BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN TRUNG TIẾN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG
BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƢƠNG MẠI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN TRUNG TIẾN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG
BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƢƠNG MẠI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số : 60 34 04 03
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đào Đăng Kiên
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Trung Tiến, học viên lớp Cao học HC20.N10, chuyên
ngành Quản lý công, mã số: 60 34 04 03, niên khóa 2015 - 2017.
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi (có khảo
cứu, kế thừa có chọn lọc, khoa học và hợp lý một số vấn đề thực tiễn). Các số
liệu trong luận văn là trung thực, được điều tra, nghiên cứu cẩn thận và tỉ mỉ, có
tính cập nhật và nguồn được trích dẫn rõ ràng.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình khoa học nào./.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 8 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Trung Tiến
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và hoàn thành nghiên cứu Luận văn Cao học,
chuyên ngành Quản lý công, niên khóa 2015 - 2017, em nhận được sự quan tâm
giảng dạy, giúp đỡ của Ban Giám đốc, các Thầy, Cô tham gia giảng dạy và
Khoa sau Đại học đã giúp em lĩnh hội những kiến thức khoa học và bổ ích của
chương trình Cao học, chuyên ngành Quản lý công.
Em xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, các Thầy, Cô, các Phòng, Ban,
Khoa, cơ sở Học viện Hành chính Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, UBND
tỉnh, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ, Sở Tài chính, Trường Chính trị tỉnh, Ban
Giám đốc Sở Công Thương, Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Kiên Giang, đồng
nghiệp, bạn bè, gia đình và những người thân… đã động viên và cung cấp tài
liệu, hỗ trợ về thời gian hữu ích cho em hoàn thành khóa học và luận văn.
Đặc biệt em xin trân trọng cảm ơn Giảng viên Cao cấp, TS. Đào Đăng
Kiên, nguyên Phó trưởng khoa Quản lý nhà nước về Kinh tế đã trực tiếp nghiêm
túc tận tình hướng dẫn và động viên em nghiên cứu hoàn thành luận văn này.
Một lần nữa, em xin khắc ghi những tình cảm quý báu của quý Lãnh đạo,
Thầy, Cô, đồng nghiệp, bạn bè, gia đình và những người thân đã quan tâm động
viên, tạo điều kiện và giúp đỡ hoàn thành khóa học cũng như luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 8 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Trung Tiến
MỤC LỤC
Trang phụ bìa Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục bảng biểu
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn ................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn ..................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ............................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................................... 7
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ...................... 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 8
7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 8
Chƣơng 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƢƠNG MẠI ..................................... 9
1.1. Các khái niệm cơ bản ................................................................................. 9
1.1.1. Khái niệm về buôn lậu ........................................................................ 9
1.1.2. Khái niệm gian lận thương mại ......................................................... 10
1.1.3. Quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại . 14
1.1.4. Phân biệt giữa buôn lậu và gian lận thương mại .............................. 18
1.1.5. Sự cần thiết và nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại ...................................................................................... 21
1.2. Nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại ............................................................................................................... 22
1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại ở một số nước, tổ chức trên thế giới và bài học có thể vận dụng đối với Việt Nam và tỉnh Kiên Giang ........................................................................... 25
1.3.1. Tổ chức Hải quan thế giới ................................................................. 25
1.3.2. Một số nước trên thế giới .................................................................. 27
1.3.3. Bài học rút ra cho Việt Nam và tỉnh Kiên Giang ............................. 31
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƢƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG ................................................................................................................... 33
2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và các nhân tố tác
động đến buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang .............. 33
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội ............................................... 33
2.1.2. Các nhân tố tác động đến buôn lậu và gian lận thương mại ............. 35
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang ................................................................ 36
2.2.1. Về xây dựng và chỉ đạo các chiến lược, chương trình, chính sách và kế hoạch quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại………….….. .................................................................................................... 36
2.2.2. Về ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật ................. 38
2.2.3. Về hệ thống tổ chức bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại ...................................................... 40
2.2.4. Về cơ chế phối/kết hợp và hợp tác giữa các ngành, doanh nghiệp,
người dân, khu vực quốc tế để phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại .... 43
2.2.5. Về hoạt động tuyên truyền, giáo dục phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại cho người dân và cộng đồng doanh nghiệp ........................... 45
2.2.6. Về hoạt động kiểm tra, kiểm soát phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại ......................................................................................................... 47
2.2.7. Về nguồn lực đảm bảo cho hoạt động phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại ................................................................................................. 49
2.3. Đánh giá chung quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang thời gian qua .................................... 51
2.3.1. Những kết quả đạt được .................................................................... 51
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế ...................................................................... 54
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế .......................................... 58
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 61
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƢƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2025 ........................ 62
3.1. Quan điểm và phương hướng phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang thời gian tới ........................................... 62
3.1.1. Quan điểm chủ yếu của Đảng và Nhà nước ..................................... 62
3.1.2. Phương hướng quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang tầm nhìn đến năm 2025 ........... 66
3.2. Một số giải pháp quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang tầm nhìn đến năm 2025 ................... 69
3.2.1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chiến lược, chương trình, chính
sách, kế hoạch phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại ............................. 69
3.2.2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. ..................................................... 70
3.2.3. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại ............................................................................. 73
3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong hoạt động phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại .................................................................. 77
3.2.5. Về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại ............................................................................. 78
3.2.6. Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho công
dân và doanh nghiệp ................................................................................................ 81
3.2.7. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất, phương tiện hỗ trợ cho hoạt
động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại ............................................. 83
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 86
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 87
3.3. Kiến nghị .................................................................................................. 88
3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ ............................................................ 88
3.3.2. Kiến nghị đối với UBND tỉnh Kiên Giang ....................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên bảng Trang
Bảng 2.1. Khái quát tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang 42
Bảng 2.2. Kết quả xử lý buôn lậu và gian lận thương mại từ
năm 2011 - 2016 48
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển kinh tế, xã hội hiện nay ở nước ta nói chung và tỉnh Kiên Giang nói
riêng có nhiều cơ hội nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức.
Học viên lựa chọn đề tài luận văn: “Quản lý nhà nước về phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang”. Với những lý do
như sau:
Thứ nhất, khi Việt Nam gia nhập vào nền kinh tế thế giới, nhiều hàng rào
thuế quan, nhiều biện pháp tự vệ mang tính quốc gia phải xóa bỏ, các doanh
nghiệp nước ngoài được mở cửa rộng rãi vào hoạt động tại thị trường Việt Nam
với những thủ tục hành chính trong xuất, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa phải
đơn giản, nhanh, gọn nhưng vẫn đảm bảo chính xác. Tuy nhiên, với hệ thống
pháp luật trong quản lý kinh tế còn nhiều kẽ hở và cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục vụ cho công tác này còn nghèo nàn, lạc hậu, đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức trong hoạt động này còn chưa được đào tạo chuyên sâu, đã tạo cơ hội
cho các hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại phát triển và ngày càng có
xu hướng gia tăng về qui mô với mức độ ngày càng tinh vi, phức tạp.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 khóa VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường
sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, phát huy vai trò của nhân dân để tiến
hành có hiệu quả những biện pháp chống buôn lậu trên các tuyến biên giới, vùng
biển và trên thị trường nội địa. Ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi buôn lậu
và gian lận thương mại hoặc tiếp tay, bao che cho buôn lậu".
Thứ hai, trước tình hình khó khăn chung của nền kinh tế thế giới và nước ta
trong những năm gần đây đã khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và người dân gặp nhiều khó khăn như chi phí nguyên vật liệu cao,
1
sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được, v.v… Chính vì những yếu tố trên tạo
cho nhiều doanh nghiệp vào hoạt động làm ăn phi pháp, tiến hành những hành vi
gian lận thương mại để duy trì hoạt động và nâng cao lợi nhuận.
Thứ ba, Kiên Giang là tỉnh cực Nam của Tổ quốc giáp biên giới thủy, bộ
với Campuchia và vịnh Thái Lan, với vị trí và địa bàn nêu trên, tình hình buôn
lậu tuyến biên giới diễn ra nhỏ lẻ, phân tán và tập trung chủ yếu tại các huyện
Giang Thành, Phú Quốc và thị xã Hà Tiên. Tuyến đường biển, buôn lậu diễn
biến phức tạp với qui mô khá lớn ngụy trang trên các tàu đánh bắt thủy hải sản
để vận chuyển hàng lậu ngày càng tinh vi, xảo quyệt và phức tạp.
Thứ tư, thời gian qua, hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đã được các ngành, các cấp rất quan tâm, nhiều
đoàn thanh, kiểm tra được thành lập, nhiều vụ việc vi phạm trong hoạt động
thương mại đã được phát hiện và xử lý. Tuy nhiên, tình trạng buôn lậu và gian
lận thương mại vẫn là vấn đề bức xúc, nóng bỏng và chưa có dấu hiệu suy giảm,
trong đó có sự yếu kém, sơ hở, thiếu trách nhiệm, kiên quyết của cán bộ, công
chức tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật, lực lượng vừa mỏng, vừa thiếu
năng lực trong thực thi công vụ về đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Trên cơ sở những lý do nêu trên. Học viên lựa chọn đề tài “Quản lý nhà
nƣớc về phòng, chống buôn lậu và gian lận thƣơng mại trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang” vừa có tính lý luận và thực tiễn để làm luận văn tốt nghiệp cao
học, chuyên ngành quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Qua nghiên cứu và thu thập tài liệu có liên quan, cho đến nay, đã có nhiều
công trình nghiên cứu, bài viết đã công bố của các nhà quản lý nhà nước, các
nhà khoa học, chuyên gia viết về quản lý nhà nước đối với phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại trên nhiều luận án, luận văn, đề tài, tạp chí, trên các
2
website, trong các báo cáo tại các hội nghị, hội thảo chuyên ngành về vấn đề này
của Việt Nam nói chung cũng như của tỉnh Kiên Giang nói riêng. Có thể nêu lên
một số công trình tiêu biểu như sau:
Nguyễn Thị Thiên Hương (2010), “Tăng cường quản lý nhà nước đối với
công tác chống gian lận thương mại trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn tỉnh
Tây Ninh”, Luận văn cao học quản lý hành chính công, bảo vệ tại Học viện
Hành chính Quốc gia. Luận văn đã hệ thống hình thành khung lý tuyết về buôn
lậu, gian lận thương mại và nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại, phân tích thực trạng buôn lậu ở các địa bàn huyện
giáp biên giới Campuchia, rút ra được các nguyên nhân và từ đó, đề xuất bốn
nhóm giải pháp, (1) Về thể chế, chính sách, (2) Về tổ chức bộ máy, (3) Về đội
ngũ cán bộ, công chức và (4) Về tăng cường thanh, kiểm tra đối với hành vi vi
phạm pháp luật trong hoạt động thương mại. Luận văn là gợi ý để học viên kế
thừa nhất là về khung lý thuyết, các giải pháp. Những nghiên cứu tiếp theo là về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên biển và điều kiện của tỉnh
Kiên Giang khác biệt với tỉnh Tây Ninh.
Nguyễn Minh Hải (2010), “Một số giải pháp tăng cường đấu tranh chống
hàng giả và gian lận thương mại”, Học viện Hành chính Quốc gia - Tạp chí
Quản lý nhà nước số 12, tr.36-39. Tác giả đã hệ thống thực trạng với số liệu
minh họa có tính cập nhật về tình hình buôn lậu và gian lận thương mại ở nước
ta, từ đó, đề xuất một số giải pháp (1) Xây dựng và ban hành Luật về phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại với chế tài mạnh để răn đe hành vi vi
phạm trong lĩnh vực buôn lậu và gian lận thương mại, (2) Nâng cao năng lực và
xây dựng tổ chức bộ máy Quản lý thị trường với đội ngũ cán bộ, công chức có
năng lực và tận tụy thực thi công vụ, (3) Bổ sung trang thiết bị cho lực lượng
Quản lý thị trường tham gia đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại, (4) Chế độ, chính sách đối với người tham gia phát hiện hành vi buôn lậu
qui mô lớn để khuyến khích người dân tham gia cùng cơ quan quản lý nhà nước
3
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Đinh Thị Kim Cúc (2011), “Các giải pháp phòng, chống gian lận thương
mại trên đại bàn tỉnh Bình Dương”, Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công,
bảo vệ tại Học viện Hành chính Quốc gia. Luận văn đã hệ thống làm rõ khung lý
thuyết về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, kinh nghiệm của một
số tỉnh, thành phố và bài học có thể vận dụng cho tỉnh Bình Dương về phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại. Các nhân tố tác động và phòng chống
buôn lậu, gian lận thương mại trong điều kiện tỉnh có cơ hội thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) cao, lao động nhiều nguồn dồn về sinh sống; giáp thành
phố Hồ Chí Minh nên phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại rất phức
tạp, nóng bỏng và ngày càng tinh vi. Các giải pháp của tác giả về (1) Hoàn thiện
thể chế phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, (2) Mở rộng phạm vi
tuyên truyền và phổ biến pháp luật cho người dân và doanh nghiệp về phòng,
chống gian lận thương mại và buôn lậu, (3) Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,
công chức tham gia phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, (4) Xây
dựng chính sách và kiện toàn tổ chức hoạt động phối/kết hợp giữa Chi cục Quản
lý thị trường, Ban Chỉ đạo 127 và các cơ quan, ban, ngành trên địa bàn tỉnh.
Phan Văn Trung (2012), “Đấu tranh phòng, chống buôn lậu của Cục Hải
quan Bình Định thực trạng và giải pháp”, Luận văn cao học Luật học, bảo vệ tại
Đại học Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu của luận văn như sau: (1) Khái quát
những vấn đề lý luận về buôn lậu và đấu tranh chống buôn lậu, (2) Làm rõ vị trí,
vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành Hải quan trong đấu tranh phòng, chống
buôn lậu, (3) Đánh giá thực trạng đấu tranh phòng, chống buôn lậu ở Cục Hải
quan Bình Định trong thời gian qua; đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường
công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu của Cục Hải quan Bình Định trong
thời gian tới, (4) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên
cứu thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu của Cục Hải quan Bình
Định trong giai đoạn 5 năm từ năm 1999 đến năm 2003 và đề xuất các giải pháp
tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu của Cục Hải quan Bình
4
Định trong những năm 2005 - 2010.
Nguyễn Bỉnh Lại (2013), “Đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương
mại ở nước ta hiện nay”. Bài nghiên cứu đăng trên tạp chí Cộng sản số 2, tr.45-
48. Kết quả nghiên cứu (1) Thực trạng buôn lậu và gian lận thương mại những
năm qua trên tuyến đường bộ, tuyến đường biển, đường hàng không và Bưu
điện, (2) Kết quả kiểm tra, xử lý và những hạn chế, tồn tại, theo số liệu báo cáo
của Ban Chỉ đạo 127/TW (nay là Ban Chỉ đạo 389), trong 10 năm qua (từ năm
2001 đến 2010) các lực lượng chức năng đã kiểm tra, xử lý 3.527.627 vụ vi
phạm pháp luật, (3) Một số kiến nghị, giải pháp nhằm ngăn chặn hiệu quả nạn
buôn lậu và gian lận thương mại, Một là, phát triển sản xuất trong nước, nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hóa trong nước, Hai là, chú
trọng dựa vào nhân dân, biết phát huy sức mạnh và sự phát hiện của nhân dân;
đề cao vai trò trách nhiệm của các bộ, ngành có liên quan; tăng cường vai trò
lãnh đạo của các cấp ủy và chính quyền địa phương (đặc biệt là cấp ủy và chính
quyền cơ sở, huyện, xã), Ba là, Nhà nước tổ chức lại một số cơ quan thực thi
công tác đấu tranh chống buôn lậu cho ngang tầm với nhiệm vụ được giao (ví dụ
như nâng tầm Cục Quản lý thị trường ở trung ương thành Tổng cục Quản lý thị
trường, Chi cục Quản lý thị trường ở tỉnh, thành phố thành Cục Quản lý thị
trường; nâng tầm công tác phối hợp, Bốn là, giải quyết những khó khăn về kinh
phí, trang thiết bị, phương tiện hoạt động cho các cơ quan thực thi (Quản lý thị
trường, Hải quan, Công an, Biên phòng) như ô-tô, tàu, xuồng; các phương tiện
kiểm tra xách tay hiện đại phát hiện nhanh hàng kém chất lượng, hàng hóa có
chứa các chất độc hại, Năm là, xác định tính quy luật của buôn lậu, gian lận
thương mại để dự báo phòng ngừa, đồng thời thường xuyên tổng kết rút kinh
nghiệm, đổi mới phương thức đấu tranh của các lực lượng chức năng, Sáu
là, quan tâm giải quyết thỏa đáng các chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức
trực tiếp làm công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Nguyễn Đức Dũng (2014), “Báo chí đấu tranh chống buôn lậu và gian lận
thương mại”, Luận văn cao học bảo vệ tại Học viện Báo chí và Truyền thông.
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của báo chí và khảo sát, đánh 5
giá thực trạng vai trò của Hải quan, Biên phòng và Công an trong tham gia đấu
tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại, luận văn đề xuất một số giải pháp
và đưa ra các khuyến nghị nhằm phát huy hơn nữa vai trò của báo chí trong
công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở các công trình tiêu biểu đã công bố nêu trên, để thực hiện
luận văn của mình, học viên sẽ tiếp thu và kế thừa các ý tưởng lý thuyết của
các công trình đã công bố trước đây, đồng thời đi sâu phân tích thực trạng và
hệ thống các quan điểm, phương hướng và mục tiêu của Đảng bộ và chính
quyền địa phương, đề xuất giải pháp phù hợp cho quản lý nhà nước về phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trong
thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu một cách có hệ thống và làm rõ cơ sở lý luận và nội dung
quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang trong thời gian từ
năm 2011 - 2016.
- Đề xuất, phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trong quản lý nhà nước
6
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: về buôn lậu và gian lận thương mại.
- Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
- Về thời gian nghiên cứu: từ năm 2011 - 2016 là số liệu nghiên cứu và
tầm nhìn đến năm 2025.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; các quan
điểm của Đảng và Nhà nước về thể chế quản lý hành chính nhà nước, được thể
hiện trong Nghị quyết của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như:
- Phương pháp tiếp cận và thu nhập thông tin tài liệu sơ cấp, thứ cấp, phân
tích, diễn giải và bình luận, đánh giá theo phương pháp lịch sử qua các giai đoạn
phát triển.
- Phương pháp phân tích kinh tế, phương pháp mô hình hóa.
- Phương pháp thống kê - so sánh, hệ thống hóa - khái quát hóa.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp khác như: dự báo, báo cáo kết quả
nghiên cứu.
