hợp Uỷ ban quốc gia về thanh niên

Việt Nam, Trung ương Đoàn và những tổ chức đoàn thể trong quá trình thực

hiện quản lý nhà nước về công tác thanh niên.

Bốn là, kiểm soát, kiểm tra, thanh tra, giải quyết các khuyến nại, tố cáo

và xử lý vi phạm trong quá trìnhthực hiện pháp luật, chính sách về thanh niên

của các đơn vị bộ ngành và địa phương; tổng hợp các báo cáo định kỳ số liệu

thống kê của các bộ ngành và địa phương; chủ trì sơ - tổng kết về quản lý nhà

nước về công tác thanh niên trên cả nước.

17

- Năm là, góp ý hoàn thiện những dự thảo văn bản pháp luật, chính sách

về thanh niên do các cơ quan có thẩm quyền gửi tới; và thực hiện những

nhiệm vụ khác do Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã phân công.

Sáu là, tiến hành hoạt động thẩm định và trình lên cấp có thẩm quyền

trong việc xem xét khen thưởng cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong

quá trình quản lý nhà nước về công tác thanh niên của bộ ngành, địa phương.

Đối với các Bộ và cơ quan ngang Bộ khác theo luật định, có các nhiệm

vụ sau:

Một là, căn cứ vào nội dung Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam,

bộ ngành thiết kế chương trình, đề án phát triển thanh niên và các kế hoạch

triển khai thực hiện những chương trình, đề án này; xây dựng và thực hiện

pháp luật, chính sách về thanh niên thuộc chức năng quản lý nhà nước theo

ngành, lĩnh vực của Bộ ngành và được Chính phủ phân công; thực hiện việc

lồng ghép những mục tiêu về phát triển thanh niên trong quá trình hoạch định

và thực thi chiến lược, các chương trình, đề án và các kế hoạch phát triển KT-

XH của bộ ngành mình. Trong đó, cần xác định cụ thể nội dung hoạt động,

xác định cơ chế, chính sách và kèm theo các điều kiện để thực hiện được các

mục tiêu đã đề ra.

Hai là, tiến hành chỉ đạo và hướng dẫn cho các sở ngành trong hệ thống

quản lý của tổ chức mình để thực thi các nhiệm vụ được phân công trong các

chương trình đề án phát triển thanh niên của ngành lĩnh vực và của địa

phương.

Ba là, các bộ ngành thực hiện sự phân công lãnh đạo phụ trách công tác

thanh niên và bố trí nhân sự công chức thuộc bộ ngành mình để tổ chức thực

hiện các nhiệm vụ trong quản lý nhà nước về công tác thanh niên. Tổ chức

thực hiện các nhiệm vụ, đề án, chương trình dự án về phát triển thanh niên

được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ giao. Trong đó, phải xác định cụ thể

18

kinh phí thực hiện của bộ, ngành để tổng hợp vào ngân sách hàng năm nhằm

bảo đảm nguồn lực thực hiện pháp luật, chính sách về thanh niên.

Bốn là, tổ chức tập huấn bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn cho đội

ngũ nhân sự công chức của các bộ ngành phụ trách nhiệm vụ quản lý nhà

nước về công tác thanh niên. Thực hiện định kỳ về chế độ thống kê, báo cáo

công tác thanh niên theo sự hướng dẫn của Bộ Nội vụ; chủ trì các hoạt động

sơ - tổng kết về hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở phạm vi

của bộ ngành.

Năm là, khen thưởng theo thẩm quyền của cấp bộ ngành; và trình đến

cấp có thẩm quyền trong việc xem xét khen thưởng các cá nhân, tập thể của

bộ, ngành khi họ đạt thành tích xuất sắc về các nhiệm vụ quản lý nhà nước về

công tác thanh niên.

Theo sự phân cấp của Chính phủ, UBND các cấp tổ chức thực thi các

nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên tại địa phương mình.

Đối với cấp tỉnh:

Thứ nhất là, tổ chức thực hiện những văn bản hướng dẫn của cấp Trung

ương về công tác thanh niên. Đồng thời, cấp tỉnh chỉ đạo và hướng dẫn cho

cấp huyện triển khai thực hiện.

Hai là, căn cứ nội dung và các hướng dẫn của cấp Trung ương và bám

sát các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cấp tỉnh xây dựng chương trình, đề

án và các kế hoạch phát triển thanh niên. Hoạch định và thực hiện pháp luật,

chính sách về thanh niên thuộc chức năng và thẩm quyền quản lý nhà nước

của cấp tỉnh.

Ba là, lồng ghép những mục tiêu của công tác thanh niên trong hoạch

định và thực hiện chiến lược, đề án, chương trình và các kế hoạch cụ thể của

tỉnh trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, phải xác định rõ các nội dung

19

hoạt động cụ thể, chính sách, cơ chế và kèm theo điều kiện để thực hiện được

các mục tiêu dự kiến.

Bốn là, tham gia các đợt tập huấn bồi dưỡng hàng năm về nghiệp vụ

chuyên môn do Bộ Nội vụ tổ chức. Cấp tỉnh chủ trì và điều phối việc tổ chức

các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ, công chức phụ trách

nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn tỉnh. Đồng

thời, thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về công tác thanh niên do UBND

cấp tỉnh giao.

Năm là, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khuyến nại, tố cáo và xử lý vi

phạm trong; việc thực hiện các chính sách, pháp luật về thanh niên của các sở,

ban, ngành và huyện trên địa bàn tỉnh; Khen thưởng theo thẩm quyền và trình

cấp có thẩm quyền xem xét khen thưởng với những tập thể và cá nhân có

thành tích xuất sắc trong công tác quản lý nhà nước về thanh niên của tỉnh.

Sáu là, thực hiện chế độ báo cáo định kỳ về thống kê số liệu của cấp tỉnh

theo quy định của Bộ Nội vụ; cấp tỉnh chủ trì sơ - tổng kết quá trình quản lý

nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn tỉnh.

Đối với cấp huyện:

Một là, tổ chức thực hiện những văn bản hướng dẫn của cấp tỉnh về lĩnh

vực quản lý nhà nước về công tác thanh niên; cấp huyện chỉ đạo cấp xã trực

thuộc thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên. Cấp huyện

phải tham gia các đợt tập huấn bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn do Sở

Nội vụ tổ chức.

Hai là, căn cứ nội dung hướng dẫn của cấp tỉnh và bám sát nhiệm vụ

chính trị của địa phương mình, cấp huyện xây dựng các kế hoạch phát triển

của công tác thanh niên trên địa bàn mình; tổ chức thực hiện pháp luật, chính

sách về thanh niên thuộc chức năng và thẩm quyền quản lý nhà nước của cấp

huyện trên địa bàn. Lồng ghép mục tiêu về phát triển thanh niên trong hoạch

20

định và thực thi các kế hoạch hàng năm của huyện về phát triển kinh tế - xã

hội, trong đó phải xác định cụ thể nội dung hoạt động, chính sách, cơ chế và

kèm theo điều kiện để thực hiện được các mục tiêuđã vạch ra.

Ba là, cấp huyện chủ trì các hoạt động phối hợp giữa các phòng ban, các

đoàn thể nhân dân trên địa bàn để triển khai nhiệm vụ quản lý nhà nước về

công tác thanh niên.

Bốn là, kiểm soát, kiểm tra, thanh tra, giải quyết các khiếu nại - tố cáo

và xử lý vi phạm trong quá trình thực thi pháp luật, chính sách về thanh niên

của các xã, phường, thị trấn thuộc cấp huyện. Cấp huyện đề nghị các cấp có

thẩm quyền khen thưởng các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong quá

trình quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn cấp huyện.

Năm là, cấp huyện thực hiện định kỳ về chế độ báo cáo thống kê số liệu

theo quy định của Sở Nội vụ; cấp huyện chủ trì sơ - tổng kết các hoạt động

quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở cấp mình.

1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về công tác thanh niên

Căn cứ vào nội dung quản lý nhà nước về thanh niên tại Điều 36 của

Luật Thanh niên 2020 ((Luật số: 57/2020/QH14)) có hiệu lực thi hành từ

01/01/2021:

(1). Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và

tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về thanh niên; quy định các

biện pháp để thực hiện chính sách đối với thanh niên;

(2). Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, chương trình,

kế hoạch phát triển thanh niên;

(3). Thực hiện công tác thống kê, thông tin, báo cáo về tình hình thanh

niên và việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên;

(4). Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước

về thanh niên;

21

(5). Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh

niên;

(6). Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến

nghị; sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng trong việc thực hiện chính sách,

pháp luật đối với thanh niên;

(7). Hợp tác quốc tế về thanh niên;

(8). Ban hành chính sách hỗ trợ, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia

thực hiện chính sách đối với thanh niên.

Trong đó, nội dung quản lý nhà nước về công tác thanh niên được tập

trung vào:

Một là, ban hành và tổ chức triển khai thực hiện những văn bản quy

phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, chương trình, đề án về công tác thanh

niên. Căn cứ tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, nghị quyết của Đảng ta

về công tác thanh niên qua các kỳ Đại hội Đảng, nhà nước thể chế hóa thành

pháp luật, chính sách, chiến lược, đề án, chương trình phát triển thanh niên và

công tác thanh niên; đồng thời xác định rõ các nhiệm vụ phải thực hiện và

quy định trách nhiệm của các cấp ngành trong quản lý nhà nước về công tác

thanh niên. Cụ thể là: Quốc hội ban hành các văn bản luật về thanh niên và

công tác thanh niên, quyết định mức ngân sách dành cho công tác thanh niên

hàng năm và giám sát các cấp trong quá trình thực hiện pháp luật, chính sách

về công tác thanh niên. Đối với Chính phủ ban hành và chỉ đạo thực hiện

cũng như giám sát quá trình thực hiện các chính sách về phát triển thanh niên

và công tác thanh niên. Đối với các bộ ngành và cơ quan ngang bộ có trách

nhiệm hoạch định và thực hiện các chính sách về thanh niên tùy theo chức

năng, quyền hạn và nhiệm vụ đã được giao. UBND các cấp tổ chức thực hiện

quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở địa phương mình; đồng thời căn cứ

đặc điểm và tình hình thực tiễn của địa phương, UBND các cấp cụ thể hóa

22

chính sách về thanh niên và trình HĐND cùng cấp để thông qua trước khi

trình lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; UBND các cấp có trách

nhiệm tổ chức phối hợp với Đoàn Thanh niên và chỉ đạo những ngành trực

thuộc có chức năng phối hợp với Đoàn Thanh niên cùng cấp để tổ chức thực

hiện các đề án, chương trình về công tác thanh niên.

Hai là, hoạt động bồi dưỡng, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ phụ

trách công tác thanh niên là nội dung rất quan trọng. Để đề ra được chủ

trương và chính sách đúng đắn và phù hợp với các đối tượng là thanh niên,

yêu cầu đội ngũ cán bộ làm công tác này phải am tường những vấn đề về

thanh niên. Nên phải thường xuyên chú trọng bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán

bộ làm lĩnh vực này để đảm bảo tính chuyên sâu, phải thường xuyên nắm bắt

những vấn đề đặt ra trong thanh niên.

Ba là, kiểm soát, kiểm tra, thanh tra công tác thanh niên, giải quyết các

khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện pháp luật, chính

sách về thanh niên.

Bốn là, mọi hoạt động hợp tác quốc tế về công tác thanh niên phải theo

nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, phù hợp với luật pháp của mỗi

nước và thông lệ quốc tế. Nội dung của các hoạt động này gồm có: Xây dựng

và thực thi những dự án, chương trình hợp tác quốc tế về công tác thanh niên;

Tham gia ký kết gia nhập vào các tổ chức quốc tế và thực hiện theo các điều

ước quốc tế về công tác thanh niên đã quy định; Tiến hành hoạt động giao lưu

thanh niên, hỗ trợ trao đổi thông tin và mô hình, bài học kinh nghiệm về công

tác thanh niên.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về công

tác thanh niên

1.3.1. Yếu tố khách quan

23

Một là: Yếu tố kinh tế thị trường mà chủ yếu là do tác động tiêu cực từ

mặt trái của cơ chế thị trường đã và đang ảnh hưởng đến đời sống của thanh

niên, dẫn đến một bộ phận thanh niên không theo kịp cơ chế thị trường rơi

vào hoàn cảnh khó khăn như: tâm lý thực dụng để đạt lợi nhuận bằng mọi giá;

vấn đề thất nghiệp7, nghèo đói dẫn đến thanh niên đi làm ăn xa…

Hai là: Các yếu tố xã hội tác động đến đoàn kết tập hợp thanh niên rất

phức tạp và đan xen nhau. Điểm đáng chú ý nhất là nhận thức thay đổi và

không đúng với hệ thống thang giá trị và chuẩn mực xã hội, dẫn đến một bộ

phận không nhỏ thanh niên có hành vi vi phạm các quy tắc, chuẩn mực xã

hội. Đây là vấn đề phức tạp liên quan đến sự xuống cấp đạo đức và ứng xử

của một bộ phận thanh niên hiện nay.

Môi trường xã hội cũng tác động mạnh đến đoàn kết tập hợp thanh niên,

môi trường không trong sạch, lành mạnh sẽ là môi trường thuận lợi cho tệ nạn

xã hội phát sinh và phát triển gây khó khăn trong đoàn kết tập hợp thanh niên;

Các thiết chế xã hội như gia đình, nhà trường, xã hội bị lỏng lẻo, yếu kém,

thiếu bền vững cũng sẽ là nhân tố tác động không nhỏ đến thu hút thanh niên

vào tổ chức.

