VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HOÀNG HUYÊN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THĂNG BÌNH,
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN LONG HẢI
HÀ NỘI, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Quảng Nam, ngày tháng năm 2021
Tác giả
Trần Thị Hoàng Huyên
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện tại Học Viện khoa học xã hội, cơ sở tại
thành phố Đà Nẵng.
Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự động
viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể, quý thầy cô. Trước hết, tôi xin bày
tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đến thầy Nguyễn Long Hải đã tận tình
hướng dẫn tôi thực hiện đề tài của mình.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc chân thành tới các thầy cô giáo, người đã
trang bị và đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ vô cùng có ích trong những
năm học vừa qua. Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới quý thầy cô giáo đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NUỚC VỀ CÔNG TÁC
THANH NIÊN ............................................................................................... 10
1.1. Quản lý nhà nước về công tác thanh niên ................................................ 10
1.2. Chủ thể, nội dung quản lý nhà nước về công tác thanh niên ................... 17
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thanh
niên .................................................................................................................. 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC
THANH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH
QUẢNG NAM ............................................................................................... 27
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam .............................................................................................. 27
2.2. Tình hình quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn Huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam ......................................................................... 34
2.3. Đánh giá quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn Huyện
Thăng Bình, Tỉnh Quảng Nam ........................................................................ 45
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN .................................... 53
3.1. Những giải pháp chung cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về công tác thanh niên trong phạm vi cả nước. ..................................... 53
3.2. Những giải pháp riêng cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về công tác thanh niên trên địa bàn huyện Thăng Bình. ........................ 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1
2 CNXH Chủ nghĩa xã hội
3 QLNN Quản lý nhà nước
4 UBND Ủy ban nhân dân
5 XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang Bảng
Đặc điểm giới tính, độ tuổi thanh niên huyện Thăng 31 2.1 Bình
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu Tên hình Trang hình
2.1 Bản đồ hành chính huyện Thăng Bình 29
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài .
Trong tiến trình phát triển của xã hội Việt Nam, thanh niên luôn được
quan tâm hết mức như là rường cột, là chủ nhân tương lai của đất nước.
Thanh niên là một lực lượng hùng mạnh đông đảo, chiếm tỷ lệ phần lớn trong
dân cư, là chủ thể cải tạo xây dựng xã hội, lớp người sáng tạo ra tương lai, lực
lượng có vai trò quan trọng thúc đẩy lịch sử phát triển và duy trì sự sống.
Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hàng
triệu thanh niên đáp lời kêu gọi của non sông hăng hái lên đường chống giặc
ngoại xâm, đã ngã xuống vì độc lập tự do cho dân tộc, viết tiếp những trang
sử vẻ vang, tạo nên những thế hệ thanh niên anh hùng của một dân tộc anh
hùng. Với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy
tương lai”, “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “hay là ta sẽ đến nơi đâu còn
giặc ta chưa về khi Tổ quốc chưa yên…”, hăng hái tham gia các phong trào
"Ba sẵn sàng", “Năm xung phong” ... Ở nước ta, thanh niên là lực lượng nòng
cốt đi đầu trong phong trào tranh đấu vì Tổ quốc độc lập và tự do, vì nhân dân
hạnh phúc. Nhân dịp tổ chức Đại hội Đoàn toàn quốc lần II (từ 25/10 -
04/11/1956), Hồ Chí Minh đã xác nhận rằng: Đảng, Chính phủ có thể tự hào
là đã tạo một thế hệ thanh niên dũng cảm như các cháu, mong các cháu tiếp
tục nỗ lực phấn đấu hăng hái cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nước
nhà. Với yêu cầu cấp thiết đó, cần bồi dưỡng cho thanh niên về lối sống hơn
là cách sống như “ Thép đã tôi thế đó”, “ đời người chỉ sống một lần, sống
làm sao cho khỏi xót xa và ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí,
vì những dĩ vãng ty tiện để đến khi nhắm mắt xuôi tay ta có thể nói rằng: “Tất
cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời,
đó là sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc”.
1
Ở bối cảnh quốc tế hiện nay có nhiều biến động khôn lường và trước áp
lực thách thức của toàn cầu hoá và thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp
4.0, yêu cầu đòi hỏi mỗi thanh niên Việt Nam cần nỗ lực phát huy các khả
năng lợi thế của mình, bằng sức trẻ và lòng trung thành, nhiệt huyết để đóng
góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đúng như
Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: “Thanh niên là chủ nhân tương lai của nước nhà.
Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu là phần lớn do thanh niên "
[16; tr 84]
Thanh niên Việt Nam là lực lượng quần chúng đặc biệt của Đảng và Nhà
nước ta, thanh niên có các yêu cầu và lợi ích chính đáng về nhiều mặt trong
thực tiễn đời sống xã hội, đó là được: học hành, việc làm, giải trí vui chơi
lành mạnh, tình yêu, hôn nhân, gia đình... Theo Hồ Chủ tịch: “Phải quan tâm
đến đời sống, công tác và học tập của thanh niên”[17, tr 166]; “cần đi sâu sát
vào đời sống để hiểu rõ tâm lý của thanh niên và giúp đỡ họ giải quyết những
vấn đề thiết thực" [17, tr 290].
Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, Quốc hội nước ta khoá XI
tại kỳ họp Thứ tám đã ban hành Luật Thanh niên vào ngày 29/11/2005. Trong
đó, có quy định nghĩa vụ và quyền của thanh niên; quy định trách nhiệm của
gia đình, Nhà nước và xã hội đối với thế hệ thanh niên; quy định về tổ chức
của thanh niên. Kể từ khi Luật Thanh niên có hiệu lực đến nay, nhận được sự
lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của các cấp uỷ đảng, sự tham gia vào cuộc của hệ
thống cơ quan Nhà nước từ TW đến địa phương, cùng với sự phối hợp khá
chặt chẽ của các ngành và tổ chức đoàn thể, nên quá trình quản lý Nhà nước
ta về công tác thanh niên đã có nhiều chuyển biến thuận lợi: nhận thức của
thanh niên được nâng cao, gia tăng ý thức tích cực của thanh niên trong chấp
hành chủ trương đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước – với phần
lớn họ có lối sống tốt, gắn kết trách nhiệm với cộng đồng; nghĩa vụ và các
2
quyền của thanh niên được pháp luật bảo vệ và bảo đảm; vị thế và trách
nhiệm của họ ngày càng được nâng cao thông qua việc tham gia tích cực vào
phát triển KT-XH, xuất hiện nhiều tấm gương thanh niên sản xuất giỏi, nhiều
mô hình thanh niên khởi nghiệp, thanh niên làm kinh tế giỏi, thanh niên sáng
kiến cải tiến áp dụng khoa học - công nghệ... . Qua đó, đời sống của thanh
niên được cải thiện, đóng góp vào việc đẩy nhanh phát triển KT-XH.
Song dù vậy, với sự biến động phức tạp khó lường của tình hình thế
giới, sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường và yêu cầu đặt ra ngày càng
cao trong quá trình đẩy mạnh CNH- HĐH ở Việt Nam hiện nay, một tỷ lệ
không nhỏ trong lực lượng thanh niên nước ta đang còn hạn chế về một số
kiến thức và kỹ năng cần thiết trước yêu cầu mở cửa - hội nhập và phát triển;
một số thì chưa xác định rõ về lý tưởng nghề nghiệp và lý tưởng cách mạng,
còn lệch lạc về quan niệm sống và lối sống, ý thức chấp hành pháp luật chưa
cao, lười lao động và dễ sa ngã vào tệ nạn xã hội. Đúng như cố Tổng Bí thư
Lê Duẩn đã từng nói: Người có lý tưởng cách mạng hiểu rõ mình sống vì ai,
lao động để làm gì có những hoài bão ước mơ cao đẹp vượt qua những ham
muốn tầm thường và suy tính nhỏ nhen, người có lý tưởng cách mạng hiểu rõ
tương lai hạnh phúc của mình không tách rời vận mệnh của dân tộc.
Trước hiện trạng trên cho thấy, công tác thanh niên hiện nay đang là
nhiệm vụ cấp thiết, đòi hỏi công tác này phải có sự ưu tiên đầu tư chăm lo
thích đáng của Đảng và Nhà nước, xác định công tác thanh niên phải là nhiệm
vụ sống còn của quá trình thực hiện sự nghiệp cách mạng.
Liên hệ đến huyện Thăng Bình (Quảng Nam), về công tác thanh niên đã
được Huyện ủy và UBND huyện Thăng Bình quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo bằng
các nghị quyết, đề án, kế hoạch, chương trình hành động (Chiến lược phát
triển thanh niên huyện Thăng Bình giai đoạn 2016 – 2020; kế hoạch thường
niên về công tác thanh niên…) với sự tham gia khá tích cực của các phòng,
3
ban trực thuộc và sự phối hợp tổ chức thực hiện khá đồng bộ của Đoàn thanh
niên với những đoàn thể nhân dân từ tuyến huyện đến các xã, thị trấn. Từ cơ
sở định hướng này, thanh niên trên địa bàn huyện Thăng Bình hàng năm đã
được tuyên truyền phổ biến pháp luật, hỗ trợ và tư vấn về pháp lý, về sức
khoẻ và môi trường; được giáo dục toàn diện trong các trường học trên địa
bàn huyện; gắn kết với các đề án, chương trình phát triển KT-XH của tỉnh
Quảng Nam… Nhờ đó đã tạo thuận lợi các điều kiện để thanh niên Thăng
Bình tiếp cận được nghề theo nguyện vọng và sở trường; được hỗ trợ, định
hướng và tư vấn nghề nghiệp. Có các câu lạc bộ/ mô hình tiêu biểu xuất hiện
trên địa bàn đã được hàng nghìn thanh niên hưởng ứng tham gia tích cực,
như: mô hình thanh niên tự quản, CLB sau cai, CLB tuổi trẻ trong phòng
chống các tội phạm và tệ nạn xã hội; mô hình thanh niên làm kinh tế giỏi, mô
hình thanh niên tham gia các công trình phát triển KT-XH ở địa phương (công
trình giao thông bê tông nông thôn và giao thông nội đồng; công trình trồng
cây xanh; mô hình thắp sáng đường quê; công trình tôn tạo nghĩa trang liệt sĩ;
nhà tình nghĩa; mô hình nâng bước em đến trường... Thông qua đó giúp cho
nhiều thanh niên được trang bị nhiều kiến thức và các kỹ năng sống, được đào
tạo nghề cơ bản để lập thân – khởi nghiệp; cũng như thông qua đó giúp nhiều
thanh niên ý thức được nghĩa vụ công dân, tự nguyện viết đơn nhập ngũ để
phục vụ quân đội... Tuy vậy, một số mặt vấn đề đặt ra hiện nay: (1) Sự nhận
thức về vị trí vai trò của thanh niên của một bộ phận cán trên địa bàn Thăng
Bình còn chưa đồng bộ, dẫn đến sự điều hành quản lý ở một số đơn vị còn
chưa đúng mức, biểu thị là vẫn có tình trạng khoán trắng cho tổ chức Đoàn
Thanh niên cấp huyện, cấp xã và Hội liên hiệp thanh niên; (2) Trong khi cán
bộ, công chức làm công tác đoàn thanh niên chủ yếu là kiêm nhiệm thì công
tác phối hợp giữa các phòng ban liên quan và một số đoàn thể cũng chưa
đồng bộ, thiếu chặt chẽ và vai trò trách nhiệm của cơ quan nhà nước còn chưa
4
rõ trong quá trình tổ chức thực hiện Luật Thanh niên; (3) Thiếu một số văn
bản chính sách cụ thể dành cho đối tượng thanh niên ở từng ngành, lĩnh vực.
Với lý do cấp thiết trên, tác giả đăng ký chọn nghiên cứu đề tài “Quản
lý nhà nước về công tác thanh niên từ thực tiễn Huyện Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam” để thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hiến pháp -
Luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Nghiên cứu thanh niên và lĩnh vực quản lý nhà nước về công tác thanh
niên vốn dĩ đã được khá nhiều nhà chính trị, nhà quản lý và giới khoa học
nghiên cứu. Tiêu biểu có:
Tác giả Lê Duẩn với Sách “Thanh niên với cách mạng, xã hội chủ
nghĩa”, do Nxb. Thanh niên ấn hành năm 1978, Hà Nội; Sách “Tuổi trẻ anh
hùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, do Nxb. Sự
Thật ấn hành năm 1980, Hà Nội,... Hai tài liệu này đã trình bày khái quát có
hệ thống về quá trình ra đời và phát triển trưởng thành của những thế hệ thanh
niên nước ta; khẳng định vai trò đóng góp quan trọng của thanh niên trong
lịch sử dân tộc ta; qua đó xác nhận thanh niên là lực lượng tiên phong đi đầu
trong hoạt động sự nghiệp cách mạng.
Liên quan đến công tác thanh niên và lĩnh vực quản lý nhà nước về công
tác thanh niên, có nhiều công trình tài liệu nghiên cứu, điển hình như:
- Sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên trong cách mạng
Việt Nam” của tác giả Trần Quy Nhơn, do Nxb Thanh niên ấn hành năm
2004, Hà Nội.
- Luận án tiến sĩ ngành lịch sử năm 2001: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
vai trò của thanh niên và sự vận dụng của Đảng Cộng Sản Vỉệí Nam trong
công cuộc xây dựng đất nước giai đoạn 1975 - 1996” của tác giả Trần Thị
Nhơn, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
5
- Luận văn thạc sĩ ngành lịch sử năm 2002: “Đảng Cộng sàn Việt Nam
lãnh đạo công tác thanh niên trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Tô Thành
Phát, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Tác giả Quang Vinh với tác phẩm sách “Hồ Chí Minh về giáo dục và
tổ chức thanh niên”, do Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành năm 2000, Hà Nội.
- Đề tài năm 1998: “Thanh niên tỉnh Cà Mau: Thực trạng, giải pháp và
chính sách đối với thanh niên trước yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội”
của tác giả Phạm Văn Uýnh làm chủ nhiệm.
- Bài viết “tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thanh niên và công tác thanh
niên” của tác giả Hồ Đức Việt đăng Báo Tiền Phong năm 2011.
- Bài viết “Quản lý nhà nước về công tác thanh niên hiện nay” của tác
giả Nguyễn Hồng Kiên, đăng trên trang Website: http://tochucnhanuoc.gov.vn
cập nhật ngày 10/7/2013.
- Cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về thanh
niên và công tác thanh niên” , Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, năm 2008.
Công trình này được sưu tầm từ Hồ Chí Minh toàn tập, Văn kiện Đảng toàn
tập, các văn kiện khác của Đảng nhằm giúp nghiên cứu một số bài viết, lời
dạy của Bác và Đảng đối với thanh niên.
- Bài viết “Chính sách phát triển thanh niên trong thời kỳ đổi mới và
kiến nghị sửa đổi Luật Thanh niên” của Ths. Lê Thị Hương Thủy (Viện
Nghiên cứu lập pháp), đăng trên Website: http://thanhtravietnam.vn/ cập nhật
ngày 28/4/2020.
- Bài viết “Đổi mới sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác thanh niên
trong thời kỳ mới” của TS. Nguyễn Văn Hùng (Hội đồng Lý luận Trung
ương), đăng trên Website: http://hdll.vn/ cập nhật ngày 18/3/2021.
6
- Bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác bồi dưỡng thanh niên”
của tác giả Bùi Hoàng Tùng (Phó Bí thư Đoàn Khối các cơ quan TW), đăng
trên Website: http://dukcqtw.dcs.vn/ cập nhật ngày 18/3/2021.
Các tài liệu sách, báo, tạp chí và các công trình nghiên cứu được đề cập
trên, về cơ bản đã xác nhận vai trò rất quan trọng của thanh niên trong đóng
góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong lịch sử phát triển đất
nước. Mặt khác, nhiều công trình nghiên cứu đã góp phần hệ thống hóa các
quan điểm của Đảng về công tác thanh niên. Tuy vậy, nghiên cứu công tác
thanh niên ở góc nhìn quản lý nhà nước thì chưa có công trình nào nghiên
cứu có hệ thống, chuyên sâu – nhất là đề cập những nội dung quản lý nhà
nước đối với công tác này...
Từ đây cho thấy, việc nghiên cứu đề tài này không có sự trùng lặp với
những công trình trước đó đã công bố; cũng như đối với một địa bàn cụ thể tại
huyện Thăng bình (Quảng Nam).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất phương hướng và các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả,
hiệu lực quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn huyện Thăng
Bình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, hệ thống hóa làm rõ hơn về một số vấn đề lý luận quản lý nhà
nước về công tác thanh niên.
Hai là, phân tích tình hình quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên
địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Ba là, đánh giá làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về công tác thanh
niên trên địa bàn huyện Thăng Bình và các vấn đề hạn chế/ bất cập đang đặt
ra.
7
Bốn là, đề xuất phương hướng, giải pháp góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thanh niên tại huyện Thăng Bình hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý nhà nước về công tác thanh niên tại huyện Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Quản lý nhà nước về công tác thanh
niên.
- Phạm vi không gian nghiên cứu: Tại huyện Thăng Bình (Quảng Nam).
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Chủ yếu từ 2015 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên các phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự quản lý nhà nước bằng pháp luật, cải cách
nền hành chính nhà nước,…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được luận văn sử dụng, đó là:
Phương pháp phân tích văn bản tài liệu, lịch sử lôgic được sử dụng
nhằm hệ thống hóa những chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta và
tư tưởng của Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác thanh niên.
Phương pháp phân tích – tổng hợp, thống kê, so sánh … được sử dụng
nhằm đánh giá quá trình quản lý nhà nước về công tác thanh niên chủ yếu từ
năm 2015 tới nay.