Vì vậy, khi áp dụng, xem xét, nghiên cứu để đưa ra các giải pháp nói chung
7
cần phải dựa trên nguyên tắc đa chiều, toàn diện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống và làm rõ khung lý thuyết quản lý nhà nước về phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại, các khái niệm về buôn lậu, thương mại,
gian lận thương mại, quản lý, quản lý nhà nước, quản lý nhà nước về phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại, các đặc điểm và hình thức của nó.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Chỉ ra những nhân tố tác động và phân tích một cách căn bản những yếu
kém, bất cập trong công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
trong quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Đồng thời, đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý nhà nước về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trong thời gian tới.
Ngoài ra, Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý,
giảng dạy, nghiên cứu của Học viện Hành chính Quốc gia, những người làm
công tác thực tế và sinh viên, học viên trong các cơ sở đào tạo bồi dưỡng cán
bộ, công chức.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết
cấu luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp quản lý nhà nước về phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang tầm nhìn đến năm
8
2025.
Chƣơng 1:
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG
BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƢƠNG MẠI
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về buôn lậu
Theo từ điển Tiếng Việt: “buôn lậu” có ý nghĩa là buôn bán những hàng
hóa trốn thuế và hàng cấm. Đây là một khái niệm kế thừa những hiểu biết xưa,
nay của cụm từ này và khá phù hợp với quan niệm phổ thông hiện nay [54].
Từ xa xưa, trong “Quốc triều Hình luật” của triều Lê (1428 - 1788), Bộ
Luật Hình sự được xem là hoàn chỉnh nhất của thể chế phong kiến Việt Nam, tội
danh buôn lậu không được quy định. Mặc dù vậy “Quốc triều Hình luật” đã quy
định “những trang trại ven bờ biển mà đón tiếp thuyền buôn, ngầm dỡ hộ hàng
hóa lên bờ thì bị xử biếm (cách chức), phạt gấp 3 tang vật để sung công quỹ…
“Những người bán ruộng, đất ở, bờ cõi, binh khí; các thứ chất nổ có thể chế hỏa
tiễn, hỏa pháo cho người nước ngoài đều phải tội chém”, “bán mắm muối ra
nước ngoài… thì bị xử đi Châu Xa”. Các mặt hàng cấm xuất khẩu lúc đó được
quy định gồm: ruộng đất, thuốc nổ, vũ khí, sắt, đồng, vàng, da trâu, gỗ lim, vỏ
quế, trân châu, ngà voi… Những hành vi cụ thể, tách biệt nói trên trong tiềm
thức xã hội đều được gộp chung lại là hiện tượng buôn lậu chứ không có tội
danh buôn lậu [24].
Trước năm 1985, thuật ngữ “tội buôn lậu” đã được đề cập trong một số văn
bản pháp luật nước ta như Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng cảnh
sát nhân dân (ngày 20 tháng 7 tháng 1962); Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ,
buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (ngày 30 tháng 6 năm 1982). Song
về cơ bản tội danh “buôn lậu” lúc đó chưa được hướng dẫn, nhận diện đầy đủ
với các yếu tố cấu thành và dấu hiệu pháp lý đặc trưng. Từ năm 1985, Bộ luật
9
Hình sự ra đời (ngày 27 tháng 6 năm 1985) đã chính thức ghi nhận tội danh
buôn lậu. Điều 97 của Bộ Luật Hình sự, tội buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới được quy định: “Người nào buôn bán trái phép hoặc
vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí
quý, đá quý hoặc vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa thì bị phạt tù từ hai
năm đến bảy năm…”. Tội danh buôn lậu từ đây đã được xác định với bốn yếu tố
cấu thành tội phạm (các mặt khách thể, mặt khách quan, mặt chủ thể, mặt chủ
quan) và những dấu hiệu pháp lý đặc trưng.
Từ năm 1986, đất nước chuyển sang phát triển kinh tế thị trường, tình hình
buôn lậu có xu hướng gia tăng. Đến năm 1999, trước yêu cầu của thực tiễn đấu
tranh phòng chống tội phạm buôn lậu, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa X, ngày
21 tháng 12 năm 1999, Quốc hội đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật
Hình sự, tại Điều 153 của Bộ luật, tội buôn lậu được quy định thành một tội độc
lập (đã tách tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới được quy
định tại Điều 154 Bộ luật Hình sự).
Như vậy, tội danh buôn lậu được xác định như sau:
Buôn bán qua biên giới, trái với quy định về quản lý hải quan những hàng
hóa, tiền tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên hoặc hàng
hóa là các vật phẩm thuộc di tích, lịch sử văn hóa hay hàng cấm có số lượng lớn.
Hành vi đó thường thể hiện dưới một số hình thức như: không khai báo, khai
báo gian dối; giả mạo giấy tờ dùng trong xuất, nhập khẩu; giấu hàng hóa tiền tệ;
không đi qua các cửa khẩu hoặc trốn tránh sự kiểm tra, giám sát của Hải quan,
Thuế vụ, Bộ Đội biên phòng, Công an.... Không có đầy đủ các giấy tờ hợp lệ
của các cơ quan có thẩm quyền khi thực hiện xuất, nhập khẩu hàng hóa.
1.1.2. Khái niệm gian lận thương mại
10
- Thương mại:
Theo Từ điển Tiếng Việt, “thương mại là toàn bộ hoạt động trao đổi hàng
hóa thông qua mua và bán các loại hàng hóa, dịch vụ, các chứng từ có giá trị
trong xã hội” [54].
Thương mại đã xuất hiện rất sớm cùng với nền sản xuất hàng hóa và phát
triển mạnh dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Thương mại ở Việt Nam cũng không
nằm ngoài quy luật chung của thế giới. Tuy nhiên, thương mại ở Việt Nam bị
kìm hãm một thời gian dài do chiến tranh và chế độ quan liêu bao cấp. Sau khi
đất nước thống nhất và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thương
mại được xem là một khâu trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
với vai trò là “cầu nối” giữa công nghiệp và thương nghiệp, giữa các vùng kinh
tế, giữa trong nước và ngoài nước. Bên cạnh đó, thương mại còn thúc đẩy sản
xuất, phục vụ đời sống, đảm bảo quá trình tái sản xuất của nền sản xuất xã hội.
Với vai trò quan trọng của thương mại ở Việt Nam, thuật ngữ “thương mại”
được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống xã hội và trong nhiều các văn bản quy
phạm pháp luật, vào năm 1997, thương mại được định nghĩa “chính thống”
trong Luật Thương mại, tại Khoản 1, Điều 3 quy định: “Hoạt động thương mại
là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
So với cách định nghĩa chung về thương mại thì định nghĩa về thương mại
tại Luật Thương mại năm 1997 của Việt Nam chỉ ở một góc hẹp, không bao hàm
hết những hoạt động thương mại diễn ra trong thực tế. Với sự phát triển và gia
nhập thương mại thế giới như hiện nay, có thể tìm hiểu khái niệm chung về
thương mại qua vận dụng khái niệm thương mại của Ủy ban Liên hợp quốc về
Luật Thương mại (UNCITRAL) năm 1985, bởi lẽ đây là cách tiếp cận tương
đồng với khái niệm thương mại theo pháp luật và tập quán thương mại quốc tế.
Theo Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại định nghĩa: “Hoạt động
thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ
11
chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại
diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê; cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ
thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận
chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt,
đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật” [24].
- Gian lận thương mại:
Gian lận thương mại là một thuật ngữ được sử dụng một cách rộng rãi ở
các Bộ, ngành, các tổ chức khác nhau với mục đích phục vụ cho yêu cầu quản
lý. Dù vậy, ở nước ta hiện nay chưa có một văn bản pháp luật nào đề cập một
cách đầy đủ khái niệm về gian lận thương mại. Vì vậy, chỉ có thể tìm hiểu khái
niệm về gian lận thương mại từ định nghĩa cụm từ gian lận.
Gian lận là hành vi dối trá, thiếu trung thực, mánh khóe nhằm lừa gạt người
khác.
Với nghĩa rộng hơn, gian lận là việc xuyên tạc sự thật, thực hiện các hành
vi không hợp pháp nhằm lường gạt, dối trá để thu được một lợi ích nào đó. Biểu
hiện thường thấy của gian lận là: chiếm đoạt, lừa đảo và ăn cắp.
Thông thường, gian lận sẽ phát sinh khi hội đủ các yếu tố sau:
Một cá nhân hay tổ chức cố ý trình bày sai một yếu tố hay sự kiện quan trọng.
Việc trình bày sai này sẽ làm cho người bị hại tin vào đó (người bị hại có thể là cá
nhân hay tổ chức). Người bị hại dựa vào thông tin sai lệch này để ra quyết định.
Từ cơ sở trên, có thể suy rộng ra gian lận thương mại là thủ đoạn mánh
khóe, lừa lọc lẫn nhau trong các hoạt động thương mại để thu lợi bất chính.
Từ xa xưa, gian lận thương mại đã được ông, cha ta đề cập với thành ngữ
“buôn gian, bán lận”, dùng để chỉ những thủ đoạn mánh khóe, lừa lọc khách hàng
hoặc người khác để thu lợi bất chính. Hành vi “buôn gian, bán lận” trong dân gian
được hiểu bao gồm một số thủ đoạn đơn giản như: hàng xấu nói tốt, ít nói nhiều, rẻ
12
nói đắt, cân đo không đúng, buôn bán hàng cấm, lén lút, giấu giếm, lậu thuế…
Hiện nay, chúng ta đang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chấp nhận cơ chế
thị trường tất yếu phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh là động lực để phát
triển. Nguyên nhân và động cơ cuối cùng của cạnh tranh là lợi nhuận. Trong
cạnh tranh chắc chắn sẽ xuất hiện hình thức và thủ đoạn gian lận thương mại
phức tạp và tinh vi thể hiện ở các hành vi trốn thuế, lẩn tránh sự kiểm soát của
Nhà nước, buôn lậu, lừa đảo, hối lộ, lấy cắp bí mật sản xuất, cạnh tranh tiêu cực
phi kinh tế.... Như vậy, có thể thấy mục đích hành vi gian lận trong lĩnh vực
thương mại nhằm thu được lợi nhuận không chính đáng.
Gian lận thương mại là một hiện tượng mang tính lịch sử, chỉ khi có sản xuất
hàng hóa, các sản phẩm được mang ra trao đổi trên thị trường, có người mua,
người bán nhằm thực hiện phần giá trị được kết tinh trong hàng hóa thì gian lận
thương mại cũng mới xuất hiện. Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, thị
trường ngày càng mở rộng, các sản phẩm đưa ra trao đổi, buôn bán trên thị trường
ngày càng nhiều, tiêu chuẩn và chủng loại hàng hóa ngày càng đa dạng, phong
phú thì gian lận thương mại cũng ngày càng phức tạp và tinh vi hơn. Ngày nay,
mặc dù người ta khó có thể tiến hành xã hội hóa toàn cầu nhưng toàn cầu hóa về
kinh tế lại là một quá trình tất yếu khách quan dẫn đến gian lận thương mại mang
tính toàn cầu trên cơ sở sự khác biệt các Nhà nước, quốc gia độc lập.
Như vậy: gian lận thương mại là hành vi dối trá, mánh khóe, lừa lọc trong
lĩnh vực thương mại thông qua hoạt động mua, bán, kinh doanh, xuất nhập khẩu
hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích thu lợi bất chính. Mục đích của hành vi gian
lận thương mại là nhằm thu lợi bất chính do thực hiện trót lọt hành vi lừa đảo,
dối trá. Chủ thể tham gia hành vi gian lận thương mại bao gồm: người mua,
13
người bán, hoặc cả người mua và người bán thông qua đối tượng là hàng hóa.
1.1.3. Quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
- Quản lý: là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý trong một môi trường nhất định nhằm đạt được các mục tiêu quản lý. Do
đó, mọi hoạt động quản lý đều phải do 04 yếu tố cấu thành cơ bản sau:
+ Chủ thể quản lý, trả lời câu hỏi: do ai quản lý?
+ Khách thể quản lý, trả lời câu hỏi: quản lý cái gì?
+ Mục đích quản lý, trả lời câu hỏi: quản lý vì cái gì?
+ Môi trường quản lý, trả lời câu hỏi: quản lý trong hoàn cảnh nào?
- Quản lý nhà nước:
Nhà nước thực hiện quyền lực chính trị của mình thông qua việc quản lý xã
hội và quản lý nhà nước là một dạng của quản lý xã hội, là sự tác động, tổ chức,
điều chỉnh mang tính quyền lực nhà nước; thông qua hoạt động của bộ máy nhà
nước và sử dụng các công cụ khác nhau để điều chỉnh các hành vi hoạt động của
con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo đường lối, quan điểm
của Đảng cầm quyền nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì
sự ổn định và phát triển của xã hội.
Quản lý nhà nước không chỉ là sự tác động mà là sự phối hợp hoạt động nhiều
mặt. Đó là việc thực hiện các chức năng của nhà nước, là việc thực hiện các chính
sách của nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính tổ chức điều hành và
điều chỉnh, hay nói cách khác, đó chính là việc xây dựng và điều chỉnh các mối
quan hệ giữa con người với con người nhằm thực hiện những mục đích nhất
định, đồng thời cũng là hoạt động điều chỉnh các quan hệ xã hội. Điều này cho
thấy, quản lý nhà nước không chỉ đơn giản là sự cai trị, kiểm soát hay hạn chế
mà còn là một quá trình tổ chức điều hành và điều chỉnh các quá trình xã hội.
14
Đúng như Lênin đã viết “Để quản lý tốt cần phải biết về mặt thực tiễn”.
Thứ hai, quản lý nhà nước mang tính chất quyền lực nhà nước, tức là trên cả
phương diện hành chính, pháp luật và chấp hành nhằm thiết lập quan hệ “quyền
uy” và sự “phục tùng”; có nghĩa là toàn bộ các tác động tổ chức và điều chỉnh của
quản lý được tiến hành dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước. Quyền lực đó được
ghi nhận, củng cố bằng pháp luật và được bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế
nhà nước. Xã hội càng phát triển thì càng phải có trật tự kỷ cương. Vì vậy, quyền
lực nhà nước vừa là dấu hiệu đặc trưng, vừa là điều kiện đảm bảo của xã hội văn
minh, dân chủ, hiện đại. Xã hội càng hiện đại, nền dân chủ càng cao, càng cần
đến quản lý (trong đó có quản lý nhà nước) có nghĩa là càng cần đến quyền lực
(trong đó quyền lực nhà nước là một dạng cụ thể). Điều nay, trong tác phẩm Bàn
về quyền uy, Ph. Ăng-ghen đã viết “Muốn tiêu diệt quyền uy trong đại công
nghiệp, chính là muốn tiêu diệt nhà máy sợi để đưa về cái xa kéo sợi”.
Thứ ba, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính khoa học, tính kế hoạch
hay đó là hoạt động mang tính chủ quan của con người, nhưng lại dựa trên
những yêu cầu khách quan và quy luật khách quan. Vì vậy, quản lý là những tác
động mang tính chủ động sáng tạo, nó xuất phát từ thực tiễn đời sống xã hội
luôn biến động và phát triển để tìm kiếm biện pháp, phương thức thích ứng kịp
thời và giải quyết có hiệu quả nhằm đạt tới những mục tiêu và chủ đích đã được
xác định; được xác định dựa trên những chương trình cụ thể cả về chiến lược, về
không gian cũng như thời gian. Nhìn từ một khía cạnh khác, có thể khẳng định
quản lý nhà nước bao giờ cũng mang tính chính trị rõ rệt.
Thứ tư, quản lý nhà nước là những tác động lên các quá trình xã hội và hệ
thống các hành vi xã hội một cách liên tục, đặc điểm này hình thành chu kỳ quản
lý nhà nước và thông qua các chu kỳ diễn ra liên tục mà quản lý nhà nước thúc
đẩy các quá trình xã hội phát triển theo chiều hướng liên tục. Như vậy, hoạt
động quản lý nhà nước diễn ra thường xuyên, hàng ngày, hàng giờ không bị gián
15
đoạn. Đây cũng là đặc điểm mà các hoạt động khác của Nhà nước không có.
Thứ năm, quản lý dựa trên cơ sở nền tảng của một thể chế nhất định. Thể
chế có vai trò là những chuẩn mực mà cả chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý
phải tuân theo nhằm đạt được mục tiêu quản lý.
Thứ sáu, sự vận hành của quản lý nhà nước bao giờ cũng cần có một cơ chế
quản lý phù hợp. Có thể coi đó là vấn đề cốt lõi đảm bảo quản lý có hiệu quả
trong thực tiễn. Khoa học quản lý ngày nay chỉ ra rằng, đôi khi cơ chế lại là chìa
khóa sức mạnh quản lý. Cơ chế đúng, hợp lý và tuân theo quy luật khách quan thì
xã hội phát triển, ngược lại thì xã hội phát triển chậm, bị kìm chế hoặc rối ren.
Tóm lại, quản lý nhà nước là một quá trình phức tạp, đa dạng và là một yếu
tố không thể thiếu trong đời sống xã hội, được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực
khác nhau như: an ninh, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, đối ngoại, kinh tế, v.v…
trong đó, quản lý nhà nước đối với hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại giữ một vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế của đất nước.
- Quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
Phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là toàn bộ những hoạt
động nhằm làm cho môi trường sản xuất kinh doanh diễn ra đúng theo quy
định của pháp luật, đảm bảo các quy luật kinh tế, ngăn chặn, đẩy lùi những
hoạt động kinh tế phi pháp, gây hậu quả xấu đến nền kinh tế quốc dân, nhằm
từng bước xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh, góp
phần thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Như
vậy, với ý nghĩa này thì hàng ngày, hàng giờ và đang có rất nhiều hành động
nhằm phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại xung quanh ta như:
không sử dụng hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, không tiêu thụ, buôn
bán hàng cấm, hàng giả, gian lận thương mại, không sử dụng những mặt hàng
nhà nước cấm sử dụng, v.v…
Phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại xác định rõ chủ thể là
Nhà nước, bằng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình ban hành pháp
luật, chính sách về kinh tế, tổ chức thực hiện và quản lý, giám sát, điều chỉnh 16
nhằm giáo dục, bảo vệ hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo quyền lợi
chính đáng của người tiêu dùng và của các doanh nghiệp để phát triển kinh tế
- xã hội của quốc gia.
Buôn lậu và gian lận thương mại là một trong những hoạt động kinh tế phi
pháp trong nền kinh tế quốc dân, do đó cần phải có sự quản lý của nhà nước để
hạn chế, ngăn chặn hoạt động này gia tăng. Quản lý nhà nước đối với hoạt động
buôn lậu và gian lận thương mại đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát
triển của đất nước, đặc biệt là nền kinh tế và đây là một hoạt động rất khó khăn,
phức tạp, đòi hỏi phải có sự quản lý thường xuyên, liên tục của các cơ quan
quản lý nhà nước.
Trong phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, Nhà nước ta sử dụng
các cách thức, công cụ, phương tiện khác nhau trên cơ sở luật pháp, lợi ích
kinh tế, khoa học để tổ chức các hoạt động nhằm quản lý, kiểm soát, khắc
phục tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại, tạo ra một môi trường kinh
doanh lành mạnh, cạnh tranh công bằng. Việc sử dụng các công cụ và phương
pháp quản lý sẽ tùy thuộc vào tính chất của đối tượng quản lý và nội dung của
vấn đề cần giải quyết cụ thể mà nhà nước sẽ áp dụng công cụ, phương thức quản
lý và cách thức sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất.