Ba là: Yếu tố văn hoá và hội nhập trong quá trình phát triển.

Trong cơ chế thị trường, yếu tố văn hoá và hội nhập tác động đến đoàn

kết tập hợp thanh niên chủ yếu là: Xu hướng trở lại phục hồi những hủ tục, tệ

nạn xã hội mang tính truyền thống trước đây; vấn đề giao lưu văn hoá trong

mở cửa và hội nhập bên cạnh quá trình tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân lại,

cũng diễn ra quá trình du nhập văn hoá không lành mạnh từ bên ngoài, tác

động đến thanh niên hiện nay.

1.3.2. Yếu tố chủ quan

Một là: Mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách có ảnh hưởng

quyết định đến việc mở đường thuận lợi hay chưa thuận lợi trong công tác

24

quản lý nhà nước về công tác thanh niên nói chung; cũng như xác lập vững

chắc hay chưa vững chắc đối với địa vị pháp lý hệ thống các cơ quan quản lý

nhà nước về công tác thanh niên nói riêng. Hiện nay, với hành lang pháp luật

hiện hành còn chưa đủ mạnh, thể chế cũng chưa hẳn là hoàn toàn minh bạch;

cùng với việc các VBQPPL – nhất là loại văn bản pháp quy còn rất nhiểu,

song đang thiếu đồng bộ, thậm chí còn chồng chéo. Nên gây ảnh hưởng

không nhỏ đến lực, hiệu quả của hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về

công tác thanh niên trong quá trình tổ chức và hoạt động. Ngoài ra, cơ chế xin

cho vẫn ngấm ngầm chi phối với một số biểu hiện của bệnh quan liêu giữa cơ

quan công quyền trong quản lý nhà nước.

Hai là: Yếu tố quản lý của Đoàn Thanh niên. Chất lượng một số tổ chức

đoàn cơ sở còn yếu kém, chất lượng cán bộ đoàn tuy có nâng lên nhưng vẫn

chưa theo kịp sự chuyển động trong nhận thức xã hội của thanh niên cũng như

yêu cầu tập hợp đoàn kết thanh niên trong giai đoạn tình hình mới. Đặc biệt là

trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ 4.0, hội nhập kinh

tế, quốc tế, công tác xây dựng, phát triển tổ chức đoàn, tập hợp thanh niên

trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài, khu

vực đô thị, nông thôn còn bất cập, hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu thực

tế. Các mô hình tập hợp đoàn kết thanh niên đã được phát triển, đổi mới để

phù hợp với từng đối tượng thanh niên, với nhu cầu, nguyện vọng của thanh

niên nhưng vẫn chưa theo kịp sự chuyển động nhanh chóng của thực tiễn.

25

Tiểu kết chương 1

Thanh niên vốn dĩ là lực lượng hùng hậu trong xã hội, đóng góp quan

trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Hiện nay, thanh

niên ngày càng có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, tiếp

thu kiến thức nhân loại, am hiểu khoa học công nghệ hơn trước, có tinh thần

và sức khoẻ tốt với thể trạng được nâng cao, luôn có hoài bảo và khát vọng

cống hiến vươn lên (không cam chịu lạc hậu và đói nghèo).

Quản lý nhà nước về công tác thanh niên được hiểu là hoạt động ban

hành và tổ chức thực hiện những văn bản quy phạm pháp luật và các chính

sách về thanh niên, nhằm đạt được mục tiêu của Đảng về giáo dục, bồi dưỡng

thế hệ trẻ và tạo môi trường điều kiện thuận lợi cho thanh niên phát triển,

phấn đấu và trưởng thành.

Chủ thể của quá trình quản lý nhà nước về công tác thanh niên, đó là:

Chính phủ; các Bộ và cơ quan ngang Bộ theo phân công của Chính phủ để

thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh niên; UBND các cấp

thực hiện chức năng này ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ.

Nội dung của quản lý nhà nước về công tác thanh niên gồm có: Ban

hành và tổ chức thực hiện những văn bản pháp luật, chính sách, chiến lược,

chương trình, đề án, kế hoạch về phát triển thanh niên và công tác thanh niên;

đào tạo và bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác này; Kiểm soát,

kiểm tra, thanh tra, giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong quá

trình thực hiện pháp luật, chính sách về thanh niên và công tác thanh niên;

Quản lý các hoạt động liên kết hợp tác quốc tế về công tác thanh niên.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả Hơn nữa, quá trình thực thi hiệu lực,

hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về công tác thanh niên, cần phải tính

toán hợp lý đối với các yếu tố khách quan và chủ quan là rất quan trọng, có ý

nghĩa quyết định.

26

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện

Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

2.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên

Huyện Thăng Bình thuộc tỉnh Quảng Nam, có trung tâm huyện là thị

trấn Hà Lam. Vị trí của huyện Thăng Bình nằm trong khoảng tọa độ từ

10807’ - 10803’ kinh độ Đông; và từ 1503’ - 15059’ vĩ độ Bắc. Phía Nam giáp

Tam Kỳ và huyện Phú Ninh; phía Bắc giáp huyện Duy Xuyên và Quế Sơn;

phía Tây giáp huyện Hiệp Đức và Tiên Phước; và phía Đông giáp biển Đông.

Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện 412,25 km2. Huyện có đơn vị hành

chính với 22 xã, thị trấn; tính đến ngày 25 tháng 01 năm 2019 (theo Quyết

định 131/QĐ-TTg về phê duyệt Danh sách số xã đặc biệt khó khăn ở vùng bãi

ngang ven biển, hải đảo của giai đoạn năm 2016 đến năm 2020), Thăng Bình

hiện còn 03 xã đặc biệt khó khăn, trong đó có 02 xã thuộc miền núi gồm 132

tổ, thôn với dân cư là 49.639 hộ.

Địa hình huyện Thăng Bình bao gồm: vùng đồng bằng trung du bán

sơn địa và vùng miền núi rừng rậm rạp, đất đai bạc màu khô cằn/ bị đá ong

hóa; vùng ven biển với đất cát trắng là chủ yếu. Trong đó, diện tích gò đồi và

vùng núi trọc hiện chiếm tỷ lệ 2/5 diện tích đất đai Thăng Bình.

Về khí hậu thời tiết, trong năm huyện Thăng Bình có 02 mùa rất rõ rệt.

Mùa mưa thường diễn ra từ tháng 9 của năm trước - tháng 02 của năm sau;

mùa khô từ tháng 02 - tháng 8. Do đó, thời tiết ở đây nắng nóng và mưa lớn

thường kéo dài, gây nên lụt, bão, hạn hán, làm tác động ảnh hưởng đáng kể

tới sản xuất và đời sống nhân dân. Thăng Bình có chiều dài >25 km bờ biển

27

chạy dọc theo các xã phía Đông của Thăng Bình, kéo theo vệt dải đất cát

trắng, sau lưng là núi Cao Ngạn và các núi kéo dài toàn huyện Thăng Bình ở

vùng cao bao bọc bên trong là đồng bằng, trung du và bán sơn địa cùng diện

tích rừng và gò đồi. Trước đây, huyện có nhiều sông suối (như: sông Trường

Giang, sông Ly Ly...), với nước chảy quanh năm từ các triền núi đổ về; song

theo thời gian năm tháng, một số đoạn của sông đã đổi dòng dẫn đến nước ở

sông Ly Ly và các suối vào mùa nắng thì cạn kiệt, còn sông Trường Giang thì

nước biển xâm thực làm ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của

người dân nơi đây.

Đối với giao thông đường bộ, bên cạnh các tuyến đường sắt Bắc - Nam

và quốc lộ 1A chạy qua địa phận huyện, Thăng Bình có quốc lộ 14E từ Cây

Cốc (thị trấn Hà Lam) đi Việt An, Tân An rồi đến Làng Hồi (huyện Phước

Sơn) giáp đường Hồ Chí Minh kết nối với Tây Nguyên; có đường Thanh Niên

đi dọc ven biển. Ngoài ra, Thăng Bình còn có các tuyến đường liên huyện,

liên xã và liên thôn; mà qua đó thuận lợi điều kiện để phát triển KT-XH của

huyện.

28

Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Thăng Bình

2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội

Từ nhiều năm qua, với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy và chính

quyền huyện Thăng bình; cùng với sự phối hợp của MTTQVN huyện, các

đoàn thể nhân dân và sự vào cuộc của các phòng ban từ huyện tới cấp xã và

sự nỗ lực vươn lên của nhân dân trong lao động sản xuất, nền kinh tế của

Thăng Bình đã đạt được nhiều kết quả nhất định. Tăng trưởng kinh tế đạt khá

theo từng năm với tổng giá trị sản xuất tăng dần: Năm 2020[26], giá trị sản

xuất ngành kinh tế ước đạt 9.445 tỷ đồng (giá so sánh 2010), đạt 74,87% so

với kế hoạch (Chỉ tiêu Nghị quyết là 12.615 tỷ đồng), tốc độ tăng trưởng giảm

khoảng 2,07%. Cơ cấu giữa các ngành kinh tế: Nông, lâm, ngư nghiệp - Công

29

nghiệp, xây dựng - Dịch vụ tương ứng là 21,21% - 43,09% - 35,7% (Năm

2019 là 16,45% - 37,3% - 46,25%; chỉ tiêu Nghị quyết năm 2020 đề ra là

14,8% - 37,2% - 48%). Thu nhập bình quân đầu người dự kiến đạt 41 triệu

đồng/người/năm. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng dần về tỷ trọng

công nghiệp - xây dựng, dịch vụ; sản xuất trong nông nghiệp cũng có hiệu

quả nâng lên. Huyện cũng đang đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Đề án phát

triển du lịch Thăng Bình trong giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2025, định

hướng tới năm 2030.

Tổng thu ngân sách năm 2020 là 1.532,847 tỷ đồng, đạt 135,06 % so

với toàn huyện giao, thu phát sinh kinh tế trên địa bàn huyện là 251,075 tỷ

đồng, đạt 60,97% dự toán (trong đó, huyện quản lý thu: 162,062 tỷ đồng, đạt

66,23%) thu bổ sung ngân sách cấp trên: 918,013 tỷ đồng đạt 128,01%. thu

chuyển nguồn 244,91 tỷ đồng.[26]

Về văn hóa xã hội, giáo dục đào tạo trên địa bàn huyện được quan tâm

và đảm bảo, nhất là phổ cập giáo dục. Tính đến cuối năm 2020, cả huyện

Thăng Bình có 71 trường đạt chuẩn quốc gia trong tổng số 73 trường, đạt

97,2%. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 85,88%, tăng 3,42% so

với năm 2019.

Kết quả năm 2020: 119/132 thôn, tổ đạt thôn, tổ văn hóa, đạt tỷ lệ

90,15% và 132/150 cơ quan đạt chuẩn văn hóa, đạt tỷ lệ 88%.

2.1.3. Đặc điểm đội ngũ thanh niên

Dân số huyện Thăng Bình 181.610 người, trong đó có 59.456 thanh

niên (có độ tuổi từ 16 - 35); đây là lực lượng lao động chủ yếu của Thăng

bình. Số thanh niên là đoàn viên trong tổ chức Đoàn với >7049 người. Huyện

Đoàn Thăng Bình hiện nay có 35 Đoàn cơ sở, trong đó: có 22 Đoàn cơ sở

thuộc khối cấp xã; 05 cơ sở đoàn thuộc khối trường học; 08 chi đoàn thuộc

khối cơ quan, doanh nghiệp; 34 cơ sở Hội (Uỷ ban Hội LHTN ở 22 xã và thị

30

trấn, ở 05 trường trung học phổ thông và ở 07 doanh nghiệp ngoài nhà nước)

với số hội viên thanh niên là 11.730 người.[23]

Bảng 2.1. Đặc điểm độ tuổi và giới tính của thanh niên

trên địa bàn huyện Thăng Bình

Tổng số Tỷ lệ Tỷ lệ Độ tuổi Nữ giới Nam giới (người) (%) (%)

59456 28301 31.155 47,60 52,40 Giới tính

31 - 35 6.701 41,29 9.530 58,71 16.231

26 - 30 8.739 48,67 9.217 51,33 17956

21 - 25 6.908 50,3 6.826 49,70 13734

15 - 20 5.953 51,60 5.582 48,40 11535

Nguồn tổng hợp từ: Báo cáo tổng kết hoạt động công tác của Huyện Đoàn

Thăng Bình từ năm 2016-2020

Với một lực lượng thanh niên hiện nay trên địa bàn huyện Thăng Bình

đạt tỷ lệ tương đối cao; đây là nguồn nhân lực trẻ dồi dào và giàu tiềm năng

của huyện nhà. Về cơ bản, lực lượng thanh niên Thăng Bình luôn có niềm tin

tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng - với nhiều hoài bão, khát vọng tha

thiết cống hiến cho đất nước và xã hội; bản thân họ đã có sự tự giác, tự

nguyện tham gia tích cực và gắn kết với các tổ chức Đoàn - Hội. Hơn nữa,

thanh niên huyện nhà ngày nay đã không ngừng trau dồi rèn luyện, học tập

nâng cao trình độ mọi mặt… Hiện có khá nhiều cán bộ là đoàn viên thanh

niên đã đạt nhiều thành tích xuất sắc trong học tập và lao động; nhiều chủ

doanh nghiệp trẻ, nhiều chủ trang trại và mô hình thanh niên điểnhình ở nhiều

lĩnh vực … Họ chính là lực lượng xã hội xung kích tiên phong trong xây dựng

và phát triển quê hương và đất nước. Cụ thể, một số mặt đạt được, đó là:

31

Quá trình xây dựng và phát triển KT-XH của huyện nhà, thanh niên

Thăng Bình có ý chí vươn lên, đã có sự trưởng thành khá nhanh trong lao

động - học tập, sáng tạo, năng động; phần lớn họ xung kích tình nguyện đóng

góp đáng kể sức mình phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển địa phương.