8
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài:
6.1. Về mặt lý luận
Luận văn hệ thống hóa nhằm xác định rõ hơn một số cơ sở lý luận quản
lý nhà nước về công tác thanh niên.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng quản lý nhà nước về công tác
thanh niên trên địa bàn Huyện Thăng Bình (cả kết quả đạt được và vấn đề hạn
chế đặt ra). Qua đó cung cấp các luận cứ thực tiễn, để đưa ra các kiến nghị đề
xuất giải pháp nhằm đóng góp vào việc khắc phục mặt hạn chế/ bất cập trong
quá trình quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở huyện Thăng Bình hiện
nay.
Đồng thời, các đề xuất này còn góp phần vào việc tăng cường vai trò
lãnh đạo của cấp ủy Đảng và nâng cao năng lực chính quyền trong quản lý
điều hành về công tác thanh niên ở huyện Thăng Bình và các địa phương có
đặc điểm tương đồng; cũng như góp phần hoàn thiện các văn bản pháp luật về
công tác thanh niên.
7. Kết cấu của luận văn:
Bên cạnh mục mở đầu, mục kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố
cục nội dung của luận văn gồm có 03 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về công tác thanh
niên
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa
bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về
công tác thanh niên.
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NUỚC VỀ CÔNG TÁC
THANH NIÊN
1.1. Quản lý nhà nước về công tác thanh niên
1.1.1. Thanh niên và công tác thanh niên
1.1.1.1. Khái niệm thanh niên
Trong xã hội, thanh niên là một bộ phận đông đảo của cộng đồng dân
cư, những người trong độ tuổi thanh niên (ở Việt Nam và phần lớn các nước
trên thế giới đều tính độ tuổi thanh niên từ 15 - 35) chiếm một tỷ lệ đáng kể.
Theo Liên hợp quốc, thanh niên là đội ngũ những người từ 15 – 24 tuổi.
Theo pháp luật thực định của Nhà nước ta, tại Điều 1 thuộc Chương I
của Luật Thanh niên năm 2020 (Luật số: 57/2020/QH14): Thanh niên là công
dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi.
Như vậy, thanh niên là lực lượng có độ tuổi trưởng thành (từ 16 - 30
tuổi) gắn liền với sự phát triển tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh về mọi mặt.
Chính với độ tuổi sức trẻ trưởng thành này, gắn liền với sự phát triển
mọi mặt tương đối hoàn chỉnh mà trong mọi tiến trình lịch sử cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng ta, thanh niên là lực lượng xung kích, tiên phong với: ý
chí Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh; tinh thần “Năm xung phong” và “Ba sẵn
sàng”; chương trình "Khi tôi 18"; các phong trào “Tuổi trẻ Việt Nam học tập
và làm theo lời Bác”,“Sáng tạo trẻ ”, “Xung kích trong phát triển kinh tế - xã
hội và Bảo vệ Tổ quốc”, "Thanh niên cùng chung tay xây dựng nông thôn
mới”... , nên họ đều đóng vai trò tích cực và rất quan trọng đối với sự phát
triển của xã hội cả trong thời chiến và thời bình, cả trong quá khứ, hiện tại và
tương lai.
Hiện nay, thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, xung kích, sáng tạo, đi
đầu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN;
10
có vai trò quan trọng trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, hội nhập quốc tế
và xây dựng CNXH. (Khoản 1, Điều 4 của Luật Thanh niên năm 2020)
1.1.1.2. Công tác thanh niên
Công tác thanh niên là một loại hoạt động xã hội hàm chứa sự tác động
qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể xã hội và thanh niên, nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển của thanh niên và yêu cầu phát triển của xã hội.
Tại Điều 4 ở Chương I thuộc Nghị định 120/2007/NĐ-CP ngày 23 tháng
7 năm 2007 về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh niên nêu rõ:
Công tác thanh niên là những hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội để
giáo dục, bồi dưỡng, tạo mọi điều kiện môi trường thuận lợi cho thanh niên
nỗ lực phấn đấu và trưởng thành; đồng thời phát huy vai trò tiên phong xung
kích của thanh niên, mở sức sáng tạo và tiềm năng to lớn của họ trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Công tác thanh niên theo đó gắn liền với những giải pháp và phương
thức tổ chức thực hiện có sự phân cấp - phân công - phối hợp giữa nhiều chủ
thể quản lý để tạo các tác động tích cực trong quá trình tổ chức, bồi dưỡng,
đào tạo và phát huy vị thế, vai trò thanh niên.
1.1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về
thanh niên
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa
Mác - Lênin về vai trò thanh niên và công tác thanh niên trong điều kiện nước
ta. Nó được thể hiện đậm nét trong cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách
mạng của Người, thể hiện ra ở rất nhiều bài viết, tác phẩm, thư gửi và ngay cả
trong các buổi tiếp xúc gặp gỡ nói chuyện với thanh niên, thiếu niên, nhi
đồng.
Ngay sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945, Hồ Chí Minh đã chỉ
dẫn: “Nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, là một phần lớn do thanh niên
11
”[16, tr 84]. Nên đối với nhiệm vụ kiến quốc, Hồ Chí Minh đã xác định thanh
niên có vai trò mang tính quyết định khi chỉ rõ: “Trong công cuộc kiến thiết
đó, nước nhà trông mong và chờ đợi ở các cháu rất nhiều”; và “Việt Nam có
được vẻ vang và sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là
nhờ phần rất lớn ở công học tập của các cháu”[16, tr 61]. Đúng vậy, thanh
niên là động lực chủ yếu của cách mạng, là chủ nhân tương lai của đất nước,
nên trong mọi thời kỳ cách mạng Việt Nam: “Đâu cần thanh niên có, việc gì
khó có thanh niên”.
Đảng ta đã kế thừa và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đánh giá vai trò thanh niên, xây dựng
Đoàn TNCS và tổ chức phong trào thanh niên Việt Nam. Trải qua nhiều Đại
hội Đảng, nhấn mạnh vai trò thanh niên rất quan trọng trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, điển hình là tại Nghị quyết TW 7
(khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên ở
thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, Đảng ta khẳng định: Thanh niên là
rường cột của nước nhà, là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng tiên
phong xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, một
trong các nhân tố quyết định đến sự thành bại của sự nghiệp CNH,HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế, xây dựng CNXH. Đội ngũ thanh niên cần đặt vị trí
của họ ở trung tâm của chiến lược giáo dục, bồi dưỡng nguồn nhân lực và
phát huy nhân tố con người. Việc chăm lo đầu tư phát triển thanh niên không
chỉ là động lực, mà còn là mục tiêu đảm bảo cho sự phát triển ổn định và bền
vững của quốc gia. Nhà nước quản lý công tác thanh niên trên cơ sở thể chế
hoá đường lối của Đảng về công tác thanh niên thành hệ thống chính sách
pháp luật, chiến lược, đề án, quy hoạch, chương trình hành động và các kế
hoạch phát triển KT-XH, an ninh quốc phòng của các cấp ngành theo nhiệm
kỳ và hàng năm.
12
Với tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta đã nhìn nhận một
cách xác thực về vị trí, vai trò của thanh niên và các vấn đề của thanh niên
trong quá trình đấu tranh cách mạng cũng như về tiến trình phát triển lịch sử
của xã hội Việt Nam. Đánh giá cao và sâu sắc nhất về vai trò của thanh niên,
đây là tiền đề hết sức quan trọng để vạch ra đường lối, chiến lược có nội dung
giải pháp giáo dục, bồi dưỡng, quản lý thanh niên thành lực lượng chính trị
hùng hậu kế tục sự nghiệp cách mạng “vừa hồng vừa chuyên”như Bác đã
dạy.
1.1.2. Nhận thức về quản lý nhà nước công tác thanh niên
1.1.2.1.. Quan niệm, đặc điểm
Theo tác giả Nguyễn Vĩnh Oánh: Quản lý nhà nước về công tác thanh
niên là các hoạt động lập pháp, hoạt động lập quy của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền nhằm chế định ra các quy định về công tác thanh niên [37,
tr.l]. Với tác giả Vũ Trọng Kim, quản lý nhà nước về công tác thanh niên đó
là hoạt động xây dựng thể chế về thanh niên, là sự quản lý của cơ quan nhà
nước theo chế định pháp luật, chính sách [37, tr.l]. Với tác giả Vũ Đăng Minh
(Bộ Nội vụ), quản lý nhà nước đó là quá trình tác động của hệ thống cơ quan
nhà nước về công tác thanh niên bằng luật pháp, chính sách [37, tr.2]… Từ
đây có thể xác định, quản lý nhà nước về công tác thanh niên là việc Nhà
nước thể chế hoá đường lối của Đảng về thanh niên trở thành hệ thống chính
sách pháp luật, đó là công việc ban hành hệ thống các văn bản pháp luật,
hoạch định các chương trình, đề án, quy hoạch, kế hoạch phát triển thanh
niên, nhằm bồi dưỡng, giáo dục và tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho
thanh niên nỗ lực phấn đấu để trưởng thành và cống hiến, vì sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Hơn nữa, quản lý nhà nước về công tác thanh niên, đó là: hoạt động,
điều hành của Nhà nước, về sự phối hợp các cơ quan, bộ máy hoặc tổ chức
13
đoàn thể liên quan tới công tác thanh niên… (tác giả Nguyễn Vĩnh Oánh) [37,
tr.1]. Vì vậy, quản lý nhà nước về công tác thanh niên không chỉ dừng lại ở
các hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, mà nó yêu cầu về sự phối hợp
đồng bộ, chặt chẽ của hệ thống chính trị các cấp. Nhà nước thực thi chức năng
quản lý về công tác thanh niên trên cơ sở của hoạt động phối hợp của các chủ
thể và huy động các nguồn lực thực hiện, nhất là trách nhiệm tham gia của các
tổ chức, cá nhân và cộng đồng xã hội đối với công tác thanh niên; kết hợp hài
hòa giữa phương pháp vận động, thuyết phục với phương pháp hành chính
trong công tác thanh niên hiện nay.
Như vậy: Quản lý nhà nước về công tác thanh niên là một dạng quản lý
xã hội tổng hợp, mang tính quyền lực nhà nước đối với thanh niên; là quá
trình tác động có tính hướng đích của hệ thống các cơ quan nhà nước đối với
công tác thanh niên và thanh niên bằng hệ thống công cụ luật pháp, chính
sách, cơ chế vận hành và tổ chức bộ máy để thực hiện có hiệu lực, hiệu quả
công tác thanh niên, nhằm tạo lập thuận lợi về môi trường kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội trong việc định hướng cho thanh niên học tập, rèn luyện để
không ngừng trưởng thành mọi mặt và hoàn thiện nhân cách, phát huy mọi
tiềm năng lợi thế đóng góp vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Theo đó, quản lý nhà nước về công tác thanh niên có các đặc điểm chủ
yếu:
Một là,, chủ thể QLNN là hệ thống các cơ quan công quyền trong bộ
máy nhà nước được tổ chức chặt chẽ để thực hiện chức năng QLNN đối với
công tác thanh niên; đối tượng quản lý không chỉ là thanh niên mà còn là các
chủ thể xã hội trực tiếp hay gián tiếp tác động đến thanh niên và các chủ thể
xã hội tiến hành công tác thanh niên;
Hai là, các cấp, các ngành, các tổ chức đều có chức năng, nhiệm vụ tiến
hành công tác thanh niên phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Nói
14
cách khác, các ngành căn cứ vào nhiệm vụ, chức năng của mình để tiến hành
công tác thanh niên thông qua việc ban hành, triển khai thực hiện, giám sát
thực hiện và xử lý các vi phạm luật pháp, chính sách thanh niên hoặc liên
quan đến thanh niên. Bằng chính sách, luật pháp, cơ chế, tổ chức bộ máy và
nguồn lực, Nhà nước quản lý, điều phối các chủ thể xã hội trong quá trình tiến
hành thực hiện công tác thanh niên. QLNN đối với công tác thanh niên thông
qua các chủ thể xã hội hoặc có sự tham gia của các chủ thể xã hội như: Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, các tổ chức chính trị - xã hội khác và các đoàn thể nhân
dân.
Ba là, QLNN đối với công tác thanh niên là một dạng quản lý đối với
một lực lượng xã hội cụ thể, mà các vấn đề của nó liên quan trực tiếp đến mọi
mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nên nó là một dạng quản lý tổng hợp -
đa diện dưới sự lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi cần phải có sự phối hợp hài hòa,
thống nhất cao giữa các ngành, giữa các bộ phận trong cùng một ngành, giữa
các cấp, giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện công tác thanh niên. Điều
này cũng quy định chức năng quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên
được thực hiện thông qua hoạt động phối hợp, liên kết và huy động sự tham
gia có trách nhiệm của các tổ chức, các cộng đồng xã hội trong công tác thanh
niên với các nguồn lực có thể.
Bốn là, QLNN về công tác thanh niên không chỉ là quá trình áp dụng các
chế định pháp luật bắt buộc phải thực hiện đối với thanh niên và tổ chức
thanh niên, mà do đặc thù lứa tuổi đặt ra yêu cầu khách quan áp dụng quá
trình vận động, thuyết phục, tư vấn, hướng dẫn và giáo dục (Mặc dù là chức
năng và nhiệm vụ của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về công tác thanh
niên có sự khác biệt khá rõ so với tính chất hoạt động của những tổ chức, cơ
quan tư vấn và phối hợp liên ngành trong quá trình thực hiện chính sách, pháp
luật về thanh niên). Nói cách khác, trong quản lý nhà nước đối với công tác
15
thanh niên, bên cạnh việc sử dụng phương pháp mệnh lệnh hành chính, Nhà
nước còn sử dụng phương pháp giáo dục, thuyết phục, tư vấn và vận động.
Việc kết hợp giữa phương pháp mệnh lệnh hành chính (phương pháp thứ yếu)
với phương pháp vận động, giáo dục thuyết phục, tư vấn (phương pháp chủ
yếu) một cách hài hòa cũng là đặc thù của quản lý nhà nước về công tác thanh
niên ở Việt Nam hiện nay. Hơn nữa, trong thực tiễn cũng cho thấy, xuất phát
từ đặc điểm của hệ thống chính trị và vai trò rất quan trọng của thanh niên
cũng như công tác thanh niên, nên nhà nước chỉ có thể thực hiện tốt chức
năng quản lý thanh niên thông qua sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với nhiều
chủ thể xã hội khác, nhất là với tổ chức thanh niên và các đoàn thể.
1.1.2.2. Vai trò của quản lý nhà nước về công tác thanh niên
Hiện nay, vai trò quan trọng của quản lý nhà nước về công tác thanh
niên vừa là xuất phát từ tính tất yếu phát triển của thanh niên, vừa là yêu cầu
của sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Vai trò cụ thể của quản lý nhà
nước về công tác thanh niên, đó là:
Một là: Tạo lập hệ thống pháp luật, chính sách ổn định, bình đẳng, thuận
lợi cho thanh niên được học tập, rèn luyện và phát triển toàn diện về mọi mặt;
xây dựng môi trường văn hóa, xã hội và bảo đảm các điều kiện thuận lợi, phù
hợp trong tổ chức thực hiện công tác thanh niên.
Hai là: Định hướng và hướng dẫn sự vận động, phát triển các phong trào
thanh niên. Đưa ra phương hướng và giải pháp để giải quyết các vấn đề đặt ra
trong công tác thanh niên, nhằm phát huy các nguồn lực và sức sáng tạo
của lực lượng thanh niên đối với sự phát triển đất nước.
Ba là: giúp hình thành và tổ chức, sắp xếp hoàn thiện hệ thống bộ máy
quản lý Nhà nước cùng với việc sắp xếp, kiện toàn (đào tạo và đào tạo lại) đội
ngũ cán bộ QLNN về công tác thanh niên từ trung ương đến cơ sở.
16
Bốn là: Kiểm tra, kiểm soát và xử lý các vi phạm của các chủ thể tham
gia nhằm phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm chính sách, pháp
luật hiện hành liên quan đến công tác thanh niên, kể cả các cơ quan và cán bộ,
công chức QLNN liên quan đến lĩnh vực này – nếu có dấu hiệu sai phạm.
1.2. Chủ thể, nội dung quản lý nhà nước về công tác thanh niên
1.2.1. Chú thể quản lý nhà nước về công tác thanh niên
Chính phủ thống nhất hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh
niên.
Bộ Nội vụ có trách nhiệm tham mưu giúp Chính phủ thống nhất quản lý
nhà nước đối với thanh niên, Bộ Nội vụ thực hiện những nhiệm vụ sau:
Một là, xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về thanh niên theo
thẩm quyền, hoặc trình cấp có thẩm quyền để ban hành; xây dựng chiến lược
phát triển thanh niên theo giai đoạn phát triển quốc gia; xây dựng và đề xuất
Đảng và Nhà nước ta về chính sách phát triển thanh niên.
Hai là, các hoạt động hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra trong quản lý nhà
nước về công tác thanh niên đối với hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước và đội
ngũ nhân sự; tổ chức bồi dưỡng, đào tạo về nghiệp vụ chuyên môn cho cán
bộ, công chức ở cấp bộ, cấp tỉnh về công tác lĩnh vực này; thực hiện những
hoạt động đối ngoại nhà nước về công tác thanh niên.
Ba là, chủ trì các hoạt động phối hợp Uỷ ban quốc gia về thanh niên
Việt Nam, Trung ương Đoàn và những tổ chức đoàn thể trong quá trình thực
hiện quản lý nhà nước về công tác thanh niên.
Bốn là, kiểm soát, kiểm tra, thanh tra, giải quyết các khuyến nại, tố cáo
và xử lý vi phạm trong quá trìnhthực hiện pháp luật, chính sách về thanh niên
của các đơn vị bộ ngành và địa phương; tổng hợp các báo cáo định kỳ số liệu
thống kê của các bộ ngành và địa phương; chủ trì sơ - tổng kết về quản lý nhà
nước về công tác thanh niên trên cả nước.