Như vậy, phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại phải đảm bảo
tính quyền lực của nhà nước và đáp ứng được các yêu cầu: Quản lý, kiểm
soát, xử lý và khắc phục tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại được tiến
hành một cách thường xuyên, liên tục, kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm, hợp
pháp và phù hợp với khả năng, điều kiện thực tế của quốc gia, địa phương;
ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng các hành vi buôn lậu và gian lận thương
mại và phải lấy phòng ngừa làm chủ đạo.
Mục tiêu: quản lý, kiểm soát tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại
nhằm làm giảm các hành vi buôn lậu, buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu, sản
17
xuất và buôn bán hàng giả, gian lận thương mại, hàng kém chất lượng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Tạo hành lang pháp lý và cơ chế, chính sách cho lực
lượng chức năng tích cực, chủ động làm nhiệm vụ; bảo đảm chế tài đủ sức răn
đe. Đảm bảo các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại phải được xử lý thích
đáng, kịp thời, bảo đảm công bằng.
Nguyên tắc: Hướng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động buôn
lậu và gian lận thương mại nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng một nền kinh
tế phát triển lành mạnh, cạnh tranh công bằng và theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; kết hợp các mục tiêu quốc tế - quốc gia - vùng lãnh thổ và cộng đồng
dân cư; quản lý nhà nước đối với buôn lậu và gian lận thương mại cần được
thực hiện bằng nhiều biện pháp và công cụ tổng hợp thích hợp; phòng, chống
ngăn ngừa buôn lậu và gian lận thương mại cần được ưu tiên hơn việc phải xử
lý những hậu quả mà hành vi buôn lậu và gian lận thương mại gây ra; Nhà
nước khuyến khích toàn dân tích cực tham gia vào hoạt động phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại.
Như vậy, quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại là sự tác động có tổ chức và bằng quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đối với các yếu tố, các đối tượng, các hoạt động liên quan
đến buôn lậu và gian lận thương mại nhằm đảm bảo nhu cầu và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể kinh tế, tạo nên sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
1.1.4. Phân biệt giữa buôn lậu và gian lận thương mại
Từ định nghĩa về buôn lậu và gian lận thương mại, có thể thấy rằng gian
lận thương mại là một khái niệm có phạm vi rất rộng, nội hàm của nó rộng hơn
nội hàm của buôn lậu. Vì vậy, hai thuật ngữ này thường đi kèm với nhau “buôn
lậu và gian lận thương mại”.
Sự khác nhau cơ bản giữa buôn lậu và gian lận thương mại là ở chỗ buôn
lậu trước hết là hành vi gian lận thương mại nhưng ở mức cao hơn, tính chất
phức tạp nghiêm trọng hơn. Nó bao hàm các hành vi giấu giếm để trốn tránh 18
hoàn toàn hoặc một phần việc kiểm tra của cơ quan chức năng bằng mọi thủ
đoạn, mọi phương tiện. Còn gian lận thương mại được định nghĩa là việc cố ý
làm trái các quy định của pháp luật, chính sách hoặc lợi dụng sự sơ hở, không rõ
ràng, không chính xác, không đầy đủ, chưa hoàn thiện của pháp luật và hành vi
gian dối, lừa gạt qua cửa khẩu một cách công khai ngay nơi kiểm tra, kiểm soát
của cơ quan chức năng nhằm thu lợi bất chính.
Buôn lậu hoạt động không công khai, còn các loại hình gian lận thương mại
khác bằng những thủ đoạn tinh vi đã “qua mặt” các cơ quan quản lý nhà nước
một cách công khai.
Trên thực tế, cả hai hành vi trên đều là sự vi phạm pháp luật nhà nước
nhưng hành vi buôn lậu dễ nhận dạng hơn, hình thức xử lý cũng rõ ràng hơn và
nghiêm khắc hơn.
Các cách phân loại buôn lậu và gian lận thương mại
- Cách phân loại trên thế giới
Trong bối cảnh hoạt động thương mại quốc tế ngày càng phát triển, song
song với xu thế này là những hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại cũng
ngày càng phức tạp, tinh vi. Vì vậy, tại hội nghị quốc tế lần thứ V về chống gian
lận thương mại trong lĩnh vực hải quan do Tổ chức Hải quan thế giới (gọi tắt là
World Customs Organization - WCO) triệu tập tại Brussels (Bỉ) từ ngày 09
tháng 10 năm 1995 đến ngày 13 tháng 10 năm 1995 với sự tham gia của đại diện
Hải quan từ hơn 50 nước và tổ chức quốc tế đã khẳng định buôn lậu, gian lận
thương mại tồn tại dưới 16 hình thức sau:
1. Buôn lậu hàng hóa qua biên giới hoặc ra khỏi kho Hải quan.
2. Khai báo sai.
3. Khai tăng, giảm giá trị hàng hóa.
19
4. Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ (kể cả chế độ hạn ngạch thuế).
5. Lợi dụng chế độ ưu đãi hàng gia công.
6. Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất.
7. Lợi dụng yêu cầu về giấy phép xuất nhập khẩu (qua thỏa thuận lợi dụng
giấy phép nhập hàng dệt cho trang bị quân đội để nhập hàng dệt nói chung).
8. Lợi dụng chế độ quá cảnh (mang hàng hóa quá cảnh để tiêu dùng ở nước
hàng đi qua).
9. Khai sai về số lượng, trọng lượng, chất lượng hàng hóa.
10. Lợi dụng chế độ mục đích sử dụng, kể cả buôn bán trái phép hàng được
ưu đãi thuế (Lợi dụng sự ưu đãi của Chính phủ về thuế xuất khẩu dành cho
những đối tượng sử dụng nhất định).
11. Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại hoặc quy định về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
12. Sản xuất và lưu thông hàng giả, hàng ăn cắp mẫu mã.
13. Hàng giao dịch buôn bán không có sổ sách.
14. Yêu cầu giả, khống việc hoàn hoặc truy hoàn thuế Hải quan (kể cả làm
chứng từ giả về hàng đã xuất khẩu).
15. Kinh doanh “ma”, đăng ký kinh doanh lậu nhằm hưởng tín dụng trái phép.
16. Thanh lý phá sản có chủ đích để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế (ví dụ:
Công ty đăng ký kinh doanh một thời gian ngắn, nợ thuế rồi tuyên bố phá sản).
Thái độ ứng xử đối với 16 hành vi này là thống nhất với nhau ở 02 cung
bậc, tùy thuộc vào mức độ, tác hại của hành vi đó mang lại cho xã hội mà xử lý
hành chính hay xử lý hình sự.
- Cách phân loại của Việt Nam
Cách phân loại các hình thức về buôn lậu, gian lận thương mại của thế giới
20
cũng bao hàm các đặc điểm, hình thức của hoạt động buôn lậu, gian lận thương
mại tại Việt Nam. Tuy nhiên, với những đặc điểm riêng về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, Việt Nam đã tách riêng tội danh buôn lậu và tội danh gian lận
thương mại. Đồng thời, trong tội danh gian lận thương mại Việt Nam cũng quy
định trong từng lĩnh vực cụ thể cho các hình thức gian lận thương mại.
Tội danh buôn lậu trở thành tội phạm nguy hiểm và được quy định xử lý
hình sự tại Điều 153 của Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung ngày 19 tháng 6 năm
2009, còn các hành vi gian lận thương mại chỉ được xử lý ở mức độ xử lý vi
phạm hành chính.
Riêng các hành vi gian lận thương mại được phân loại cụ thể trên các lĩnh
vực như: hải quan; thuế, phí và lệ phí; giá; kế toán; bảo hiểm; in, phát hành, sử
dụng, quản lý hóa đơn (quy định cụ thể tại Thông tư số 93/2010/TT-BTC ngày
28 tháng 6 năm 2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định các hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực tài chính là hành vi buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả).
Việc tách rõ hành vi buôn lậu ra khỏi các hành vi của gian lận thương mại
tại Việt Nam dựa trên cơ sở xác định tính nghiêm trọng của hành vi gian lận
thương mại gây ra, còn trong quá trình quản lý nhà nước, hành vi gian lận
thương mại, buôn lậu và hàng giả được liệt kê song song với nhau và cụ thể
trong từng lĩnh vực. Mặc dù việc liệt kê cụ thể này thuận lợi cho xác định hành
vi gian lận thương mại nhưng cũng dễ xảy ra trường hợp “lách luật” của các đối
tượng gian lận thương mại.
1.1.5. Sự cần thiết và nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại
Hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại là một trong những hoạt động
kinh tế phi pháp có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Do vậy, hoạt động này cần có sự quản lý của nhà nước để đảm bảo
cho các hoạt động của nền kinh tế quốc dân phát triển đúng hướng, ngăn chặn,
đẩy lùi và trừng trị thích đáng đối với các hành vi buôn lậu và gian lận thương 21
mại. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận
thể hiện rõ ở những lý do sau đây:
Buôn lậu và gian lận thương mại là một trong những mặt trái của nền kinh tế
thị trường, gây cản trở cho sự tăng trưởng và phát triển của đất nước, đe dọa sự
cạnh tranh lành mạnh cũng như lợi ích hợp pháp giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là sự nghiệp lâu dài, phức
tạp của toàn Đảng, toàn dân, đòi hỏi sự tham gia đồng bộ của nhiều Bộ, ngành,
địa phương và cả hệ thống chính trị. Để có sự phối hợp đồng bộ thì chỉ có Nhà
nước mới có khả năng tổ chức và quản lý các hoạt động đó.
Quản lý là nhiệm vụ và quyền hạn của Nhà nước trong tất cả các lĩnh vực
nói chung và trong công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại nói
riêng. Thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại tức là Nhà nước đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để duy trì sự
ổn định và phát triển xã hội. Tăng cường quản lý nhà nước là cần thiết và là
nhiệm vụ cấp bách để đáp ứng các yêu cầu về phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại trong giai đoạn mới, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2. N i dung quản lý nhà nƣớc về phòng, chống buôn lậu và gian lận
thƣơng mại
Quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là sự
tác động có tổ chức và bằng quyền lực nhà nước lên các hoạt động kinh tế nhằm
đảm bảo cho các hoạt động kinh tế phát triển đúng định hướng, đúng quy định
pháp luật và đạt được hiệu quả cao nhất. Do vậy, quản lý nhà nước về phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và
hiệu quả của nhiều ngành, nhiều cấp. Nội dung của hoạt động phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại là những công việc cụ thể mà Nhà nước làm để
thực hiện vai trò, chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động phòng, chống
22
buôn lậu và gian lận thương mại, có thể nêu một số nội dung chính như sau:
Một là, xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chiến lược, chương trình, chính
sách, kế hoạch phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
Việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chiến lược, chương trình, chính
sách, kế hoạch về kinh tế nói chung và về hoạt động phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại nói riêng phải do nhà nước trực tiếp thực hiện. Chỉ có nhà
nước với quyền lực và bộ máy của mình mới có thể xây dựng, chỉ đạo thực hiện
các chiến lược, chương trình, chính sách, kế hoạch cho mọi hoạt động kinh tế -
xã hội diễn ra theo đúng định hướng Nhà nước đã vạch ra.
Hai là, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về công tác
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
Nhà nước thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật
về công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại để điều chỉnh các quan
hệ xã hội cũng như góp phần tạo cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học để hướng dẫn, bảo
đảm cho các hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Thông qua đó, cũng xác định về vị trí, tổ chức, bộ máy, nhiệm vụ, quyền
hạn và chức năng của các cơ quan làm nhiệm vụ chống buôn lậu và gian lận
thương mại. Đảm bảo được sự phối hợp giữa các ngành, các cấp và toàn thể xã
hội trong việc thực hiện đồng loạt các chiến lược, chính sách chung về phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Ba là, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại
Bộ máy về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại phải có sự phối
hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa địa phương và trung ương, giữa các bộ, ngành để
đáp ứng được yêu cầu quản lý, kiểm soát hoạt động buôn lậu và gian lận thương
mại. Bộ máy về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại bao gồm các bộ,
23
ngành như: Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Xây
dựng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Tổng Cục Hải quan,
Tổng Cục thuế và hệ thống UBND các cấp.
Đặc biệt, đóng vai trò quan trọng trong công tác này là Ban Chỉ đạo Chống
buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại từ trung ương đến địa phương (gọi tắt
là Ban Chỉ đạo 127 nay là Ban Chỉ đạo 389). Tại Trung ương, Trưởng Ban Chỉ
đạo 127 (nay là Ban Chỉ đạo 389) thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ Công
Thương) và các thành viên của Ban Chỉ đạo 127 Trung ương (nay là Ban Chỉ
đạo 389) có đại diện của các bộ, ngành chức năng. Tại địa phương, Trưởng Ban
Chỉ đạo 127 địa phương thường là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phó
trưởng Ban Chỉ đạo 127 địa phương (nay là Ban Chỉ đạo 389) là Giám đốc
(hoặc Phó Giám đốc) Sở Công Thương và các thành viên của Ban Chỉ đạo là
Phó giám đốc của các Sở, ngành chức năng như Công an, Hải quan, Thuế, Tài
chính, Phó Chủ tịch UBND các thành phố, quận, huyện, thị xã, v.v...
Bốn là, phối hợp, hợp tác giữa các ngành, khu vực và quốc tế trong đấu
tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
Sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước có chức năng thực
hiện quản lý về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại sẽ tạo nên sự
đồng bộ trong thực hiện các giải pháp phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại. Hợp tác quốc tế song phương, đa phương với khu vực, các nước, các tổ
chức và cá nhân nước ngoài để tranh thủ sự giúp đỡ về kinh nghiệm, tài chính,
công nghệ thông tin trong hoạt động đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại.
Năm là, tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại cho quần chúng nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp
Phải tập trung tuyên truyền, tổ chức phổ biến, quán triệt các văn bản, các
quy định của Nhà nước và các chương trình, kế hoạch của UBND cấp tỉnh về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại tới các cấp ủy Đảng, chính quyền
các cấp, các đoàn thể, các tổ chức, doanh nghiệp và công dân; thường xuyên đổi 24
mới công tác tuyên truyền để tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, tạo
thành dư luận xã hội lên án nghiêm khắc đối với các hành vi, các hoạt động
buôn lậu và gian lận thương mại.
Xây dựng kế hoạch truyền thông về phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại, trong đó tập trung phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng, các
tổ chức chính trị xã hội và các cơ quan liên quan, tăng cường sự tham gia giám sát
của cộng đồng trong công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. Tổ
chức các hội thảo, đối thoại với doanh nghiệp nhằm nâng cao nhận thức, trách
nhiệm trong việc không thực hiện các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại.
Sáu là, kiểm tra, kiểm soát, giám sát, trinh sát, xử lý vi phạm
Kiểm tra, kiểm soát, giám sát các hoạt động thương mại qua việc kiểm tra,
kiểm soát và giám sát về sản xuất, lưu thông, sử dụng hàng hóa và dịch vụ; kiểm
tra việc tuân thủ pháp luật của Nhà nước về kinh doanh, về tài chính.
Đồng thời, xây dựng các yêu cầu về phòng ngừa và kiểm soát tình trạng
buôn lậu và gian lận thương mại vào các kế hoạch và chương trình phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương nói chung và chương trình cho hoạt động phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại nói riêng.
Nâng cao chất lượng các hoạt động kiểm tra, kiểm soát, giám sát, trinh sát
đối với tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại thông qua việc nâng cao chất
lượng các phương tiện kỹ thuật, hồ sơ thủ tục và đội ngũ cán bộ, công chức thực
hiện công tác kiểm tra, kiểm soát, giám sát, trinh sát đối với hoạt động phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại.
1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc về phòng, chống buôn lậu và gian
lận thƣơng mại ở m t số nƣớc, tổ chức trên thế giới và bài học có thể vận
dụng đối với Việt Nam và tỉnh Kiên Giang
25
1.3.1. Tổ chức Hải quan thế giới (World Customs Organization-WCO)
Tổ chức Hải quan thế giới (gọi tắt là World Customs Organization - WCO),
tiền thân là Hội đồng hợp tác Hải quan (chính thức đổi tên từ năm 1994) là một
tổ chức liên chính phủ độc lập, có vai trò tăng cường tính hiệu quả và hiệu lực
của các cơ quan Hải quan trên thế giới. Hiện nay, Tổ chức Hải quan thế giới có
173 thành viên chính thức trên toàn thế giới và là tổ chức quốc tế duy nhất có
năng lực về các vấn đề Hải quan và cơ quan ngôn luận của cộng đồng Hải quan
quốc tế. Để tạo ra một diễn đàn trao đổi kinh nghiệm giữa các đoàn đại biểu của
Hải quan, Tổ chức Hải quan thế giới xây dựng và phát triển nhiều công ước và
công cụ quốc tế, cũng như cung cấp các trợ giúp kỹ thuật và đào tạo cho các
thành viên. Cùng với phát triển của thương mại quốc tế thì hoạt động buôn lậu
và gian lận thương mại ngày càng gia tăng và ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền
lợi chính đáng của các nước tham gia hoạt động thương mại quốc tế, hơn nữa
buôn lậu và gian lận thương mại không chỉ giới hạn trong từng quốc gia mà còn
mang tính quốc tế với những phương thức, thủ đoạn hết sức tinh vi, do đó cần
thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Hải quan các nước, vùng lãnh thổ. Xuất
phát từ lý do này, Tổ chức Hải quan thế giới đã thông qua một số Công ước
quan trọng như: Công ước về hỗ trợ hành chính lẫn nhau trong ngăn chặn, trấn
áp và điều tra các vi phạm Hải quan - Công ước Nairobi, có hiệu lực từ năm
1980; Công ước về hỗ trợ hành chính lẫn nhau trong các vấn đề Hải quan - Công
ước Johannesburg, thông qua tháng 7 năm 2003. Ngoài ra, Tổ chức Hải quan thế
giới còn tổ chức nhiều hội nghị quốc tế chuyên đề về “chống gian lận thương
mại” tại các khu vực khác nhau trên thế giới. Đây là những điều kiện quan trọng
giúp Hải quan các nước, vùng lãnh thổ tăng cường hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong
đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Bên cạnh đó, hoạt động chia sẻ thông tin nói chung và thông tin tình báo
(thông tin nghiệp vụ) nói riêng là một trong những trụ cột trong chiến lược kiểm
soát của Tổ chức Hải quan thế giới, do đó Tổ chức Hải quan thế giới đã thiết lập
một mạng lưới thu thập, thông tin tình báo thông qua 11 Văn phòng đầu mối liên
lạc tình báo khu vực (gọi tắt là RILO) trên khắp thế giới. Chức năng của các Văn 26
phòng tình báo này là thu thập, phân tích các dữ liệu cũng như phổ biến các thông
tin về xu hướng, phương thức thủ đoạn, tuyến đường trọng điểm và các vụ việc
buôn lậu và gian lận thương mại điển hình. Cơ chế hoạt động của Văn phòng đầu
mối liên lạc tình báo khu vực được hỗ trợ bởi Mạng kiểm soát hải quan (mạng
CEN). Đây là một cơ sở dữ liệu toàn cầu về thu thập, phân tích thông tin với mục
tiêu trao đổi thông tin tình báo, mục đích của cơ chế hoạt động này nhằm tăng
cường tính hiệu quả trong trao đổi chia sẻ thông tin cũng như hợp tác giữa các cơ
quan Hải quan nhằm chống lại các loại tội phạm xuyên quốc gia.