Thanh niên trên địa bàn huyện với đa số họ sống phụ thuộc vào hoàn

cảnh gia đình; tuy vậy phần lớn thanh niên trên địa bàn đã có sự nhận thức

chính trị tương đối tốt và có thái độ lập trường đúng đắn, định hướng được

nhiều giá trị phù hợp với xu hướng biến đổi và phát triển, họ từng bước khắc

phục hoàn cảnh để vươn lên, khả năng nhạy bén, có tính tự thân khởi nghiệp -

lập nghiệp, tham gia tích cực các phong trào hoạt động xã hội, đóng góp tích

cực cho công cuộc xây dựng kiến thiết quê hương và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Với chủ trương thực hiện nhất quán chương trình xây dựng nông thôn mới,

xây dựng văn minh đô thị và bảo đảm an sinh xã hội cũng như triển khai giải

pháp khắc phục hậu quả của dịch bệnh và thiên tai, đại bộ phận thanh niên

Thăng Bình đã vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp, họ

đã không quản ngại khó khăn để vượt lên trên hoàn cảnh, để tích cực tham gia

các hoạt động xã hội. Nhiều tài năng trẻ và tấm gương tiêu biểu xuất hiện

ngày càng nhiều trong học tập, rèn luyện, sản xuất, kinh doanh, phát triển

ngành nghề và công tác,...

Thanh niên trên địa bàn Thăng Bình hiện nay là công nhân, họ quan

tâm nhiều vào các vấn đề nghề nghiệp - việc làm. Trong quá trình lao động

sản xuất, họ phấn khởi, tham gia đóng góp đáng kể để hoàn thành chỉ tiêu sản

xuất - kinh doanh của một số doanh nghiệp làm ăn hiệu quả đóng trên địa bàn

huyện; cũng nhờ đó giúp cho đời sống thu nhập công nhân khá ổn định.

Thanh niên là công chức trong khối cơ quan hành chính - sự nghiệp, họ đều

có trình độ học vấn và có nghiệp vụ chuyên môn, có chí tiến thủ, phần lớn họ

năng động và sáng tạo trong công tác. Đối với thanh niên Thăng Bình trong

32

lực lượng vũ trang, họ là lực lượng luôn có nhận thức chính trị, xã hội đúng

đắn, sống có ý thức tổ chức kỷ luật, hăng hái rèn luyện và học tập, huấn luyện

chiến thuật đạt thành tích cao trong công tác; đồng thời họ luôn tham gia tích

cực và kịp thời các hoạt động tình nguyện ở những địa bàn nơi xảy ra bão lũ -

thiên tai. Đa phần thanh niên các tôn giáo ít sa ngã vào các tệ nạn xã hội, họ

tham gia tích cực các hoạt động tình nguyện và nhân đạo xã hội từ thiện.

Tuy vậy so với tiềm năng lợi thế của họ và yêu cầu nhiệm vụ phát triển

mới, thì còn không ít vấn đề đang đặt ra:

Một bộ phận thanh niên trên địa bàn huyện có trình độ học vấn còn

thấp và lười lao động, nên chưa có việc làm ổn định, nên gặp nhiều khó khăn

trong cuộc sống. Tâm lý, nếp nghĩ của một bộ phận thanh niên còn chịu sự chi

phối tâm lý tiểu nông, thiển cận... Hơn nữa, lực lượng thanh niên Thăng Bình

đi làm ăn xa, chỗ ở không ổn định hoặc do thực hiện quy hoạch giải tỏa mà

chuyển chỗ ở đi nơi khác, khiến công tác tổ chức tập hợp, sinh hoạt và quản

lý thanh niên gặp nhiều khó khăn. Tình trạng một bộ phận thanh niên trên

địa bàn huyện Thăng Bình còn thờ ơ/ ít quan tâm tới tình hình hoạt động

chính trị, xã hội đất nước và ít tham gia vào các hoạt động phong trào của

Đoàn, Hội, Đội; một bộ phận đáng kể thanh niên học sinh chưa xác định đúng

đắn mục tiêu, động cơ học tập, bị ảnh hưởng luồng văn hóa ngoại lai, xa rời

truyền thống, sống buông thả, thiên về lối sống thực dụng đua đòi; tình hình

tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật trong thanh - thiếu niên đang có sự gia

tăng. Hơn nữa, thanh niên với vấn đề việc làm ổn định đang gặp nhiều khó

khăn; thanh niên chưa có việc làm còn chiếm tỉ lệ không nhỏ.

Trình độ tay nghề của thanh niên, năng lực thực hành sau đào tạo của

họ cùng tác phong lao động còn hạn chế, nên phần nào chưa đáp ứng tốt với

yêu cầu của các doanh nghiệp trong thời đại áp dụng công nghệ cao. Trong

khối cơ quan hành chính sự nghiệp, vẫn còn một số ít thanh niên ngại phấn

33

đấu, chưa phát huy năng lực để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo giao.

2.2. Tình hình quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn

Huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

2.2.1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản, chiến lược và

chính sách chương trình phát triển thanh niên và công tác thanh niên

Kể từ sau khi Luật thanh niên năm 2005 có hiệu lực cùng với các văn

bản dưới luật hướng dẫn năm 2011của Chính phủ và Bộ Nội, chính quyền

tỉnh Quảng Nam, Sở Nội vụ và các cơ quan có thẩm quyền của tỉnh đã ban

hành các văn bản nhằm tổ chức thực hiện công tác thanh niên tại địa phương

mình, tiêu biểu có:

- Quyết định số 2835/2011/QĐ-UBND, ngày 07/9/2011 của UBND tỉnh

Quảng Nam ban hành Đề án đào tạo cán bộ, công chức, viên chức trình độ

sau đại học giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020 và những năm

tiếp theo; Căn cứ Nghị định số 18/2010/NĐ-CP, ngày 05/3/2010 của Chính

phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức; Quyết định số 1374/QĐ-TTg, ngày

12/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011-2015; và Nghị quyết số 04-NQ/TU

ngày 30/6/2011 của Tỉnh ủy Quảng Nam về công tác cán bộ giai đoạn 2011-

2015 và định hướng đến năm 2020. Mục tiêu của chương trình, đề án này là:

tuyển lựa các cán bộ, công chức có phẩm chất và có đủ năng lực - kỹ năng

được tạo điều kiện tham gia khóa đào tạo ở các cơ sở đào tạo trong và ngoài

nước để lĩnh hội các kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ và học hỏi nhiều mô

hình hay các kinh nghiệm tốt để vận dụng trong công tác nhằm đáp ứng yêu

cầu phát triển mới của địa phương.

- Quyết định số 878/QĐ-UBND, ngày 12/3/2018 của ủy ban nhân dân

tỉnh Quảng Nam về việc ban hành kế hoạch thực hiện chương trình phát triển

thanh niên tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2018-2020 và Quyết định số 1042/QĐ-

34

TTg, ngày 17/7/2017 của Thủ tướng chính phủ ban hành kế hoạch thực hiện

Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam của giai đoạn từ năm 2016 đến

năm 2020. Mục tiêu của kế hoạch thực hiện chương trình này nhằm giúp: Xây

dựng được một thế hệ thanh niên yêu nước nồng nàn và kiên định “độc lập

dân tộc và CNXH”, có sức khỏe, tự lực tự cường, có bản lĩnh và có đủ tri

thức, năng lực - kỹ năng để hội nhập quốc tế, thực hiện lối sống văn hóa, có

đạo đức cách mạng, có ý thức tự giác tuân thủ chấp hành pháp luật, trở thành

người công dân hữu ích của quốc gia; Động viên cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng

hoài bão, ước mơ, xung kích và tiên phong, sáng tạo trong nghiên cứu và ứng

dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến trong phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước.

- Quyết định số 10/2005/QĐ-UBND, ngày 26/02/2005 của UBND tỉnh

Quảng Nam quy định về nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của Sở Nội vụ cũng

như cơ cấu tổ chức của Sở này. Thông tư số 05/2004/TT-BNV của Bộ Nội vụ,

ngày 19/01/2004 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về công tác nội vụ ở

địa phương,...

Bên cạnh đó, thành lập Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh

Quảng Nam đến năm 2020 được UBND tỉnh Quảng Nam phê duyệt tại Quyết

định số 494/QĐ-UBND, ngày 15/02/2011 đã xác định mục tiêu: bình quân

hàng năm, đào tạo nghề cho khoảng 16.500 lao động nông thôn, góp phần

thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu về lao động qua đào tạo nghề của tỉnh. Nâng

cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của

lao động nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế,

phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn. Giai đoạn từ năm

2011 đến năm 2015: có 75.000 lao động nông thôn được đào tạo nghề (40.000

lao động học nghề phi nông nghiệp và 35.000 lao động học nghề nông

35

nghiệp); trong đó có 16.500 lao động thuộc diện chính sách người có công

cách mạng, diện hộ nghèo, dân tộc thiểu số, lao động bị thu hồi đất canh tác,

người tàn tật; Tỷ lệ >70% có việc làm sau học nghề ở giai đoạn 2011-2015.

Giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020: có 90.000 lao động nông thôn được

dạy nghề (60.000 lao động học nghề phi nông nghiệp; và 30.000 lao động học

nghề nông nghiệp); Tỷ lệ >80% có việc làm sau học nghề ở giai đoạn 2016-

2020.

Sau khi có hiệu lực thi hành Thông tư 04/2011/TT-BNV ngày 10-02-

2011 về việc hướng dẫn bổ sung nhiệm vụ, chức năng, tổ chức bộ máy, biên

chế của Sở Nội vụ và Phòng Nội vụ về công tác thanh niên, chính quyền tỉnh

Quảng Nam đã ra những văn bản quản lý nhằm xác lập bộ máy quản lý nhà

nước đối với công tác thanh niên:

- Quyết định 878/QĐ-UBND ngày 12 tháng 3 năm 2011 về quản lý nhà

nước đối với công tác thanh niên của Sở Nội vụ; Quyết định 4485/QĐ-UBND

ngày 27 tháng 5 năm 2011 về bổ sung nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nước

đối với công tác thanh niên của Phòng Nội vụ; Công văn 3060/UBND-NCPC,

ngày 27 tháng 5 năm 2011 đối với việc giao chỉ tiêu lao động hành chính thực

hiện nhiệm vụ công tác thanh niên; Quyết định 9235/QĐ-UBND ngày 08

tháng11 năm 2012 về Chương trình chiến lược phát triển thanh niên ở tỉnh

Quảng Nam giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020 (với bảy nhiệm vụ và sáu

giải pháp thực hiện); Quyết định 1676/QĐ-UBND ngày 06 tháng 3 năm 2012

đối với kế hoạch năm 2012 về công tác thanh niên (trong đó gồm có Đề án

tăng cường giáo dục kỹ năng sống cho thanh niên, thiếu niên tại các cơ sở

giáo dục trên địa bàn, đặt mục tiêu đào tạo nghề và tạo việc làm cho 900

thanh niên); Quyết định 1546/QĐ-UBND ngày 28-02-2013 đối với kế hoạch

năm 2013 về công tác thanh niên; Quyết định 7257/QĐ-UBND ngày 19-10-

2013 đối với kế hoạch năm 2014 về công tác thanh niên (trong đó có các

36

nhiệm vụ cụ thể là thực hiện Đề án tăng cường thông tin truyền thông cho

thanh niên Quảng Nam về thị trường lao động và việc làm ở giai đoạn từ năm

2013 đến năm 2020; Đề án Hỗ trợ về đào tạo nghề và tạo việc làm cho thanh

niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự; Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ

chuyên môn cho đội ngũ cán bộ Đoàn chủ chốt và cán bộ công chức trong

công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thanh niên...

Căn cứ và bám sát các văn bản chỉ đạo trong quản lý điều hành của

chính quyền tỉnh Quảng Nam về công tác thanh niên, những sở ngành cấp

tỉnh đã từng bước cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch về công tác

thanh niên thuộc phạm vi lĩnh vực, ngành mình quản lý. Số liệu thống kê qua

các năm từ báo cáo của Sở Nội vụ về danh mục những văn bản chỉ đạo trong

điều hành công tác quản lý nhà nước về thanh niên đã xác nhận rằng, những

văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược và các chương trình phát

triển công tác thanh niên đã được ban hành khá đầy đủ và phần lớn những nội

dung hướng dẫn của các Bộ ngành được triển khai kịp thời. Mặt khác, công

tác thông tin tuyên truyền theo Đề án tăng cường thông tin truyền thông cho

thanh niên Quảng Nam về thị trường lao động và việc làm ở giai đoạn từ năm

2013 – 2020 đã được tăng cường, góp phần nhận thức về nghề nghiệp và việc

làm thanh niên được nâng cao. Đồng thời, việc tổ chức các hoạt động cho

thanh niên được tập trung vào nội dung: hướng nghiệp và tư vấn nghề nghiệp,

giới thiệu việc làm.

Tuy vậy so với yêu cầu thực tiễn đặt ra, đối với hệ thống văn bản của

các sở, ngành mới chỉ quy định chung hoặc điều chỉnh chung cho mọi đối

tượng thành phần, mà chưa có quy định riêng dành cho thanh niên.