17
- Năm là, góp ý hoàn thiện những dự thảo văn bản pháp luật, chính sách
về thanh niên do các cơ quan có thẩm quyền gửi tới; và thực hiện những
nhiệm vụ khác do Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã phân công.
Sáu là, tiến hành hoạt động thẩm định và trình lên cấp có thẩm quyền
trong việc xem xét khen thưởng cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong
quá trình quản lý nhà nước về công tác thanh niên của bộ ngành, địa phương.
Đối với các Bộ và cơ quan ngang Bộ khác theo luật định, có các nhiệm
vụ sau:
Một là, căn cứ vào nội dung Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam,
bộ ngành thiết kế chương trình, đề án phát triển thanh niên và các kế hoạch
triển khai thực hiện những chương trình, đề án này; xây dựng và thực hiện
pháp luật, chính sách về thanh niên thuộc chức năng quản lý nhà nước theo
ngành, lĩnh vực của Bộ ngành và được Chính phủ phân công; thực hiện việc
lồng ghép những mục tiêu về phát triển thanh niên trong quá trình hoạch định
và thực thi chiến lược, các chương trình, đề án và các kế hoạch phát triển KT-
XH của bộ ngành mình. Trong đó, cần xác định cụ thể nội dung hoạt động,
xác định cơ chế, chính sách và kèm theo các điều kiện để thực hiện được các
mục tiêu đã đề ra.
Hai là, tiến hành chỉ đạo và hướng dẫn cho các sở ngành trong hệ thống
quản lý của tổ chức mình để thực thi các nhiệm vụ được phân công trong các
chương trình đề án phát triển thanh niên của ngành lĩnh vực và của địa
phương.
Ba là, các bộ ngành thực hiện sự phân công lãnh đạo phụ trách công tác
thanh niên và bố trí nhân sự công chức thuộc bộ ngành mình để tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ trong quản lý nhà nước về công tác thanh niên. Tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ, đề án, chương trình dự án về phát triển thanh niên
được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ giao. Trong đó, phải xác định cụ thể
18
kinh phí thực hiện của bộ, ngành để tổng hợp vào ngân sách hàng năm nhằm
bảo đảm nguồn lực thực hiện pháp luật, chính sách về thanh niên.
Bốn là, tổ chức tập huấn bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn cho đội
ngũ nhân sự công chức của các bộ ngành phụ trách nhiệm vụ quản lý nhà
nước về công tác thanh niên. Thực hiện định kỳ về chế độ thống kê, báo cáo
công tác thanh niên theo sự hướng dẫn của Bộ Nội vụ; chủ trì các hoạt động
sơ - tổng kết về hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở phạm vi
của bộ ngành.
Năm là, khen thưởng theo thẩm quyền của cấp bộ ngành; và trình đến
cấp có thẩm quyền trong việc xem xét khen thưởng các cá nhân, tập thể của
bộ, ngành khi họ đạt thành tích xuất sắc về các nhiệm vụ quản lý nhà nước về
công tác thanh niên.
Theo sự phân cấp của Chính phủ, UBND các cấp tổ chức thực thi các
nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên tại địa phương mình.
Đối với cấp tỉnh:
Thứ nhất là, tổ chức thực hiện những văn bản hướng dẫn của cấp Trung
ương về công tác thanh niên. Đồng thời, cấp tỉnh chỉ đạo và hướng dẫn cho
cấp huyện triển khai thực hiện.
Hai là, căn cứ nội dung và các hướng dẫn của cấp Trung ương và bám
sát các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cấp tỉnh xây dựng chương trình, đề
án và các kế hoạch phát triển thanh niên. Hoạch định và thực hiện pháp luật,
chính sách về thanh niên thuộc chức năng và thẩm quyền quản lý nhà nước
của cấp tỉnh.
Ba là, lồng ghép những mục tiêu của công tác thanh niên trong hoạch
định và thực hiện chiến lược, đề án, chương trình và các kế hoạch cụ thể của
tỉnh trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, phải xác định rõ các nội dung
19
hoạt động cụ thể, chính sách, cơ chế và kèm theo điều kiện để thực hiện được
các mục tiêu dự kiến.
Bốn là, tham gia các đợt tập huấn bồi dưỡng hàng năm về nghiệp vụ
chuyên môn do Bộ Nội vụ tổ chức. Cấp tỉnh chủ trì và điều phối việc tổ chức
các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ, công chức phụ trách
nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn tỉnh. Đồng
thời, thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về công tác thanh niên do UBND
cấp tỉnh giao.
Năm là, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khuyến nại, tố cáo và xử lý vi
phạm trong; việc thực hiện các chính sách, pháp luật về thanh niên của các sở,
ban, ngành và huyện trên địa bàn tỉnh; Khen thưởng theo thẩm quyền và trình
cấp có thẩm quyền xem xét khen thưởng với những tập thể và cá nhân có
thành tích xuất sắc trong công tác quản lý nhà nước về thanh niên của tỉnh.
Sáu là, thực hiện chế độ báo cáo định kỳ về thống kê số liệu của cấp tỉnh
theo quy định của Bộ Nội vụ; cấp tỉnh chủ trì sơ - tổng kết quá trình quản lý
nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn tỉnh.
Đối với cấp huyện:
Một là, tổ chức thực hiện những văn bản hướng dẫn của cấp tỉnh về lĩnh
vực quản lý nhà nước về công tác thanh niên; cấp huyện chỉ đạo cấp xã trực
thuộc thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên. Cấp huyện
phải tham gia các đợt tập huấn bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn do Sở
Nội vụ tổ chức.
Hai là, căn cứ nội dung hướng dẫn của cấp tỉnh và bám sát nhiệm vụ
chính trị của địa phương mình, cấp huyện xây dựng các kế hoạch phát triển
của công tác thanh niên trên địa bàn mình; tổ chức thực hiện pháp luật, chính
sách về thanh niên thuộc chức năng và thẩm quyền quản lý nhà nước của cấp
huyện trên địa bàn. Lồng ghép mục tiêu về phát triển thanh niên trong hoạch
20
định và thực thi các kế hoạch hàng năm của huyện về phát triển kinh tế - xã
hội, trong đó phải xác định cụ thể nội dung hoạt động, chính sách, cơ chế và
kèm theo điều kiện để thực hiện được các mục tiêuđã vạch ra.
Ba là, cấp huyện chủ trì các hoạt động phối hợp giữa các phòng ban, các
đoàn thể nhân dân trên địa bàn để triển khai nhiệm vụ quản lý nhà nước về
công tác thanh niên.
Bốn là, kiểm soát, kiểm tra, thanh tra, giải quyết các khiếu nại - tố cáo
và xử lý vi phạm trong quá trình thực thi pháp luật, chính sách về thanh niên
của các xã, phường, thị trấn thuộc cấp huyện. Cấp huyện đề nghị các cấp có
thẩm quyền khen thưởng các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong quá
trình quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn cấp huyện.
Năm là, cấp huyện thực hiện định kỳ về chế độ báo cáo thống kê số liệu
theo quy định của Sở Nội vụ; cấp huyện chủ trì sơ - tổng kết các hoạt động
quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở cấp mình.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về công tác thanh niên
Căn cứ vào nội dung quản lý nhà nước về thanh niên tại Điều 36 của
Luật Thanh niên 2020 ((Luật số: 57/2020/QH14)) có hiệu lực thi hành từ
01/01/2021:
(1). Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và
tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về thanh niên; quy định các
biện pháp để thực hiện chính sách đối với thanh niên;
(2). Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, chương trình,
kế hoạch phát triển thanh niên;
(3). Thực hiện công tác thống kê, thông tin, báo cáo về tình hình thanh
niên và việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên;
(4). Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước
về thanh niên;
21
(5). Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về thanh
niên;
(6). Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị; sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng trong việc thực hiện chính sách,
pháp luật đối với thanh niên;
(7). Hợp tác quốc tế về thanh niên;
(8). Ban hành chính sách hỗ trợ, khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia
thực hiện chính sách đối với thanh niên.
Trong đó, nội dung quản lý nhà nước về công tác thanh niên được tập
trung vào:
Một là, ban hành và tổ chức triển khai thực hiện những văn bản quy
phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, chương trình, đề án về công tác thanh
niên. Căn cứ tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, nghị quyết của Đảng ta
về công tác thanh niên qua các kỳ Đại hội Đảng, nhà nước thể chế hóa thành
pháp luật, chính sách, chiến lược, đề án, chương trình phát triển thanh niên và
công tác thanh niên; đồng thời xác định rõ các nhiệm vụ phải thực hiện và
quy định trách nhiệm của các cấp ngành trong quản lý nhà nước về công tác
thanh niên. Cụ thể là: Quốc hội ban hành các văn bản luật về thanh niên và
công tác thanh niên, quyết định mức ngân sách dành cho công tác thanh niên
hàng năm và giám sát các cấp trong quá trình thực hiện pháp luật, chính sách
về công tác thanh niên. Đối với Chính phủ ban hành và chỉ đạo thực hiện
cũng như giám sát quá trình thực hiện các chính sách về phát triển thanh niên
và công tác thanh niên. Đối với các bộ ngành và cơ quan ngang bộ có trách
nhiệm hoạch định và thực hiện các chính sách về thanh niên tùy theo chức
năng, quyền hạn và nhiệm vụ đã được giao. UBND các cấp tổ chức thực hiện
quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở địa phương mình; đồng thời căn cứ
đặc điểm và tình hình thực tiễn của địa phương, UBND các cấp cụ thể hóa
22
chính sách về thanh niên và trình HĐND cùng cấp để thông qua trước khi
trình lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; UBND các cấp có trách
nhiệm tổ chức phối hợp với Đoàn Thanh niên và chỉ đạo những ngành trực
thuộc có chức năng phối hợp với Đoàn Thanh niên cùng cấp để tổ chức thực
hiện các đề án, chương trình về công tác thanh niên.
Hai là, hoạt động bồi dưỡng, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ phụ
trách công tác thanh niên là nội dung rất quan trọng. Để đề ra được chủ
trương và chính sách đúng đắn và phù hợp với các đối tượng là thanh niên,
yêu cầu đội ngũ cán bộ làm công tác này phải am tường những vấn đề về
thanh niên. Nên phải thường xuyên chú trọng bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán
bộ làm lĩnh vực này để đảm bảo tính chuyên sâu, phải thường xuyên nắm bắt
những vấn đề đặt ra trong thanh niên.
Ba là, kiểm soát, kiểm tra, thanh tra công tác thanh niên, giải quyết các
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện pháp luật, chính
sách về thanh niên.
Bốn là, mọi hoạt động hợp tác quốc tế về công tác thanh niên phải theo
nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, phù hợp với luật pháp của mỗi
nước và thông lệ quốc tế. Nội dung của các hoạt động này gồm có: Xây dựng
và thực thi những dự án, chương trình hợp tác quốc tế về công tác thanh niên;
Tham gia ký kết gia nhập vào các tổ chức quốc tế và thực hiện theo các điều
ước quốc tế về công tác thanh niên đã quy định; Tiến hành hoạt động giao lưu
thanh niên, hỗ trợ trao đổi thông tin và mô hình, bài học kinh nghiệm về công
tác thanh niên.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước về công
tác thanh niên
1.3.1. Yếu tố khách quan
23
Một là: Yếu tố kinh tế thị trường mà chủ yếu là do tác động tiêu cực từ
mặt trái của cơ chế thị trường đã và đang ảnh hưởng đến đời sống của thanh
niên, dẫn đến một bộ phận thanh niên không theo kịp cơ chế thị trường rơi
vào hoàn cảnh khó khăn như: tâm lý thực dụng để đạt lợi nhuận bằng mọi giá;
vấn đề thất nghiệp7, nghèo đói dẫn đến thanh niên đi làm ăn xa…
Hai là: Các yếu tố xã hội tác động đến đoàn kết tập hợp thanh niên rất
phức tạp và đan xen nhau. Điểm đáng chú ý nhất là nhận thức thay đổi và
không đúng với hệ thống thang giá trị và chuẩn mực xã hội, dẫn đến một bộ
phận không nhỏ thanh niên có hành vi vi phạm các quy tắc, chuẩn mực xã
hội. Đây là vấn đề phức tạp liên quan đến sự xuống cấp đạo đức và ứng xử
của một bộ phận thanh niên hiện nay.
Môi trường xã hội cũng tác động mạnh đến đoàn kết tập hợp thanh niên,
môi trường không trong sạch, lành mạnh sẽ là môi trường thuận lợi cho tệ nạn
xã hội phát sinh và phát triển gây khó khăn trong đoàn kết tập hợp thanh niên;
Các thiết chế xã hội như gia đình, nhà trường, xã hội bị lỏng lẻo, yếu kém,
thiếu bền vững cũng sẽ là nhân tố tác động không nhỏ đến thu hút thanh niên
vào tổ chức.
Ba là: Yếu tố văn hoá và hội nhập trong quá trình phát triển.
Trong cơ chế thị trường, yếu tố văn hoá và hội nhập tác động đến đoàn
kết tập hợp thanh niên chủ yếu là: Xu hướng trở lại phục hồi những hủ tục, tệ
nạn xã hội mang tính truyền thống trước đây; vấn đề giao lưu văn hoá trong
mở cửa và hội nhập bên cạnh quá trình tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân lại,
cũng diễn ra quá trình du nhập văn hoá không lành mạnh từ bên ngoài, tác
động đến thanh niên hiện nay.
1.3.2. Yếu tố chủ quan
Một là: Mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách có ảnh hưởng
quyết định đến việc mở đường thuận lợi hay chưa thuận lợi trong công tác
24
quản lý nhà nước về công tác thanh niên nói chung; cũng như xác lập vững
chắc hay chưa vững chắc đối với địa vị pháp lý hệ thống các cơ quan quản lý
nhà nước về công tác thanh niên nói riêng. Hiện nay, với hành lang pháp luật
hiện hành còn chưa đủ mạnh, thể chế cũng chưa hẳn là hoàn toàn minh bạch;
cùng với việc các VBQPPL – nhất là loại văn bản pháp quy còn rất nhiểu,
song đang thiếu đồng bộ, thậm chí còn chồng chéo. Nên gây ảnh hưởng
không nhỏ đến lực, hiệu quả của hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về
công tác thanh niên trong quá trình tổ chức và hoạt động. Ngoài ra, cơ chế xin
cho vẫn ngấm ngầm chi phối với một số biểu hiện của bệnh quan liêu giữa cơ
quan công quyền trong quản lý nhà nước.
Hai là: Yếu tố quản lý của Đoàn Thanh niên. Chất lượng một số tổ chức
đoàn cơ sở còn yếu kém, chất lượng cán bộ đoàn tuy có nâng lên nhưng vẫn
chưa theo kịp sự chuyển động trong nhận thức xã hội của thanh niên cũng như
yêu cầu tập hợp đoàn kết thanh niên trong giai đoạn tình hình mới. Đặc biệt là
trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ 4.0, hội nhập kinh
tế, quốc tế, công tác xây dựng, phát triển tổ chức đoàn, tập hợp thanh niên
trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài, khu
vực đô thị, nông thôn còn bất cập, hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tế. Các mô hình tập hợp đoàn kết thanh niên đã được phát triển, đổi mới để
phù hợp với từng đối tượng thanh niên, với nhu cầu, nguyện vọng của thanh
niên nhưng vẫn chưa theo kịp sự chuyển động nhanh chóng của thực tiễn.
25
Tiểu kết chương 1
Thanh niên vốn dĩ là lực lượng hùng hậu trong xã hội, đóng góp quan
trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Hiện nay, thanh
niên ngày càng có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, tiếp
thu kiến thức nhân loại, am hiểu khoa học công nghệ hơn trước, có tinh thần
và sức khoẻ tốt với thể trạng được nâng cao, luôn có hoài bảo và khát vọng
cống hiến vươn lên (không cam chịu lạc hậu và đói nghèo).
Quản lý nhà nước về công tác thanh niên được hiểu là hoạt động ban
hành và tổ chức thực hiện những văn bản quy phạm pháp luật và các chính
sách về thanh niên, nhằm đạt được mục tiêu của Đảng về giáo dục, bồi dưỡng
thế hệ trẻ và tạo môi trường điều kiện thuận lợi cho thanh niên phát triển,
phấn đấu và trưởng thành.
Chủ thể của quá trình quản lý nhà nước về công tác thanh niên, đó là:
Chính phủ; các Bộ và cơ quan ngang Bộ theo phân công của Chính phủ để
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh niên; UBND các cấp
thực hiện chức năng này ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
Nội dung của quản lý nhà nước về công tác thanh niên gồm có: Ban
hành và tổ chức thực hiện những văn bản pháp luật, chính sách, chiến lược,
chương trình, đề án, kế hoạch về phát triển thanh niên và công tác thanh niên;
đào tạo và bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác này; Kiểm soát,
kiểm tra, thanh tra, giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong quá
trình thực hiện pháp luật, chính sách về thanh niên và công tác thanh niên;
Quản lý các hoạt động liên kết hợp tác quốc tế về công tác thanh niên.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả Hơn nữa, quá trình thực thi hiệu lực,
hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về công tác thanh niên, cần phải tính
toán hợp lý đối với các yếu tố khách quan và chủ quan là rất quan trọng, có ý
nghĩa quyết định.
26
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
2.1.1. Đặc điểm về điều kiện tự nhiên
Huyện Thăng Bình thuộc tỉnh Quảng Nam, có trung tâm huyện là thị
trấn Hà Lam. Vị trí của huyện Thăng Bình nằm trong khoảng tọa độ từ
10807’ - 10803’ kinh độ Đông; và từ 1503’ - 15059’ vĩ độ Bắc. Phía Nam giáp
Tam Kỳ và huyện Phú Ninh; phía Bắc giáp huyện Duy Xuyên và Quế Sơn;
phía Tây giáp huyện Hiệp Đức và Tiên Phước; và phía Đông giáp biển Đông.