1.3.2. Một số nước trên thế giới
1.3.2.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Lực lượng chuyên trách chống buôn lậu và gian lận thương mại chịu sự chỉ
đạo song song của hai ngành Hải quan và Công an, trong đó Hải quan giữ vai trò
lãnh đạo chính, lực lượng Cảnh sát chống buôn lậu chia làm 03 cấp: Tại Tổng
cục Hải quan (còn gọi là Cao ủy) gọi là Cục chống buôn lậu; tại cấp Vùng cũng
gọi là Cục chống buôn lậu và tại Chi cục gọi là Chi cục chống buôn lậu. Chính
phủ Trung Quốc rất xem trọng vai trò của công tác chống buôn lậu đối với sự
phát triển của nền kinh tế và đã tích cực cải cách, thể chế pháp luật, tạo điều
kiện cho công tác này của Hải quan đạt hiệu quả cao. Tất cả hàng hóa và người
phạm tội buôn lậu, bất cứ ngành nào, kể cả Công an phát hiện được đều phải bàn
giao ngay cho Cảnh sát chống buôn lậu của Hải quan để xử lý, khi đối tượng có
đủ yếu tố cấu thành tội phạm buôn lậu, lực lượng Cảnh sát chống buôn lậu của
Hải quan chuyển cho cơ quan kiểm sát khởi tố. Bên cạnh đó, lực lượng Cảnh sát
chống buôn lậu còn được nhà nước trang bị cho nhiều phương tiện, trang thiết bị
hiện đại để phục vụ công tác như: Tàu cao tốc, máy soi container, trực thăng,...
ngoài ra tại một số Hải quan vùng, lực lượng Cảnh sát chống buôn lậu còn có bộ
phận kỹ thuật giám định nghiệp vụ (tương tự như tổ chức kỹ thuật hình sự của
ngành Công an ở nước ta hiện nay) để đáp ứng yêu cầu và tạo thuận lợi cho các
27
hoạt động điều tra theo thẩm quyền. Bên cạnh đó, Hải quan Trung Quốc còn
quan tâm đầu tư và phát triển công tác tình báo Hải quan (Hải quan Việt Nam
gọi là công tác thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ Hải quan). Lực lượng tình báo
Hải quan Trung Quốc được thiết lập thống nhất từ trung ương đến địa phương
(nằm trong lực lượng Cảnh sát chống buôn lậu) nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng
này là thu thập, phân tích và tạo ra các sản phẩm thông tin tình báo phục vụ
công tác quản lý Hải quan nói chung và công tác chống buôn lậu và gian lận
thương mại nói riêng, hiệu quả hoạt động của lực lượng này thể hiện rất rõ nét
trong các năm gần đây: Số vụ việc buôn lậu do Hải quan phát hiện trong toàn
quốc dựa trên cơ sở thông tin tình báo chiếm khoảng 80%; số thuế truy thu từ
các vụ án trốn thuế là 50% dựa trên thông tin tình báo,... Hiện nay, Hải quan
Trung Quốc đang nỗ lực thực hiện công tác cải cách, hiện đại hóa thủ tục hải
quan và tích cực nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nghiệp
vụ, về cơ bản hiện tại Hải quan Trung Quốc đã thiết lập, vận hành hệ thống cơ
sở dữ liệu tương đối hiện đại thống nhất từ trung ương đến địa phương với nhiều
hệ thống cơ sở dữ liệu vệ tinh như: Hệ thống thông quan H2000; cơ sở dữ liệu
quản lý phương tiện xuất nhập cảnh; cơ sở dữ liệu trao đổi thông tin với các Bộ,
ngành và cơ quan chuyên môn thuộc Chính phủ,.... [24].
1.3.2.2. Kinh nghiệm của Australia
Thời gian vừa qua, Australia đã tăng cường đầu tư trang bị các công cụ
kiểm tra container (gồm các hệ thống máy soi tia X và các thiết bị hỗ trợ khác)
trong ngành Hải quan. Việc sử dụng các công cụ kiểm tra container cho phép
Australia tăng cường khả năng phát hiện hàng vi phạm trong vận tải đường biển,
xác định các chuyến hàng khai báo chưa chính xác, trốn thuế, gian lận và buôn
lậu. Các thiết bị kiểm tra đều sử dụng công nghệ mới như kỹ thuật không đâm
xuyên giúp giảm đáng kể thời gian kiểm tra và không làm ảnh hưởng tới quá
trình thông quan hàng hóa. Quá trình lựa chọn kiểm tra được thực hiện trên cơ
sở đánh giá, phân loại các tiêu chí rủi ro, ngoài số container có chỉ số rủi ro thấp
28
thì các công cụ kiểm tra giúp cơ quan Hải quan kiểm tra một tỷ lệ lớn các
container thuộc diện rủi ro cao. Các nhân viên Hải quan tại cảng đến đánh dấu
container cần kiểm tra, container đó được chuyển đến nơi đặt các công cụ kiểm
tra theo một tuyến đường vận chuyển được thiết kế riêng, đặt dưới sự giám sát
của cơ quan Hải quan nhằm giảm thiểu mức độ ảnh hưởng tới hoạt động của
doanh nghiệp. Hệ thống máy soi của Hải quan Australia đáp ứng các tiêu chuẩn
của cơ quan An toàn hạt nhân và bảo vệ phóng xạ của Australia cũng như các
quy định của Tổ chức Y tế Thế giới, việc tổ chức và vận hành hệ thống máy soi
của Hải quan Australia cũng được chuẩn hóa và được cấp chứng nhận ISO
9000:2001 về quản lý chất lượng. Bên cạnh đó, việc sử dụng các công cụ kiểm
tra container được kết hợp các nguồn lực khác của cơ quan Hải quan như chó
nghiệp vụ và các công nghệ kiểm tra khác (quét bằng tia i-on và kiểm tra hóa
chất). Các công cụ kiểm tra container được kết nối với các quy trình khác của
Hải quan Australia như hệ thống tuân thủ, thông tin tình báo và đánh giá rủi ro
để xác định sự đồng nhất của dữ liệu về hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu. Kết
quả hoạt động trong thời gian qua cho thấy, việc ra quyết định kiểm tra của Hải
quan Australia đã có hiệu quả cao hơn so với trước đồng thời tạo thuận lợi cho
kinh doanh thương mại,.... [24].
1.3.2.3. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai ở nước ta
Tỉnh Đồng Nai là địa phương có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, cũng như
tốc độ phát triển kinh tế - xã hội tương đối nhanh và bền vững, là tỉnh có cơ hội
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cao, lao động nhiều nguồn dồn về sinh
sống, giáp với Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương nên công tác phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại rất phức tạp, nóng bỏng và ngày càng tinh vi,
do vậy đề tài sẽ nghiên cứu bài học kinh nghiệm phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại từ tỉnh Đồng Nai.
Đồng Nai là tỉnh thuộc khu vực Đông Nam Bộ, thuộc vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam. Đồng Nai có địa giới giáp với sáu tỉnh, thành phố trực thuộc
29
trung ương. Phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận, phía Đông Bắc giáp tỉnh Lâm
Đồng; phía Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp
thành phố Hồ Chí Minh, phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đồng Nai có
các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nối với các địa phương
trong cả nước, cũng như trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam như: tuyến
đường sắt Bắc - Nam; quốc lộ 51 đi Bà Rịa - Vũng Tàu; tuyến quốc lộ 1A Bắc -
Nam đi qua Đồng Nai - thành phố Hồ Chí Minh; quốc lộ 20 đi từ Lâm Đồng -
Đồng Nai - thành phố Hồ Chí Minh; các tuyến sông Đồng Nai, Thị Vãi nối liền
các cảng Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh đi các tỉnh
miền Tây Nam Bộ. Do vậy, Đồng Nai là địa bàn có quá trình trung chuyển, trao
đổi hàng hóa với lưu lượng lớn, thuận tiện sẽ gắn liền với các hoạt động buôn
lậu và gian lận thương mại thường xuyên xảy ra.
Nhằm thực hiện tốt công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại, trong thời gian qua, Đồng Nai đã tập trung vào công tác kiểm tra, giám sát
hàng hóa xuất, nhập khẩu, đặc biệt là công tác kiểm tra chống gian lận thương
mại về định mức tiêu hao nguyên phụ liệu nhập gia công, sản xuất xuất khẩu,
chống các hành vi tự ý tiêu thụ nguyên phụ liệu nhập gia công, nhập sản xuất,
máy móc thiết bị nhập đầu tư để trốn thuế. Đồng Nai đã thường xuyên tổ chức
công tác quản lý, theo dõi, tập trung vào các doanh nghiệp có dấu hiệu ngưng
hoạt động, giải thể; doanh nghiệp thường xuyên vi phạm, doanh nghiệp nợ đọng
thuế chây ỳ, doanh nghiệp đã bị xử lý vi phạm về hành vi trốn thuế… để có biện
pháp quản lý, kiểm soát chặt chẽ đối với hoạt động của các doanh nghiệp này
nhằm kịp thời phát hiện hành vi vi phạm. Các cơ quan chức năng như Cục Hải
quan, Công an, Quản lý thị trường… đã phối hợp tốt với nhau trong đấu tranh
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại và các hành vi vi phạm pháp luật
khác thông qua các Quy chế phối hợp đã được ký kết. Để quản lý chặt chẽ các
doanh nghiệp trên địa bàn, ngành Hải quan đã tổ chức họp thống nhất các tiêu
chí quản lý doanh nghiệp, trên cơ sở đó xây dựng bộ tiêu chí thống nhất để nắm
30
bắt, quản lý các doanh nghiệp trên địa bàn một cách đầy đủ, chặt chẽ.
1.3.3. Bài học rút ra cho Việt Nam và tỉnh Kiên Giang
Từ những kinh nghiệm nêu trên, có thể rút bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam và tỉnh Kiên Giang, như sau:
Thứ nhất, trong xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa ngày càng sâu rộng như
hiện nay, để nâng cao hiệu quả hoạt động phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau, các nước,
vùng lãnh thổ trên thế giới có xu hướng xúc tiến, ký kết các thỏa thuận hợp tác
hỗ trợ hành chính, phối hợp phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trong
khuôn khổ song phương và đa phương (điều này được thể hiện rất rõ qua các
hoạt động hợp tác trong các khối ASEAN - Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam
Á; APEC - Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương; ASEM - Diễn
đàn hợp tác Á - Âu ...). Đồng thời, việc áp dụng các máy móc, phương tiện tiên
tiến, hiện đại sẽ giúp nâng cao hiệu quả cho công tác phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại. Hình thành cơ chế phối/kết hợp trong hệ thống chính trị để
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là tất yếu khách quan có thể vận
dụng cho Việt Nam và tỉnh Kiên Giang.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, xu thế chạy đua theo lợi nhuận trong
hoạt động kinh doanh là yếu tố tất yếu, dẫn đến tình trạng buôn lậu và gian lận
thương mại là điều khó tránh khỏi. Vì vậy để phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại cần có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để ngăn chặn và răn đe những
hành vi kinh doanh trái phép làm ảnh hưởng đến an ninh kinh tế, trật tự xã hội.
Hệ thống pháp luật với chế tài đủ sức răn đe là yếu tố quan trọng ngăn chặn và
phòng ngừa buôn lậu và gian lận thương mại.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện chức năng phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại có phẩm chất năng lực và trách nhiệm cao trong thực
thi công vụ, cần được nhà nước quan tâm cả về chế độ dưỡng liêm, chính sách
đãi ngộ hợp lý và được trang bị công cụ kiểm tra, trang thiết bị phương tiện công
31
nghệ hiện đại để kiểm tra, phát hiện các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại
(phương tiện kiểm định, camera, cân điện tử, các dụng cụ lấy mẫu, tàu cao tốc,
hệ thống máy soi tia X và các thiết bị hỗ trợ khác).
Thứ tư, hình thành hệ thống phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại,
có sự tham gia giám sát của các tổ chức chính trị xã hội và báo chí, với đội ngũ
nòng cốt là Hải quan, Bộ Đội biên phòng, Quản lý thị trường và Công an.
Tiểu kết chƣơng 1
Với việc hệ thống hóa những khái niệm, định nghĩa về buôn lậu, thương
mại, gian lận thương mại, quản lý, quản lý nhà nước, quản lý nhà nước về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại cũng như phân tích những tác hại
mà nó gây ra cùng với nội dung, sự cần thiết phải có sự quản lý nhà nước về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, đặc biệt là bài học kinh nghiệm
từ một số tổ chức, quốc gia, địa phương trong nước thực hiện công tác phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Chương 1 đã hình thành khung lý thuyết làm nền tảng cho việc phân tích
thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
32
mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang tại chương 2.
Chƣơng 2:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
PHÒNG, CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƢƠNG MẠI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG
2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã h i và các nhân tố
tác đ ng đến buôn lậu và gian lận thƣơng mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội
Điều kiện tự nhiên:
Kiên Giang là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, nằm ở phía Tây
Nam của Việt Nam, kết nối với các nước Đông Nam Á (ASEAN), đặc biệt là
Campuchia và Thái Lan bằng đường bộ, đường biển và đường hàng không.
Tỉnh Kiên Giang có diện tích tự nhiên 6.348 km2, dân số 1,78 triệu người.
Phía Đông Bắc giáp các tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang;
phía Nam giáp các tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu; phía Tây Nam giáp vịnh Thái Lan
với hơn 200 km bờ biển và có hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó Phú Quốc là
đảo lớn nhất cả nước; phía Bắc giáp Campuchia, với đường biên giới dài 56,8
km. Đơn vị hành chính của tỉnh bao gồm: thành phố Rạch Giá, thị xã Hà Tiên và
13 huyện: Kiên Lương, Giang Thành, Hòn Đất, Tân Hiệp, Châu Thành, Giồng
Riềng, Gò Quao, An Biên, An Minh, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận, Kiên Hải và
Phú Quốc.
Thành phố Rạch Giá là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh. Có
địa hình tương đối bằng phẳng, thấp dần từ hướng Đông Bắc xuống Tây Nam,
chia thành 4 vùng tiểu vùng địa hình: vùng tứ giác Long Xuyên, vùng Tây Sông
Hậu, vùng U Minh Thượng và vùng đảo, hải đảo.
Điều kiện kinh tế - xã hội:
Theo quy hoạch, Kiên Giang sẽ giải quyết việc làm cho 32.000 lao động năm
2015 và đến năm 2020 là 38.000 lao động. Trong đó, cơ cấu lao động trong các khu 33
vực nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tương ứng là 49%,
19%, 32% vào năm 2015 và đến năm 2020 lần lượt là 38%, 22%, 40%.
Đồng thời, sẽ thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững và toàn diện, hạn
chế tái nghèo, thu hẹp dần khoảng cách giàu nghèo, nâng dần mức sống của
người dân nhất là đối với vùng nông thôn, biên giới, hải đảo. Giảm tỷ lệ hộ
nghèo thời kỳ 2011 - 2015 bình quân hàng năm 1,5 - 1,8%, thời kỳ 2016 - 2020
bình quân 1%.
Sản xuất hàng hóa nông nghiệp có khả năng cạnh tranh cao. Trong 10 năm
tới, Kiên Giang sẽ phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản theo hướng sản
xuất hàng hóa có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao. Cụ thể, tỉnh sẽ phát
triển ngành trồng trọt với cây lúa là cây trồng chủ lực, hình thành vùng lúa quy
mô tập trung, có chất lượng cao; phấn đấu năm 2015 sản lượng lúa đạt 3,5 triệu
tấn, năm 2020 đạt 3,7 triệu tấn.
Đồng thời, quy hoạch ổn định các vùng trồng mía, khóm, tiêu, phát triển
chăn nuôi đàn gia súc, gia cầm, nuôi lợn theo hướng mở rộng chăn nuôi công
nghiệp tập trung kết hợp với vệ sinh phòng dịch nghiêm ngặt. Về thủy sản, Kiên
Giang sẽ đầu tư cho chương trình đánh bắt xa bờ, các cảng cá và khu dịch vụ
hậu cần nghề cá. Tỉnh sẽ phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng đa dạng hóa,
phát triển bền vững. Mở rộng diện tích nuôi tôm theo hướng thâm canh, nuôi
tôm công nghiệp và bán công nghiệp, nuôi tôm kết hợp trồng lúa.
Đồng thời, nhân rộng các hình thức nuôi cá đồng, nghêu, sò, cua, hến, cá lồng
bè, cá tra, cá cảnh biển. Giai đoạn 2015 - 2020 phấn đấu diện tích nuôi trồng thủy sản
từ 33.700 ha - 140.800 ha, trong đó, diện tích nuôi tôm là 75.000 ha - 88.500 ha.
Kiên Giang phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng các ngành dịch vụ giai đoạn 2011
- 2015 đạt 16,2% và giai đoạn 2016 - 2020 đạt 17%. Trong đó, ưu tiên phát triển
các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, hình thành các ngành dịch vụ mới, nhằm
34
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.1.2. Các nhân tố tác động đến buôn lậu và gian lận thương mại
Do điều kiện vị trí địa lý và kinh tế xã hội của tỉnh Kiên Giang có đường
thủy, bộ giáp biên giới các nước Campuchia và vùng biển vịnh Thái Lan nên
quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại có nhiều
nhân tố tác động, có thể nêu lên một số nhân tố tác động chủ yếu như sau:
Thứ nhất, do tác động sụt giảm kinh tế thế giới trong giai đoạn 2010 - 2015
có nhiều biến động phức tạp, thương mại sụt giảm, tăng trưởng thấp, đã tác động
tiêu cực đến nền kinh tế nước ta, hàng hóa tồn kho lớn, nợ xấu, lãi suất tín dụng
tăng cao, doanh nghiệp khó tiếp cận vốn, sản xuất khó khăn, đình trệ, hàng trăm
nghìn doanh nghiệp phá sản hoặc ngừng sản xuất kinh doanh, xuất khẩu gạo gặp
khó khăn, hàng hóa tiêu thụ chậm, đời sống của người dân và lao động trong các
doanh nghiệp ảnh hưởng đến thu nhập nghiêm trọng, đây chính là một trong
những tác động tạo ra những hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại ngày
càng diễn biến phức tạp trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Thứ hai, nhận thức về pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của một bộ
phận người dân và một số tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh còn hạn chế, lợi
dụng cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập trong công tác quản lý, lợi dụng khả
năng dự báo tình hình cung - cầu của thị trường, thói quen của đa số người tiêu
dùng lựa chọn mức giá rẻ và một bộ phận nhỏ người tiêu dùng thích sử dụng
hàng ngoại, các chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe, chạy theo lợi nhuận trước mắt
tham gia buôn lậu và gian lận thương mại.