Nhiều văn bản chỉ đạo công tác quản lý nhà nước về thanh niên tại địa

bàn huyện Thăng Bình vẫn có hạn chế nhất định. Một số bộ phận phòng ban

chuyên môn trực thuộc UBND huyện Thăng Bình vẫn chưa chủ động tham

37

gia tích cực trong công tác này thuộc phạm vi lĩnh vực, ngành mình - nếu có

chăng thì hàng năm các phòng ban chuyên môn này mới chỉ dừng lại ở tính

hình thức lồng ghép hoạt động cho có. Nói cách khác, khá nhiều phòng ban

của huyện đang xem nhẹ việc thực hiện công tác thanh niên do chính quyền

huyện Thăng Bình giao, thay vào đó các đơn vị này chỉ chú trọng tập trung

thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình.

Kể từ khi có hiệu lực Luật thanh niên năm 2005 thì mãi tới năm 2011,

chính quyền tỉnh Quảng Nam mới có cơ hội thành lập thêm phòng Công tác

thanh niên trực thuộc Sở Nội vụ; còn UBND cấp huyện giao việc phụ trách

công tác thanh niên cho Phó Trưởng Phòng Nội vụ. Vì thiếu các văn bản chỉ

đạo từ Trung ương, dẫn chứng là: ngày 13 tháng 8 năm 2010 mới có Quyết

định 1471/QĐ-TTg về thành lập Vụ công tác thanh niên thuộc Bộ Nội vụ;

ngày 10/02/2011 có Thông tư số 04/2011/TT-BNV về hướng dẫn bổ sung

nhiệm vụ, biên chế và tổ chức của Sở Nội vụ về công tác thanh niên, của

Phòng Nội vụ về công tác thanh niên; ngày 28 tháng 11 năm 2011 mới có

Quyết định 1923/QĐ-BNV phê duyệt Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức phụ trách công tác thanh niên về nghiệp vụ quản lý nhà nước đối với

công tác thanh niên ở giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015; ngày 10 tháng 8

năm 2012 mới có Nghị định 61/2012/NĐ-CP quy định nhiệm vụ, chức năng,

quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ,... Nên trong điều kiện đó đặt ra

các vấn đề khó khăn, chậm trễ trong công tác tham mưu về thực hiện chương

trình công tác thanh niên đối với các phòng ban chuyên môn của UBND

huyện Thăng Bình.

Hơn nữa, việc ban hành một số văn bản của sở, ngành, địa phương còn

dừng lại ở tính hình thức, chương trình kế hoạch thiếu tính khả thi nên kết quả

còn gặp nhiều bất cập/ hạn chế...

38

2.2.2. Đào tạo bồi duỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh

niên:

Đối với công tác cán bộ, các cấp ủy Đảng và chính quyền tỉnh Quảng

Nam nói chung và với huyện Thăng Bình nói riêng đã có sự quan tâm đầu tư

vào đào tạo phát triển cán bộ trẻ; việc đề bạt, bố trí bổ nhiệm cán bộ trẻ ngày

càng tăng (hiện có gần 15% cán bộ trẻ trong cơ cấu vị trí lãnh đạo tại huyện

Thăng Bình). Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thanh niên

trên địa bàn huyện, nhất là cán bộ Đoàn từng bước được trẻ hóa và chuẩn hóa

dần về trình độ chuyên môn, quản lý nhà nước, lý luận chính trị.

Nhiều năm thực thi Chiến lược phát triển thanh niên của giai đoạn từ

năm 2011 đến năm 2020, với các chương trình/ đề án và những giải pháp khá

cụ thể; cùng với sự phối hợp khá đồng bộ của các ngành, các cấp trên địa bàn

huyện đã đóng góp vào việc hiện thực hóa các nội dung đề ra, tạo nhiều chính

sách, cơ chế khá linh hoạt và các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển trưởng

thành của đội ngũ thanh niên. Trên cơ sở Quyết định số 2835/QĐ-UBND,

ngày 07/9/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam ban hành Đề án đào

tạo cán bộ, công chức, viên chức trình độ sau đại học tại các cơ sở nước ngoài

giai đoạn 2011-2015; Đề án hỗ trợ đào tạo đại học, sau đại học dành cho học

sinh, sinh viên, học viên tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2015, những năm

qua việc tổ chức thực hiện các Đề án, chương trình này trên địa bàn huyện

nhằm tuyển chọn những cán bộ, công chức có năng lực, đảm bảo các điều

kiện; được tham gia đào tạo nâng cao trình độ; ở các cơ sở đào tạo trong và

ngoài nước. Đặc biệt, dưới sự chủ trì của Sở Nội Vụ tỉnh Quảng Nam đã kịp

thời tham mưu, phối hợp tổ chức tốt việc thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng, đào

tạo, phát triển nhân lực trẻ. Cụ thể là, đã triển khai thực hiện các đề án về: đào

tạo sau đại học dành cho học viên, sinh viên, học sinh; đào tạo nguồn chủ tịch

và bí thư cấp xã; đào tạo cán bộ, công chức sau đại học tại nhiều cơ sở đào tạo

39

ở nước ngoài. Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Nam và huyện Thăng Bình còn

thường xuyên mở nhiều khóa đào tạo, bồi dưỡng về quản lý nhà nước ngạch

chuyên viên cho cán bộ, công chức; tổ chức thực hiện tốt chính sách cán bộ

dự nguồn,...

Nhờ đó, đã mở ra nhiều cơ hội để cán bộ, công chức có nhiều điều

kiện bổ sung thêm nhiều kiến thức chuyên môn và trang bị các kỹ năng, học

hỏi và vận dụng nhiều bài học kinh nghiệm hay, nhiều mô hình mới từ những

quốc gia phát triển cho sự phát triển tại địa phương mình. Kết quả là: Đội ngũ

cán bộ Đoàn của huyện Thăng Bình và các xã, thị trấn trực thuộc đều đạt

100% có trình độ chuyên môn là trung cấp trở lên. Các phong trào vận động

thi đua "xây dựng trường học thân thiện và học sinh tích cực " đã được tổ

chức có hiệu quả tại tất cả các trường học trên toàn địa bàn Thăng Bình; đồng

thời, duy trì củng cố tốt các mô hình hoạt động Câu lạc bộ, nhóm, Đội và

nhiều loại hình học tập khác – với tinh thần giúp đỡ chia sẻ trong học tập, rèn

luyện và trao đổi kinh nghiệm kỹ năng dạy học của giáo viên trẻ. Đồng thời,

thanh niên trên địa bàn huyện đều đã được tạo sự bảo đảm về bình đẳng cơ

hội học tập. Với sự phối hợp chặt chẽ của gia đình, nhà trường và xã hội với

100% thanh niên được học tập và hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục;

thường xuyên học tập để nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ;

tham gia xây dựng môi trường văn hoá học đường; trung thực trong học tập,

xung kích tham gia các chương trình phát triển giáo dục và đào tạo, xây đựng

xã hội học tập. Mặt khác, ngành giáo dục trên địa bàn Thăng Bình đã đẩy

mạnh phong trào thi đua "2 tốt ”; từng bước thực hiện tốt cuộc vận động "2

không” trong ngành giáo dục dưới nhiều hình thức đa dạng, như: tổ chức các

đợt cho học sinh thi đua học tập dưới nhiều hình thức nhóm, tổ để cùng giúp

nhau cầu tiến; định hướng giáo dục động cơ, thái độ học tập đúng đắn; phát

động phong trào mùa thi nghiêm túc và phối hợp phòng chống tiêu cực trong

40

thi cử. Nhờ vậy, kết quả hàng năm thi đỗ tốt nghiệp THPT luôn đạt mức

>91%; và >30% học sinh tốt nghiệp tại Trung tâm giáo dục thường xuyên;

không có trường hợp học sinh bỏ học.

Tuy vậy so với kỳ vọng một số vấn đề đặt ra: Chất lượng của việc thực

hiện Chiến lược phát triển thanh niên của giai đoạn từ năm 2011 đến năm

2020 trên địa bàn Thăng Bình vẫn chưa cao; các ngành các cấp chưa chú

trọng đề ra chương trình hành động cụ thể; thiếu các kế hoạch tính khả thi để

tổ chức thực hiện chiến lược này theo lĩnh vực mà đơn vị mình phụ trách

(nhiều chỉ tiêu của chiến lược đề ra còn chưa được nhiều phòng ban cụ thể

hóa thành các kế hoạch cụ thể trong hoạt động của mình); ngoài ra, vẫn chưa

có quy định rõ về mức cấp kinh phí thường xuyên phục vụ công tác thanh

niên. Điển hình, 5 năm qua từ 2016-2020[23], kết quả đạt được còn khiêm

tốn, vì mới chỉ: mở được 03 lớp tập huấn về công tác thanh niên cho cán bộ,

công chức ở cấp tỉnh và cấp huyện; hỗ trợ cử bốn người học thạc sĩ; thu hút

ba thạc sĩ về công tác; năm 2018 chỉ có 2,64% lao động trẻ được qua đào tạo

và trong số lao động qua đào tạo có việc làm cũng chiếm không nhiều

(26,04%); chỉ có 21% cán bộ Đoàn và Hội Thanh niên được nghe giáo dục

phổ biến pháp luật.

Ở lĩnh vực khác, tại Điều 22 thuộc Chương IV của Nghị định số

120/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2007 về việc hướng dẫn thi hành một sô

điều của Luật Thanh niên đã đưa ra quy định khá rõ đối với Ủy ban Quốc gia

về thanh niên Việt Nam có trách nhiệm: Chủ trì và phối hợp với những Bộ

ngành có chức năng cùng với Trung ương Đoàn TNCSHCM trong việc xây

dựng quy chế phối hợp đối với quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên

phạm vi quốc gia; Chủ trì và phối hợp với những Bộ ngànhvà cơ quan ngang

Bộ, UBND cấp tỉnh và Trung ương Đoàn TNCSHCM trong hướng dẫn, kiểm

tra quá trình thực hiện quy định hiện hành của Luật Thanh niên và những quy

41

định của Nghị định 120; Chủ trì và phối hợp với những Bộ ngành có liên quan

trong việc thống kê, tổng hợp và báo cáo định kỳ hàng năm trình lên Thủ

tướng Chính phủ đối với tình hình thực hiện pháp luật, chính sách về công tác

thanh niên trong cả nước . Theo quy định đó là phải bố trí 01 công chức

chuyên trách chứ không phải kiêm nhiệm tham mưu, theo dõi về công tác

thanh niên.

Song song việc triển khai thực hiện các chính sách đối với thanh niên,

theo quy định của Luật Thanh niên, công tác xây dựng bộ máy, tổ chức quản

lý nhà nước đối với công tác thanh niên được Huyện Thăng Bình đã từng

bước kiện toàn và bổ sung chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh

niên. Đã bố trí 01 đồng chí lãnh đạo giữ chức vụ Bí thư Huyện Đoàn và 02

đồng chí giữ chức vụ phó Bí thư Huyện Đoàn phụ trách công tác thanh niênvà

công tác Hội LHTN VN Huyện Thăng Bình. Nhờ vậy, hoạt động công tác

thanh niên từng bước có quy củ nề nếp; qua đó đã tham mưu kịp thời cho

UBND cấp huyện trong quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên; cũng

như giúp cho Huyện Đoàn Thăng Bình đóng vai trò đầu mối lồng ghép những

nhiệm vụ phát triển thanh niên vào trong các đề án, chương trình phát triển

KT-XH, quốc phòng an ninh ở Thăng Bình.

Tuy vậy, về năng lực thực tiễn của một bộ phận đội ngũ này lại khá yếu

về khả năng tham mưu đề xuất các sáng kiến giải pháp cho chính quyền địa

phương trong công tác quản lý nhà nước về thanh niên.

2.2.3. Về công tác kiểm soát, kiểm tra, thanh tra công tác thanh niên,

giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện

pháp luật, chính sách về thanh niên

Trong nhiều năm qua, vấn đề QLNN về công tác thanh niên luôn được

Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chỉ đạo sát sao. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của

các cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp của các ngành, đoàn thể và toàn xã

42

hội, về cơ bản đã tạo thuận lợi và kịp thời hơn trong công tác kiểm soát, kiểm

tra, thanh tra công tác thanh niên, giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý vi

phạm trong quá trình thực hiện pháp luật, chính sách về thanh niên.

Minh chứng khá rõ là: Đoàn Thanh niên, Hội Thanh niên trên địa bàn

huyện đã phối hợp khá chặt chẽ với lực lượng vũ trang trong hoạt động tuần

tra, theo dõi phát hiện; cũng như tham gia tích cực vào việc giải quyết các vi

phạm pháp luật tại địa bàn dân cư; phối hợp khá đồng bộ với Công an và các

đoàn thể nhân dân trong việc giáo dục, cảm hoá đối với những người vi phạm

an ninh trật tự ở khu dân cư, giúp đỡ hàng chục thanh thiếu niên chậm tiến,

trong đó đã có rất nhiều em đã tiến bộ… Qua đó, góp phần ngăn ngừa và

giảm thiểu tình hình tội phạm trên địa bàn Thăng Bình. Hơn nữa, đại bộ phận

thanh niên Thăng Bình đã giữ gìn, phát huy được truyền thống tốt đẹp của

dân tộc Việt Nam và gia đình Việt Nam; cũng như gương mẫu chấp hành tốt

pháp luật hiện hành.