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện 412,25 km2. Huyện có đơn vị hành
chính với 22 xã, thị trấn; tính đến ngày 25 tháng 01 năm 2019 (theo Quyết
định 131/QĐ-TTg về phê duyệt Danh sách số xã đặc biệt khó khăn ở vùng bãi
ngang ven biển, hải đảo của giai đoạn năm 2016 đến năm 2020), Thăng Bình
hiện còn 03 xã đặc biệt khó khăn, trong đó có 02 xã thuộc miền núi gồm 132
tổ, thôn với dân cư là 49.639 hộ.
Địa hình huyện Thăng Bình bao gồm: vùng đồng bằng trung du bán
sơn địa và vùng miền núi rừng rậm rạp, đất đai bạc màu khô cằn/ bị đá ong
hóa; vùng ven biển với đất cát trắng là chủ yếu. Trong đó, diện tích gò đồi và
vùng núi trọc hiện chiếm tỷ lệ 2/5 diện tích đất đai Thăng Bình.
Về khí hậu thời tiết, trong năm huyện Thăng Bình có 02 mùa rất rõ rệt.
Mùa mưa thường diễn ra từ tháng 9 của năm trước - tháng 02 của năm sau;
mùa khô từ tháng 02 - tháng 8. Do đó, thời tiết ở đây nắng nóng và mưa lớn
thường kéo dài, gây nên lụt, bão, hạn hán, làm tác động ảnh hưởng đáng kể
tới sản xuất và đời sống nhân dân. Thăng Bình có chiều dài >25 km bờ biển
27
chạy dọc theo các xã phía Đông của Thăng Bình, kéo theo vệt dải đất cát
trắng, sau lưng là núi Cao Ngạn và các núi kéo dài toàn huyện Thăng Bình ở
vùng cao bao bọc bên trong là đồng bằng, trung du và bán sơn địa cùng diện
tích rừng và gò đồi. Trước đây, huyện có nhiều sông suối (như: sông Trường
Giang, sông Ly Ly...), với nước chảy quanh năm từ các triền núi đổ về; song
theo thời gian năm tháng, một số đoạn của sông đã đổi dòng dẫn đến nước ở
sông Ly Ly và các suối vào mùa nắng thì cạn kiệt, còn sông Trường Giang thì
nước biển xâm thực làm ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của
người dân nơi đây.
Đối với giao thông đường bộ, bên cạnh các tuyến đường sắt Bắc - Nam
và quốc lộ 1A chạy qua địa phận huyện, Thăng Bình có quốc lộ 14E từ Cây
Cốc (thị trấn Hà Lam) đi Việt An, Tân An rồi đến Làng Hồi (huyện Phước
Sơn) giáp đường Hồ Chí Minh kết nối với Tây Nguyên; có đường Thanh Niên
đi dọc ven biển. Ngoài ra, Thăng Bình còn có các tuyến đường liên huyện,
liên xã và liên thôn; mà qua đó thuận lợi điều kiện để phát triển KT-XH của
huyện.
28
Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Thăng Bình
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội
Từ nhiều năm qua, với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy và chính
quyền huyện Thăng bình; cùng với sự phối hợp của MTTQVN huyện, các
đoàn thể nhân dân và sự vào cuộc của các phòng ban từ huyện tới cấp xã và
sự nỗ lực vươn lên của nhân dân trong lao động sản xuất, nền kinh tế của
Thăng Bình đã đạt được nhiều kết quả nhất định. Tăng trưởng kinh tế đạt khá
theo từng năm với tổng giá trị sản xuất tăng dần: Năm 2020[26], giá trị sản
xuất ngành kinh tế ước đạt 9.445 tỷ đồng (giá so sánh 2010), đạt 74,87% so
với kế hoạch (Chỉ tiêu Nghị quyết là 12.615 tỷ đồng), tốc độ tăng trưởng giảm
khoảng 2,07%. Cơ cấu giữa các ngành kinh tế: Nông, lâm, ngư nghiệp - Công
29
nghiệp, xây dựng - Dịch vụ tương ứng là 21,21% - 43,09% - 35,7% (Năm
2019 là 16,45% - 37,3% - 46,25%; chỉ tiêu Nghị quyết năm 2020 đề ra là
14,8% - 37,2% - 48%). Thu nhập bình quân đầu người dự kiến đạt 41 triệu
đồng/người/năm. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng dần về tỷ trọng
công nghiệp - xây dựng, dịch vụ; sản xuất trong nông nghiệp cũng có hiệu
quả nâng lên. Huyện cũng đang đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Đề án phát
triển du lịch Thăng Bình trong giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2025, định
hướng tới năm 2030.
Tổng thu ngân sách năm 2020 là 1.532,847 tỷ đồng, đạt 135,06 % so
với toàn huyện giao, thu phát sinh kinh tế trên địa bàn huyện là 251,075 tỷ
đồng, đạt 60,97% dự toán (trong đó, huyện quản lý thu: 162,062 tỷ đồng, đạt
66,23%) thu bổ sung ngân sách cấp trên: 918,013 tỷ đồng đạt 128,01%. thu
chuyển nguồn 244,91 tỷ đồng.[26]
Về văn hóa xã hội, giáo dục đào tạo trên địa bàn huyện được quan tâm
và đảm bảo, nhất là phổ cập giáo dục. Tính đến cuối năm 2020, cả huyện
Thăng Bình có 71 trường đạt chuẩn quốc gia trong tổng số 73 trường, đạt
97,2%. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 85,88%, tăng 3,42% so
với năm 2019.
Kết quả năm 2020: 119/132 thôn, tổ đạt thôn, tổ văn hóa, đạt tỷ lệ
90,15% và 132/150 cơ quan đạt chuẩn văn hóa, đạt tỷ lệ 88%.
2.1.3. Đặc điểm đội ngũ thanh niên
Dân số huyện Thăng Bình 181.610 người, trong đó có 59.456 thanh
niên (có độ tuổi từ 16 - 35); đây là lực lượng lao động chủ yếu của Thăng
bình. Số thanh niên là đoàn viên trong tổ chức Đoàn với >7049 người. Huyện
Đoàn Thăng Bình hiện nay có 35 Đoàn cơ sở, trong đó: có 22 Đoàn cơ sở
thuộc khối cấp xã; 05 cơ sở đoàn thuộc khối trường học; 08 chi đoàn thuộc
khối cơ quan, doanh nghiệp; 34 cơ sở Hội (Uỷ ban Hội LHTN ở 22 xã và thị
30
trấn, ở 05 trường trung học phổ thông và ở 07 doanh nghiệp ngoài nhà nước)
với số hội viên thanh niên là 11.730 người.[23]
Bảng 2.1. Đặc điểm độ tuổi và giới tính của thanh niên
trên địa bàn huyện Thăng Bình
Tổng số Tỷ lệ Tỷ lệ Độ tuổi Nữ giới Nam giới (người) (%) (%)
59456 28301 31.155 47,60 52,40 Giới tính
31 - 35 6.701 41,29 9.530 58,71 16.231
26 - 30 8.739 48,67 9.217 51,33 17956
21 - 25 6.908 50,3 6.826 49,70 13734
15 - 20 5.953 51,60 5.582 48,40 11535
Nguồn tổng hợp từ: Báo cáo tổng kết hoạt động công tác của Huyện Đoàn
Thăng Bình từ năm 2016-2020
Với một lực lượng thanh niên hiện nay trên địa bàn huyện Thăng Bình
đạt tỷ lệ tương đối cao; đây là nguồn nhân lực trẻ dồi dào và giàu tiềm năng
của huyện nhà. Về cơ bản, lực lượng thanh niên Thăng Bình luôn có niềm tin
tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng - với nhiều hoài bão, khát vọng tha
thiết cống hiến cho đất nước và xã hội; bản thân họ đã có sự tự giác, tự
nguyện tham gia tích cực và gắn kết với các tổ chức Đoàn - Hội. Hơn nữa,
thanh niên huyện nhà ngày nay đã không ngừng trau dồi rèn luyện, học tập
nâng cao trình độ mọi mặt… Hiện có khá nhiều cán bộ là đoàn viên thanh
niên đã đạt nhiều thành tích xuất sắc trong học tập và lao động; nhiều chủ
doanh nghiệp trẻ, nhiều chủ trang trại và mô hình thanh niên điểnhình ở nhiều
lĩnh vực … Họ chính là lực lượng xã hội xung kích tiên phong trong xây dựng
và phát triển quê hương và đất nước. Cụ thể, một số mặt đạt được, đó là:
31
Quá trình xây dựng và phát triển KT-XH của huyện nhà, thanh niên
Thăng Bình có ý chí vươn lên, đã có sự trưởng thành khá nhanh trong lao
động - học tập, sáng tạo, năng động; phần lớn họ xung kích tình nguyện đóng
góp đáng kể sức mình phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển địa phương.
Thanh niên trên địa bàn huyện với đa số họ sống phụ thuộc vào hoàn
cảnh gia đình; tuy vậy phần lớn thanh niên trên địa bàn đã có sự nhận thức
chính trị tương đối tốt và có thái độ lập trường đúng đắn, định hướng được
nhiều giá trị phù hợp với xu hướng biến đổi và phát triển, họ từng bước khắc
phục hoàn cảnh để vươn lên, khả năng nhạy bén, có tính tự thân khởi nghiệp -
lập nghiệp, tham gia tích cực các phong trào hoạt động xã hội, đóng góp tích
cực cho công cuộc xây dựng kiến thiết quê hương và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Với chủ trương thực hiện nhất quán chương trình xây dựng nông thôn mới,
xây dựng văn minh đô thị và bảo đảm an sinh xã hội cũng như triển khai giải
pháp khắc phục hậu quả của dịch bệnh và thiên tai, đại bộ phận thanh niên
Thăng Bình đã vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp, họ
đã không quản ngại khó khăn để vượt lên trên hoàn cảnh, để tích cực tham gia
các hoạt động xã hội. Nhiều tài năng trẻ và tấm gương tiêu biểu xuất hiện
ngày càng nhiều trong học tập, rèn luyện, sản xuất, kinh doanh, phát triển
ngành nghề và công tác,...
Thanh niên trên địa bàn Thăng Bình hiện nay là công nhân, họ quan
tâm nhiều vào các vấn đề nghề nghiệp - việc làm. Trong quá trình lao động
sản xuất, họ phấn khởi, tham gia đóng góp đáng kể để hoàn thành chỉ tiêu sản
xuất - kinh doanh của một số doanh nghiệp làm ăn hiệu quả đóng trên địa bàn
huyện; cũng nhờ đó giúp cho đời sống thu nhập công nhân khá ổn định.
Thanh niên là công chức trong khối cơ quan hành chính - sự nghiệp, họ đều
có trình độ học vấn và có nghiệp vụ chuyên môn, có chí tiến thủ, phần lớn họ
năng động và sáng tạo trong công tác. Đối với thanh niên Thăng Bình trong
32
lực lượng vũ trang, họ là lực lượng luôn có nhận thức chính trị, xã hội đúng
đắn, sống có ý thức tổ chức kỷ luật, hăng hái rèn luyện và học tập, huấn luyện
chiến thuật đạt thành tích cao trong công tác; đồng thời họ luôn tham gia tích
cực và kịp thời các hoạt động tình nguyện ở những địa bàn nơi xảy ra bão lũ -
thiên tai. Đa phần thanh niên các tôn giáo ít sa ngã vào các tệ nạn xã hội, họ
tham gia tích cực các hoạt động tình nguyện và nhân đạo xã hội từ thiện.
Tuy vậy so với tiềm năng lợi thế của họ và yêu cầu nhiệm vụ phát triển
mới, thì còn không ít vấn đề đang đặt ra:
Một bộ phận thanh niên trên địa bàn huyện có trình độ học vấn còn
thấp và lười lao động, nên chưa có việc làm ổn định, nên gặp nhiều khó khăn
trong cuộc sống. Tâm lý, nếp nghĩ của một bộ phận thanh niên còn chịu sự chi
phối tâm lý tiểu nông, thiển cận... Hơn nữa, lực lượng thanh niên Thăng Bình
đi làm ăn xa, chỗ ở không ổn định hoặc do thực hiện quy hoạch giải tỏa mà
chuyển chỗ ở đi nơi khác, khiến công tác tổ chức tập hợp, sinh hoạt và quản
lý thanh niên gặp nhiều khó khăn. Tình trạng một bộ phận thanh niên trên
địa bàn huyện Thăng Bình còn thờ ơ/ ít quan tâm tới tình hình hoạt động
chính trị, xã hội đất nước và ít tham gia vào các hoạt động phong trào của
Đoàn, Hội, Đội; một bộ phận đáng kể thanh niên học sinh chưa xác định đúng
đắn mục tiêu, động cơ học tập, bị ảnh hưởng luồng văn hóa ngoại lai, xa rời
truyền thống, sống buông thả, thiên về lối sống thực dụng đua đòi; tình hình
tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật trong thanh - thiếu niên đang có sự gia
tăng. Hơn nữa, thanh niên với vấn đề việc làm ổn định đang gặp nhiều khó
khăn; thanh niên chưa có việc làm còn chiếm tỉ lệ không nhỏ.
Trình độ tay nghề của thanh niên, năng lực thực hành sau đào tạo của
họ cùng tác phong lao động còn hạn chế, nên phần nào chưa đáp ứng tốt với
yêu cầu của các doanh nghiệp trong thời đại áp dụng công nghệ cao. Trong
khối cơ quan hành chính sự nghiệp, vẫn còn một số ít thanh niên ngại phấn
33
đấu, chưa phát huy năng lực để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo giao.
2.2. Tình hình quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn
Huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
2.2.1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản, chiến lược và
chính sách chương trình phát triển thanh niên và công tác thanh niên
Kể từ sau khi Luật thanh niên năm 2005 có hiệu lực cùng với các văn
bản dưới luật hướng dẫn năm 2011của Chính phủ và Bộ Nội, chính quyền
tỉnh Quảng Nam, Sở Nội vụ và các cơ quan có thẩm quyền của tỉnh đã ban
hành các văn bản nhằm tổ chức thực hiện công tác thanh niên tại địa phương
mình, tiêu biểu có:
- Quyết định số 2835/2011/QĐ-UBND, ngày 07/9/2011 của UBND tỉnh
Quảng Nam ban hành Đề án đào tạo cán bộ, công chức, viên chức trình độ
sau đại học giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020 và những năm
tiếp theo; Căn cứ Nghị định số 18/2010/NĐ-CP, ngày 05/3/2010 của Chính
phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức; Quyết định số 1374/QĐ-TTg, ngày
12/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011-2015; và Nghị quyết số 04-NQ/TU
ngày 30/6/2011 của Tỉnh ủy Quảng Nam về công tác cán bộ giai đoạn 2011-
2015 và định hướng đến năm 2020. Mục tiêu của chương trình, đề án này là:
tuyển lựa các cán bộ, công chức có phẩm chất và có đủ năng lực - kỹ năng
được tạo điều kiện tham gia khóa đào tạo ở các cơ sở đào tạo trong và ngoài
nước để lĩnh hội các kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ và học hỏi nhiều mô
hình hay các kinh nghiệm tốt để vận dụng trong công tác nhằm đáp ứng yêu
cầu phát triển mới của địa phương.
- Quyết định số 878/QĐ-UBND, ngày 12/3/2018 của ủy ban nhân dân
tỉnh Quảng Nam về việc ban hành kế hoạch thực hiện chương trình phát triển
thanh niên tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2018-2020 và Quyết định số 1042/QĐ-
34
TTg, ngày 17/7/2017 của Thủ tướng chính phủ ban hành kế hoạch thực hiện
Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam của giai đoạn từ năm 2016 đến
năm 2020. Mục tiêu của kế hoạch thực hiện chương trình này nhằm giúp: Xây
dựng được một thế hệ thanh niên yêu nước nồng nàn và kiên định “độc lập
dân tộc và CNXH”, có sức khỏe, tự lực tự cường, có bản lĩnh và có đủ tri
thức, năng lực - kỹ năng để hội nhập quốc tế, thực hiện lối sống văn hóa, có
đạo đức cách mạng, có ý thức tự giác tuân thủ chấp hành pháp luật, trở thành
người công dân hữu ích của quốc gia; Động viên cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng
hoài bão, ước mơ, xung kích và tiên phong, sáng tạo trong nghiên cứu và ứng
dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến trong phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
- Quyết định số 10/2005/QĐ-UBND, ngày 26/02/2005 của UBND tỉnh
Quảng Nam quy định về nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của Sở Nội vụ cũng
như cơ cấu tổ chức của Sở này. Thông tư số 05/2004/TT-BNV của Bộ Nội vụ,
ngày 19/01/2004 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về công tác nội vụ ở
địa phương,...
Bên cạnh đó, thành lập Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh
Quảng Nam đến năm 2020 được UBND tỉnh Quảng Nam phê duyệt tại Quyết
định số 494/QĐ-UBND, ngày 15/02/2011 đã xác định mục tiêu: bình quân
hàng năm, đào tạo nghề cho khoảng 16.500 lao động nông thôn, góp phần
thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu về lao động qua đào tạo nghề của tỉnh. Nâng
cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của
lao động nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế,
phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn. Giai đoạn từ năm
2011 đến năm 2015: có 75.000 lao động nông thôn được đào tạo nghề (40.000
lao động học nghề phi nông nghiệp và 35.000 lao động học nghề nông
35
nghiệp); trong đó có 16.500 lao động thuộc diện chính sách người có công
cách mạng, diện hộ nghèo, dân tộc thiểu số, lao động bị thu hồi đất canh tác,
người tàn tật; Tỷ lệ >70% có việc làm sau học nghề ở giai đoạn 2011-2015.
Giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020: có 90.000 lao động nông thôn được
dạy nghề (60.000 lao động học nghề phi nông nghiệp; và 30.000 lao động học
nghề nông nghiệp); Tỷ lệ >80% có việc làm sau học nghề ở giai đoạn 2016-
2020.
Sau khi có hiệu lực thi hành Thông tư 04/2011/TT-BNV ngày 10-02-
2011 về việc hướng dẫn bổ sung nhiệm vụ, chức năng, tổ chức bộ máy, biên
chế của Sở Nội vụ và Phòng Nội vụ về công tác thanh niên, chính quyền tỉnh
Quảng Nam đã ra những văn bản quản lý nhằm xác lập bộ máy quản lý nhà
nước đối với công tác thanh niên:
- Quyết định 878/QĐ-UBND ngày 12 tháng 3 năm 2011 về quản lý nhà
nước đối với công tác thanh niên của Sở Nội vụ; Quyết định 4485/QĐ-UBND
ngày 27 tháng 5 năm 2011 về bổ sung nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nước
đối với công tác thanh niên của Phòng Nội vụ; Công văn 3060/UBND-NCPC,
ngày 27 tháng 5 năm 2011 đối với việc giao chỉ tiêu lao động hành chính thực
hiện nhiệm vụ công tác thanh niên; Quyết định 9235/QĐ-UBND ngày 08
tháng11 năm 2012 về Chương trình chiến lược phát triển thanh niên ở tỉnh
Quảng Nam giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020 (với bảy nhiệm vụ và sáu
giải pháp thực hiện); Quyết định 1676/QĐ-UBND ngày 06 tháng 3 năm 2012
đối với kế hoạch năm 2012 về công tác thanh niên (trong đó gồm có Đề án
tăng cường giáo dục kỹ năng sống cho thanh niên, thiếu niên tại các cơ sở
giáo dục trên địa bàn, đặt mục tiêu đào tạo nghề và tạo việc làm cho 900
thanh niên); Quyết định 1546/QĐ-UBND ngày 28-02-2013 đối với kế hoạch
năm 2013 về công tác thanh niên; Quyết định 7257/QĐ-UBND ngày 19-10-
2013 đối với kế hoạch năm 2014 về công tác thanh niên (trong đó có các
36
nhiệm vụ cụ thể là thực hiện Đề án tăng cường thông tin truyền thông cho
thanh niên Quảng Nam về thị trường lao động và việc làm ở giai đoạn từ năm
2013 đến năm 2020; Đề án Hỗ trợ về đào tạo nghề và tạo việc làm cho thanh
niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự; Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
chuyên môn cho đội ngũ cán bộ Đoàn chủ chốt và cán bộ công chức trong
công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thanh niên...
Căn cứ và bám sát các văn bản chỉ đạo trong quản lý điều hành của
chính quyền tỉnh Quảng Nam về công tác thanh niên, những sở ngành cấp
tỉnh đã từng bước cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch về công tác
thanh niên thuộc phạm vi lĩnh vực, ngành mình quản lý. Số liệu thống kê qua
các năm từ báo cáo của Sở Nội vụ về danh mục những văn bản chỉ đạo trong
điều hành công tác quản lý nhà nước về thanh niên đã xác nhận rằng, những
văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược và các chương trình phát
triển công tác thanh niên đã được ban hành khá đầy đủ và phần lớn những nội
dung hướng dẫn của các Bộ ngành được triển khai kịp thời. Mặt khác, công
tác thông tin tuyên truyền theo Đề án tăng cường thông tin truyền thông cho
thanh niên Quảng Nam về thị trường lao động và việc làm ở giai đoạn từ năm
2013 – 2020 đã được tăng cường, góp phần nhận thức về nghề nghiệp và việc
làm thanh niên được nâng cao. Đồng thời, việc tổ chức các hoạt động cho
thanh niên được tập trung vào nội dung: hướng nghiệp và tư vấn nghề nghiệp,
giới thiệu việc làm.
Tuy vậy so với yêu cầu thực tiễn đặt ra, đối với hệ thống văn bản của
các sở, ngành mới chỉ quy định chung hoặc điều chỉnh chung cho mọi đối
tượng thành phần, mà chưa có quy định riêng dành cho thanh niên.
Nhiều văn bản chỉ đạo công tác quản lý nhà nước về thanh niên tại địa
bàn huyện Thăng Bình vẫn có hạn chế nhất định. Một số bộ phận phòng ban
chuyên môn trực thuộc UBND huyện Thăng Bình vẫn chưa chủ động tham
37
gia tích cực trong công tác này thuộc phạm vi lĩnh vực, ngành mình - nếu có
chăng thì hàng năm các phòng ban chuyên môn này mới chỉ dừng lại ở tính
hình thức lồng ghép hoạt động cho có. Nói cách khác, khá nhiều phòng ban
của huyện đang xem nhẹ việc thực hiện công tác thanh niên do chính quyền
huyện Thăng Bình giao, thay vào đó các đơn vị này chỉ chú trọng tập trung
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình.
Kể từ khi có hiệu lực Luật thanh niên năm 2005 thì mãi tới năm 2011,
chính quyền tỉnh Quảng Nam mới có cơ hội thành lập thêm phòng Công tác
thanh niên trực thuộc Sở Nội vụ; còn UBND cấp huyện giao việc phụ trách
công tác thanh niên cho Phó Trưởng Phòng Nội vụ. Vì thiếu các văn bản chỉ
đạo từ Trung ương, dẫn chứng là: ngày 13 tháng 8 năm 2010 mới có Quyết
định 1471/QĐ-TTg về thành lập Vụ công tác thanh niên thuộc Bộ Nội vụ;
ngày 10/02/2011 có Thông tư số 04/2011/TT-BNV về hướng dẫn bổ sung
nhiệm vụ, biên chế và tổ chức của Sở Nội vụ về công tác thanh niên, của
Phòng Nội vụ về công tác thanh niên; ngày 28 tháng 11 năm 2011 mới có
Quyết định 1923/QĐ-BNV phê duyệt Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức phụ trách công tác thanh niên về nghiệp vụ quản lý nhà nước đối với
công tác thanh niên ở giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015; ngày 10 tháng 8
năm 2012 mới có Nghị định 61/2012/NĐ-CP quy định nhiệm vụ, chức năng,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ,... Nên trong điều kiện đó đặt ra
các vấn đề khó khăn, chậm trễ trong công tác tham mưu về thực hiện chương
trình công tác thanh niên đối với các phòng ban chuyên môn của UBND
huyện Thăng Bình.
Hơn nữa, việc ban hành một số văn bản của sở, ngành, địa phương còn
dừng lại ở tính hình thức, chương trình kế hoạch thiếu tính khả thi nên kết quả
còn gặp nhiều bất cập/ hạn chế...
38
2.2.2. Đào tạo bồi duỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh
niên:
Đối với công tác cán bộ, các cấp ủy Đảng và chính quyền tỉnh Quảng
Nam nói chung và với huyện Thăng Bình nói riêng đã có sự quan tâm đầu tư
vào đào tạo phát triển cán bộ trẻ; việc đề bạt, bố trí bổ nhiệm cán bộ trẻ ngày
càng tăng (hiện có gần 15% cán bộ trẻ trong cơ cấu vị trí lãnh đạo tại huyện
Thăng Bình). Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thanh niên
trên địa bàn huyện, nhất là cán bộ Đoàn từng bước được trẻ hóa và chuẩn hóa
dần về trình độ chuyên môn, quản lý nhà nước, lý luận chính trị.
Nhiều năm thực thi Chiến lược phát triển thanh niên của giai đoạn từ
năm 2011 đến năm 2020, với các chương trình/ đề án và những giải pháp khá
cụ thể; cùng với sự phối hợp khá đồng bộ của các ngành, các cấp trên địa bàn
huyện đã đóng góp vào việc hiện thực hóa các nội dung đề ra, tạo nhiều chính
sách, cơ chế khá linh hoạt và các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển trưởng
thành của đội ngũ thanh niên. Trên cơ sở Quyết định số 2835/QĐ-UBND,
ngày 07/9/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam ban hành Đề án đào
tạo cán bộ, công chức, viên chức trình độ sau đại học tại các cơ sở nước ngoài
giai đoạn 2011-2015; Đề án hỗ trợ đào tạo đại học, sau đại học dành cho học
sinh, sinh viên, học viên tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2015, những năm
qua việc tổ chức thực hiện các Đề án, chương trình này trên địa bàn huyện
nhằm tuyển chọn những cán bộ, công chức có năng lực, đảm bảo các điều
kiện; được tham gia đào tạo nâng cao trình độ; ở các cơ sở đào tạo trong và
ngoài nước. Đặc biệt, dưới sự chủ trì của Sở Nội Vụ tỉnh Quảng Nam đã kịp
thời tham mưu, phối hợp tổ chức tốt việc thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng, đào
tạo, phát triển nhân lực trẻ. Cụ thể là, đã triển khai thực hiện các đề án về: đào
tạo sau đại học dành cho học viên, sinh viên, học sinh; đào tạo nguồn chủ tịch
và bí thư cấp xã; đào tạo cán bộ, công chức sau đại học tại nhiều cơ sở đào tạo
39
ở nước ngoài. Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Nam và huyện Thăng Bình còn
thường xuyên mở nhiều khóa đào tạo, bồi dưỡng về quản lý nhà nước ngạch
chuyên viên cho cán bộ, công chức; tổ chức thực hiện tốt chính sách cán bộ
dự nguồn,...
Nhờ đó, đã mở ra nhiều cơ hội để cán bộ, công chức có nhiều điều
kiện bổ sung thêm nhiều kiến thức chuyên môn và trang bị các kỹ năng, học
hỏi và vận dụng nhiều bài học kinh nghiệm hay, nhiều mô hình mới từ những
quốc gia phát triển cho sự phát triển tại địa phương mình. Kết quả là: Đội ngũ
cán bộ Đoàn của huyện Thăng Bình và các xã, thị trấn trực thuộc đều đạt
100% có trình độ chuyên môn là trung cấp trở lên. Các phong trào vận động
thi đua "xây dựng trường học thân thiện và học sinh tích cực " đã được tổ
chức có hiệu quả tại tất cả các trường học trên toàn địa bàn Thăng Bình; đồng
thời, duy trì củng cố tốt các mô hình hoạt động Câu lạc bộ, nhóm, Đội và
nhiều loại hình học tập khác – với tinh thần giúp đỡ chia sẻ trong học tập, rèn
luyện và trao đổi kinh nghiệm kỹ năng dạy học của giáo viên trẻ. Đồng thời,
thanh niên trên địa bàn huyện đều đã được tạo sự bảo đảm về bình đẳng cơ
hội học tập. Với sự phối hợp chặt chẽ của gia đình, nhà trường và xã hội với
100% thanh niên được học tập và hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục;
thường xuyên học tập để nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ;
tham gia xây dựng môi trường văn hoá học đường; trung thực trong học tập,
xung kích tham gia các chương trình phát triển giáo dục và đào tạo, xây đựng
xã hội học tập. Mặt khác, ngành giáo dục trên địa bàn Thăng Bình đã đẩy
mạnh phong trào thi đua "2 tốt ”; từng bước thực hiện tốt cuộc vận động "2
không” trong ngành giáo dục dưới nhiều hình thức đa dạng, như: tổ chức các
đợt cho học sinh thi đua học tập dưới nhiều hình thức nhóm, tổ để cùng giúp
nhau cầu tiến; định hướng giáo dục động cơ, thái độ học tập đúng đắn; phát
động phong trào mùa thi nghiêm túc và phối hợp phòng chống tiêu cực trong
40
thi cử. Nhờ vậy, kết quả hàng năm thi đỗ tốt nghiệp THPT luôn đạt mức
>91%; và >30% học sinh tốt nghiệp tại Trung tâm giáo dục thường xuyên;
không có trường hợp học sinh bỏ học.
Tuy vậy so với kỳ vọng một số vấn đề đặt ra: Chất lượng của việc thực
hiện Chiến lược phát triển thanh niên của giai đoạn từ năm 2011 đến năm
2020 trên địa bàn Thăng Bình vẫn chưa cao; các ngành các cấp chưa chú
trọng đề ra chương trình hành động cụ thể; thiếu các kế hoạch tính khả thi để
tổ chức thực hiện chiến lược này theo lĩnh vực mà đơn vị mình phụ trách
(nhiều chỉ tiêu của chiến lược đề ra còn chưa được nhiều phòng ban cụ thể
hóa thành các kế hoạch cụ thể trong hoạt động của mình); ngoài ra, vẫn chưa
có quy định rõ về mức cấp kinh phí thường xuyên phục vụ công tác thanh
niên. Điển hình, 5 năm qua từ 2016-2020[23], kết quả đạt được còn khiêm
tốn, vì mới chỉ: mở được 03 lớp tập huấn về công tác thanh niên cho cán bộ,
công chức ở cấp tỉnh và cấp huyện; hỗ trợ cử bốn người học thạc sĩ; thu hút
ba thạc sĩ về công tác; năm 2018 chỉ có 2,64% lao động trẻ được qua đào tạo
và trong số lao động qua đào tạo có việc làm cũng chiếm không nhiều
(26,04%); chỉ có 21% cán bộ Đoàn và Hội Thanh niên được nghe giáo dục
phổ biến pháp luật.
Ở lĩnh vực khác, tại Điều 22 thuộc Chương IV của Nghị định số
120/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2007 về việc hướng dẫn thi hành một sô
điều của Luật Thanh niên đã đưa ra quy định khá rõ đối với Ủy ban Quốc gia
về thanh niên Việt Nam có trách nhiệm: Chủ trì và phối hợp với những Bộ
ngành có chức năng cùng với Trung ương Đoàn TNCSHCM trong việc xây
dựng quy chế phối hợp đối với quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên
phạm vi quốc gia; Chủ trì và phối hợp với những Bộ ngànhvà cơ quan ngang
Bộ, UBND cấp tỉnh và Trung ương Đoàn TNCSHCM trong hướng dẫn, kiểm
tra quá trình thực hiện quy định hiện hành của Luật Thanh niên và những quy
41
định của Nghị định 120; Chủ trì và phối hợp với những Bộ ngành có liên quan
trong việc thống kê, tổng hợp và báo cáo định kỳ hàng năm trình lên Thủ
tướng Chính phủ đối với tình hình thực hiện pháp luật, chính sách về công tác
thanh niên trong cả nước . Theo quy định đó là phải bố trí 01 công chức
chuyên trách chứ không phải kiêm nhiệm tham mưu, theo dõi về công tác
thanh niên.
Song song việc triển khai thực hiện các chính sách đối với thanh niên,
theo quy định của Luật Thanh niên, công tác xây dựng bộ máy, tổ chức quản
lý nhà nước đối với công tác thanh niên được Huyện Thăng Bình đã từng
bước kiện toàn và bổ sung chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh
niên. Đã bố trí 01 đồng chí lãnh đạo giữ chức vụ Bí thư Huyện Đoàn và 02
đồng chí giữ chức vụ phó Bí thư Huyện Đoàn phụ trách công tác thanh niênvà
công tác Hội LHTN VN Huyện Thăng Bình. Nhờ vậy, hoạt động công tác
thanh niên từng bước có quy củ nề nếp; qua đó đã tham mưu kịp thời cho
UBND cấp huyện trong quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên; cũng
như giúp cho Huyện Đoàn Thăng Bình đóng vai trò đầu mối lồng ghép những
nhiệm vụ phát triển thanh niên vào trong các đề án, chương trình phát triển
KT-XH, quốc phòng an ninh ở Thăng Bình.
Tuy vậy, về năng lực thực tiễn của một bộ phận đội ngũ này lại khá yếu
về khả năng tham mưu đề xuất các sáng kiến giải pháp cho chính quyền địa
phương trong công tác quản lý nhà nước về thanh niên.
2.2.3. Về công tác kiểm soát, kiểm tra, thanh tra công tác thanh niên,
giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện
pháp luật, chính sách về thanh niên
Trong nhiều năm qua, vấn đề QLNN về công tác thanh niên luôn được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chỉ đạo sát sao. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp của các ngành, đoàn thể và toàn xã
42
hội, về cơ bản đã tạo thuận lợi và kịp thời hơn trong công tác kiểm soát, kiểm
tra, thanh tra công tác thanh niên, giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm trong quá trình thực hiện pháp luật, chính sách về thanh niên.
Minh chứng khá rõ là: Đoàn Thanh niên, Hội Thanh niên trên địa bàn
huyện đã phối hợp khá chặt chẽ với lực lượng vũ trang trong hoạt động tuần
tra, theo dõi phát hiện; cũng như tham gia tích cực vào việc giải quyết các vi
phạm pháp luật tại địa bàn dân cư; phối hợp khá đồng bộ với Công an và các
đoàn thể nhân dân trong việc giáo dục, cảm hoá đối với những người vi phạm
an ninh trật tự ở khu dân cư, giúp đỡ hàng chục thanh thiếu niên chậm tiến,
trong đó đã có rất nhiều em đã tiến bộ… Qua đó, góp phần ngăn ngừa và
giảm thiểu tình hình tội phạm trên địa bàn Thăng Bình. Hơn nữa, đại bộ phận
thanh niên Thăng Bình đã giữ gìn, phát huy được truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam và gia đình Việt Nam; cũng như gương mẫu chấp hành tốt
pháp luật hiện hành.
Tuy vậy, công tác kiểm tra, đôn đốc, tổng kết, đánh giá việc thực hiện
chính sách cho thanh niên ở một số nơi trên địa bàn huyện chưa được tiến
hành thường xuyên, nghiêm túc. Thông qua kiểm tra, giám sát việc thực hiện
chiến lược phát triển thanh niên đối với huyện Thăng Bình còn cho thấy, một
số cơ quan đơn vị chưa nhận thức đầy đủ, các hoạt động còn lúng túng, thiếu
chủ động trong việc xác lập vai trò của ngành mình, cấp mình đối với công
tác quản lý nhà nước về thanh niên.