Thứ ba, Kiên Giang là tỉnh cực Nam của Tổ quốc, có vị trí đại lý thuận lợi
phát triển kinh tế biển và du lịch, xuất khẩu, thương mại với gần 56,8 km giáp
biên giới đường bộ với Campuchia. Tuy nhiên, với các ưu đãi về vị trí địa lý cũng
là môi trường thuận lợi phát sinh tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại.
Chính vì vậy, đây là một trong những nhân tố tác động mạnh vào quản lý
nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. Đối tượng vận
chuyển buôn lậu và gian lận thương mại tuyến biên giới đất liền chủ yếu là cư 35
dân biên giới thiếu việc làm, khuân vác thuê, còn các chủ hàng thường không
xuất hiện khi vụ việc vi phạm bị phát hiện. Tuyến biển còn phức tạp hơn với qui
mô khá lớn, các đối tượng buôn lậu thường sử dụng các phương tiện ngụy trang
các tàu đánh bắt thủy sản để vận chuyển hàng lậu, nhất là hàng hóa từ Thái Lan.
Thứ tư, nhân tố tác động còn thể hiện trong đơn vị, cá nhân trong chính
quyền, lực lượng chức năng như Quản lý thị trường, Hải quan và Công an, Bộ
Đội biên phòng, các cơ quan kiểm dịch đội ngũ còn mỏng, có nơi chưa làm hết
trách nhiệm, chuyển biến chậm, thiếu năng lực chuyên môn và hạn chế về
phương tiện, trang thiết bị, công cụ chuyên dùng chưa đáp ứng yêu cầu trong
tình hình diễn biến phức tạp của buôn lậu và gian lận thương mại trên biển và
tuyến biên giới thủy, bộ.
Những nhân tố tác động nêu trên ảnh hưởng rất lớn đến quản lý nhà nước
về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
trong thời gian qua, cần được nghiên cứu làm rõ, để có các giải pháp khắc phục
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý nhà nước về phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại.
2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về phòng, chống buôn lậu và gian
lận thƣơng mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
2.2.1. Về xây dựng và chỉ đạo các chiến lược, chương trình, chính sách
và kế hoạch quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại
Đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại đóng vai trò quan
trọng trong ổn định thị trường, giá cả, hàng hóa trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Hàng năm, Ban Chỉ đạo 127 tỉnh Kiên Giang (nay là Ban Chỉ đạo 389) chỉ
đạo các ngành thành viên, UBND các huyện, thị xã, thành phố và Ban Chỉ đạo
127 các huyện, thị xã, thành phố tập trung cho công tác kiểm tra, kiểm soát
36
trước, trong và sau Tết Nguyên Đán, thực hiện các chỉ đạo của trung ương tại
Công điện khẩn số 10/CĐ-TTg ngày 03 tháng 01 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ, Công văn số 01/BCĐ-QLTT ngày 10 tháng 01 năm 2013 của Ban
Chỉ đạo 127 Trung ương (nay là Ban Chỉ đạo 389), Công điện số 2118/CĐ-TTg
ngày 28 tháng 10 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ, Công điện số 18/CĐ-
BCĐ389 ngày 09 tháng 02 năm 2015 của Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia.
UBND tỉnh và Ban Chỉ đạo 127 tỉnh Kiên Giang (nay là Ban Chỉ đạo 389)
đã ban hành Kế hoạch số 39/KH-BCĐ ngày 21 tháng 01 năm 2013, Kế hoạch số
105/KH-UBND ngày 01 tháng 11 năm 2014, Kế hoạch số 71/KH-UBND ngày
07 tháng 7 năm 2015, Kế hoạch số 133/KH-UBND ngày 31 tháng 12 năm 2015
và Kế hoạch số 131/KH-UBND ngày 24 tháng 11 năm 2016 để tăng cường công
tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, đảm bảo ổn định
thị trường trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đến tết Nguyên đán hàng năm và bảo vệ
quyền lợi chính đáng của người sản xuất, cũng như người tiêu dùng an tâm với
chất lượng hàng hóa. Theo đó, các kế hoạch xác định mục đích, yêu cầu là: Tiếp
tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015
của Chính phủ về việc đẩy mạnh công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận
thương mại và hàng giả trong tình hình mới; tăng cường công tác chỉ đạo, tổ
chức triển khai chặt chẽ công tác kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn và đẩy lùi tình
trạng buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả nhằm ổn định thị trường, đảm
bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh và nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh
tại các kỳ họp lần thứ nhất đều khẳng định và thể hiện rõ trong các chương trình,
kế hoạch đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, coi trọng
công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại để đảm bảo ổn định giá
cả hàng hóa, giữ vững an sinh xã hội và kiềm chế lạm phát trên địa bàn tỉnh nhất
là vào các dịp lễ, tết.
Như vậy, phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh
37
Kiên Giang luôn được xác định là một trong những trọng tâm trong công tác xây
dựng các văn bản tầm chiến lược, chương trình, kế hoạch quản lý nhà nước về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
2.2.2. Về ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật
Kiên quyết tổ chức thực hiện và nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, phải
tăng cường công tác quản lý, thanh, kiểm tra. Khái quát các văn bản và tổ chức
thực hiện về đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại như sau:
Những năm qua, công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại,
hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ chưa đủ mạnh nên đã gây thất thu ngân
sách Nhà nước, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất của doanh nghiệp và sức khỏe
người dân. Do đó, ngày 19 tháng 3 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ quyết định
thành lập Ban Chỉ đạo chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (Ban
Chỉ đạo 389 Quốc gia), đứng đầu là Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ và
các thành viên Ban Chỉ đạo gồm nhiều bộ, ngành.
Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia thay thế vai trò công tác chống buôn lậu, gian
lận thương mại và hàng giả cho Ban Chỉ đạo 127 trung ương trước đây. Văn
phòng Thường trực Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia do Bộ Tài chính đảm nhận, với
vai trò nghiên cứu và đề xuất các biện pháp, giải pháp đấu tranh có hiệu quả đối
với các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại và sản xuất, kinh doanh hàng giả.
Đồng thời, làm đầu mối kết nối hoạt động các thành viên Ban Chỉ đạo, Bộ,
ngành, cơ quan chức năng và các địa phương nhằm góp phần đẩy mạnh hiệu quả
chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong thời gian tới.
Thực hiện Chỉ thị số 853/1997/CT-TTg ngày 11 tháng 10 năm 1997 của
Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống buôn lậu trong tình hình mới và Chỉ
thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27 tháng 10 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ
về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả; Ban Chỉ đạo 127 tỉnh Kiên
38
Giang (nay là Ban Chỉ đạo 389) đã được thành lập từ năm 2008. Sau đó đã thay
thế bằng Quyết định số 1166/QĐ-UBND ngày 26 tháng 5 năm 2011 của Chủ
tịch UBND tỉnh Kiên Giang về việc thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống buôn
lậu, gian lận thương mại và hàng giả tỉnh Kiên Giang; và theo Quyết định số
997/QĐ-UBND ngày 08 tháng 5 năm 2014 của Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang
về việc thành lập Ban Chỉ đạo chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả
tỉnh Kiên Giang. Ban Chỉ đạo 127 tỉnh Kiên Giang được đổi thành Ban Chỉ đạo
389 tỉnh Kiên Giang.
Để phục vụ tốt và giúp cho công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại đạt hiệu quả cao, UBND tỉnh Kiên Giang đã ban hành nhiều quyết
định, chương trình, kế hoạch như:
- Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc và hiệu quả Nghị quyết số
41/NQ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về việc đẩy mạnh công tác
đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong tình hình mới
và Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 30 tháng 9 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ
về tăng cường công tác chống buôn lậu thuốc lá.
- UBND tỉnh Kiên Giang đã ban hành kế hoạch công tác hàng năm và
nhiều văn bản chỉ đạo tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận
thương mại và hàng giả. Đồng thời, UBND tỉnh ban hành chương trình nâng cao
hiệu quả công tác chống buôn lậu, sản xuất, kinh doanh hàng giả và gian lận
thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2016 - 2020.
- Quyết định số 1709/QĐ-UBND ngày 28 tháng 7 năm 2016 của Chủ tịch
UBND tỉnh Kiên Giang về việc ban hành Quy chế về trách nhiệm và quan hệ
phối hợp trong hoạt động giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác đấu
tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang (thay thế Quyết định số 1571/QĐ-UBND ngày 21 tháng 7 năm 2014
của Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang).
Ngoài ra, định kỳ 06 tháng, hàng năm, Ban Chỉ đạo 127 (nay là Ban Chỉ
đạo 389 tỉnh Kiên Giang) đều tiến hành sơ, tổng kết hoạt động của Ban nhằm 39
đánh giá tình hình buôn lậu và gian lận thương mại cũng như đánh giá những
mặt mạnh, những mặt tồn tại, hạn chế trong công tác phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại của các cơ quan chức năng. Từ đó, Ban Chỉ đạo có cơ sở để
kịp thời đề ra những nhiệm vụ, giải pháp trong công tác phòng, chống buôn lậu
và gian lận thương mại cho thời gian tiếp theo. Ví dụ như đối với thời gian
chuẩn bị Tết Nguyên đán hàng năm cũng là thời điểm hoạt động buôn lậu, gian
lận thương mại thường diễn ra khá sôi nổi, Ban Chỉ đạo 127 (nay là Ban Chỉ đạo
389 tỉnh Kiên Giang) ban hành những văn bản nhằm tăng cường công tác kiểm
tra, kiểm soát thị trường trước, trong và sau Tết Nguyên đán. Đây là cơ sở để
các ngành xây dựng kế hoạch, chương trình của mình có liên quan đến nhiệm vụ
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại được giao.
Ngoài ra, thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ, Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia,
Tỉnh ủy và yêu cầu của các bộ, ngành trung ương, UBND tỉnh Kiên Giang đã ban
hành kịp thời nhiều văn bản chỉ đạo và triển khai thực hiện công tác chống buôn
lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên địa tỉnh trong những thời điểm cụ thể.
Nhìn chung, những văn bản trên là căn cứ pháp lý quan trọng giúp cho
công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang đi vào nề nếp, ổn định, hoạt động thông suốt, nâng cao hiệu quả phòng,
chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.
2.2.3. Về hệ thống tổ chức bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
Hiện nay, ở Việt Nam nói chung và tại tỉnh Kiên Giang nói riêng, các cơ
quan có chức năng phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại bao gồm các
cơ quan hành chính nhà nước có chức năng thực thi pháp luật và các cơ quan
thực hiện chức năng giáo dục, tuyên truyền, cụ thể:
Các cơ quan hành chính nhà nước có chức năng thực thi pháp luật là những
cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực thương mại ở các cấp chính
quyền địa phương. Trong đó, ở cấp tỉnh, chịu trách nhiệm chính tham mưu đối 40
với hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là Sở Công
Thương; ở cấp huyện là Phòng kinh tế các huyện, thị, thành phố. Ngoài ra, còn
có các lực lượng trực tiếp thực hiện công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại như: Công an, Hải quan, Bộ Đội biên phòng, Quản lý thị trường....
Đây là, các cơ quan chức năng đóng vai trò quan trọng trong công tác phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn. Các cơ quan chức năng này
có thẩm quyền trong công tác đấu tranh phòng ngừa cũng như kiểm tra, kiểm
soát và xử lý đối với các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại.
Các cơ quan thực hiện chức năng giáo dục, tuyên truyền là các cơ quan
thông tin, tuyên truyền như đài phát thanh, truyền hình, báo chí; các tổ chức,
hội, các nhà sản xuất kinh doanh; các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội và các
tổ chức xã hội khác.
Ngoài ra, để công tác quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại đạt hiệu quả, cần phải có một bộ máy nhà nước quản lý về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại được tổ chức chặt chẽ, hợp lý từ
cấp trên xuống cấp dưới, giữa ngành này với ngành khác, đồng thời có sự phân
công, phân cấp, phối hợp cụ thể, rõ ràng giữa các cấp, các ngành. Trên cơ sở đó,
bên cạnh những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà
nước đã được giao, để công tác quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại đạt được những yêu cầu nêu trên, UBND tỉnh Kiên Giang
đã thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng
giả tỉnh Kiên Giang, trong đó có sự tham gia của các ngành như: Sở Công
Thương, Sở Tài chính, Sở Khoa học và Công nghệ, Hải quan, Bộ Đội biên
phòng, Công an, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban quản lý Khu kinh
tế tỉnh Kiên Giang, Ban quản lý Khu kinh tế Phú Quốc v.v... và các huyện, thị,
thành phố trên địa bàn tỉnh. Trong đó, Sở Công Thương (Chi cục Quản lý thị
trường) giữ vai trò là Thường trực Ban Chỉ đạo 127 tỉnh Kiên Giang (nay là Ban
41
Chỉ đạo 389).
Theo đó, Sở Công Thương (Chi cục Quản lý thị trường) sẽ có nhiệm vụ
tham mưu các giải pháp phòng ngừa và đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại, kể cả các biện pháp tình thế phù hợp với diễn biến tình hình
nhằm ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Đề xuất với Ban Chỉ đạo
389 tỉnh Kiên Giang kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xây dựng, sửa đổi, bổ
sung hoặc đình chỉ, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, các chế độ chính sách đối với lực
lượng thực thi công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại của các
ngành, địa phương. Hướng dẫn triển khai thực hiện các kế hoạch, phương án đấu
tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại sau khi đã được Trưởng ban
hoặc phó Trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang phê duyệt.
Vì hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại rất đa dạng, ngày càng tinh
vi và diễn biến phức tạp cho nên bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh
vực này cũng khá hệ thống, tùy tính chất, sự việc sẽ có liên quan đến những
ngành cụ thể. Bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại được thể hiện trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1. Khái quát tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang:
UBND tỉnh Sở Công Thương Chi cục Quản lý thị trường
(Ban Chỉ đạo 389) Công an Bộ Đội biên phòng
Hải quan Hải quan các cửa khẩu
UBND cấp huyện Phòng Kinh tế Đội Quản lý thị trường
UBND cấp xã Công an Các Đội nghiệp vụ
: Chỉ đạo.
42
: Phối hợp.
Có thể thấy bộ máy quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại đều được tổ chức khá chặt chẽ, đầy đủ tại cấp tỉnh, cấp huyện.
Ngoài ra, với đặc trưng riêng của tỉnh có đường biên giới đường bộ, đường thủy,
bộ máy quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại bao
gồm Công an, Hải quan và Bộ Đội biên phòng tại các cửa khẩu sẽ giúp quản lý
tốt hơn các hoạt động xuất, nhập khẩu của các doanh nghiệp tại đây.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt mạnh kể trên, bộ máy quản lý nhà nước về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại có nhược điểm là xuống cấp
huyện thì sự tham gia của các ngành chức năng giảm dần và tới cấp xã thì mờ
nhạt, chưa rõ ràng.
2.2.4. Về cơ chế phối/kết hợp và hợp tác giữa các ngành, doanh nghiệp,
người dân, khu vực quốc tế để phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại
Để đáp ứng được cho yêu cầu quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu
và gian lận thương mại, UBND tỉnh Kiên Giang đã xác định phải có sự phối/kết
hợp chặt chẽ giữa các ngành, các địa phương, UBND các cấp và các doanh
nghiệp, người dân.
Về phía các cơ quan nhà nước: Trước tiên, phải kể đến sự ra đời của Ban
Chỉ đạo 127 (nay là Ban Chỉ đạo 389) từ trung ương cho đến các địa phương.
Với sự ra đời này, sự phối/kết hợp giữa các cấp, các ngành, giữa trung ương và
địa phương trong hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại đã
có bước phát triển đáng kể. Từ đó, rất nhiều văn bản đã được ban hành nhằm
tăng cường sự phối/kết hợp giữa các ngành ở tỉnh Kiên Giang. Ngoài ra, khi các
quyết định, chương trình về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại được
ban hành, thường giao trách nhiệm cụ thể cho từng ngành để tạo thuận lợi cho
sự phối/kết hợp giữa các ngành khi thực thi nhiệm vụ được phân công.
Song sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, các lực lượng có chức năng
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại vẫn bộc lộ những bất cập, chưa 43
đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ hiện nay đang đặt ra. Mặc dù hàng năm, Ban Chỉ
đạo 389 tỉnh Kiên Giang đều chỉ đạo cho các ngành phối hợp thanh, kiểm tra đối
với mặt hàng trọng điểm nhưng việc phối hợp thanh, kiểm tra giữa các ngành
chưa được bảo đảm thường xuyên, liên tục và đầy đủ. Chẳng hạn như Đoàn
kiểm tra liên ngành của Ban Chỉ đạo 389 tỉnh, căn cứ vào tình hình diễn biến
buôn lậu và gian lận thương mại tuyến biên giới, nội địa ở từng thời điểm hoặc
thực hiện chỉ đạo của cấp trên sẽ tiến hành công tác khảo sát nắm tình hình,
giám sát, kiểm tra đối với các ngành, địa phương về công tác phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại; nghe các ngành, địa phương báo cáo kết quả phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại,… chưa tiến hành thanh, kiểm tra đối với
các tổ chức, cá nhân tham gia buôn lậu và gian lận thương mại, từ đó tính thực
tế chưa có dẫn đến hạn chế trong công tác tham mưu cho Ban Chỉ đạo 389 tỉnh
trong công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Về phía doanh nghiệp, người dân: Xác định được vai trò “cơ sở” của doanh
nghiệp, người dân trong cuộc đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại, các cơ quan chức năng đã không ngừng nâng cao mối quan hệ này
với những hoạt động như: thành lập, công khai nhiều đường dây nóng của các
cơ quan chức năng giúp người dân thuận tiện, dễ dàng trong việc tố giác hoạt
động buôn lậu và gian lận thương mại; tổ chức hội nghị, hội thảo, nhiều đợt
tuyên truyền, hướng dẫn các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về nội dung cũng như hình thức xử phạt các vi phạm trong hoạt động
buôn lậu và gian lận thương mại; tổ chức các chương trình Phiên chợ vui,
chương trình đưa hàng Việt về nông thôn, biên giới, hải đảo và các hội chợ triển
lãm giới thiệu các sản phẩm hàng Việt Nam chất lượng cao đến với người dân
trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là đối với người có thu nhập thấp như công nhân,
người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và góp phần tạo lập có thói
quen “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; tổ chức cho các hộ kinh
doanh tại các khu vực như chợ, trung tâm thương mại thực hiện cam kết không
kinh doanh các mặt hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả v.v... tổ chức các hội 44
nghị đối thoại trực tiếp với doanh nghiệp theo định kỳ để lắng nghe ý kiến đóng
góp, giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp liên quan
đến thủ tục hành chính v.v... Từ đó, nhiều vụ việc buôn lậu và gian lận thương
mại đã được các doanh nghiệp, người dân tố giác với các cơ quan chức năng
cũng như là cơ hội tốt để các ngành nâng cao chất lượng công tác phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại nhưng vẫn đảm bảo được sự thuận lợi cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp.