Tuy vậy, công tác kiểm tra, đôn đốc, tổng kết, đánh giá việc thực hiện

chính sách cho thanh niên ở một số nơi trên địa bàn huyện chưa được tiến

hành thường xuyên, nghiêm túc. Thông qua kiểm tra, giám sát việc thực hiện

chiến lược phát triển thanh niên đối với huyện Thăng Bình còn cho thấy, một

số cơ quan đơn vị chưa nhận thức đầy đủ, các hoạt động còn lúng túng, thiếu

chủ động trong việc xác lập vai trò của ngành mình, cấp mình đối với công

tác quản lý nhà nước về thanh niên.

Chế tài xử lý vi phạm ở lĩnh vực này hiện đang có nhiều hạn chế, việc

ban hành các quy định và hướng dẫn vẫn còn chung chung, dẫn đến những

khó khăn không nhỏ trong giải quyết khiếu nại liên quan đến thực hiện pháp

luật, chính sách về thanh niên. Hơn nữa, trong công tác thanh niên một số vấn

đề vướng mắc vẫn chưa xử lý dứt điểm. Ngoài ra, việc tổ chức triển khai các

văn bản chỉ đạo liên quan công tác thanh niên thực hiện còn chậm so với yêu

43

cầu; định mức của các chế độ phục vụ công tác thanh niên còn thấp.

2.2.4. Hợp tác quốc tế về công tác thanh niên

Việc thực hiện nhiệm vụ này đã được tổ chức định kỳ với nhiều hoạt

động giao lưu hữu nghị với lực lượng thanh niên ở các quốc gia có chung

đường biên giới với nước ta. Qua đó đã củng cố và phát huy tốt mối quan hệ

hữu nghị truyền thống với Đoàn thanh niên Lào, Trung Quốc và Campuchia;

đồng thời, thông qua thực hiện các nhiệm vụ hợp tác quốc tế về công tác

thanh niên đã tạo lập vị thế ngày càng cao của thanh niên Việt Nam trong việc

tích cực tham gia các sự kiện hoạt động như: sinh viên thế giới lần thứ XV;

các Festival thanh niên; cuộc thi cấp khu vực và cấp thế giới về vật lý, toán

học, thể thao... Minh chứng khá rõ là: Bên cạnh việc Đoàn thanh niên tình

nguyện đã tổ chức các hoạt động thiết thực (trong công tác dân vận giao lưu

với thanh niên khu vực ở biên giới với hai nước bạn Lào và Campuchia, thực

hiện miễn phí khám chữa bệnh và cấp phát thuốc, hỗ trợ đào tạo việc làm và

tặng quà tại hai tỉnh biên giới thuộc hai nước bạn Lào và Campuchia), thì từ

năm 2010 tới nay đã tổ chức thành công 02 sự kiện lớn về hoạt động giao lưu

hợp tác thanh niên giữa hai quốc gia Việt Nam - Trung Quốc..

Đặc biệt, chính quyền tỉnh Quảng Nam và huyện Thăng bình hàng năm

bên cạnh việc phối hợp tổ chức mở nhiều lớp kỹ năng Anh ngữ cho cán bộ,

công chức, tổ chức 65 buổi nói chuyện chuyên đề và tập huấn với khoảng

5.000 lượt thanh niên để trang bị kiến thức về nội dung hội nhập kinh tế quốc

tế; phối hợp khá chặt chẽ với Hội Liên hiệp thanh niên tỉnh Quảng Nam tổ

chức các chương trình tình nguyện KCB miễn phí cho người dân có hoàn

cảnh khó khăn trên địa bàn Thăng Bình; mà còn tổ chức các hoạt động giao

lưu thanh niên để trao đổi kinh nghiệm giữa hai nước Việt Nam - Lào, dẫn

chứng là huyện đã cử >20 lượt cán bộ chức Đoàn, Hội đã tham gia giao lưu

tại Lào.

44

Mặt khác, hàng chục vạn lao động nước ta hiện nay, trong đó tập trung

chính là đội ngũ thanh niên với tính lao động cần cù chăm chỉ, thông minh,

năng động sáng tạo cả trong nghiên cứu và áp dụng khoa học – công nghệ…

đã và đang đóng góp đáng kể cho sự tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Trong

môi trường điều kiện thuận lợi ngày nay, cùng sự nỗ lực không ngừng của đội

ngũ thanh niên Việt Nam nói chung đã khích lệ đội ngũ cán bộ, công chức,

viên chức trẻ và lực lượng thanh niên địa phương Thăng Bình trau dồi rèn

luyện, tiếp thụ có hiệu quả các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế

giới để gia tăng nhận thức, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và trang bị các

kỹ năng (tin học, ngoại ngữ và nhiều kỹ năng sống và làm việc cần thiết khác)

nhằm đáp ứng tốt các nhiệm vụ theo yêu cầu mới trong xu thế mở cửa - hội

nhập quốc tế.

2.3. Đánh giá quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn

Huyện Thăng Bình, Tỉnh Quảng Nam

2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân

2.3.1.1. Những kết quả đạt được

Trên cơ sở bám sát việc thực thi Chiến lược phát triển Thanh niên của

giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2020 của UBND tỉnh Quảng Nam, thực thi

Chiến lược phát triển Thanh niên của giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2015

của UBND Huyện Thăng Bình, trên địa bàn Thăng Bình quá trình quản lý nhà

nước về công tác thanh niên đã bước đầu đạt được nhiều thành quả đáng kể,

cụ thể là:

100% đội ngũ cán bộ Đoàn của huyện Thăng Bình và các xã, thị trấn

trực thuộc đều đạt trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên. Đối với thanh

niên trên địa bàn huyện Thăng Bình đều được tạo điều kiện về bình đẳng cơ

hội học tập. Kết quả hàng năm, thi đỗ tốt nghiệp THPT luôn đạt mức >91%;

và >30% học sinh tốt nghiệp tại Trung tâm giáo dục thường xuyên.[23]

45

Đối với việc giải quyết lao động – việc làm cho thanh niên, huyện Thăng

Bình đã từng bước chú trọng vào công tác tạo lập các điều kiện thuận lợi và

hướng dẫn cho thanh niên vay vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội để giải

quyết việc làm. Mặt khác, huyện cũng vận động khuyến khích thanh niên

tham gia tích cực học tập, ứng dụng và chuyển giao quy trình kỹ thuật công

nghệ về trồng hoa cây cảnh, trồng nấm rơm… do Hội Nông dân huyện tổ

chức. Ngoài ra, Đoàn Thanh niên và Hội Thanh niên các cấp trên địa bàn

Thăng Bình đã tích cực đề xuất lên cấp ủy, UBND của huyện và các xã, thị

trấn về việc tạo cơ chế khuyến khích đào tạo nghề và học nghề, giới thiệu việc

làm, hỗ trợ vốn vay cho thanh niên địa phương để tạo việc làm. Các phong

trào “Sáng tạo trẻ " được đoàn viên triển khai một cách tập trung, phát huy

được các hoạt động hỗ trợ sáng kiếnvà chia sẻ ý tưởng sáng tạo, khích lệ được

thanh niên cải tiến kỹ thuật công nghệ, thay đổi phong cách làm việc, đổi mới

quy trình đóng góp vào việc cải thiện và nâng cao năng suất lao động. Đối với

việc tổ chức các diễn đàn hội thi, hội diễn như “Thanh niên công nhân

giỏi”… trên địa bàn huyện đã có sự đóng góp về các sáng kiến kỹ thuật, trao

đổi các bài học kinh nghiệm có giá trị… làm lợi cho nhà máy, doanh nghiệp

được công nhận. Đối với công tác giao quân hằng năm luôn thực hiện tốt, vì

vậy công tác tuyển chọn gọi công dân nhập luôn đạt 100% chỉ tiêu trên giao.

Đối với nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội, các văn hóa phẩm

độc hại, kích động bạo lực trong thanh niên đã được huyện Thăng Bình hàng

năm chú trọng. Đồng thời, Đoàn Thanh niên các cấp trên địa bàn huyện đã

từng bước phối hợp khá chặt chẽ với các hội đoàn thể và các ngành trong việc

tổ chức hoạt động thiết thực trong công tác thông tin truyền thông tuyên

truyền để nâng cao nhận thức về tác hại của ma tuý và những chất kích thích

độc hại, HIV/ AIDS...

2.3.1.2. Nguyên nhân

46

Một là, trên cơ sở đặc điểm tình hình thanh niên của huyện Thăng Bình,

các cấp ủy đảng đã tăng cường vai trò lãnh đạo đối với công tác thanh niên.

Sự chỉ đạo, điều hành sát sao của UBND huyện đối với các phòng ban thuộc

khối UBND đã kịp thời triển khai về công tác thanh niên; đồng thời giám sát

kiểm tra chặt chẽ các hoạt động này.

Hai là, các ngành, các cấp trên địa bàn Thăng Bình đã nhận thức đầy đủ

hơn về nhiệm vụ và trách nhiệm của mình về lĩnh vực phụ trách trong quá

trình tham gia quản lý nhà nước về công tác thanh niên.

Ba là, bản thân trình độ dân trí của thanh niên hiện nay đã được nâng

lên, phần lớn họ có ý thức tự giác chấp hành tốt các chủ trương của Đảng và

chính sách pháp luật của Nhà nước ta. Nên đề cao được trách nhiệm cũng như

vị thế của thanh niên tham gia tích cực, sáng tạo trong quá trình hoạt động

phát triển KT-XH ở địa phương.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Hạn chế

Một là: Đối với hệ thống văn bản của các sở, ngành mới chỉ quy định

chung hoặc điều chỉnh chung cho mọi đối tượng thành phần, mà chưa có quy

định riêng dành cho thanh niên. Việc ban hành một số văn bản của sở, ngành,

địa phương còn dừng lại ở tính hình thức, chương trình kế hoạch thiếu tính

khả thi nên kết quả còn gặp nhiều bất cập/ hạn chế. Ngoài ra, công tác báo cáo

số liệu thống kê về thực tiễn tình hình thanh niên trên địa bàn huyện vẫn chưa

thống nhất.

Hai là: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo có lúc, có nơi chưa sát tình hình thực

tiễn địa phương. Chương trình, kế hoạch hành động của một số cơ quan đơn

vị còn chưa phù hợp với đặc điểm cụ thể của thanh niên và điều kiện hoản

cảnh ở địa phương. Việc tổ chức thực hiện nghị quyết và chương trình hành

động về công tác thanh niên của một số cấp ủy đảng và chính quyền địa

47

phương còn thiên về tính hình thức, trên thực tế là giao khoán cho hệ thống tổ

chức Đoàn thanh niên phối hợp với phòng Tư pháp cùng thực hiện là chủ yếu.

Nói cách khác, sự phối hợp giữa chính quyền địa phương và các đoàn

thể nhân dân trên địa bàn huyện còn chưa đồng bộ và chưa thường xuyên

trong tổ chức triển khai chính sách phát triển thanh niên và công tác thanh

niên. Nhiều nhiệm vụ phối hợp giữa các cơ quan, các ngành còn có biểu hiện

đùn đẩy/ né tránh trách nhiệm hoặc thụ động trong phối hợp thực hiện,...

Ba là: Các hoạt động quản lý nhà nước cũng chưa hoàn toàn tác động

đầy đủ, toàn diện về những nội dung quản lý công tác thanh niên.

Đối với công tác tổ chức cán bộ cũng đồng bộ, nhất là từ các khâu quy

hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp cơ cấu, bố trí và sử dụng cán bộ trẻ chưa

có sự đầu tư đúng mức. Công tác quản lý nhà nước về thanh niên ở nhiều địa

phương, đơn vị chưa được quan tâm kiện toàn đầy đủ, nhất là phần lớn cán

bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên chủ yếu là hoạt

động kiêm nhiệm, nên chưa có sự đầu tư toàn tâm toàn ý cho công tác này.

Việc tổ chức triển khai các văn bản chỉ đạo liên quan công tác thanh niên

thực hiện còn chậm so với yêu cầu. Một số cơ quan trên địa bàn huyện Thăng

Bình chưa chú trọng chăm lo công tác thanh niên. Mặc dù trên địa bàn Thăng

Bình các hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên và Hội Thanh niên có bước

chuyển tích cực về hình thức hoạt động phong trào khá đa dạng, song mới chỉ

dừng lại hoạt động bề ngoài mang tính giải trí đơn thuần; trong khi vẫn chưa

đầu tư chiều sâu và chưa đem lại hiệu quả dài hạn về thực hiện công tác chăm

lo việc làm, đời sống cho thanh niên. Nói cách khác, hoạt động của tổ chức

Đoàn xã, thị trấn chủ yếu thiên về bề nổi phong trào, hoạt động còn bị hành

chính hóa; nội dung và hình thức hoạt động còn chưa phong phú. Nguồn lực

phục vụ công tác thanh niên còn rất thấp.

Bốn là: Thông qua kiểm tra, giám sát việc thực hiện chiến lược phát triển

48

thanh niên đối với huyện Thăng Bình còn cho thấy, một số cơ quan đơn vị

chưa nhận thức đầy đủ, các hoạt động còn lúng túng, thiếu chủ động trong

việc xác lập vai trò của ngành mình, cấp mình đối với công tác quản lý nhà

nước về thanh niên.

Năm là: Một số chính sách cụ thể đầu tư cho phát triển thanh niên chưa

đáp ứng nhu cầu đời sống thực tiễn của địa phương hiện nay, nhất là mức

kinh phí dành cho các đề án, chương trình phát triển thanh niên còn thấp, việc

đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất cho công tác thanh niên còn dàn trải.

Định mức của các chế độ phục vụ công tác thanh niên còn thấp.