Chế tài xử lý vi phạm ở lĩnh vực này hiện đang có nhiều hạn chế, việc
ban hành các quy định và hướng dẫn vẫn còn chung chung, dẫn đến những
khó khăn không nhỏ trong giải quyết khiếu nại liên quan đến thực hiện pháp
luật, chính sách về thanh niên. Hơn nữa, trong công tác thanh niên một số vấn
đề vướng mắc vẫn chưa xử lý dứt điểm. Ngoài ra, việc tổ chức triển khai các
văn bản chỉ đạo liên quan công tác thanh niên thực hiện còn chậm so với yêu
43
cầu; định mức của các chế độ phục vụ công tác thanh niên còn thấp.
2.2.4. Hợp tác quốc tế về công tác thanh niên
Việc thực hiện nhiệm vụ này đã được tổ chức định kỳ với nhiều hoạt
động giao lưu hữu nghị với lực lượng thanh niên ở các quốc gia có chung
đường biên giới với nước ta. Qua đó đã củng cố và phát huy tốt mối quan hệ
hữu nghị truyền thống với Đoàn thanh niên Lào, Trung Quốc và Campuchia;
đồng thời, thông qua thực hiện các nhiệm vụ hợp tác quốc tế về công tác
thanh niên đã tạo lập vị thế ngày càng cao của thanh niên Việt Nam trong việc
tích cực tham gia các sự kiện hoạt động như: sinh viên thế giới lần thứ XV;
các Festival thanh niên; cuộc thi cấp khu vực và cấp thế giới về vật lý, toán
học, thể thao... Minh chứng khá rõ là: Bên cạnh việc Đoàn thanh niên tình
nguyện đã tổ chức các hoạt động thiết thực (trong công tác dân vận giao lưu
với thanh niên khu vực ở biên giới với hai nước bạn Lào và Campuchia, thực
hiện miễn phí khám chữa bệnh và cấp phát thuốc, hỗ trợ đào tạo việc làm và
tặng quà tại hai tỉnh biên giới thuộc hai nước bạn Lào và Campuchia), thì từ
năm 2010 tới nay đã tổ chức thành công 02 sự kiện lớn về hoạt động giao lưu
hợp tác thanh niên giữa hai quốc gia Việt Nam - Trung Quốc..
Đặc biệt, chính quyền tỉnh Quảng Nam và huyện Thăng bình hàng năm
bên cạnh việc phối hợp tổ chức mở nhiều lớp kỹ năng Anh ngữ cho cán bộ,
công chức, tổ chức 65 buổi nói chuyện chuyên đề và tập huấn với khoảng
5.000 lượt thanh niên để trang bị kiến thức về nội dung hội nhập kinh tế quốc
tế; phối hợp khá chặt chẽ với Hội Liên hiệp thanh niên tỉnh Quảng Nam tổ
chức các chương trình tình nguyện KCB miễn phí cho người dân có hoàn
cảnh khó khăn trên địa bàn Thăng Bình; mà còn tổ chức các hoạt động giao
lưu thanh niên để trao đổi kinh nghiệm giữa hai nước Việt Nam - Lào, dẫn
chứng là huyện đã cử >20 lượt cán bộ chức Đoàn, Hội đã tham gia giao lưu
tại Lào.
44
Mặt khác, hàng chục vạn lao động nước ta hiện nay, trong đó tập trung
chính là đội ngũ thanh niên với tính lao động cần cù chăm chỉ, thông minh,
năng động sáng tạo cả trong nghiên cứu và áp dụng khoa học – công nghệ…
đã và đang đóng góp đáng kể cho sự tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Trong
môi trường điều kiện thuận lợi ngày nay, cùng sự nỗ lực không ngừng của đội
ngũ thanh niên Việt Nam nói chung đã khích lệ đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức trẻ và lực lượng thanh niên địa phương Thăng Bình trau dồi rèn
luyện, tiếp thụ có hiệu quả các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế
giới để gia tăng nhận thức, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và trang bị các
kỹ năng (tin học, ngoại ngữ và nhiều kỹ năng sống và làm việc cần thiết khác)
nhằm đáp ứng tốt các nhiệm vụ theo yêu cầu mới trong xu thế mở cửa - hội
nhập quốc tế.
2.3. Đánh giá quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn
Huyện Thăng Bình, Tỉnh Quảng Nam
2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
2.3.1.1. Những kết quả đạt được
Trên cơ sở bám sát việc thực thi Chiến lược phát triển Thanh niên của
giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2020 của UBND tỉnh Quảng Nam, thực thi
Chiến lược phát triển Thanh niên của giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2015
của UBND Huyện Thăng Bình, trên địa bàn Thăng Bình quá trình quản lý nhà
nước về công tác thanh niên đã bước đầu đạt được nhiều thành quả đáng kể,
cụ thể là:
100% đội ngũ cán bộ Đoàn của huyện Thăng Bình và các xã, thị trấn
trực thuộc đều đạt trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên. Đối với thanh
niên trên địa bàn huyện Thăng Bình đều được tạo điều kiện về bình đẳng cơ
hội học tập. Kết quả hàng năm, thi đỗ tốt nghiệp THPT luôn đạt mức >91%;
và >30% học sinh tốt nghiệp tại Trung tâm giáo dục thường xuyên.[23]
45
Đối với việc giải quyết lao động – việc làm cho thanh niên, huyện Thăng
Bình đã từng bước chú trọng vào công tác tạo lập các điều kiện thuận lợi và
hướng dẫn cho thanh niên vay vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội để giải
quyết việc làm. Mặt khác, huyện cũng vận động khuyến khích thanh niên
tham gia tích cực học tập, ứng dụng và chuyển giao quy trình kỹ thuật công
nghệ về trồng hoa cây cảnh, trồng nấm rơm… do Hội Nông dân huyện tổ
chức. Ngoài ra, Đoàn Thanh niên và Hội Thanh niên các cấp trên địa bàn
Thăng Bình đã tích cực đề xuất lên cấp ủy, UBND của huyện và các xã, thị
trấn về việc tạo cơ chế khuyến khích đào tạo nghề và học nghề, giới thiệu việc
làm, hỗ trợ vốn vay cho thanh niên địa phương để tạo việc làm. Các phong
trào “Sáng tạo trẻ " được đoàn viên triển khai một cách tập trung, phát huy
được các hoạt động hỗ trợ sáng kiếnvà chia sẻ ý tưởng sáng tạo, khích lệ được
thanh niên cải tiến kỹ thuật công nghệ, thay đổi phong cách làm việc, đổi mới
quy trình đóng góp vào việc cải thiện và nâng cao năng suất lao động. Đối với
việc tổ chức các diễn đàn hội thi, hội diễn như “Thanh niên công nhân
giỏi”… trên địa bàn huyện đã có sự đóng góp về các sáng kiến kỹ thuật, trao
đổi các bài học kinh nghiệm có giá trị… làm lợi cho nhà máy, doanh nghiệp
được công nhận. Đối với công tác giao quân hằng năm luôn thực hiện tốt, vì
vậy công tác tuyển chọn gọi công dân nhập luôn đạt 100% chỉ tiêu trên giao.
Đối với nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội, các văn hóa phẩm
độc hại, kích động bạo lực trong thanh niên đã được huyện Thăng Bình hàng
năm chú trọng. Đồng thời, Đoàn Thanh niên các cấp trên địa bàn huyện đã
từng bước phối hợp khá chặt chẽ với các hội đoàn thể và các ngành trong việc
tổ chức hoạt động thiết thực trong công tác thông tin truyền thông tuyên
truyền để nâng cao nhận thức về tác hại của ma tuý và những chất kích thích
độc hại, HIV/ AIDS...
2.3.1.2. Nguyên nhân
46
Một là, trên cơ sở đặc điểm tình hình thanh niên của huyện Thăng Bình,
các cấp ủy đảng đã tăng cường vai trò lãnh đạo đối với công tác thanh niên.
Sự chỉ đạo, điều hành sát sao của UBND huyện đối với các phòng ban thuộc
khối UBND đã kịp thời triển khai về công tác thanh niên; đồng thời giám sát
kiểm tra chặt chẽ các hoạt động này.
Hai là, các ngành, các cấp trên địa bàn Thăng Bình đã nhận thức đầy đủ
hơn về nhiệm vụ và trách nhiệm của mình về lĩnh vực phụ trách trong quá
trình tham gia quản lý nhà nước về công tác thanh niên.
Ba là, bản thân trình độ dân trí của thanh niên hiện nay đã được nâng
lên, phần lớn họ có ý thức tự giác chấp hành tốt các chủ trương của Đảng và
chính sách pháp luật của Nhà nước ta. Nên đề cao được trách nhiệm cũng như
vị thế của thanh niên tham gia tích cực, sáng tạo trong quá trình hoạt động
phát triển KT-XH ở địa phương.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Một là: Đối với hệ thống văn bản của các sở, ngành mới chỉ quy định
chung hoặc điều chỉnh chung cho mọi đối tượng thành phần, mà chưa có quy
định riêng dành cho thanh niên. Việc ban hành một số văn bản của sở, ngành,
địa phương còn dừng lại ở tính hình thức, chương trình kế hoạch thiếu tính
khả thi nên kết quả còn gặp nhiều bất cập/ hạn chế. Ngoài ra, công tác báo cáo
số liệu thống kê về thực tiễn tình hình thanh niên trên địa bàn huyện vẫn chưa
thống nhất.
Hai là: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo có lúc, có nơi chưa sát tình hình thực
tiễn địa phương. Chương trình, kế hoạch hành động của một số cơ quan đơn
vị còn chưa phù hợp với đặc điểm cụ thể của thanh niên và điều kiện hoản
cảnh ở địa phương. Việc tổ chức thực hiện nghị quyết và chương trình hành
động về công tác thanh niên của một số cấp ủy đảng và chính quyền địa
47
phương còn thiên về tính hình thức, trên thực tế là giao khoán cho hệ thống tổ
chức Đoàn thanh niên phối hợp với phòng Tư pháp cùng thực hiện là chủ yếu.
Nói cách khác, sự phối hợp giữa chính quyền địa phương và các đoàn
thể nhân dân trên địa bàn huyện còn chưa đồng bộ và chưa thường xuyên
trong tổ chức triển khai chính sách phát triển thanh niên và công tác thanh
niên. Nhiều nhiệm vụ phối hợp giữa các cơ quan, các ngành còn có biểu hiện
đùn đẩy/ né tránh trách nhiệm hoặc thụ động trong phối hợp thực hiện,...
Ba là: Các hoạt động quản lý nhà nước cũng chưa hoàn toàn tác động
đầy đủ, toàn diện về những nội dung quản lý công tác thanh niên.
Đối với công tác tổ chức cán bộ cũng đồng bộ, nhất là từ các khâu quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp cơ cấu, bố trí và sử dụng cán bộ trẻ chưa
có sự đầu tư đúng mức. Công tác quản lý nhà nước về thanh niên ở nhiều địa
phương, đơn vị chưa được quan tâm kiện toàn đầy đủ, nhất là phần lớn cán
bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh niên chủ yếu là hoạt
động kiêm nhiệm, nên chưa có sự đầu tư toàn tâm toàn ý cho công tác này.
Việc tổ chức triển khai các văn bản chỉ đạo liên quan công tác thanh niên
thực hiện còn chậm so với yêu cầu. Một số cơ quan trên địa bàn huyện Thăng
Bình chưa chú trọng chăm lo công tác thanh niên. Mặc dù trên địa bàn Thăng
Bình các hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên và Hội Thanh niên có bước
chuyển tích cực về hình thức hoạt động phong trào khá đa dạng, song mới chỉ
dừng lại hoạt động bề ngoài mang tính giải trí đơn thuần; trong khi vẫn chưa
đầu tư chiều sâu và chưa đem lại hiệu quả dài hạn về thực hiện công tác chăm
lo việc làm, đời sống cho thanh niên. Nói cách khác, hoạt động của tổ chức
Đoàn xã, thị trấn chủ yếu thiên về bề nổi phong trào, hoạt động còn bị hành
chính hóa; nội dung và hình thức hoạt động còn chưa phong phú. Nguồn lực
phục vụ công tác thanh niên còn rất thấp.
Bốn là: Thông qua kiểm tra, giám sát việc thực hiện chiến lược phát triển
48
thanh niên đối với huyện Thăng Bình còn cho thấy, một số cơ quan đơn vị
chưa nhận thức đầy đủ, các hoạt động còn lúng túng, thiếu chủ động trong
việc xác lập vai trò của ngành mình, cấp mình đối với công tác quản lý nhà
nước về thanh niên.
Năm là: Một số chính sách cụ thể đầu tư cho phát triển thanh niên chưa
đáp ứng nhu cầu đời sống thực tiễn của địa phương hiện nay, nhất là mức
kinh phí dành cho các đề án, chương trình phát triển thanh niên còn thấp, việc
đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất cho công tác thanh niên còn dàn trải.
Định mức của các chế độ phục vụ công tác thanh niên còn thấp.
Sáu là: Đối với công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho thanh
niên nông thôn chưa có sự đầu tư chiều sâu, đào tạo nghề ngắn hạn là chủ
yếu. Nên công tác này thực sự còn thiếu bền vững, tỷ lệ đáng kể lao động sau
đào tạo nghề vẫn còn thiếu việc làm. Hơn nữa, việc các hoạt động hướng
nghiệp và giới thiệu việc làm cũng còn không ít hạn chế. Chưa huy động được
các tiềm năng và nguồn lực xã hội chưa huy động tốt trong công tác đào tạo
nghề cho thanh niên. Minh chứng cho thấy rõ: những năm qua kinh tế tỉnh
Quảng Nam có nhiều phát triển nhưng chưa thật bền vững, chủ yếu sản xuất
dựa vào nông nghiệp, kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu đề ra; chưa thu
hút lao động trẻ có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao về phục vụ, công tác và
chưa có giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết nhu cầu việc làm cho thanh niên
sau đào tạo.
Bảy là: Tỷ lệ thanh niên trên địa bàn huyện qua đào tạo nghề còn ít, thiếu
các kỹ năng cần thiết; còn khá nhiều thanh niên chưa chuyển đổi tác phong
công nghiệp để đáp ứng yêu cầu mở cửa, hội nhập và phát triển. Hơn nữa,
một bộ phận không nhỏ thanh niên còn thất nghiệp hoặc nếu có việc làm thì
việc làm không ổn định và thu nhập thấp đã ảnh hưởng đáng kể tới tâm lý,
suy nghĩ của thanh niên. Mặt khác, nhận thức về chính trị của một số thanh
49
niên còn hạn chế, lười lao động - học tập, có lối sống buông thả và bị lôi kéo
sa ngã vào tệ nạn xã hội, tình trạng vi phạm pháp luật còn diễn ra.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, chính quyền địa phương các cấp chưa tăng cường đầu tư cho
công tác thanh niên, nhất là về kinh phí hoạt động của tổ chức Đoàn, hội còn
thấp; cũng như thiếu sự đầu tư cho các chương trình, đề án phát triển thanh
niên. Công tác phối hợp giữa các phòng ban và cơ quan đơn vị đối với công
tác thanh niên thiếu đồng bộ và chưa chặt chẽ. Mặt khác, một số cơ quan, đơn
vị sự chưa thường xuyên chăm lo công tác thanh niên.
Thứ hai, công tác tư tưởng và giáo dục, tuyên truyền còn chung chung,
khiến cho nhận thức của một tỷ lệ đáng kể cán bộ, công chức về công tác
thanh niên còn chưa đầy đủ. Mặt khác, một bộ phận thanh niên hiện nay lười
lao động có tâm lý hưởng thụ dựa vào gia đình, thiếu trách nhiệm với gia đình
và xã hội, thiếu tu dưỡng rèn luyện; trong khi đó vẫn còn có không ít gia đình
chưa chăm lo, sâu sát với con cái, tình trạng bạo hành gia đình vẫn còn diễn
ra.
Thứ ba, nội dung, chương trình dạy nghề ngắn hạn chưa phù hợp với nhu
cầu thực tế của thanh niên, chất lượng, giá trị của chứng chỉ, còn nhiều bất
cập về chuẩn đầu ra của nghề được dạy, việc hỗ trợ vốn sản xuất cho thanh
niên lập nghiệp cũng còn nhiều hạn chế. Việc liên kết liên doanh giữa các cơ
sở đào tạo nghề với thị trường, doanh nghiệp còn chưa nhiều.
Thứ tư, hiện nay các công ty, xí nghiệp còn e dè, thậm chí còn có tư
tưởng tẩy chây trong việc nhận lao động là đối tượng sau cai nghiện trở về địa
phương, chưa có niềm tin trong sử dụng lao động thuộc đối tượng này, để tạo
điều kiện cho số thanh niên này thật sự hoàn lương, trở thành công dân tốt sau
khi lầm lỗi.
Thứ năm, trình độ, năng lực và các kỹ năng sống của đội ngũ cán bộ,
50
công chức làm công tác thanh niên (lại hoạt động kiêm nhiệm) và của đội ngũ
cán bộ Đoàn các cấp cũng chưa đồng đều, nên chưa hoàn toàn đáp ứng yêu
cầu mới trong phát triển.