Về hợp tác khu vực và quốc tế, diễn biến phức tạp về buôn lậu và gian lận
thương mại đối với tỉnh biên giới và kinh tế biển của tỉnh Kiên Giang, yêu cầu
hợp tác khu vực vịnh Thái Lan và các tỉnh có đường biên giới của tỉnh Kiên
Giang với Campuchia xây dựng cơ chế phối/kết hợp nâng cao chất lượng, hiệu
quả phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là cần thiết khách quan có lợi
cho cả hai nước và khu vực, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thương
mại ổn định và cạnh tranh theo qui định của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Nhìn chung, công tác phối/kết hợp giữa các ngành, địa phương, doanh
nghiệp và nhân dân, cũng như hợp tác khu vực, biên giới với Campuchia về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang thời
gian qua đã có nhiều kết quả tốt. Nhiều vụ việc gian lận thương mại dù khá phức
tạp, tinh vi nhưng với sự phối hợp giữa các ngành, các cấp và khu vực, hai nước
đã được phát hiện, truy thu thuế về cho ngân sách nhà nước, từng bước kéo giảm
tình hình hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại.
2.2.5. Về hoạt động tuyên truyền, giáo dục phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại cho người dân và cộng đồng doanh nghiệp
Trong qui chế phối/kết hợp phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
của tỉnh Kiên Giang, Sở Thông tin và Truyền thông là đầu mối chỉ đạo các cơ
quan thông tấn, báo chí phối hợp với các cơ quan chức năng ở tỉnh và địa
45
phương, tổ chức tuyên truyền về công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại, những tác động xấu đối với kinh tế, xã hội của hành vi
buôn lậu và gian lận thương mại.
Hàng năm Sở Thông tin và Truyền thông xây dựng kế hoạch tuyên truyền,
giáo dục phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. Mục đích của kế hoạch
là nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, cán
bộ, đảng viên, công chức và các tầng lớp nhân dân trong việc ngăn chặn, kiểm
soát tình hình buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn; bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, lợi ích của nhà sản xuất và lợi ích của nhà nước.
Triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp, tuyên truyền, giáo dục nâng
cao nhận thức cho người dân, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, lợi ích của nhà
sản xuất và lợi ích của nhà nước; ngăn chặn sự gia tăng nạn buôn lậu và gian lận
thương mại góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bình ổn thị trường.
Yêu cầu đặt ra là đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, lựa chọn những
nội dung, hình thức và biện pháp tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, địa
bàn nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân và toàn xã hội chủ động phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Nội dung
tập trung tuyên truyền: đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại. Tiếp tục tích cực vận động, tuyên truyền
về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Phối hợp với
các ngành chức năng thường xuyên đưa thông tin chính xác, kịp thời về công tác
đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại theo đúng chỉ đạo của
Chính phủ, Bộ, ngành và UBND tỉnh. Đấu tranh ngăn chặn, lên án các hành vi
vận chuyển, tàng trữ, lắp ráp, sang chiết, đóng gói, kinh doanh hàng giả, đối với
các nhóm mặt hàng trọng điểm, công khai các kết quả điều tra, xử lý các vụ án
trọng điểm trên các phương tiện thông tin đại chúng; Phản ánh, đưa tin các hoạt
động đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, các hoạt động
chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương; kịp thời biểu dương người tốt, việc
46
tốt trong đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại… Công tác
tuyên truyền sẽ được thực hiện qua nhiều hình thức đa dạng như hệ thống báo,
đài phát thanh và truyền hình, hệ thống loa truyền thanh của xã, phường, thị trấn
và tuyên truyền bằng hình thức tờ rơi, tờ gấp, tranh, áp phích…và các hình thức
tuyên truyền khác.
Sở Thông tin và Truyền thông yêu cầu các cơ quan báo chí của tỉnh, Phòng
Văn hóa và Thông tin, Đài Truyền thanh - Truyền hình các huyện, thị xã, thành
phố; Trung tâm Công nghệ Thông tin và Truyền thông căn cứ, chức năng, nhiệm
vụ của đơn vị xây dựng kế hoạch tuyên truyền và tổ chức triển khai thực hiện
nghiêm túc, định kỳ hàng quý báo cáo kết quả thực hiện về Sở để tổng hợp, báo
cáo UBND tỉnh đúng quy định.
2.2.6. Về hoạt động kiểm tra, kiểm soát phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại
Trong quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
thì nội dung kiểm tra, kiểm soát đóng một vai trò rất quan trọng. Nó vừa có tác
dụng giúp răn đe, vừa giúp khắc phục các hậu quả do hành vi buôn lậu và gian
lận thương mại gây ra.
Xác định được tầm quan trọng trên, các ngành, các cấp của tỉnh Kiên Giang
đã không ngừng tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát của ngành mình
nhằm ngăn chặn kịp thời các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại. Các cuộc
kiểm tra độc lập của từng ngành cũng như các cuộc kiểm tra liên ngành năm sau
luôn có đối tượng bao quát hơn, địa bàn rộng hơn, đầy đủ hơn.
Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang, kết quả xử lý buôn lậu
47
và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh từ năm 2011 - 2016, như sau:
Biểu 2.2: Kết quả xử lý buôn lậu và gian lận thƣơng mại từ năm 2011 - 2016
(Đơn vị tính: vụ; 1.000 đồng).
Buôn lậu Gian lận thƣơng mại
Năm Số vụ Số tiền phạt Số vụ Số tiền phạt
332 5.525.000 1.289 7.020.000 2011
343 6.576.270 1.087 10.033.518 2012
735 13.176.612 1.418 92.661.074 2013
1.043 12.505.852 1.030 57.291.441 2014
1.164 13.973.427 721 26.547.102 2015
1.086 19.145.134 1.168 16.003.334 2016
2011 - 2016 4.703 57.396.443 6.713 209.556.469
Nguồn: UBND tỉnh Kiên Giang (2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016) [56].
Có thể nhận thấy qua biểu số liệu 2.2, đa số các hành vi buôn lậu và gian
lận thương mại giai đoạn 2011 - 2016 đã có xu hướng tăng, giảm không ổn định,
điều này có thể cho thấy các giải pháp trong việc phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương của các cơ quan chức năng tại Kiên Giang đã có hiệu quả, song cũng
cần tính tới yếu tố do kinh tế thế giới và Việt Nam thời gian qua gặp rất nhiều
khó khăn, doanh nghiệp phá sản hàng loạt cũng là một yếu tố làm tăng, giảm
tổng số các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại không ổn định. Ngoài ra,
các hành vi vi phạm tuy có giảm về số lượng nhưng mức độ, tính chất vi phạm
có dấu hiệu nghiêm trọng hơn, cụ thể số vụ năm 2011 là 1.621 vụ so với năm
2016 là 2.254 vụ tăng 71,92%, tổng số tiền phạt thu nộp ngân sách năm 2011 là
12,545 tỷ đồng, nhưng số thu năm 2016 lên tới 35,148 tỷ đồng, tăng 35,69 %
48
(Báo cáo của Ban Chỉ đạo 127 và Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang).
Theo đánh giá của các ngành chức năng, trên địa bàn chưa phát hiện dấu
hiệu hình thành, tổ chức đường dây, ổ nhóm buôn lậu lớn, nhưng qua kết quả xử
lý vi phạm qua các năm cho thấy tình hình buôn lậu và gian lận thương mại trên
địa bàn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Các đối tượng thường sử dụng nhiều
phương thức, thủ đoạn để gian lận thuế, nhập hàng cấm, hàng lậu, hàng không
đủ tiêu chuẩn kỹ thuật. Đáng chú ý, các doanh nghiệp lợi dụng chính sách ưu đãi
đầu tư, chính sách đối với hàng tạm nhập tái xuất để buôn lậu, gian lận thương
mại. Do vậy, để tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động buôn lậu và
gian lận thương mại, bên cạnh việc tổ chức thực hiện tốt các quy định, chính
sách của Nhà nước, các báo cáo, cuộc kiểm tra định kỳ, đột xuất, các ngành
chức năng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đặc biệt quan tâm đến công tác hậu kiểm
và thông tin quản lý rủi ro nhằm phân loại, nắm chắc tình hình chấp hành pháp
luật của các doanh nghiệp để có biện pháp giám sát, kiểm tra phù hợp. Đồng
thời, nâng cao hiệu quả công tác thu thập thông tin để có những cảnh báo kịp
thời, có phương án phòng chống hiệu quả… tập trung vào các loại hình đặc thù
như: gia công, sản xuất, xuất khẩu, tạm nhập tái xuất,… nhằm ngăn chặn kịp
thời đối với các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại.
2.2.7. Về nguồn lực đảm bảo cho hoạt động phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại
Để hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại đạt hiệu quả
cao, cần có nguồn nhân lực cũng như kinh phí, phương tiện, trang thiết bị phục
vụ cho công tác này đáp ứng đủ yêu cầu công tác đề ra.
* Về nguồn nhân lực:
Với địa bàn tỉnh, nhất là thành phố Rạch Giá, thị xã Hà tiên và huyện đảo
Phú Quốc tập trung khá nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các khu công
nghiệp, các ngành chức năng đã tăng cường lực lượng phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại tại khu vực này, chủ động thành lập các bộ phận để thực
49
hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát trong hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu.
Để kiểm soát hiệu quả về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, Cục
Hải quan Kiên Giang đã thành lập 01 Đội kiểm soát Hải quan, 01 Đội phòng,
chống ma túy, 04 Chi cục Hải quan tại các cửa khẩu lớn và cảng hàng không
quốc tế Phú Quốc, với nguồn nhân lực này giúp ngành Hải quan triển khai thực
hiện các nhiệm vụ về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại tại các cửa
khẩu. Hiện nay, tổng lượng định mức đăng ký trung bình hàng năm tại Cục Hải
quan Kiên Giang khoảng 2.500 định mức. Với số lượng định mức phát sinh
nhiều như thế, hầu hết các Chi cục đã quan tâm phân công từ 01 đến 02 công
chức chuyên trách tiếp nhận định mức, góp phần tiếp nhận nhanh chóng, tạo
thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc khai báo tờ khai xuất, nhập khẩu.
Ngoài ra, Sở Công Thương có phòng Quản lý thương mại để quản lý nhà
nước về hoạt động thương mại và Chi cục Quản lý thị trường tham mưu về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, đồng thời lực lượng Quản lý thị
trường cũng thành lập các Đội Quản lý thị trường trên địa bàn các huyện, thị,
thành phố và 02 Đội quản lý thị trường chuyên trách để kiểm tra, kiểm soát các
hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại. Công an tỉnh cũng thành lập các đội
Công an trực thuộc các phòng và Công an địa phương giúp kiểm soát hoạt động
buôn lậu và gian lận thương mại.
* Về nguồn kinh phí:
Kinh phí hoạt động của Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang do ngân sách nhà
nước cấp. Hàng năm, Cơ quan Thường trực (Chi cục Quản lý thị trường) lập dự
toán kinh phí trình Trưởng ban hoặc Phó trưởng ban đề nghị UBND tỉnh, Sở Tài
chính xem xét cấp kinh phí hoạt động cho Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang và
cơ quan thường trực. Chi cục Quản lý thị trường chịu trách nhiệm trước Ban Chỉ
đạo 389 tỉnh Kiên Giang về quản lý và sử dụng kinh phí được cấp đúng các quy
định về quản lý tài chính hiện hành.
Theo đó, kinh phí của hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
50
mại sẽ được phân bổ, hỗ trợ cho lực lượng trực tiếp tham gia vào công tác này
theo quy định của từng ngành, từng địa phương. Nguồn kinh phí hỗ trợ được
thực hiện theo các nội dung như: chi thông tin liên lạc, chi phí xăng, dầu, chi
văn phòng phẩm, chi công tác phí hội họp, chi khen thưởng, bồi dưỡng công tác
kiêm nhiệm cho cán bộ, công chức, chiến sỹ tham gia công tác phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại...
* Về trang thiết bị, phương tiện:
Để hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại đạt kết quả thì
trang thiết bị, phương tiện có một vai trò không nhỏ, đặc biệt với mức độ của
các hành vi gian lận ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Chỉ có với nguồn nhân lực tốt
và một hệ thống trang thiết bị, phương tiện tiên tiến, hiện đại sẽ giúp cho hoạt
động kiểm tra, kiểm soát của các ngành chức năng vừa đảm bảo tính chính xác,
vừa tiết kiệm được thời gian.
Do vậy, công tác đầu tư trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho công tác
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại được các ngành chức năng quan
tâm thực hiện. Trong 30% kinh phí (được xem như 100%) được thu giữ lại từ
việc xử phạt các hành vi vi phạm hành chính, xử lý hình sự, được trích 60% cho
việc đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện hoạt động phục
vụ cho công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. Do đó, trong
thời gian qua Công an, Cục Hải quan và Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Kiên
Giang đã được UBND tỉnh đầu tư các trang thiết bị, phương tiện giúp ngăn ngừa
và phát hiện tốt hơn các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại.
2.3. Đánh giá chung quản lý nhà nƣớc về phòng, chống buôn lậu và
gian lận thƣơng mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang thời gian qua
2.3.1. Những kết quả đạt được
Với sự nỗ lực, gắn kết của các ngành, các cấp, đặc biệt là từ khi Ban Chỉ
đạo 127 tỉnh Kiên Giang ra đời (nay là Ban Chỉ đạo 389), hoạt động phòng,
51
chống buôn lậu và gian lận thương mại đã có nhiều bước phát triển khởi sắc và
đạt được những kết quả nhất định, tăng thu cho ngân sách nhà nước. Phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại đã được các cơ quan nhà nước, cộng
đồng doanh nghiệp cũng như cả xã hội quan tâm nhiều hơn.
Ngoài việc thu cho ngân sách do xử phạt và truy thu từ các hành vi gian
lận, các cơ quan chức năng còn góp phần làm giảm tình trạng buôn bán tràn lan
các loại hàng cấm, hàng nhập lậu như: thuốc lá, rượu, gỗ, đường cát, mỹ phẩm,
v.v.... Công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động buôn
lậu và gian lận thương mại đã góp phần tạo môi trường kinh doanh lành mạnh
giúp các doanh nghiệp yên tâm sản xuất, mở rộng đầu tư. Có thể thấy, công tác
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại đã có những sự chuyển biến tích
cực về chất, nổi bật trên các mặt sau:
Thứ nhất, công tác tuyên truyền về phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại ngày càng được quan tâm, thực hiện tốt hơn và đạt hiệu quả cao
hơn. Với định hướng ưu tiên cho hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật được các ngành, các cấp
tổ chức thường xuyên, đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung, đã góp
phần tạo chuyển biến sâu sắc trong nhận thức và hành động của toàn xã hội. Từ
đó, các cấp chính quyền, người tiêu dùng, doanh nghiệp đã có nhiều hành động
cụ thể như phối hợp trong kiểm tra, kiểm soát, cung cấp thông tin, hỗ trợ kinh
phí, v.v.... Đồng thời, các cơ quan thông tin đại chúng cũng đưa tin kịp thời về
các vụ buôn lậu và gian lận thương mại lớn để răn đe các đối tượng làm ăn phi
pháp. Ngoài ra, với các chương trình như “Phiên chợ vui”, “Chương trình đưa
hàng Việt về nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo” đã góp phần
quảng bá, giới thiệu những sản phẩm, hàng hóa, doanh nghiệp Việt Nam có chất
lượng cao đến với người tiêu dùng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; tạo
tâm lý, thói quen dùng hàng Việt Nam, đẩy lùi tâm lý thích dùng hàng ngoại;
52
góp phần trong cuộc đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Thứ hai, công tác kiểm tra, kiểm soát đã không ngừng được tăng cường và
đầu tư nâng cao về chất lượng, đặc biệt là việc kiểm tra, kiểm soát các hành vi
buôn lậu và gian lận thương mại tại khu vực biên giới và ở thị trường nội địa.
Các cuộc kiểm tra được thực hiện bao quát hơn về đối tượng cũng như nội dung.
Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát, điều tra, phát hiện, ngăn
chặn và xử lý các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại, các ngành chức năng
đã tổ chức kiện toàn lại đội ngũ, lực lượng chuyên trách chống buôn lậu và gian
lận thương mại, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho lực
lượng này. Đồng thời, trang bị các trang thiết bị, phương tiện hiện đại phục vụ
cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát đạt chất lượng cao hơn. Đẩy mạnh công tác
kiểm tra, kiểm soát sau thông quan. Phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại là một nội dung quan trọng của tỉnh Kiên Giang, thực hiện tốt, kịp thời công
tác này đã giúp cho hoạt động thương mại nói riêng cũng như các hoạt động
kinh tế nói chung của tỉnh trong thời gian qua phát triển tốt, đồng thời nó cũng
góp phần không nhỏ trong việc ngăn ngừa, răn đe các hành vi buôn lậu và gian
lận thương mại.
Thứ ba, sự phối hợp giữa các lực lượng chức năng ngày càng kịp thời, nhịp
nhàng và hiệu quả hơn. Các ngành chức năng đã phối hợp tốt hơn công tác kiểm
tra, kiểm soát phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. Bộ máy tham mưu
giúp việc cho UBND các cấp ngày càng được kiện toàn và nâng cao hiệu quả
hoạt động. Các thành viên trong Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang đã chỉ đạo
các ngành, địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ do Ban đề ra. Hàng năm, các
ngành chức năng đã kịp thời tham mưu UBND tỉnh danh sách những doanh
nghiệp sản xuất uy tín (trong đó yếu tố tuân thủ quy định pháp luật đóng vai trò
quan trọng) để kịp thời động viên, khen thưởng cũng như đưa vào diện điều tra,
lưu ý đối với các doanh nghiệp có dấu hiệu kinh doanh phi pháp, gian lận
thương mại. Ngoài ra, các ngành chức năng cũng thường xuyên rà soát, giải
53
quyết các vướng mắc, bất cập trong công tác quản lý nhà nước về phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại, thông qua việc tổ chức các buổi đối
thoại với doanh nghiệp, đi tiếp xúc cơ sở, v.v…
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, công tác ban hành các văn bản pháp luật về phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại mặc dù được quan tâm thực hiện nhưng vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của địa phương, chưa chủ động trong việc đề
xuất hướng giải quyết các bất cập, vướng mắc trong quá trình cụ thể hóa các
văn bản luật trong phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. Nhiều văn
bản về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại được các ngành ban hành
còn chồng chéo, chưa thống nhất, gây khó khăn, cản trở cho hoạt động quản lý
nhà nước cũng như hoạt động của các cá nhân, doanh nghiệp. Tính kịp thời của
văn bản chưa cao, chưa phù hợp với tình hình thực tế, còn thiếu tính định hướng,
dự báo. Nổi bật là việc còn thiếu chế tài xử phạt của một số hành vi vi phạm mới
phát sinh. Mức xử phạt đối với hành vi vi phạm còn thấp, chưa đủ sức răn đe đối
với các đối tượng vi phạm trong hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại.