Sáu là: Đối với công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho thanh

niên nông thôn chưa có sự đầu tư chiều sâu, đào tạo nghề ngắn hạn là chủ

yếu. Nên công tác này thực sự còn thiếu bền vững, tỷ lệ đáng kể lao động sau

đào tạo nghề vẫn còn thiếu việc làm. Hơn nữa, việc các hoạt động hướng

nghiệp và giới thiệu việc làm cũng còn không ít hạn chế. Chưa huy động được

các tiềm năng và nguồn lực xã hội chưa huy động tốt trong công tác đào tạo

nghề cho thanh niên. Minh chứng cho thấy rõ: những năm qua kinh tế tỉnh

Quảng Nam có nhiều phát triển nhưng chưa thật bền vững, chủ yếu sản xuất

dựa vào nông nghiệp, kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu đề ra; chưa thu

hút lao động trẻ có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao về phục vụ, công tác và

chưa có giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết nhu cầu việc làm cho thanh niên

sau đào tạo.

Bảy là: Tỷ lệ thanh niên trên địa bàn huyện qua đào tạo nghề còn ít, thiếu

các kỹ năng cần thiết; còn khá nhiều thanh niên chưa chuyển đổi tác phong

công nghiệp để đáp ứng yêu cầu mở cửa, hội nhập và phát triển. Hơn nữa,

một bộ phận không nhỏ thanh niên còn thất nghiệp hoặc nếu có việc làm thì

việc làm không ổn định và thu nhập thấp đã ảnh hưởng đáng kể tới tâm lý,

suy nghĩ của thanh niên. Mặt khác, nhận thức về chính trị của một số thanh

49

niên còn hạn chế, lười lao động - học tập, có lối sống buông thả và bị lôi kéo

sa ngã vào tệ nạn xã hội, tình trạng vi phạm pháp luật còn diễn ra.

2.3.2.2. Nguyên nhân

Thứ nhất, chính quyền địa phương các cấp chưa tăng cường đầu tư cho

công tác thanh niên, nhất là về kinh phí hoạt động của tổ chức Đoàn, hội còn

thấp; cũng như thiếu sự đầu tư cho các chương trình, đề án phát triển thanh

niên. Công tác phối hợp giữa các phòng ban và cơ quan đơn vị đối với công

tác thanh niên thiếu đồng bộ và chưa chặt chẽ. Mặt khác, một số cơ quan, đơn

vị sự chưa thường xuyên chăm lo công tác thanh niên.

Thứ hai, công tác tư tưởng và giáo dục, tuyên truyền còn chung chung,

khiến cho nhận thức của một tỷ lệ đáng kể cán bộ, công chức về công tác

thanh niên còn chưa đầy đủ. Mặt khác, một bộ phận thanh niên hiện nay lười

lao động có tâm lý hưởng thụ dựa vào gia đình, thiếu trách nhiệm với gia đình

và xã hội, thiếu tu dưỡng rèn luyện; trong khi đó vẫn còn có không ít gia đình

chưa chăm lo, sâu sát với con cái, tình trạng bạo hành gia đình vẫn còn diễn

ra.

Thứ ba, nội dung, chương trình dạy nghề ngắn hạn chưa phù hợp với nhu

cầu thực tế của thanh niên, chất lượng, giá trị của chứng chỉ, còn nhiều bất

cập về chuẩn đầu ra của nghề được dạy, việc hỗ trợ vốn sản xuất cho thanh

niên lập nghiệp cũng còn nhiều hạn chế. Việc liên kết liên doanh giữa các cơ

sở đào tạo nghề với thị trường, doanh nghiệp còn chưa nhiều.

Thứ tư, hiện nay các công ty, xí nghiệp còn e dè, thậm chí còn có tư

tưởng tẩy chây trong việc nhận lao động là đối tượng sau cai nghiện trở về địa

phương, chưa có niềm tin trong sử dụng lao động thuộc đối tượng này, để tạo

điều kiện cho số thanh niên này thật sự hoàn lương, trở thành công dân tốt sau

khi lầm lỗi.

Thứ năm, trình độ, năng lực và các kỹ năng sống của đội ngũ cán bộ,

50

công chức làm công tác thanh niên (lại hoạt động kiêm nhiệm) và của đội ngũ

cán bộ Đoàn các cấp cũng chưa đồng đều, nên chưa hoàn toàn đáp ứng yêu

cầu mới trong phát triển.

Tiểu kết chương 2

Từ thực trạng nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về công tác thanh

niên ở Huyện Thăng Bình hiện nay cho thấy: Ở nhiều năm qua dưới sự điều

hành của chính quyền địa phương các cấp cùng với bước chuyển tích cực từ

nhận thức đến hoạt động, nên đã triển khai khá thuận lợi về các chương trình,

đề án công tác thanh niên; từng bước đặt thanh niên trở thành lực lượng trung

tâm trong triển khai các dự án chương trình phát triển KT-XH. UBND huyện

Thăng Bình cũng đã bố trí một phần kinh phí ngân sách đầu tư xây dựng Làng

thanh niên lập nghiệp, Trung tâm sinh hoạt thanh thiếu nhi, nhà thiếu nhi

huyện, thành phố... Nhờ đó đã mở ra nhiều cơ hội cho thanh niên tiếp cận đề

án/ chương trình hỗ trợ trong đào tạo kỹ năng nghề, kết nối việc làm với các

doanh nghiệp có nhu cầu; cũng như đầu tư phát triển thanh niên trên nhiều

nhiều lĩnh vực, qua đó giúp họ rèn luyện, trưởng thành và cống hiếncho sự

phát triển của địa phương, của đất nước. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công

tác thanh niên trên địa bàn huyện cũng từng bước được chuẩn hóa về trình độ

lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, trang bị kiến thức quản trị - quản lý

để đáp ứng nhiệm vụ yêu cầu hiện nay. Hơn nữa, trình độ dân trí của thanh

niên ngày nay đã được nâng lên giúp cho họ nhận thức được bổn phận và

trách nhiệm của mình đối với gia đình quê hương và xã hội; cũng như qua đó

giảm thiểu tính lệ thuộc/ thụ động vào gia đình và nhà nước.

Tuy vậy, vẫn có một số vấn đề hạn chế nhất định, đó là: Còn nhiều

phòng ban, đơn vị trên địa bàn huyện chưa thiết lập được tính khả thi của

chương trình hành động, kế hoạch thực hiện của đơn vị mình trước yêu cầu

51

thực tiễn của công tác thanh niên; thay vào đó chỉ chú trọng nhiệm vụ chuyên

môn phụ trách. Nói cách khác, một số phòng ban đơn vị chưa nhận thức sâu

sắc trách nhiệm của ngành trong quá trình tham mưu UBND huyện để triển

khai hiệu quả chương trình/ đề án phát triển thanh niên, công tác thanh niên

gần như khoán trắng cho tổ chức Đoàn và hội thanh niên tổ chức hoạt động;

trong khi các hoạt động của tổ chức Đoàn và hội thanh niên còn mang tính bề

nổi phong trào, thiếu chiều sâu để chăm lo đời sống thanh niên. Đối với đội

ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh

niên còn thiếu nhiều kỹ năng cần thiết cũng như kinh nghiệm công tác thanh

niên.

52

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ

NƯỚC VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN

3.1. Những giải pháp chung cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước về công tác thanh niên trong phạm vi cả nước

3.1.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật, chiến lược, chính sách, chương

trình phát triển thanh niên

Thứ nhất, cần sớm luật hóa, cụ thể hóa quy định về trách nhiệm của các

tổ chức, cá nhân cũng như thanh niên trong thực hiện Luật Thanh niên 2020

về các quy định:

- Đẩy mạnh việc ban hành các văn bản dưới luật để sớm đưa hiệu lực

Luật Thanh niên 2020 vào thực tiễn cuộc sống.

- Cần bổ sung làm rõ nghĩa vụ của thanh niên gắn với những trách

nhiệm, nghĩa vụ của thanh niên vào các điều Luật nghĩa vụ quân sự, Luật hôn

nhân và gia đình, Luật hình sự, Luật Giáo dục,... để có cơ sở nâng cao vai trò,

ý thức trách nhiệm của thanh niên trong học tập, lao động, xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc.

- Bổ sung và hoàn thiện thêm một số nội dung về quyền thanh niên

được thông tin, về cơ chế bảo đảm bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp

của thanh niên khi bị vi phạm, về cơ hội và điều kiện lao động - việc làm,...

khi gặp khó khăn nhằm… bảo đảm các quy định trong Luật Thanh niên 2020

về thực hiện quyền của thanh niên.

- Bổ sung trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, các đoàn thể và các chủ

thể khác đối với thanh niên: nêu rõ từng nội dung, nhiệm vụ do chủ thể nào

thực hiện hoặc chủ trì phối hợp thực hiện, quy định cụ thể hình thức xử lý

nếu các chủ thể chưa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình đối với công tác thanh

niên; tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát, kiểm tra kết quả thực hiện

53

của từng ngành, thẩm quyền, trách nhiệm xử lý,... Từ đó, nâng cao chất

lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra, thanh tra về trách nhiệm thực hiện

công tác thanh niên của các chủ thể.

Thứ hai, Chính phủ cần quan tâm hơn trong việc chỉ đạo các Bộ, cơ quan

ngang Bộ, xây dựng văn bản chỉ đạo thực hiện công tác thanh niên theo

ngành, lĩnh vực phụ trách; tham mưu ban hành các chế độ, chính sách đối với

thanh niên, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển đúng hướng, phát huy tiềm

năng. Định kỳ, cần có kế hoạch kiểm tra tiến độ, kết quả thực hiện; kịp thời

xử lý nghiêm đối với những đơn vị tổ chức thực hiện kém hiệu quả, thiếu

trách nhiệm trong triển khai thực hiện trong công tác thanh niên.

Thứ ba, Ủy ban quốc gia về Thanh niên Việt Nam và Bộ Nội vụ, cần

tham mưu cơ chế phối hợp giữa Trung ương Đoàn thanh niên và các cơ quan,

ban ngành cùng thực hiện công tác thanh niên ở từng lĩnh vực cụ thể. Có quy

định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể, của cán bộ làm công tác

thanh niên các cấp, nhất là cấp cơ sở nơi trực tiếp tiếp xúc, gần gũi thanh

niên. Có chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức làm công tác thanh

niên và cán bộ Đoàn, Hội; thường xuyên xây dựng chương trình đào tạo

chuyên môn, kỹ năng công tác thanh niên phù hợp từng giai đoạn phát triển,

nhằm nâng cao chất lượng tham mưu giúp Nhà nước thực hiện tốt công tác

này.

Thứ tư, thường xuyên khảo sát nhu cầu, sự phát triển của thanh niên, để

kịp thời ban hành các chính sách, hỗ trợ phù hợp cho từng đối tượng, vùng,

miền nhất là đối với thanh niên vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và dân tộc

thiểu số. Chủ động phối hợp Ban Tuyên giáo trung ương, Trung ương Đoàn

thanh niên, có chương trình giáo dục, nâng cao ý thức tích cực về các vấn đề

xã hội trong thanh niên; kịp thời thông tin đến thanh niên những vấn đề mà

thanh niên đang quan tâm, nhất là vấn đề giải quyết việc làm và các nhu cầu

54

chính đáng khác; quan tâm một cách chính xác, kịp thời, nhanh chóng tạo

niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước,

với năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức đối với thanh niên và

công tác thanh niên.

3.1.2. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về công tác thanh niên

3.1.2.1. Kiện toàn cơ cấu một số chức danh lãnh đạo và đội ngũ cán bộ

quản lý công tác thanh niên

- Tập trung kiện toàn đội ngũ lãnh đạo quản lý Nhà nước về công tác

thanh niên.

+ Ở Trung ương: cần cơ cấu một Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ

tịch Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam (Hoặc chủ tịch Hội danh dự), Bí thư

Trung ương Đoàn (Chuyên trách) làm Phó chủ tịch Thường trực Hội và Thứ

trưởng Bộ Nội vụ kiêm Phó chủ tịch Hội; Vụ trưởng Vụ công tác thanh niên

làm thành viên của Hội liên hiệp thanh niên.

+ Ở địa phương: cơ cấu Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp kiêm

chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam cùng cấp (Hoặc Chủ tịch danh

dự), phó bí thư Đoàn (Chuyên trách) làm Phó chủ tịch thường trực và Phó

giám đốc Sở (Phó trưởng Phòng Nội vụ) kiêm phó chủ tịch Hội, Trưởng

phòng công tác thanh niên Sở (công chức Phòng Nội vụ) kiêm thành viên ủy

ban Hội; Cấp xã công chức văn phòng ủy ban xã kiêm phụ trách công tác

thanh niên là thành viên ủy ban Hội cấp xã.

Như vậy sẽ tạo được sự liên kết, liên đới trách nhiệm trong công tác

thanh niên giữa Nhà nước và đoàn thể, hiệu lực và hiệu quả QLNN vê công

tác thanh niên sẽ cao hơn, chủ động hơn, mang tính chuyên môn hơn.

- Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý

thanh niên.

55

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh niên, cần bố trí

những người từng trải nghiệm thời gian công tác ít nhất 01 nhiệm kỳ (05 năm)

trong tổ chức Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp thanh niên các cấp. Từng bước

hình thành nhận thức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp thật sự

hiểu, quan tâm đến công tác thanh niên và vai trò rất trọng của QLNN về

công tác thanh niên đối với sự phát triển lâu dài, bền vững của đất nước.

Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động ở tất cả các cấp

lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở và trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức cũng như toàn xã hội về tầm quan trọng và ý nghĩa của Chiến lược phát

triển thanh niên trong tình hình mới, cũng như vị trí, vai trò của thanh niên,

trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Đây phải là những người thật sự có tâm huyết với thanh niên, hiểu thanh

niên và luôn vì sự phát triển của thanh niên. Luôn có ý thức, trách nhiệm

trong nghiên cứu, tìm hiểu và mạnh dạn đề xuất các vấn đề liên quan đến

thanh niên. Chủ động gần gũi, gắn bó với thanh niên để tham mưu cho Đảng,

Nhà nước về những chính sách hỗ trợ mà hiện nay thanh niên thật sự cần.

Thường xuyên đào tạo, tập huấn nâng cao về năng lực cho đội ngũ cán

bộ, công chức chuyên trách và những người không chuyên trách làm công tác

thanh niên và công tác quản lý nhà nước về thanh niên ở các cấp.

Bố trí cán bộ, công chức làm quản lý nhà nước về công tác thanh niên

cần phải có trình độ, năng lực, kinh nghiệm công tác, nắm giữ những vị trí

quan trọng, trong việc hoạch định phát triển ngành, địa phương; để từ đó có

cơ sở tham mưu cho việc phát triển thanh niên theo ngành, lĩnh vực, cần phân

định rõ chức năng quản lý nhà nước về thanh niên và công tác Đoàn Thanh

niên, không để Đoàn thanh niên làm hộ, làm thay việc quản lý nhà nước về

công tác thanh niên như tình trạng hiện nay ở một số địa phương. Để hình

56

thành ý thức tích cực hơn, tin tưởng vào sự điều hành của Nhà nước để cùng

chung sức xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập.

3.1.2.2. Bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất phục vụ quản lý nhà nước về

công tác thanh niên

Để xây dựng được một lớp thanh niên phát triển đầy đủ mọi mặt, có đủ

trình độ, năng lực để tham gia xây dựng, phát triển đất nước, đủ sức khỏe và

tinh thần bảo vệ Tổ quốc thì không thể chỉ bằng phương pháp lý luận, công

tác tư tưởng. Mà, Nhà nước cần có kế hoạch phân bố nguồn ngân sách phù

hợp, vận động xã hội hóa cho công tác thanh niên nhằm tạo điều kiện hỗ trợ

cho thanh niên phát triển về nhân-thể-mỹ…

Nhà nước cần đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất như: trường học

có đủ thiết bị giảng dạy, nghiên cứu cần thiết hiện đại, chương trình đào tạo

thích ứng với nhu cầu ứng dụng thực tế; thu hút đầu tư xây dựng các ngành,

lĩnh vực đảm bảo thanh niên có việc làm sau đào tạo; xây dựng những công

trình, thiết chế văn hóa tạo điều kiện cho thanh niên tham gia tập luyện nâng

cao thể chất, tinh thần.

Quan tâm bố trí nguồn ngân sách phù hợp nhằm đảm bảo cho các hoạt

động QLNN về công tác thanh niên như: tổ chức các hoạt động văn hóa văn

nghệ, thể dục thể thao; hội thi nâng cao tay nghề, các buổi tư vấn, định hướng

nghề cho thanh niên, học sinh; tạo quỹ hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp, sáng tạo

khoa- học kỹ thuật, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong lao động, sản xuất;

quan tâm thường xuyên công tác bồi dưỡng, đào tạo, rèn luyện chuyên môn,

nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác thanh niên; tổ chức các hoạt động

giao lưu, trao đổi học tập với thanh niên các nước tiên tiến,... Phân bổ kinh

phí đảm bảo cho từng ngành, địa phương phụ trách các lĩnh vực, hoạt động

công tác thanh niên.

57

3.1.3. Nâng cao hiệu quả về công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện

các chính sách, pháp luật về thanh niên và công tác thanh niên

Cần xây dựng các thiết chế chặt chẽ hơn và thành lập Ban Chỉ đạo

nhằm kiểm tra trong việc tổ chức thực hiện Luật thanh niên và các văn bản

có liên quan đến thanh niên, trực thuộc Chính phủ. Định kỳ tổ chức sơ, tổng

kết để đánh giá, kiểm điểm thực chất trong quá trình tổ chức thực hiện nhằm

phát huy huy quả những kết quả làm được và nghiêm túc khắc phục những

mặt hạn chế, thiếu sót.

Thành lập và duy trì các đoàn kiểm tra, giám sát, thanh tra, việc triển

khai thực hiện chiến lược, phát triển thanh niên của từng bộ, ngành định kỳ

hằng năm. Báo cáo kết quả kiểm tra của Ủy ban quốc gia về thanh niên Việt

Nam để Chính phủ biết chỉ đạo thực hiện và có hình thức xử lý, chấn chỉnh

kịp thời đối với các đơn vị vi phạm, hoặc thiếu trách nhiệm trong tham mưu

và tố chức thực hiện.

Tổ chức Đoàn thanh niên, hằng năm tham mưu cấp ủy đảng, đồng thời

phối hợp với UBND cùng cấp có kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện

Luật thanh niên, Nghị quyết số 25 của BCH Trung ương Đảng, Nghị quyết

số 45 của Chính phủ đối với chi, Đảng bộ và chính quyền cấp dưới. Từ đó,

đề xuất các giải pháp để tổ chức thực hiện các hoạt động dành cho thanh niên

phù hợp, mang lại hiệu quả cao, tạo điều kiện, cho thanh niên phát triển về

mọi mặt.

3.1.4. Đảm bảo trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh

niên; và tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nuớc về công

tác thanh niên và tổ chức Đoàn thanh niên

3.1.4.1. Đảm bảo trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh

niên

58

Một là, Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung

quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, là làm tốt công tác xây dựng Đảng

trước một bước. Đảng đề ra đường lối, chủ trương định hướng cho thanh niên

hành động, xác định các chuẩn mực cho thanh niên phấn đấu; xây dựng các

tấm gương điển hình tiêu biểu trong mọi lĩnh vực đời của sống xã hội để cho

thanh niên học tập và noi theo.

Hai là, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra của các cấp ủy

đảng, chính quyền đối với công tác thanh niên và phát triển thanh niên, tiếp

tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về thanh niên. Lồng ghép các

mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển thanh niên trong xây dựng và tổ chức thực hiện

chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các bộ,

ngành, địa phương; kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về thanh

niên.

Ba là, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 25-NQ/TW,

ngày 25/7/2007 của BCH TW Đảng (khoá X) về "Tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá" và Kết luận số 80-KL/TW, ngày 25/12/2013 của Bộ Chính trị

về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 25/7/2007 của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa”.

3.1.4.2. Tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa cơ qụan quản lý nhà

nước về công tác thanh niên với tổ chức Đoàn thanh niên

Một là, cần phát huy tốt vai trò của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí

Minh và tổ chức thanh niên các cấp do Đoàn Thanh niên làm nòng cốt tham

gia thực hiện các chiến lược phát triển thanh niên. Thông qua các cuộc vận

59

động, các phong trào xung kích, tình nguyện, hành động cách mạng nhằm xây

dựng các gương tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến nhằm giáo dục và tạo cho

thanh niên ý thức tự giáo dục rèn luyện để trưởng thành và hoàn thiện.

Hai là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa

cơ quan quản lý nhà nước với Đoàn thanh niên nhằm thực hiện tốt cơ chế

phối hợp liên ngành trong việc thực hiện cơ chế, chính sách và pháp luật đối

với thanh niên. Định kỳ lãnh đạo các bộ, ngành và địa phương có trách nhiệm

gặp gỡ đối thoại với thanh niên để nắm bắt những tâm tư, tình cảm, nhu cầu

chính đáng và giải quyết những vấn đề được đặt ra đối với thanh niên.

Ba là, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, phối hợp chặt chẽ với

chính quyền các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể khác, các

cơ quan, đơn vị nhằm đa dạng hóa các hình thức, phương pháp tuyên truyền,

giáo dục cho thanh niên bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp để

thanh niên có điều kiện thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình.

3.1.5. Giải pháp khác

- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, vai trò giám sát của Hội đồng

nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể xã hội các cấp đối với việc

triển khai, thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên.

- Khuyến khích và có giải pháp hỗ trợ các trung tâm dịch vụ việc làm,

cơ sở dạy nghề của các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh công tác hướng nghiệp,

dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho thanh niên.

3.2. Những giải pháp riêng cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn huyện Thăng Bình.

3.2.1. Bảo đảm vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với công

tác thanh niên

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra của các cấp ủy Đảng, chính

quyền đối với công tác thanh niên về việc phát triển thanh niên ở địa phương,

60

đặc biệt kiểm tra các ban, ngành liên quan trong việc thực hiện Nghị quyết

25-NQ/TW, ngày 25/7/2007 của BCH TW Đảng khoá X về “Tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên, trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá ” và Kết luận số 80-KL/TW, ngày 25/12/2013 của

Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày

25/7/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về "Tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên, trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tăng cường vai trò trách nhiệm lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính

quyền huyện Thăng Bình đối với công tác thanh niên bằng việc hoạch định

chương trình kế hoạch có tính khả thi cao (phù hợp với đặc điểm cụ thể của

thanh niên và điều kiện hoản cảnh ở địa phương), để mở đường và gia tăng

hiệu quả công tác thanh niên; và triển khai thuận lợi các phong trào phát triển

thanh niên ở địa phương.

3.2.2. Bảo đảm phối hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý nhà nước về

công tác thanh niên với tổ chức Đoàn thanh niên

Ban hành các văn bản chỉ đạo của UBND Huyện đối với các phòng, ban

chuyên môn, thuộc Huyện trong việc tổ chức các hoạt động có liên quan đến

công tác thanh niên. Đồng thời, chỉ đạo, các đơn vị liên quan phối hợp với tổ

chức Đoàn trên cơ sở có sự phân vai rõ ràng để phòng tránh xu hướng đùn

đẩy/ né tránh trách nhiệm hoặc thụ động trong phối hợp thực hiện, để triển

khai các chương trình, kế hoạch đã đề ra trong các chương trình chiến lược

phát triển thanh niên một cách đồng bộ và hiệu quả (chứ không nên chỉ khoán

trắng lâu nay cho hệ thống tổ chức Đoàn thanh niên phối hợp với phòng Tư

pháp cùng thực hiện là chủ yếu).

Bên cạnh đó, cũng cần làm tốt công tác giáo dục tư tưởng, nâng cao nhận

thức của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, nhất là đối với lãnh đạo các sở,

61

ngành, UBND các cấp về tầm quan trọng của thanh niên và công tác thanh

niên trong giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội hiện nay. Cần nhận thức rõ vai

trò, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành đối với sự phát triển của thanh niên

gắn liền với sự phát triển của địa phương. Quan tâm hơn nữa đến công tác

chăm lo, giáo dục thanh niên, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển toàn diện

chính là nhiệm vụ của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể

không giao khoán cho gia đình, trường học, xã hội. Đồng thời luôn đảm bảo

có sự lãnh đạo xuyên suốt của Đảng, sự tham gia tích cực của các tổ chức

chính trị, xã hội.

Phát huy vai trò, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân

dân, các tổ chức, cá nhân, dòng họ, gia đình trong việc lập các Quỹ khuyến

học, khuyến tài cho thanh niên. Gia đình, Nhà nước và xã hội đẩy mạnh về

công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức để thanh niên ý thức về vị

trí, vai trò, trách nhiệm của mình, nhằm thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ công

dân của thanh niên.

Hướng dẫn việc tổ chức, phối hợp đào tạo nghề và giải quyết việc làm

cho thanh niên, hỗ trợ cho thanh niên lập thân lập nghiệp, nhất là các chương

trình khởi nghiệp trong thanh niên, hướng dẫn việc đầu tư, xây dựng khai

thác, sử dụng, quản lý và các cơ chế, chính sách xã hội hóa đối với các thiết

chế văn hóa cơ sở cho hoạt động thanh thiếu niên; hướng dẫn việc tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trong thanh niên... Đồng thời, chính

quyền tạo cơ chế, chính sách thu hút doanh nghiệp trên địa bàn; và cùng với

huyện đoàn Thăng Bình tập trung chủ động đóng vai trò điều tiết, điều phối

mối liên kết liên doanh giữa các cơ sở đào tạo nghề với thị trường, doanh

nghiệp nhằm gắn kết chiều sâu giữa công tác đào tạo nghề và giải quyết việc

làm cho thanh niên nông thôn. Kèm theo yêu cầu phải nâng cao năng lực của

62

các cơ sở đào tạo nghề để đáp ứng chuẩn đầu ra về giá trị của chứng chỉ nghề

đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp và nhu cầu thực tế của thanh niên.

Hằng năm, tổ chức hội nghị tổng kết đánh giá về tình hình triển khai

thực hiện các nội dung của công tác quản lý nhà nước đối với công tác thanh

niên, đánh giá kết quả việc thực hiện của các phòng, ban về chuyên môn theo

từng ngành, từng lĩnh vực. Từ đó, đề ra các giải pháp phù hợp, có hiệu quả

hơn thúc đẩy thực hiện có hiệu quả các chính sách đối với thanh niên. Muốn

thực hiện tốt điều này, cần lắm những người thật sự có tâm huyết với thanh

niên, hiểu thanh niên và luôn vì sự phát triển của thanh niên. Luôn quyết tâm

trong nghiên cứu, tìm hiểu và mạnh dạn đề xuất các vấn đề liên quan đến

thanh niên. Chủ động gần gũi, gắn bó với thanh niên, để tham mưu những

chính sách hỗ trợ mà thanh niên thật sự cần và mang lại hiệu quả cao.