Tiểu kết chương 2
Từ thực trạng nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về công tác thanh
niên ở Huyện Thăng Bình hiện nay cho thấy: Ở nhiều năm qua dưới sự điều
hành của chính quyền địa phương các cấp cùng với bước chuyển tích cực từ
nhận thức đến hoạt động, nên đã triển khai khá thuận lợi về các chương trình,
đề án công tác thanh niên; từng bước đặt thanh niên trở thành lực lượng trung
tâm trong triển khai các dự án chương trình phát triển KT-XH. UBND huyện
Thăng Bình cũng đã bố trí một phần kinh phí ngân sách đầu tư xây dựng Làng
thanh niên lập nghiệp, Trung tâm sinh hoạt thanh thiếu nhi, nhà thiếu nhi
huyện, thành phố... Nhờ đó đã mở ra nhiều cơ hội cho thanh niên tiếp cận đề
án/ chương trình hỗ trợ trong đào tạo kỹ năng nghề, kết nối việc làm với các
doanh nghiệp có nhu cầu; cũng như đầu tư phát triển thanh niên trên nhiều
nhiều lĩnh vực, qua đó giúp họ rèn luyện, trưởng thành và cống hiếncho sự
phát triển của địa phương, của đất nước. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công
tác thanh niên trên địa bàn huyện cũng từng bước được chuẩn hóa về trình độ
lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, trang bị kiến thức quản trị - quản lý
để đáp ứng nhiệm vụ yêu cầu hiện nay. Hơn nữa, trình độ dân trí của thanh
niên ngày nay đã được nâng lên giúp cho họ nhận thức được bổn phận và
trách nhiệm của mình đối với gia đình quê hương và xã hội; cũng như qua đó
giảm thiểu tính lệ thuộc/ thụ động vào gia đình và nhà nước.
Tuy vậy, vẫn có một số vấn đề hạn chế nhất định, đó là: Còn nhiều
phòng ban, đơn vị trên địa bàn huyện chưa thiết lập được tính khả thi của
chương trình hành động, kế hoạch thực hiện của đơn vị mình trước yêu cầu
51
thực tiễn của công tác thanh niên; thay vào đó chỉ chú trọng nhiệm vụ chuyên
môn phụ trách. Nói cách khác, một số phòng ban đơn vị chưa nhận thức sâu
sắc trách nhiệm của ngành trong quá trình tham mưu UBND huyện để triển
khai hiệu quả chương trình/ đề án phát triển thanh niên, công tác thanh niên
gần như khoán trắng cho tổ chức Đoàn và hội thanh niên tổ chức hoạt động;
trong khi các hoạt động của tổ chức Đoàn và hội thanh niên còn mang tính bề
nổi phong trào, thiếu chiều sâu để chăm lo đời sống thanh niên. Đối với đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác quản lý nhà nước về thanh
niên còn thiếu nhiều kỹ năng cần thiết cũng như kinh nghiệm công tác thanh
niên.
52
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN
3.1. Những giải pháp chung cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về công tác thanh niên trong phạm vi cả nước
3.1.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật, chiến lược, chính sách, chương
trình phát triển thanh niên
Thứ nhất, cần sớm luật hóa, cụ thể hóa quy định về trách nhiệm của các
tổ chức, cá nhân cũng như thanh niên trong thực hiện Luật Thanh niên 2020
về các quy định:
- Đẩy mạnh việc ban hành các văn bản dưới luật để sớm đưa hiệu lực
Luật Thanh niên 2020 vào thực tiễn cuộc sống.
- Cần bổ sung làm rõ nghĩa vụ của thanh niên gắn với những trách
nhiệm, nghĩa vụ của thanh niên vào các điều Luật nghĩa vụ quân sự, Luật hôn
nhân và gia đình, Luật hình sự, Luật Giáo dục,... để có cơ sở nâng cao vai trò,
ý thức trách nhiệm của thanh niên trong học tập, lao động, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
- Bổ sung và hoàn thiện thêm một số nội dung về quyền thanh niên
được thông tin, về cơ chế bảo đảm bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp
của thanh niên khi bị vi phạm, về cơ hội và điều kiện lao động - việc làm,...
khi gặp khó khăn nhằm… bảo đảm các quy định trong Luật Thanh niên 2020
về thực hiện quyền của thanh niên.
- Bổ sung trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, các đoàn thể và các chủ
thể khác đối với thanh niên: nêu rõ từng nội dung, nhiệm vụ do chủ thể nào
thực hiện hoặc chủ trì phối hợp thực hiện, quy định cụ thể hình thức xử lý
nếu các chủ thể chưa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình đối với công tác thanh
niên; tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát, kiểm tra kết quả thực hiện
53
của từng ngành, thẩm quyền, trách nhiệm xử lý,... Từ đó, nâng cao chất
lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra, thanh tra về trách nhiệm thực hiện
công tác thanh niên của các chủ thể.
Thứ hai, Chính phủ cần quan tâm hơn trong việc chỉ đạo các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, xây dựng văn bản chỉ đạo thực hiện công tác thanh niên theo
ngành, lĩnh vực phụ trách; tham mưu ban hành các chế độ, chính sách đối với
thanh niên, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển đúng hướng, phát huy tiềm
năng. Định kỳ, cần có kế hoạch kiểm tra tiến độ, kết quả thực hiện; kịp thời
xử lý nghiêm đối với những đơn vị tổ chức thực hiện kém hiệu quả, thiếu
trách nhiệm trong triển khai thực hiện trong công tác thanh niên.
Thứ ba, Ủy ban quốc gia về Thanh niên Việt Nam và Bộ Nội vụ, cần
tham mưu cơ chế phối hợp giữa Trung ương Đoàn thanh niên và các cơ quan,
ban ngành cùng thực hiện công tác thanh niên ở từng lĩnh vực cụ thể. Có quy
định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể, của cán bộ làm công tác
thanh niên các cấp, nhất là cấp cơ sở nơi trực tiếp tiếp xúc, gần gũi thanh
niên. Có chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức làm công tác thanh
niên và cán bộ Đoàn, Hội; thường xuyên xây dựng chương trình đào tạo
chuyên môn, kỹ năng công tác thanh niên phù hợp từng giai đoạn phát triển,
nhằm nâng cao chất lượng tham mưu giúp Nhà nước thực hiện tốt công tác
này.
Thứ tư, thường xuyên khảo sát nhu cầu, sự phát triển của thanh niên, để
kịp thời ban hành các chính sách, hỗ trợ phù hợp cho từng đối tượng, vùng,
miền nhất là đối với thanh niên vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và dân tộc
thiểu số. Chủ động phối hợp Ban Tuyên giáo trung ương, Trung ương Đoàn
thanh niên, có chương trình giáo dục, nâng cao ý thức tích cực về các vấn đề
xã hội trong thanh niên; kịp thời thông tin đến thanh niên những vấn đề mà
thanh niên đang quan tâm, nhất là vấn đề giải quyết việc làm và các nhu cầu
54
chính đáng khác; quan tâm một cách chính xác, kịp thời, nhanh chóng tạo
niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước,
với năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức đối với thanh niên và
công tác thanh niên.
3.1.2. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về công tác thanh niên
3.1.2.1. Kiện toàn cơ cấu một số chức danh lãnh đạo và đội ngũ cán bộ
quản lý công tác thanh niên
- Tập trung kiện toàn đội ngũ lãnh đạo quản lý Nhà nước về công tác
thanh niên.
+ Ở Trung ương: cần cơ cấu một Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ
tịch Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam (Hoặc chủ tịch Hội danh dự), Bí thư
Trung ương Đoàn (Chuyên trách) làm Phó chủ tịch Thường trực Hội và Thứ
trưởng Bộ Nội vụ kiêm Phó chủ tịch Hội; Vụ trưởng Vụ công tác thanh niên
làm thành viên của Hội liên hiệp thanh niên.
+ Ở địa phương: cơ cấu Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp kiêm
chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam cùng cấp (Hoặc Chủ tịch danh
dự), phó bí thư Đoàn (Chuyên trách) làm Phó chủ tịch thường trực và Phó
giám đốc Sở (Phó trưởng Phòng Nội vụ) kiêm phó chủ tịch Hội, Trưởng
phòng công tác thanh niên Sở (công chức Phòng Nội vụ) kiêm thành viên ủy
ban Hội; Cấp xã công chức văn phòng ủy ban xã kiêm phụ trách công tác
thanh niên là thành viên ủy ban Hội cấp xã.
Như vậy sẽ tạo được sự liên kết, liên đới trách nhiệm trong công tác
thanh niên giữa Nhà nước và đoàn thể, hiệu lực và hiệu quả QLNN vê công
tác thanh niên sẽ cao hơn, chủ động hơn, mang tính chuyên môn hơn.
- Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý
thanh niên.
55
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh niên, cần bố trí
những người từng trải nghiệm thời gian công tác ít nhất 01 nhiệm kỳ (05 năm)
trong tổ chức Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp thanh niên các cấp. Từng bước
hình thành nhận thức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp thật sự
hiểu, quan tâm đến công tác thanh niên và vai trò rất trọng của QLNN về
công tác thanh niên đối với sự phát triển lâu dài, bền vững của đất nước.
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động ở tất cả các cấp
lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở và trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức cũng như toàn xã hội về tầm quan trọng và ý nghĩa của Chiến lược phát
triển thanh niên trong tình hình mới, cũng như vị trí, vai trò của thanh niên,
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đây phải là những người thật sự có tâm huyết với thanh niên, hiểu thanh
niên và luôn vì sự phát triển của thanh niên. Luôn có ý thức, trách nhiệm
trong nghiên cứu, tìm hiểu và mạnh dạn đề xuất các vấn đề liên quan đến
thanh niên. Chủ động gần gũi, gắn bó với thanh niên để tham mưu cho Đảng,
Nhà nước về những chính sách hỗ trợ mà hiện nay thanh niên thật sự cần.
Thường xuyên đào tạo, tập huấn nâng cao về năng lực cho đội ngũ cán
bộ, công chức chuyên trách và những người không chuyên trách làm công tác
thanh niên và công tác quản lý nhà nước về thanh niên ở các cấp.
Bố trí cán bộ, công chức làm quản lý nhà nước về công tác thanh niên
cần phải có trình độ, năng lực, kinh nghiệm công tác, nắm giữ những vị trí
quan trọng, trong việc hoạch định phát triển ngành, địa phương; để từ đó có
cơ sở tham mưu cho việc phát triển thanh niên theo ngành, lĩnh vực, cần phân
định rõ chức năng quản lý nhà nước về thanh niên và công tác Đoàn Thanh
niên, không để Đoàn thanh niên làm hộ, làm thay việc quản lý nhà nước về
công tác thanh niên như tình trạng hiện nay ở một số địa phương. Để hình
56
thành ý thức tích cực hơn, tin tưởng vào sự điều hành của Nhà nước để cùng
chung sức xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập.
3.1.2.2. Bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất phục vụ quản lý nhà nước về
công tác thanh niên
Để xây dựng được một lớp thanh niên phát triển đầy đủ mọi mặt, có đủ
trình độ, năng lực để tham gia xây dựng, phát triển đất nước, đủ sức khỏe và
tinh thần bảo vệ Tổ quốc thì không thể chỉ bằng phương pháp lý luận, công
tác tư tưởng. Mà, Nhà nước cần có kế hoạch phân bố nguồn ngân sách phù
hợp, vận động xã hội hóa cho công tác thanh niên nhằm tạo điều kiện hỗ trợ
cho thanh niên phát triển về nhân-thể-mỹ…
Nhà nước cần đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất như: trường học
có đủ thiết bị giảng dạy, nghiên cứu cần thiết hiện đại, chương trình đào tạo
thích ứng với nhu cầu ứng dụng thực tế; thu hút đầu tư xây dựng các ngành,
lĩnh vực đảm bảo thanh niên có việc làm sau đào tạo; xây dựng những công
trình, thiết chế văn hóa tạo điều kiện cho thanh niên tham gia tập luyện nâng
cao thể chất, tinh thần.
Quan tâm bố trí nguồn ngân sách phù hợp nhằm đảm bảo cho các hoạt
động QLNN về công tác thanh niên như: tổ chức các hoạt động văn hóa văn
nghệ, thể dục thể thao; hội thi nâng cao tay nghề, các buổi tư vấn, định hướng
nghề cho thanh niên, học sinh; tạo quỹ hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp, sáng tạo
khoa- học kỹ thuật, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong lao động, sản xuất;
quan tâm thường xuyên công tác bồi dưỡng, đào tạo, rèn luyện chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác thanh niên; tổ chức các hoạt động
giao lưu, trao đổi học tập với thanh niên các nước tiên tiến,... Phân bổ kinh
phí đảm bảo cho từng ngành, địa phương phụ trách các lĩnh vực, hoạt động
công tác thanh niên.
57
3.1.3. Nâng cao hiệu quả về công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện
các chính sách, pháp luật về thanh niên và công tác thanh niên
Cần xây dựng các thiết chế chặt chẽ hơn và thành lập Ban Chỉ đạo
nhằm kiểm tra trong việc tổ chức thực hiện Luật thanh niên và các văn bản
có liên quan đến thanh niên, trực thuộc Chính phủ. Định kỳ tổ chức sơ, tổng
kết để đánh giá, kiểm điểm thực chất trong quá trình tổ chức thực hiện nhằm
phát huy huy quả những kết quả làm được và nghiêm túc khắc phục những
mặt hạn chế, thiếu sót.
Thành lập và duy trì các đoàn kiểm tra, giám sát, thanh tra, việc triển
khai thực hiện chiến lược, phát triển thanh niên của từng bộ, ngành định kỳ
hằng năm. Báo cáo kết quả kiểm tra của Ủy ban quốc gia về thanh niên Việt
Nam để Chính phủ biết chỉ đạo thực hiện và có hình thức xử lý, chấn chỉnh
kịp thời đối với các đơn vị vi phạm, hoặc thiếu trách nhiệm trong tham mưu
và tố chức thực hiện.
Tổ chức Đoàn thanh niên, hằng năm tham mưu cấp ủy đảng, đồng thời
phối hợp với UBND cùng cấp có kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện
Luật thanh niên, Nghị quyết số 25 của BCH Trung ương Đảng, Nghị quyết
số 45 của Chính phủ đối với chi, Đảng bộ và chính quyền cấp dưới. Từ đó,
đề xuất các giải pháp để tổ chức thực hiện các hoạt động dành cho thanh niên
phù hợp, mang lại hiệu quả cao, tạo điều kiện, cho thanh niên phát triển về
mọi mặt.
3.1.4. Đảm bảo trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh
niên; và tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nuớc về công
tác thanh niên và tổ chức Đoàn thanh niên
3.1.4.1. Đảm bảo trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh
niên
58
Một là, Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung
quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, là làm tốt công tác xây dựng Đảng
trước một bước. Đảng đề ra đường lối, chủ trương định hướng cho thanh niên
hành động, xác định các chuẩn mực cho thanh niên phấn đấu; xây dựng các
tấm gương điển hình tiêu biểu trong mọi lĩnh vực đời của sống xã hội để cho
thanh niên học tập và noi theo.
Hai là, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra của các cấp ủy
đảng, chính quyền đối với công tác thanh niên và phát triển thanh niên, tiếp
tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về thanh niên. Lồng ghép các
mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển thanh niên trong xây dựng và tổ chức thực hiện
chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các bộ,
ngành, địa phương; kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về thanh
niên.
Ba là, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 25-NQ/TW,
ngày 25/7/2007 của BCH TW Đảng (khoá X) về "Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá" và Kết luận số 80-KL/TW, ngày 25/12/2013 của Bộ Chính trị
về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 25/7/2007 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”.
3.1.4.2. Tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa cơ qụan quản lý nhà
nước về công tác thanh niên với tổ chức Đoàn thanh niên
Một là, cần phát huy tốt vai trò của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh và tổ chức thanh niên các cấp do Đoàn Thanh niên làm nòng cốt tham
gia thực hiện các chiến lược phát triển thanh niên. Thông qua các cuộc vận
59
động, các phong trào xung kích, tình nguyện, hành động cách mạng nhằm xây
dựng các gương tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến nhằm giáo dục và tạo cho
thanh niên ý thức tự giáo dục rèn luyện để trưởng thành và hoàn thiện.
Hai là, xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, giữa
cơ quan quản lý nhà nước với Đoàn thanh niên nhằm thực hiện tốt cơ chế
phối hợp liên ngành trong việc thực hiện cơ chế, chính sách và pháp luật đối
với thanh niên. Định kỳ lãnh đạo các bộ, ngành và địa phương có trách nhiệm
gặp gỡ đối thoại với thanh niên để nắm bắt những tâm tư, tình cảm, nhu cầu
chính đáng và giải quyết những vấn đề được đặt ra đối với thanh niên.
Ba là, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, phối hợp chặt chẽ với
chính quyền các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể khác, các
cơ quan, đơn vị nhằm đa dạng hóa các hình thức, phương pháp tuyên truyền,
giáo dục cho thanh niên bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp để
thanh niên có điều kiện thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình.
3.1.5. Giải pháp khác
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, vai trò giám sát của Hội đồng
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể xã hội các cấp đối với việc
triển khai, thực hiện Chiến lược phát triển thanh niên.
- Khuyến khích và có giải pháp hỗ trợ các trung tâm dịch vụ việc làm,
cơ sở dạy nghề của các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh công tác hướng nghiệp,
dạy nghề, giới thiệu và giải quyết việc làm cho thanh niên.
3.2. Những giải pháp riêng cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về công tác thanh niên trên địa bàn huyện Thăng Bình.
3.2.1. Bảo đảm vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với công
tác thanh niên
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra của các cấp ủy Đảng, chính
quyền đối với công tác thanh niên về việc phát triển thanh niên ở địa phương,
60
đặc biệt kiểm tra các ban, ngành liên quan trong việc thực hiện Nghị quyết
25-NQ/TW, ngày 25/7/2007 của BCH TW Đảng khoá X về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên, trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ” và Kết luận số 80-KL/TW, ngày 25/12/2013 của
Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày
25/7/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về "Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên, trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tăng cường vai trò trách nhiệm lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính
quyền huyện Thăng Bình đối với công tác thanh niên bằng việc hoạch định
chương trình kế hoạch có tính khả thi cao (phù hợp với đặc điểm cụ thể của
thanh niên và điều kiện hoản cảnh ở địa phương), để mở đường và gia tăng
hiệu quả công tác thanh niên; và triển khai thuận lợi các phong trào phát triển
thanh niên ở địa phương.