Ngoài ra, chưa xây dựng được chương trình riêng cho công tác quản lý
nhà nước đối với hành vi buôn lậu và gian lận thương mại tách biệt với
chương trình chung về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa
bàn tỉnh Kiên Giang.
Thứ hai, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho doanh nghiệp,
người dân còn chưa thường xuyên, chưa bao quát hết đối tượng, phương pháp
chưa linh hoạt. Do vậy, việc tham gia vào hoạt động phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại của các doanh nghiệp, người dân chưa nhiều, chưa chủ
động, tự giác. Việc tố giác vi phạm đôi khi chỉ được thực hiện do ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền lợi của họ mà chưa mang tính trách nhiệm cộng đồng.
Hoạt động tuyên truyền chủ yếu được thực hiện trong những thời điểm gần
Tết, khi hoạt động tiêu dùng gia tăng mạnh và chỉ tập trung ở các trung tâm 54
thương mại, siêu thị và các chợ ở thị trấn và tại một số địa bàn trọng điểm. Trong
khi đó, còn bỏ sót đối tượng những hộ kinh doanh cá thể, người dân sống tại các
địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng giáp ranh biên
giới đường thủy, bộ, nơi rất dễ xảy ra tình trạng tiếp tay tiêu thụ hàng cấm, hàng
nhập lậu, hàng giả và gian lận thương mại, cũng như đối tượng là người dân nhập
cư, tạm trú trong các khu vực nhà trọ, công nhân làm việc trong công ty, doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh, là một đội ngũ sẽ góp phần không nhỏ trong việc tố giác
các hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại.
Có thể thấy, góp một phần quan trọng trong việc tiêu thụ hàng cấm, hàng
lậu, hàng giả, gian lận thương mại trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
không chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp mà còn có một phần không nhỏ từ
phía các hộ kinh doanh cá thể, hệ thống bán lẻ (điển hình như việc tiêu thụ
các mặt hàng rượu, đường cát, gỗ, thuốc lá, mỹ phẩm... nhập lậu trong thời
gian qua). Do đó, công tác tuyên truyền cần quan tâm nhiều hơn đến các đối
tượng này, góp phần xây dựng nên một hàng rào bảo vệ vững chắc đối với
các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại từ tận “gốc” (các đối tượng có
khả năng tham gia vào hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại) cho đến
“ngọn” (các đối tượng có khả năng tiêu thụ hàng cấm, hàng nhập lậu....).
Thứ ba, cơ chế phối/kết hợp giữa các ngành, địa phương trong phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại chưa thật sự phát huy hiệu quả cao.
Công tác phối hợp trong xử lý một số vụ vi phạm có quy mô lớn, tính chất phức
tạp còn kéo dài, chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Mối quan hệ kết hợp chủ
yếu các ngành hiện nay là sự chấp hành thực thi các quyết định của cấp trên khi
tham gia các đoàn kiểm tra liên ngành, hỗ trợ xác minh vụ việc. Ngoài ra, với
đặc thù là tỉnh cò đường biên giới đất liền và đường biển, do đó rất cần có cơ
chế phối/kết hợp giữa các ngành chức năng như Hải Quan, Bộ Đội biên phòng,
Cảnh sát biển, Công an với UBND các địa phương có đường biên giới đất liền
55
và đường biển để thuận lợi cho việc thanh, kiểm tra các hành vi buôn lậu và gian
lận thương mại ở khu vực biên giới đất liền, đường biển, “nơi tiềm ẩn” khá
nhiều nguy cơ buôn lậu và gian lận thương mại.
Còn có UBND các huyện chưa thể hiện rõ vai trò, chưa làm hết trách
nhiệm của mình trong việc chủ động xử lý các hành vi buôn lậu và gian lận
thương mại, chủ yếu chỉ dừng ở việc tuyên truyền, thực hiện các chỉ đạo của các
ngành cấp trên cũng như phối hợp các ngành chức năng của tỉnh kiểm tra hoạt
động kinh doanh trên địa bàn. Một ít vài thành viên của Ban Chỉ đạo chưa thực
hiện tốt quy chế do Ban đề ra, hoạt động không đồng đều, nhất là đối với chế độ
thông tin báo cáo chưa kịp thời.
Hiện nay, bên cạnh cơ chế phối/kết hợp chung, việc ký kết cơ chế phối/kết
hợp riêng giữa các ngành chỉ mới có vài ngành thực hiện. Do vậy chưa tạo được
sức mạnh tổng hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại.
Thêm vào đó, công tác phân tích, dự báo tình hình thị trường của các cơ
quan chức năng không kịp thời, thiếu tính chính xác, còn chung chung không cụ
thể. Vì vậy, chưa tạo sự chủ động đối phó khi thị trường có biến động. Ví dụ
như khi một nguồn nguyên liệu trong sản xuất kinh doanh có sự đột biến về giá,
nếu có sự dự báo trước, các cơ quan có chức năng về chống buôn lậu và gian lận
thương mại sẽ chủ động xây dựng kế hoạch kiểm tra ngăn chặn đối với việc
nhập khẩu, tiêu thụ nguyên liệu đó hay có định hướng ưu tiên hơn cho việc kiểm
tra đối với hoạt động xuất, nhập khẩu nguồn nguyên liệu này.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ, công chức quản lý phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại còn quá mỏng, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, mạng
lưới thị trường kết nối với khu vực và biên giới, không đảm bảo được tần suất
thanh, kiểm tra. Nhiều cán bộ, công chức làm công tác phòng, chống buôn lậu
và gian lận thương mại trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế..... nhưng
lại chưa được bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ,
56
v.v.... Nhiều cơ quan còn tình trạng phân công công việc cho công chức chưa
phù hợp, gây khó khăn cho việc theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh, công
tác quản lý đối với các thương nhân, công tác quản lý xuất, nhập khẩu hàng
hóa,...., cũng như công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Thứ năm, các nguồn lực đầu tư cho hoạt động phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại còn hạn chế.
Theo quy định tại Thông tư số 59/2008/TT-BTC ngày 04 tháng 7 năm 2008
của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý sử dụng nguồn thu từ xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả; Thông
tư số 51/2010/TT-BTC ngày 14 tháng 4 năm 2010 của Bộ Tài chính về việc sửa
đổi, bổ sung Thông tư số 59/2008/TT-BTC ngày 04 tháng 7 năm 2008 của Bộ
Tài chính hướng dẫn việc quản lý, sử dụng nguồn thu từ xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, theo quy định này
các lực lượng có chức năng đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả (sau đây gọi chung là cơ quan, đơn vị chống buôn lậu), bao
gồm: Công an, Bộ Đội biên phòng, Cảnh sát biển, Quản lý thị trường, Quản lý
cạnh tranh, Kiểm lâm, Thanh tra chuyên ngành, Thuế, Hải quan và các lực
lượng chức năng khác (của Trung ương và địa phương) được giao nhiệm vụ
kiểm tra, xử lý vi phạm về buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả theo quy
định của pháp luật. Nhưng trên thực tế, theo Quyết định số 3107/QĐ-BTC ngày
26 tháng 11 năm 2010 của Bộ Tài chính ban hành Quy chế quản lý, sử dụng
nguồn thu từ xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chống buôn lậu, gian lận
thương mại, hàng hóa chỉ tập trung hướng dẫn việc thu, chi cho ngành Thuế, Hải
quan, mang tính liên ngành trực thuộc Bộ Tài chính quản lý. Mặc dù, công tác
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại còn có các ngành khác thực hiện.
Chính vì vậy, mà trong thời gian qua việc chi chế độ bồi dưỡng cho cán bộ kiêm
nhiệm trong Ban Chỉ đạo 127 (nay là Ban Chỉ đạo 389) chưa được quan tâm
57
thực hiện, cho các lực lượng chức năng trực tiếp thực thi công tác phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại chưa được thực hiện thống nhất theo chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ.
Ngoài ra, các trang thiết bị, phương tiện hỗ trợ cho công tác phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ của công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trong tình hình
mới, chẳng hạn như trang thiết bị, phương tiện, công cụ hỗ trợ cho công tác
kiểm tra, xử lý, phục vụ nghiệp vụ chuyên môn.
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, việc cụ thể hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, quản lý
và xử lý vi phạm trong hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại chưa đồng bộ, thống nhất, chưa được đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển của địa phương; nhiều quy định của pháp luật còn chồng chéo, sơ hở,
tạo điều kiện cho các đối tượng lợi dụng để hoạt động bất hợp pháp, việc điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật còn chậm, gây khó khăn cho việc
thực hiện của các đơn vị, lực lượng chức năng.
Thứ hai, quy chế phối hợp giữa các địa phương trong công tác đấu tranh
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại theo từng tuyến giao thông như
đường bộ, đường sông, đường biển chưa được chặt chẽ, chưa có chỉ huy chung
cho toàn tuyến giao thông đó.
Thứ ba, trong điều kiện tăng trưởng hàng năm trên 12% GDP và giá trị xuất
nhập khẩu hàng trăm triệu USD tăng 15 - 16 % so với cùng kỳ, trong khi nguồn
lực về con người cũng như trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho công tác
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại có hạn và còn nhiều hạn chế. Do
vậy, gây ra một áp lực khá lớn cho hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan
58
chức năng đối với hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Thứ tư, còn địa phương chưa có Ban Chỉ đạo 389 và chưa có các quy
định về cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành cũng như chưa có quy chế
phối hợp giữa các ngành chức năng nên chưa phát huy được sức mạnh toàn
bộ các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại, chưa phát huy được hết vai trò các tổ chức chính trị xã
hội, doanh nghiệp và công dân.
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại trên tất cả các lĩnh vực nói chung chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển ngày càng cao của địa phương; số lượng cán bộ, công chức làm
công tác này tại cấp huyện, thị xã, thành phố còn quá mỏng so với yêu cầu
thực tế, thiếu cán bộ, công chức làm công tác này tại cấp xã, phường, thị trấn.
Thứ hai, chưa thực hiện nghiêm quy định về phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại, nhất là công tác thanh, kiểm tra đối với các doanh
nghiệp xuất, nhập khẩu; công tác hậu kiểm chưa được đặt đúng tầm quan
trọng dẫn tới các doanh nghiệp tìm mọi thủ đoạn, kẻ hở của pháp luật tiến
hành trót lọt nhiều vụ buôn lậu và gian lận thương mại.
Thứ ba, các nguồn lực cần có để đảm bảo cho công tác phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại còn chưa xứng tầm với nhiệm vụ. Trong đó, hoạt
động của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại hiện nay vẫn còn bộc lộ những vấn đề
đáng suy nghĩ: tính chuyên nghiệp và tính trách nhiệm của một bộ phận cán bộ,
công chức nhà nước hiện nay là không cao, không có sự chuyên tâm và công
tâm trong hoạt động công vụ; trình độ chuyên môn của một số bộ phận cán bộ,
công chức còn chưa đáp ứng được yêu cầu công tác, đặc biệt là trong sự nghiệp
đổi mới đất nước; chế độ tiền lương, phụ cấp của một số bộ phận cán bộ, công
chức hiện nay quá thấp, phần nào tác động tới hiệu quả thực thi công vụ; thực
59
trạng cán bộ, công chức hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại.
Thứ tư, công tác thanh, kiểm tra chưa được thực hiện thường xuyên,
quyết liệt và triệt để. Chưa xây dựng kế hoạch và danh sách thanh, kiểm tra
đột xuất các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng năm, thường khi tiến hành kiểm
tra đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh thì gửi thông báo trước, do đó
doanh nghiệp thường có đối phó với đoàn kiểm tra bằng cách sửa chữa hồ sơ,
hợp đồng, các loại giấy tờ sản xuất kinh doanh khi có thông tin đoàn kiểm tra
đến làm việc. Ngoài ra công tác kiểm tra chưa xác định được các đối tượng có
nguy cơ buôn lậu, gian lận thương mại để kịp thời kiểm tra, ngăn chặn.
Thứ năm, ý thức phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại của các
doanh nghiệp và người dân dù đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa
đáp ứng yêu cầu công tác này đề ra. Việc tố giác các hành vi vi phạm về buôn
60
lậu và gian lận thương mại từ các đoàn thể và nhân dân còn nhiều hạn chế.
Tiểu kết chƣơng 2
Luận văn đã khái quát điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội, các
nhân tố tác động đến quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
Trên cơ sở phân tích thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu
và gian lận thương mại với những nội dung như: về xây dựng và chỉ đạo các
chiến lược, chương trình, chính sách và kế hoạch quản lý nhà nước về phòng
chống buôn lậu và gian lận thương mại; về ban hành và tổ chức thực hiện các
văn bản pháp luật; về hệ thống tổ chức bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại; về cơ chế phối/kết hợp và hợp
tác giữa các ngành, doanh nghiệp, người dân, khu vực quốc tế để phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại; về hoạt động tuyên truyền, giáo dục cho người
dân và cộng đồng doanh nghiệp; về hoạt động kiểm tra, kiểm soát phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại; về nguồn lực đảm bảo cho hoạt động phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại. Từ đó, đánh giá những kết quả đạt
được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong
quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Luận văn dựa trên các phân tích, đánh giá nêu trên làm cơ sở cho việc đề
xuất những giải pháp quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên
61
Giang trong thời gian tới ở chương 3.
Chƣơng 3:
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ PHÒNG,
CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƢƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH KIÊN GIANG TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2025
3.1. Quan điểm và phƣơng hƣớng phòng, chống buôn lậu và gian lận
thƣơng mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang thời gian tới
3.1.1. Quan điểm chủ yếu của Đảng và Nhà nước
- Quan điểm của Đảng:
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ:
“Phát triển mạnh thị trường trong nước, thực hiện hiệu quả Cuộc vận động
"Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Khai thác tốt các cam kết quốc
tế, mở rộng và đa dạng hóa thị trường ngoài nước, không để phụ thuộc quá lớn
vào một thị trường. Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu phù hợp, phấn
đấu cân bằng thương mại bền vững. Tăng cường xúc tiến thương mại, nâng cao
chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu hàng Việt Nam, nhất là các mặt
hàng có lợi thế. Tận dụng tối đa các điều kiện thuận lợi của các hiệp định, thỏa
thuận thương mại để thúc đẩy xuất khẩu; đồng thời có biện pháp phòng vệ thích
hợp để bảo vệ sản xuất và lợi ích người tiêu dùng. Thực hiện nhất quán cơ chế
giá thị trường đối với tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế, đồng
thời hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách, người nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số. Tăng cường quản lý thị trường, giá cả. Bảo đảm cân đối cung - cầu,
nhất là các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu. Tập trung đẩy mạnh phòng, chống
buôn lậu, gian lận thương mại” [28].
- Quan điểm của Nhà nước:
Nghị quyết 41/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ đã xác
định:“Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả xã hội và tạo được chuyển biến căn
62
bản về đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong thời
gian tới, các Bộ, ngành, địa phương, các lực lượng chức năng cần nhận thức rõ
những nguy hại của buôn lậu, gian lận thương mại và sản xuất, kinh doanh
hàng giả đối với kinh tế - xã hội, an ninh trật tự, an toàn của cộng đồng, sức
khỏe của người dân, đề ra các giải pháp cụ thể, phù hợp và tổ chức thực hiện
kiên quyết, hiệu quả” [23].
3.1.1.1. Phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại lấy phòng ngừa là
cơ bản
Phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là một nhiệm vụ khó
khăn và phức tạp của các cơ quan quản lý nhà nước. Trước đây, nhiệm vụ này
chỉ nặng về kiểm tra và xử lý, nhưng yêu cầu mới hiện nay là phải chuyển
hướng vừa “xây” vừa “chống”. Phòng ngừa và đấu tranh phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại là hai mặt của cùng một vấn đề, chúng luôn có
mối quan hệ hòa quyện vào nhau, tác động và hỗ trợ lẫn nhau, trong phòng
ngừa có đấu tranh và trong đấu tranh có phòng ngừa.
Phòng ngừa các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại là thông qua hệ
thống các giải pháp quản lý nhà nước nhằm xóa bỏ các nguyên nhân, điều
kiện làm phát sinh, phát triển các vi phạm về buôn lậu và gian lận thương
mại. Phòng ngừa các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại là quan điểm,
tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta nói chung cũng như
của tỉnh Kiên Giang nói riêng trong quá trình đấu tranh với buôn lậu và gian
lận thương mại thời gian qua. Qua đó, nhằm giáo dục ý thức tự giác của công
dân đối với việc phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, ngăn chặn,
phòng ngừa nhằm không để vi phạm xảy ra, hoặc nếu có xảy ra thì phải hạn
chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại do nó gây ra.
Phòng ngừa các vi phạm nói chung, vi phạm về buôn lậu và gian lận
thương mại nói riêng là vấn đề cơ bản có ý nghĩa chiến lược. Phòng ngừa với
tinh thần tích cực, chủ động, thường xuyên, bền bỉ, lâu dài nhằm ngăn chặn
63
hành vi buôn lậu và gian lận thương mại một cách hiệu quả nhất.
Theo quan điểm của ngành Công an: phòng ngừa bao gồm: phòng ngừa
xã hội (phòng ngừa chung) và phòng ngừa nghiệp vụ (phòng ngừa riêng).
Phòng ngừa xã hội là hệ thống các biện pháp của nhà nước và xã hội
nhằm khắc phục, bịt kín những sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý của
nhà nước, xóa bỏ những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh vi phạm. Phòng
ngừa xã hội là nhiệm vụ của toàn xã hội. Do đó, nhiệm vụ phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại là nhiệm vụ không chỉ của các ngành, các cấp, mà
còn của cả các đoàn thể chính trị - xã hội và của cả toàn dân. Phòng ngừa xã
hội là vấn đề rộng lớn, toàn diện, phải được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực
như hành chính, pháp luật, kinh tế, giáo dục, tư tưởng có xây dựng, cải tạo và
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của Nhà nước.
Phòng ngừa nghiệp vụ là việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của các lực
lượng có chức năng phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, thanh tra,
kiểm tra xử lý các hành vi, vi phạm. Phòng ngừa nghiệp vụ có một vai trò hết sức
quan trọng. Nếu từng ngành thực hiện tốt sẽ góp phần làm giảm, tiến tới đẩy lùi
các vi phạm về buôn lậu và gian lận thương mại xảy ra trên địa bàn.