Cần giáo dục nâng cao trình độ, năng lực và nhận thức của đội ngũ cán

bộ, công chức làm công tác thanh niên, hiểu rõ trách nhiệm quản lý của Nhà

nước đối với thanh niên và công tác thanh niên là không thể thiếu, không thể

thay thế bởi tổ chức Đoàn hay các chủ thể khác trong xu thế phát triển và hội

nhập hiện nay. Chỉ khi Nhà nước thực hiện hiệu quả công tác quản lý của

mình thì thanh niên mới có đủ điều kiện phát triển và phát huy hết các tiềm

năng của mình, từ đó hình thành ý thức tích cực hơn, tin tưởng vào sự điều

hành của Nhà nước để cùng chung sức xây dựng, phát triển và bảo vệ đất

nước.

Để xây dựng được một lớp thanh niên phát triển toàn diện, có đủ trình

độ, năng lực để tham gia xây dựng, phát triển đất nước, đủ sức bảo vệ Tổ

quốc thì không chỉ dừng lại ở phạm vi lý luận, thực hiện công tác giáo dục tư

tưởng cho thanh niên. Mà Nhà nước cần có kế hoạch phân bố nguồn ngân

sách hợp lý, vận động các chủ thể khác trong xã hội vào cuộc, đồng hành

nhằm tạo điều kiện hỗ trợ cho thanh niên phát triển trí tuệ, sức khỏe, tinh

63

thần,...

Nhà nước cần đảm bảo cơ sở vật chất cần thiết như: trường học có đủ

thiết bị giảng dạy chất lượng, nghiên cứu cần thiết hiện đại, chương trình đào

tạo thích ứng với nhu cầu ứng dụng thực tế, nhất là trong thời đại công nghiệp

lần thứ 4 phát triển như hiện nay; thu hút các nguồn lực đầu tư xây dựng các

ngành, lĩnh vực đảm bảo thanh niên có việc làm sau đào tạo; xây dựng những

công trình, thiết chế văn hóa tạo điều kiện cho thanh niên tham gia tập luyện

nâng cao thể chất, tinh thần.

Quan tâm bố trí nguồn ngân sách phục vụ cho các hoạt động QLNN về

công tác thanh niên như: duy trì tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể

dục thể thao; hội thi nâng cao tay nghề, các buổi tư vấn, định hướng nghề cho

thanh niên, học sinh; tạo quỹ hỗ trợ thanh niên sáng tạo khoa học kỹ thuật, cải

tiến nâng cao chất lượng, hiệu quả trong lao động, sản xuất, nhất là dụng công

nghệ cao trong nông nghiệp; phát triển đẩy mạnh, lan tỏa phong trào khởi

nghiệp chính trên mảnh đất của quê hương cho thanh nhiên, nhằm thu hút và

giải quyết lao động tại chỗ công tác bồi dưỡng, đào tạo, rèn luyện chuyên

môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác thanh niên cũng phải được

quan tâm đúng mức.

3.2.3. Bố trí công chức chuyên trách và bảo đảm điều kiện cơ sở vật

chất phục vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên

Bố trí công chức chuyên trách làm công tác thanh niên phải có trình độ

chuyên môn, am hiểu về công tác thanh niên; để từ đó có thể tham mưu các

chương trình, kế hoạch về công tác thanh niên; sát với thực tế nhu cầu nguyện

vọng chính đáng của thanh niên địa phương.

Từng sở, ngành căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, hằng năm phải

xây dựng dự toán ngân sách, để tổ chức thực hiện công tác thanh niên, gửi về

Sở Tài chính kế hoạch tỉnh và ban chỉ đạo tỉnh để tham mưu đề xuất UBND

64

tỉnh có kế hoạch bố trí ngân sách thực hiện trong năm. Công tác thanh niên,

cần nguồn lực về kinh phí, phương tiện, con người rất lớn, cần sự chủ động

công tác xã hội hóa trong các doanh nghiệp, toàn xã hội của các sở, ngành và

các địa phương trong tỉnh.

Định kỳ hằng năm cần sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả tham mưu của

các ngành chuyên môn, trực thuộc UBND các cấp, trong thực hiện nhiệm vụ

trong công tác thanh niên. Cuối năm qua đánh giá kết quả thực hiện có khen

thưởng những đơn vị thực hiện tốt, cũng như xử lý nghiêm những đơn vị

thiếu trách nhiệm công tác tham mưu thực hiện QLNN về công tác thanh

niên.

65

Tiểu kết chương 3

Từ những mặt đạt được cũng như những hạn chế, bất cập trong QLNN

về công tác thanh niên trên địa bàn tỉnh huyện Thăng Bình Quảng Nam,

trong thời gian qua với nhiều nguyên nhân từ việc thực hiện các hệ thống

pháp luật, các văn bản điều chỉnh của các bộ, ngành trung ương đến địa

phương về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm các

cấp, đến việc triển khai và tổ chức thực hiện của từng ngành cho thấy việc

quản lý của Nhà nước về công tác thanh niên vẫn chưa đảm bảo yêu cầu,

nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới. Căn cứ theo đặc điểm tình hình thanh

niên nói chung và ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam nói riêng cần có

những giải pháp thực hiện phù hợp hơn, mang lại hiệu quả thiết thực hơn, để

tạo điều kiện cho thanh niên phát triển toàn diện cả về số lượng và chất

lượng. Nội dung giải pháp chung, về hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản

lý công tác thanh niên, nâng cao năng lực QLNN về công tác thanh niên, bảo

đảm sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành và chủ trọng hiệu lực, hiệu quả

công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra kết quả thực hiện. Cũng như những đề

xuất giải pháp riêng đối với huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Đây là

những giải pháp nhằm giải quyết cơ bản những hạn chế, bất cập trong QLNN

về công tác thanh niên, hiện nay ở Việt Nam cũng như ở huyện Thăng Bình,

tỉnh Quảng Nam.

66

KẾT LUẬN

Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, đầy tiềm năng, một trong những

nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ

yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc, đòi hỏi phải có sự năng

động, sáng tạo, nhạy bén, linh hoạt, trình độ, sức khỏe, đặc biệt là phải dám

nghĩ, dám làm, dám dấng thân vì tương lai tốt đẹp của bản thân và xã hội.

Song, do tuổi còn trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm, sự trui rèn nên thanh niên cần

được sự giúp đỡ, chăm lo, hướng dẫn của các thế hệ đi trước và toàn xã hội.

Trước yêu cầu, của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước, quá trình hội nhập quốc tế, ngày càng sâu rộng và sự biến đổi nhanh

chóng của thế giới . Sự phát triển của thanh niên đòi hỏi phải tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, đối với công tác thanh niên

nhằm chăm lo, bồi dưỡng và phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của thanh

niên, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam XHCN. Các

nội dung QLNN về công tác thanh niên cần đảm bảo thực hiện theo Luật quy

định, để có cơ sở cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng, Chính phủ về công tác

thanh niên. Đồng thời tạo điều kiện, để thanh nhiên phát huy các thế mạnh,

tiềm năng, sự chủ động của mình trong phát triển kinh tế, xã hội và sự nghiệp

bảo vệ đất nước trong thời kỳ mới. Đa số thanh niên cả nước nói chung và

thanh niên ở huyện Thăng Bình, Quảng Nam nói riêng đều có ý chí vươn lên

trong học tập, rèn luyện, cần cù lao động; tin tưởng vào đường lối lãnh đạo

và đổi mới của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước; tích cực tham gia

các phong trào thanh niên; chấp hành pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó,

đời sống kinh tế của một bộ phận thanh niên của huyện còn gặp nhiều khó

khăn, nhất là thanh niên đặc thù, yếu thế trong xã hội. Một bộ phận thanh

niên có lối sống vô cảm, thực dụng, đua đòi, vi phạm pháp luật ngày càng có

chiều hướng gia tăng, vấn đề đó đặt ra thách thức đối với công tác thanh

67

niên, trong giai đoạn hiện nay.

Công tác thanh niên hiện nay ở huyện đã được các cấp, các ngành quan

tâm, và xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện, nhất là các cơ quan nhà

nước. Qua kết quả triển khai thực hiện chương trình phát triển thanh niên

Huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020 có thể thấy trong

nhận thức và hoạt động của Nhà nước về công tác thanh niên; đã có nhiều

chuyển biến tích cực. Phần nào đã cụ thể hóa các nội dung, chỉ tiêu Nghị

quyết 25 của Đảng và Nghị quyết số 45 của Chính phủ, thành những chế độ,

chính sách, công việc cụ thể đối với thanh niên. Bên cạnh đó thì cũng còn

những mặt hạn chế trong quá trình quản lý, thực hiện của các sở, ngành tỉnh

và huyện: về công tác đào tạo, tạo việc làm, bố trí nguồn lực, hệ thống pháp

lý, sự phối hợp các ngành … chưa đảm bảo thực hiện tốt, đầy đủ các chức

năng, nhiệm vụ được giao. Những giải pháp chung, riêng nêu trên nhằm giải

quyết, những vấn đề còn hạn chế, thiếu sót trong công tác quản lý của Nhà

nước về thanh niên. Đó là: Sự tác động của các văn bản pháp luật, đến các

mối quan hệ trong công tác thanh niên thấp, kém hiệu lực, hiệu quả, cần

được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp; các chế độ, chính sách, dự án

dành cho thanh niên nhiều, nhưng đôi lúc chưa đúng người, chưa phù hợp

với nhu cầu của thanh niên; vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành trong thực

thi nhiệm vụ chưa cao, còn thụ động, trong công tác phối kết hợp; đội ngũ

cán bộ, công chức làm công tác thanh niên, chưa đủ tầm, tâm để thực hiện;

nguồn ngân sách đầu tư, cho công tác chưa nhiều, chưa thường xuyên,... Phát

triển thanh niên là mục tiêu, là động lực của cả hệ thống chính trị xây dựng

một thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Đây là nhiệm vụ chung, của

toàn xã hội: Công tác thanh niên là những hoạt động của Đảng, Nhà nước và

xã hội nhằm giáo dục, bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên,

phấn đấu và trưởng thành, đồng thời phát huy vai trò xung kích, sức sáng tạo

68

và tiềm năng to lớn của thanh niên, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc.

69

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993), Nghị quyết Hội nghị

lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Hà Nội.

2. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X (2008), Nghị quyết Hội nghị lần

thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng, Hà Nội.

3. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2011), Điều lệ Đảng cộng sản

Việt Nam, Hà Nội.

4. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2011), Nghị quyết số 25-

NQ/BCH ngày 25/7/2008 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, Hà Nội.

5. Ban chấp hành Hội cựu thanh niên xung phong tỉnh Quảng Nam, Văn kiện

đại hội đại biểu Hội cựu thanh niên xung phong tỉnh Quảng Nam lần thứ

II, nhiệm kỳ 2017 - 2022, Quảng Nam.

6. Ban soạn thảo (1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

7. Ban soạn thảo (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

8. Ban biên soạn (2014), 45 năm thực hiện Di chúc của chủ tịch Hồ Chí

Minh (1969-2014), NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

9. Bộ Nội vụ (2011), Thông tư số 04/2011/TT-BNV ngày 10/2/2011 về

hướng dẫn bổ sung nhiệm vụ, tổ chức và biên chế của Sở Nội vụ, Phòng

nội vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện về công tác thanh niên,

Hà Nội.

10. Bộ trưởng Bộ Nội vụ (2011), Quyết định số 1923/QĐ-BNV ngày

28/11/2011 phê duyệt Đề án Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà

nước về công tác thanh niên cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác

thanh niên các cấp, các ngành giai đoạn 2011-2015, Hà Nội.

11. C.Mác-Ănghen (1982), Bàn về thanh niên, NXB Thanh niên, Hà Nội.

12. Chính phủ (2007), Nghị định số 120-NĐ/CP ngày 23/7/2007 hướng dẫn

thi hành một số điều của Luật Thanh niên 2005, Hà Nội.

13. Chính phủ (2009), Nghị quyết số 45/NQ-CP ngày 11/9/2009 về ban hành

Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Hà Nội.

14. Chính phủ (2011), Nghị định số 12/2011/NĐ-CP ngàv 30/01/2011 về tổ

chức và chính sách đối với thanh niên xung phong, Hà Nội.

15. Chính phủ (2012), Nghị định số 61/2012/NĐ-CP ngày 10/08/2012 quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ,

Hà Nội.

16. Đào Ngọc Dung (2005), Sự tham gia của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ

Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh niên, Luận

văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội.

17. Dương Tự Đam (2005), Thanh niên - Giáo dục và phát triển, NXB Thanh

niên, Hà Nội.

18. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Dự thảo văn kiện đại hội Đảng XII,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Huyện Đoàn Thăng Bình (2020), Báo cáo tổng kết hoạt động công tác từ

năm 2016-2020.

21. Vũ Trọng Kim (1999), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên trong

tình hình mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Lênin (1981), Bàn về thanh niên, NXB Tiến Bộ, Mátxcơva.

23. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, (tập II), NXB Sự Thật, Hà Nội.

24. Nguyễn Vĩnh Oánh (1995), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Quốc Hội (2005), Luật Thanh niên 2005, NXB Thanh niên, Hà Nội.

26. UBND huyện Thăng Bình (2020), Báo cáo tổng kết công tác giai đoạn

2015-2020.

27. http://chinhphu.vn/

28. http://www.molisa.gov.vn/

29. http://doanthanhnien.vn/

30. http://www.quangnam.gov.vn/

31. http://vieclamvietnam.gov.vn/

32. http://huyenuythangbinh.vn/

33. http://tinhdoanqnam.vn/

34. http://www.thangbinh.quangnam.gov.vn/

35. http://tuoitrethangbinh.vn/