3.2.2. Bảo đảm phối hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý nhà nước về
công tác thanh niên với tổ chức Đoàn thanh niên
Ban hành các văn bản chỉ đạo của UBND Huyện đối với các phòng, ban
chuyên môn, thuộc Huyện trong việc tổ chức các hoạt động có liên quan đến
công tác thanh niên. Đồng thời, chỉ đạo, các đơn vị liên quan phối hợp với tổ
chức Đoàn trên cơ sở có sự phân vai rõ ràng để phòng tránh xu hướng đùn
đẩy/ né tránh trách nhiệm hoặc thụ động trong phối hợp thực hiện, để triển
khai các chương trình, kế hoạch đã đề ra trong các chương trình chiến lược
phát triển thanh niên một cách đồng bộ và hiệu quả (chứ không nên chỉ khoán
trắng lâu nay cho hệ thống tổ chức Đoàn thanh niên phối hợp với phòng Tư
pháp cùng thực hiện là chủ yếu).
Bên cạnh đó, cũng cần làm tốt công tác giáo dục tư tưởng, nâng cao nhận
thức của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, nhất là đối với lãnh đạo các sở,
61
ngành, UBND các cấp về tầm quan trọng của thanh niên và công tác thanh
niên trong giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội hiện nay. Cần nhận thức rõ vai
trò, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành đối với sự phát triển của thanh niên
gắn liền với sự phát triển của địa phương. Quan tâm hơn nữa đến công tác
chăm lo, giáo dục thanh niên, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển toàn diện
chính là nhiệm vụ của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể
không giao khoán cho gia đình, trường học, xã hội. Đồng thời luôn đảm bảo
có sự lãnh đạo xuyên suốt của Đảng, sự tham gia tích cực của các tổ chức
chính trị, xã hội.
Phát huy vai trò, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân, các tổ chức, cá nhân, dòng họ, gia đình trong việc lập các Quỹ khuyến
học, khuyến tài cho thanh niên. Gia đình, Nhà nước và xã hội đẩy mạnh về
công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức để thanh niên ý thức về vị
trí, vai trò, trách nhiệm của mình, nhằm thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ công
dân của thanh niên.
Hướng dẫn việc tổ chức, phối hợp đào tạo nghề và giải quyết việc làm
cho thanh niên, hỗ trợ cho thanh niên lập thân lập nghiệp, nhất là các chương
trình khởi nghiệp trong thanh niên, hướng dẫn việc đầu tư, xây dựng khai
thác, sử dụng, quản lý và các cơ chế, chính sách xã hội hóa đối với các thiết
chế văn hóa cơ sở cho hoạt động thanh thiếu niên; hướng dẫn việc tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trong thanh niên... Đồng thời, chính
quyền tạo cơ chế, chính sách thu hút doanh nghiệp trên địa bàn; và cùng với
huyện đoàn Thăng Bình tập trung chủ động đóng vai trò điều tiết, điều phối
mối liên kết liên doanh giữa các cơ sở đào tạo nghề với thị trường, doanh
nghiệp nhằm gắn kết chiều sâu giữa công tác đào tạo nghề và giải quyết việc
làm cho thanh niên nông thôn. Kèm theo yêu cầu phải nâng cao năng lực của
62
các cơ sở đào tạo nghề để đáp ứng chuẩn đầu ra về giá trị của chứng chỉ nghề
đáp ứng yêu cầu doanh nghiệp và nhu cầu thực tế của thanh niên.
Hằng năm, tổ chức hội nghị tổng kết đánh giá về tình hình triển khai
thực hiện các nội dung của công tác quản lý nhà nước đối với công tác thanh
niên, đánh giá kết quả việc thực hiện của các phòng, ban về chuyên môn theo
từng ngành, từng lĩnh vực. Từ đó, đề ra các giải pháp phù hợp, có hiệu quả
hơn thúc đẩy thực hiện có hiệu quả các chính sách đối với thanh niên. Muốn
thực hiện tốt điều này, cần lắm những người thật sự có tâm huyết với thanh
niên, hiểu thanh niên và luôn vì sự phát triển của thanh niên. Luôn quyết tâm
trong nghiên cứu, tìm hiểu và mạnh dạn đề xuất các vấn đề liên quan đến
thanh niên. Chủ động gần gũi, gắn bó với thanh niên, để tham mưu những
chính sách hỗ trợ mà thanh niên thật sự cần và mang lại hiệu quả cao.
Cần giáo dục nâng cao trình độ, năng lực và nhận thức của đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác thanh niên, hiểu rõ trách nhiệm quản lý của Nhà
nước đối với thanh niên và công tác thanh niên là không thể thiếu, không thể
thay thế bởi tổ chức Đoàn hay các chủ thể khác trong xu thế phát triển và hội
nhập hiện nay. Chỉ khi Nhà nước thực hiện hiệu quả công tác quản lý của
mình thì thanh niên mới có đủ điều kiện phát triển và phát huy hết các tiềm
năng của mình, từ đó hình thành ý thức tích cực hơn, tin tưởng vào sự điều
hành của Nhà nước để cùng chung sức xây dựng, phát triển và bảo vệ đất
nước.
Để xây dựng được một lớp thanh niên phát triển toàn diện, có đủ trình
độ, năng lực để tham gia xây dựng, phát triển đất nước, đủ sức bảo vệ Tổ
quốc thì không chỉ dừng lại ở phạm vi lý luận, thực hiện công tác giáo dục tư
tưởng cho thanh niên. Mà Nhà nước cần có kế hoạch phân bố nguồn ngân
sách hợp lý, vận động các chủ thể khác trong xã hội vào cuộc, đồng hành
nhằm tạo điều kiện hỗ trợ cho thanh niên phát triển trí tuệ, sức khỏe, tinh
63
thần,...
Nhà nước cần đảm bảo cơ sở vật chất cần thiết như: trường học có đủ
thiết bị giảng dạy chất lượng, nghiên cứu cần thiết hiện đại, chương trình đào
tạo thích ứng với nhu cầu ứng dụng thực tế, nhất là trong thời đại công nghiệp
lần thứ 4 phát triển như hiện nay; thu hút các nguồn lực đầu tư xây dựng các
ngành, lĩnh vực đảm bảo thanh niên có việc làm sau đào tạo; xây dựng những
công trình, thiết chế văn hóa tạo điều kiện cho thanh niên tham gia tập luyện
nâng cao thể chất, tinh thần.
Quan tâm bố trí nguồn ngân sách phục vụ cho các hoạt động QLNN về
công tác thanh niên như: duy trì tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể
dục thể thao; hội thi nâng cao tay nghề, các buổi tư vấn, định hướng nghề cho
thanh niên, học sinh; tạo quỹ hỗ trợ thanh niên sáng tạo khoa học kỹ thuật, cải
tiến nâng cao chất lượng, hiệu quả trong lao động, sản xuất, nhất là dụng công
nghệ cao trong nông nghiệp; phát triển đẩy mạnh, lan tỏa phong trào khởi
nghiệp chính trên mảnh đất của quê hương cho thanh nhiên, nhằm thu hút và
giải quyết lao động tại chỗ công tác bồi dưỡng, đào tạo, rèn luyện chuyên
môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác thanh niên cũng phải được
quan tâm đúng mức.
3.2.3. Bố trí công chức chuyên trách và bảo đảm điều kiện cơ sở vật
chất phục vụ quản lý nhà nước về công tác thanh niên
Bố trí công chức chuyên trách làm công tác thanh niên phải có trình độ
chuyên môn, am hiểu về công tác thanh niên; để từ đó có thể tham mưu các
chương trình, kế hoạch về công tác thanh niên; sát với thực tế nhu cầu nguyện
vọng chính đáng của thanh niên địa phương.
Từng sở, ngành căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, hằng năm phải
xây dựng dự toán ngân sách, để tổ chức thực hiện công tác thanh niên, gửi về
Sở Tài chính kế hoạch tỉnh và ban chỉ đạo tỉnh để tham mưu đề xuất UBND
64
tỉnh có kế hoạch bố trí ngân sách thực hiện trong năm. Công tác thanh niên,
cần nguồn lực về kinh phí, phương tiện, con người rất lớn, cần sự chủ động
công tác xã hội hóa trong các doanh nghiệp, toàn xã hội của các sở, ngành và
các địa phương trong tỉnh.
Định kỳ hằng năm cần sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả tham mưu của
các ngành chuyên môn, trực thuộc UBND các cấp, trong thực hiện nhiệm vụ
trong công tác thanh niên. Cuối năm qua đánh giá kết quả thực hiện có khen
thưởng những đơn vị thực hiện tốt, cũng như xử lý nghiêm những đơn vị
thiếu trách nhiệm công tác tham mưu thực hiện QLNN về công tác thanh
niên.
65
Tiểu kết chương 3
Từ những mặt đạt được cũng như những hạn chế, bất cập trong QLNN
về công tác thanh niên trên địa bàn tỉnh huyện Thăng Bình Quảng Nam,
trong thời gian qua với nhiều nguyên nhân từ việc thực hiện các hệ thống
pháp luật, các văn bản điều chỉnh của các bộ, ngành trung ương đến địa
phương về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm các
cấp, đến việc triển khai và tổ chức thực hiện của từng ngành cho thấy việc
quản lý của Nhà nước về công tác thanh niên vẫn chưa đảm bảo yêu cầu,
nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới. Căn cứ theo đặc điểm tình hình thanh
niên nói chung và ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam nói riêng cần có
những giải pháp thực hiện phù hợp hơn, mang lại hiệu quả thiết thực hơn, để
tạo điều kiện cho thanh niên phát triển toàn diện cả về số lượng và chất
lượng. Nội dung giải pháp chung, về hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản
lý công tác thanh niên, nâng cao năng lực QLNN về công tác thanh niên, bảo
đảm sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành và chủ trọng hiệu lực, hiệu quả
công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra kết quả thực hiện. Cũng như những đề
xuất giải pháp riêng đối với huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Đây là
những giải pháp nhằm giải quyết cơ bản những hạn chế, bất cập trong QLNN
về công tác thanh niên, hiện nay ở Việt Nam cũng như ở huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam.
66
KẾT LUẬN
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, đầy tiềm năng, một trong những
nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ
yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc, đòi hỏi phải có sự năng
động, sáng tạo, nhạy bén, linh hoạt, trình độ, sức khỏe, đặc biệt là phải dám
nghĩ, dám làm, dám dấng thân vì tương lai tốt đẹp của bản thân và xã hội.
Song, do tuổi còn trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm, sự trui rèn nên thanh niên cần
được sự giúp đỡ, chăm lo, hướng dẫn của các thế hệ đi trước và toàn xã hội.
Trước yêu cầu, của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, quá trình hội nhập quốc tế, ngày càng sâu rộng và sự biến đổi nhanh
chóng của thế giới . Sự phát triển của thanh niên đòi hỏi phải tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, đối với công tác thanh niên
nhằm chăm lo, bồi dưỡng và phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của thanh
niên, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam XHCN. Các
nội dung QLNN về công tác thanh niên cần đảm bảo thực hiện theo Luật quy
định, để có cơ sở cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng, Chính phủ về công tác
thanh niên. Đồng thời tạo điều kiện, để thanh nhiên phát huy các thế mạnh,
tiềm năng, sự chủ động của mình trong phát triển kinh tế, xã hội và sự nghiệp
bảo vệ đất nước trong thời kỳ mới. Đa số thanh niên cả nước nói chung và
thanh niên ở huyện Thăng Bình, Quảng Nam nói riêng đều có ý chí vươn lên
trong học tập, rèn luyện, cần cù lao động; tin tưởng vào đường lối lãnh đạo
và đổi mới của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước; tích cực tham gia
các phong trào thanh niên; chấp hành pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó,
đời sống kinh tế của một bộ phận thanh niên của huyện còn gặp nhiều khó
khăn, nhất là thanh niên đặc thù, yếu thế trong xã hội. Một bộ phận thanh
niên có lối sống vô cảm, thực dụng, đua đòi, vi phạm pháp luật ngày càng có
chiều hướng gia tăng, vấn đề đó đặt ra thách thức đối với công tác thanh
67
niên, trong giai đoạn hiện nay.
Công tác thanh niên hiện nay ở huyện đã được các cấp, các ngành quan
tâm, và xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện, nhất là các cơ quan nhà
nước. Qua kết quả triển khai thực hiện chương trình phát triển thanh niên
Huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011-2020 có thể thấy trong
nhận thức và hoạt động của Nhà nước về công tác thanh niên; đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Phần nào đã cụ thể hóa các nội dung, chỉ tiêu Nghị
quyết 25 của Đảng và Nghị quyết số 45 của Chính phủ, thành những chế độ,
chính sách, công việc cụ thể đối với thanh niên. Bên cạnh đó thì cũng còn
những mặt hạn chế trong quá trình quản lý, thực hiện của các sở, ngành tỉnh
và huyện: về công tác đào tạo, tạo việc làm, bố trí nguồn lực, hệ thống pháp
lý, sự phối hợp các ngành … chưa đảm bảo thực hiện tốt, đầy đủ các chức
năng, nhiệm vụ được giao. Những giải pháp chung, riêng nêu trên nhằm giải
quyết, những vấn đề còn hạn chế, thiếu sót trong công tác quản lý của Nhà
nước về thanh niên. Đó là: Sự tác động của các văn bản pháp luật, đến các
mối quan hệ trong công tác thanh niên thấp, kém hiệu lực, hiệu quả, cần
được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp; các chế độ, chính sách, dự án
dành cho thanh niên nhiều, nhưng đôi lúc chưa đúng người, chưa phù hợp
với nhu cầu của thanh niên; vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành trong thực
thi nhiệm vụ chưa cao, còn thụ động, trong công tác phối kết hợp; đội ngũ
cán bộ, công chức làm công tác thanh niên, chưa đủ tầm, tâm để thực hiện;
nguồn ngân sách đầu tư, cho công tác chưa nhiều, chưa thường xuyên,... Phát
triển thanh niên là mục tiêu, là động lực của cả hệ thống chính trị xây dựng
một thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Đây là nhiệm vụ chung, của
toàn xã hội: Công tác thanh niên là những hoạt động của Đảng, Nhà nước và
xã hội nhằm giáo dục, bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên,
phấn đấu và trưởng thành, đồng thời phát huy vai trò xung kích, sức sáng tạo
68
và tiềm năng to lớn của thanh niên, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993), Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Hà Nội.
2. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X (2008), Nghị quyết Hội nghị lần
thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng, Hà Nội.
3. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2011), Điều lệ Đảng cộng sản
Việt Nam, Hà Nội.
4. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2011), Nghị quyết số 25-
NQ/BCH ngày 25/7/2008 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Hà Nội.
5. Ban chấp hành Hội cựu thanh niên xung phong tỉnh Quảng Nam, Văn kiện
đại hội đại biểu Hội cựu thanh niên xung phong tỉnh Quảng Nam lần thứ
II, nhiệm kỳ 2017 - 2022, Quảng Nam.
6. Ban soạn thảo (1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
7. Ban soạn thảo (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
8. Ban biên soạn (2014), 45 năm thực hiện Di chúc của chủ tịch Hồ Chí
Minh (1969-2014), NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
9. Bộ Nội vụ (2011), Thông tư số 04/2011/TT-BNV ngày 10/2/2011 về
hướng dẫn bổ sung nhiệm vụ, tổ chức và biên chế của Sở Nội vụ, Phòng
nội vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện về công tác thanh niên,
Hà Nội.
10. Bộ trưởng Bộ Nội vụ (2011), Quyết định số 1923/QĐ-BNV ngày
28/11/2011 phê duyệt Đề án Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà
nước về công tác thanh niên cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
thanh niên các cấp, các ngành giai đoạn 2011-2015, Hà Nội.
11. C.Mác-Ănghen (1982), Bàn về thanh niên, NXB Thanh niên, Hà Nội.
12. Chính phủ (2007), Nghị định số 120-NĐ/CP ngày 23/7/2007 hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Thanh niên 2005, Hà Nội.
13. Chính phủ (2009), Nghị quyết số 45/NQ-CP ngày 11/9/2009 về ban hành
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Hà Nội.
14. Chính phủ (2011), Nghị định số 12/2011/NĐ-CP ngàv 30/01/2011 về tổ
chức và chính sách đối với thanh niên xung phong, Hà Nội.
15. Chính phủ (2012), Nghị định số 61/2012/NĐ-CP ngày 10/08/2012 quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ,
Hà Nội.
16. Đào Ngọc Dung (2005), Sự tham gia của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh vào hoạt động quản lý nhà nước về công tác thanh niên, Luận
văn Thạc sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội.
17. Dương Tự Đam (2005), Thanh niên - Giáo dục và phát triển, NXB Thanh
niên, Hà Nội.
18. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Dự thảo văn kiện đại hội Đảng XII,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Huyện Đoàn Thăng Bình (2020), Báo cáo tổng kết hoạt động công tác từ
năm 2016-2020.
21. Vũ Trọng Kim (1999), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên trong
tình hình mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Lênin (1981), Bàn về thanh niên, NXB Tiến Bộ, Mátxcơva.
23. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, (tập II), NXB Sự Thật, Hà Nội.
24. Nguyễn Vĩnh Oánh (1995), Quản lý nhà nước về công tác thanh niên,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Quốc Hội (2005), Luật Thanh niên 2005, NXB Thanh niên, Hà Nội.
26. UBND huyện Thăng Bình (2020), Báo cáo tổng kết công tác giai đoạn
2015-2020.