Đối với việc phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại cần giáo dục
cho mọi người thấy phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là một
việc làm khó khăn, phức tạp không thể chỉ dựa vào hoạt động kiểm tra, kiểm
soát, xử lý vi phạm của các cơ quan nhà nước mà phải có sự đồng hành, tham
gia của toàn xã hội, đặc biệt là của các doanh nghiệp, người dân. Thực chất là
phát huy nỗ lực chung của cả hệ thống chính trị để nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
3.1.1.2. Đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại phải
được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm
Để phòng, chống hiệu quả đối với các hành vi buôn lậu và gian lận
thương mại phải tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chức
năng phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, tạo thành sức mạnh tổng 64
hợp trong phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm. Cơ quan
quản lý nhà nước phải giám sát chặt chẽ việc xuất, nhập khẩu nguyên phụ liệu
cũng như thành phẩm, kiểm tra xuất xứ hàng hóa, chất lượng hàng hóa của
các doanh nghiệp, hộ kinh doanh, tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi
phạm về buôn lậu và gian lận thương mại cũng như việc tuyên truyền trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp, người dân cũng phải tích cực tham gia vào cuộc
đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, không sử dụng hàng
cấm, hàng nhập lậu, hàng gian, hàng giả mạnh dạn tố giác các cơ sở có các hành
vi buôn bán hàng cấm, hàng lậu và gian lận thương mại nhằm tự bảo vệ mình,
góp phần tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng. Có như vậy,
công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại mới đạt hiệu quả cao.
Các giải pháp ngăn chặn phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
phải được thực hiện một cách đồng bộ và toàn diện từ phía người dân, các
doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan kiểm tra, kiểm soát, cơ
quan thông tin đại chúng. Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm và chủ yếu trong
cuộc chiến phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là nâng cao hiệu
quả quản lý doanh nghiệp, tăng cường sự kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan
chức năng và giám sát của nhân dân.
Các cơ quan chức năng phải nhận thức, đánh giá đúng đắn về vấn đề
buôn lậu và gian lận thương mại trong bối cảnh và điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế. Buôn lậu, gian lận thương mại là biểu hiện mặt trái của nền kinh tế
thị trường, do đó đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là
một nhiệm vụ rất quan trọng nhằm ngăn chặn, hạn chế những tác động tiêu
cực của mặt trái cơ chế thị trường, góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát
triển đúng hướng. Các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng cần nhận thức
đúng vai trò của mình trong đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận
65
thương mại.
Thứ nhất, xác định phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là nhiệm
vụ thường xuyên, liên tục và lâu dài; không chủ quan, nóng vội nhưng cần phải
tích cực, chủ động ngăn chặn có hiệu quả, góp phần tạo lập, duy trì môi trường
kinh doanh lành mạnh, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp.
Thứ hai, từ sự nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của các cấp,
các ngành, các lực lượng chức năng trong đấu tranh phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại để đưa ra những giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. Tiếp tục hoàn
thiện công tác chỉ đạo, phân công phối hợp giữa các lực lượng của Ban Chỉ
đạo 389 tỉnh Kiên Giang, Chi cục Quản lý thị trường bảo đảm vai trò là cơ
quan thường trực, đầu mối tham mưu giúp UBND tỉnh chỉ đạo, điều phối hoạt
động của các cấp, các ngành, các lực lượng trong công tác đấu tranh phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Tuy nhiên, vấn đề lâu dài và có ý nghĩa tích cực đó chính là việc phải
giáo dục nâng cao nhận thức của người dân về tác hại của buôn lậu và gian
lận thương mại, qua đó nâng cao ý thức cảnh giác, nắm bắt thông tin, phát
hiện hàng cấm, hàng lậu, hàng giả, các hành vi gian lận thương mại, không
bao che, tiếp tay cho hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại.
Mặc dù, đã có chế tài xử lý đối với các hành vi buôn lậu và gian lận thương
mại nhưng về lâu dài, nhận thức của người dân, tổ chức, doanh nghiệp mới là vấn
đề quan trọng, có tính chiến lược, ngăn chặn từ xa, ngăn chặn từ gốc rễ. Điều này
có thể thực hiện thông qua việc đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền dưới
nhiều hình thức, đặc biệt là các phương tiện thông tin đại chúng.
3.1.2. Phương hướng quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang tầm nhìn đến năm 2025
Theo Quyết định số 18/2009/QĐ-TTg ngày 03 tháng 02 năm 2009 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng
biển và ven biển Việt Nam thuộc vịnh Thái Lan thời kỳ đến năm 2020 và Quyết 66
định số 2044/2010/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính
phủ về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang
đến năm 2020.
Theo đó, tập trung phát triển một số đô thị trung tâm của vùng thành các trung
tâm kinh tế biển mạnh để hướng ra biển và kết nối chặt chẽ với nội địa. Xây dựng
thành phố Rạch Giá thành trung tâm kinh tế biển mạnh, trung tâm nghề cá lớn và
hiện đại của cả nước, đồng thời làm căn cứ vững chắc để thúc đẩy khai thác toàn
diện vùng biển Tây Nam của Tổ quốc. Xây dựng Hà Tiên trở thành trung tâm du
lịch - dịch vụ lớn của vùng; đồng thời là đô thị cửa khẩu hiện đại ở biên giới Tây
Nam của Tổ quốc. Phát triển nhanh các loại hình dịch vụ, nhất là dịch vụ thương
mại, tài chính, ngân hàng và các dịch vụ cao cấp khác gắn với du lịch, từng bước
xây dựng Phú Quốc thành trung tâm thương mại, tài chính lớn trong khu vực. Xây
dựng các trung tâm thương mại hiện đại tại Dương Đông, Dương Tơ, An Thới;
phát triển dịch vụ hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế...
Bên cạnh việc tiếp tục phát triển kinh tế với thế mạnh về công nghiệp,
theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2025 Kiên Giang sẽ là một tỉnh có tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng kinh tế Tây Nam Bộ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng tỷ trọng ngành thương mại -
dịch vụ ngang bằng với ngành công nghiệp, giảm dần tỷ trọng ngành nông
nghiệp. Phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào năm 2020,
trở thành tỉnh có tầm phát triển cao trong vùng vào năm 2025.
Về định hướng phát triển thương mại và dịch vụ:
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng các ngành dịch vụ giai đoạn 2011 - 2015
đạt 16,2% và giai đoạn 2016 - 2020 đạt 17%. Phát triển tổng hợp các loại ngành
dịch vụ theo hướng đa dạng hóa. Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có giá trị
67
tăng cao, hình thành các ngành dịch vụ mới.
Phát triển mạng lưới phân phối hàng hóa bán lẻ thông qua hệ thống chợ,
siêu thị, trung tâm thương mại đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, đổi
mới tổ chức và hoạt động của hợp tác xã và mạng lưới đại lý. Khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia xây dựng chợ và trung tâm thương mại. Phấn đấu
tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tăng bình quân 13 -
14%. Đầu tư phát triển một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh như lúa gạo,
thủy sản, khóm, tiêu, xi măng, tiến tới xuất khẩu một số mặt hàng tiêu dùng, thủ
công mỹ nghệ, điện,…
Phát triển ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; đầu tư xây dựng
các khu du lịch trọng điểm của tỉnh ở Hà Tiên, Kiên Lương, Rạch Giá, U Minh
Thượng; trong đó, xây dựng đảo Phú Quốc trở thành trung tâm dịch vụ du lịch,
giao thương quốc tế hiện đại, chất lượng cao trong khu vực.
Phấn đấu số lượng khách du lịch đạt 6,1 triệu lượt khách năm 2015 và đạt
10 triệu lượt khách vào năm 2020, ước đạt khoảng 15 triệu lượt khách vào năm
2025. Nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, đồng thời phát triển nhanh hệ thống
dịch vụ vận tải đối ngoại. Phát huy lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
của tỉnh để phát triển hệ thống giao thông vận tải đường sông, đường biển có
hiệu quả cao.
Xác định được các định hướng phát triển kinh tế - xã hội về thương mại,
xuất, nhập khẩu và dịch vụ sẽ giúp cho việc định hướng cho các giải pháp
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại tại tỉnh Kiên Giang trong thời
gian tới được phù hợp và đạt kết quả tốt.
Xuất phát từ các quan điểm, định hướng nêu trên, để thực hiện tốt công
tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, cả nước nói chung và tỉnh
Kiên Giang nói riêng, trong điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý có đường bộ,
đường thủy, đường biển giáp biên giới các nước Campuchia và vịnh Thái
Lan, tiếp tục kiện toàn và củng cố bộ máy Ban Chỉ đạo 389 tỉnh, với nòng cốt
68
là Chi cục Quản lý thị trường là cơ quan đầu mối, tham mưu, xung kích, phải
xem công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại luôn
gắn liền với việc nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, bảo vệ sản xuất kinh
doanh hợp pháp, thúc đẩy và khuyến khích sáng tạo, lành mạnh hóa môi
trường đầu tư, môi trường cạnh tranh, tạo sân chơi bình đẳng cho các chủ thể
tham gia trên thị trường, trong xu thế của nền kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế sâu rộng hiện nay ở nước ta.
3.2. M t số giải pháp quản lý nhà nƣớc về phòng, chống buôn lậu và
gian lận thƣơng mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang tầm nhìn đến năm 2025
3.2.1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chiến lược, chương trình, chính
sách, kế hoạch phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
Phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là chức năng và nhiệm vụ
chủ yếu, thường xuyên của quản lý nhà nước với sự tham mưu của Ban Chỉ đạo
389 tỉnh và Sở Công Thương, thông qua đầu mối thường trực là Chi cục Quản lý
thị trường tỉnh Kiên Giang.
Thực hiện chủ trương, chính sách và pháp luật của nhà nước, hàng năm
UBND tỉnh cần chỉ đạo Ban Chỉ đạo 389 tỉnh và Sở Công thương, phối hợp với
các cơ quan hữu quan xây dựng và chỉ đạo các chiến lược, chương trình và kế
hoạch đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh.
Xây dựng chiến lược và chương trình phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại theo định hướng 5 năm, xác định mục tiêu chung cho cả thời kỳ và hàng
năm, thể hiện rõ trong chiến lược và chương trình các mục tiêu chung cho cả
giai đoạn và mục tiêu từng năm, các nguồn lực và các phương án tổ chức thực
hiện, có sơ kết, tổng kết đánh giá hàng năm để rút kinh nghiệm, điều chỉnh kịp
thời những hạn chế và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại. Xây dựng và phân công trách nhiệm từng cơ quan đơn vị
tham gia trong chiến lược và chương trình phòng, chống buôn lậu và gian lận
69
thương mại.
Xây dựng kế hoạch phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại từng
năm, xác định rõ mục tiêu, phương pháp tổ chức thực hiện, cơ chế phối/kết hợp
trong quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, xác
định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị tham gia thực hiện kế hoạch, nhất
là vào dịp đầu năm mới dương lịch và Tết cổ truyền cần xây dựng kế hoạch cụ
thể, chi tiết với những mục tiêu cụ thể để quản lý nhà nước về phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang ngày càng hiệu
quả. Nội dung của kế hoạch theo hướng xác định có các cơ quan, đơn vị tham
gia theo những nội dung cụ thể về nhân lực, trách nhiệm và thẩm quyền có sự
phân công, phối/kết hợp cụ thể, xác định thời gian hoàn thành và trao đổi thông
tin kịp thời cho Ban Chỉ đạo 389, chỉ rõ trong kế hoạch sự tham gia của các cơ
quan thông tin truyền thông trong đấu tranh và phòng ngừa, phát hiện kịp thời
các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại.
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả chiến lược, chương trình và kế
hoạch đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là khâu quan
trọng hàng đầu của quá trình quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại.
3.2.2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
Nhằm tổ chức thực hiện có hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, thực hiện nghiêm chỉnh các cam
kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
UBND tỉnh chỉ đạo Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang và Sở Công Thương
tiếp tục rà soát, nghiên cứu, kiến nghị các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung
và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các chế tài xử lý vi phạm để răn
đe đối với các hành vi tội phạm nói chung và tội phạm buôn lậu và gian lận
thương mại, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới nói riêng cho phù hợp.
70
Qua đó, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các lực lượng chức năng thực thi
nhiệm vụ, xóa bỏ dần một số văn bản quy phạm pháp luật tạo ra kẽ hở để các
doanh nghiệp thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Tạo mọi điều kiện thuận
lợi để triển khai, thực thi Luật xử lý vi phạm hành chính phát huy hiệu quả.
Trong những năm qua, có rất nhiều vi phạm trong gian lận thương mại áp
dụng theo quy định của việc xử lý vi phạm hành chính như các hành vi gian lận
trong lĩnh vực thương mại, phân bón, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm,
hàng lậu v.v.... mức xử phạt chưa đủ răn đe, tuy nhiên, trước đây chỉ có Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính và các chế tài với nhiều hành vi vi phạm có mức
xử phạt chưa đủ sức răn đe. Do vậy, việc nâng Pháp lệnh lên thành Luật sẽ là
một điều kiện quan trọng giúp xây dựng các chế tài mạnh hơn cho việc xử lý vi
phạm hành chính. Ngoài ra, Luật cũng quy định rõ thẩm quyền xử phạt của từng
vị trí công chức, cơ quan, giúp cho việc xử lý các hành vi vi phạm trong công
tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại được kịp thời, chính xác và
đạt hiệu quả cao hơn.
Ngoài ra, quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại muốn đạt hiệu quả, cũng phải quan tâm chú ý đến việc hoàn thiện hệ thống
văn bản qui phạm pháp luật theo từng ngành, lĩnh vực chuyên môn liên quan trực
tiếp đến phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. Do đó, UBND tỉnh Kiên
Giang cần đẩy mạnh việc tiến hành rà soát, đề xuất các cấp có thẩm quyền chỉnh
sửa, bổ sung và hoàn thiện những quy định còn chồng chéo, còn bỏ ngõ, sơ hở
trong thực hiện quản lý nhà nước về lĩnh vực thương mại,... đã làm cho quá trình
thực thi pháp luật đối với lĩnh vực này không hiệu quả trong thời gian qua.
Chẳng hạn như quy định tại Khoản 2, Điều 19 Nghị định số 163/2013/NĐ-
CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hóa chất, phân bón và vật liệu nổ công nghiệp được sửa
đổi, bổ sung theo Nghị định số 115/2016/NĐ-CP ngày 08 tháng 7 năm 2016 của
Chính phủ quy định: “Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với
71
hành vi không có nội quy sản xuất, quy trình vận hành, biển chỉ dẫn, biển cảnh
báo tại vị trí các dây chuyền sản xuất, nơi để nguyên liệu, sản phẩm trong nhà
xưởng sản xuất”. Tuy nhiên, Nghị định số 202/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 11
năm 2013 của Chính phủ về quản lý phân bón và Nghị định số 77/2016/NĐ-CP
ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ không quy định chế định về trách
nhiệm pháp lý của nhà sản xuất phân bón đối với trường hợp này. Do đó, hành
vi vi phạm: “không có nội quy sản xuất, quy trình, vận hành, biển chỉ dẫn, biển
cảnh báo tại vị tri các dây chuyền sản xuất, nơi để nguyên liệu, sản phẩm trong
nhà xưởng sản xuất phân bón”, từ đó gây khó khăn cho công tác kiểm tra và xử
lý vi phạm của các cơ quan thực thi pháp luật.
Một ví dụ khác là tại khoản 8, Điều 3, Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày
15 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số
124/2015/NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ có giải thích từ
ngữ về hàng giả. Tuy nhiên, trong chế tài xử lý đối với hành vi buôn bán, sản
xuất hàng giả quy định tại Điều 11 và Điều 12 của Nghị định nêu trên là hành vi:
“buôn bán, sản xuất hàng giả không có giá trị sử dụng, công dụng”. Do đó, đối
với trường hợp hàng giả có giá trị sử dụng, công dụng mà xử phạt là chưa phù
hợp so với quy định tại Nghị định trên.
Việc xử lý các tang vật vi phạm hiện nay trên địa bàn tỉnh Kiên Giang tùy
theo tính chất mặt hàng có thể tính đến việc ký kết với các doanh nghiệp, tổ chức,
cá nhân ngoài khu vực nhà nước nhằm vừa bảo đảm các yếu tố về môi trường,
con người, trang thiết bị phục vụ việc tiêu hủy cũng như vừa giúp nâng cao hiệu
quả của công tác này. Theo đó, phải có sự giám sát chặt chẽ của cơ quan chức
năng tránh tình trạng doanh nghiệp, cá nhân lại thực hiện các hành vi để tiếp tục
sử dụng các tang vật vi phạm. Đồng thời, có thể tính đến việc sử dụng các phế
phẩm của quá trình tiêu hủy sản phẩm để tái chế thành nguồn nguyên liệu, sản
72
phẩm mới nhằm tiết kiệm nguồn tài nguyên địa phương, quốc gia.
3.2.3. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại
Nhằm đảm bảo hoạt động của Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang có hiệu lực
và hiệu quả, cần thiết phải có một bộ máy được tổ chức, thiết kế đầy đủ, rõ ràng với
sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ thì bộ máy đó mới hoạt động có hiệu quả, bộ máy
quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại cũng vậy.
Do đó, cần thực hiện các giải pháp sau:
Đẩy mạnh và tiếp tục ủy quyền, phân công, phân cấp, xác định rõ trách
nhiệm, quyền hạn của các ngành, các cấp trong thực thi nhiệm vụ phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại.
Đối với các cấp: Thời gian tới, cần kiện toàn một bước tổ chức bộ máy
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại tại cấp huyện, thị xã, thành phố,
trong đó, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, vai trò của phòng Kinh tế đối với
nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại để phòng có cơ sở chủ
động đề xuất, thực hiện các giải pháp phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố. Tiếp đến cấp xã, trong các chức
danh công chức tại cấp xã theo quy định hiện nay, cần bổ sung, xác định rõ
nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại cho một công chức để
công tác này được thực hiện xuyên suốt, nhịp nhàng từ cấp tỉnh, cấp huyện đến
cấp xã, phường, thị trấn.
Đối với các ngành chức năng: Bên cạnh vai trò điều hành toàn diện của
UBND các cấp thì từng bộ phận trong bộ máy quản lý nhà nước cần phải thể hiện
được chức năng của mình trong công tác tham mưu cho UBND các cấp thực hiện
tốt chức năng điều hành. Do tính đặc thù công tác phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại cần có sự phối hợp giữa rất nhiều ngành chức năng, do vậy cần có
73
sự phân công nhiệm vụ, trách nhiệm rõ ràng. Tiêu biểu trong đó như:
Lực lượng Bộ Đội biên phòng chịu trách nhiệm trong hoạt động xuất, nhập
cảnh, tuần tra, kiểm soát ở khu vực biên giới đất liền và trên biển kịp thời phát
hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại; điều tra
các tụ điểm, ổ nhóm, đường dây, tổ chức có hành vi buôn bán và gian lận
thương mại khu vực biên giới. Phối hợp với Hải quan và các lực lượng liên quan
tiến hành kiểm tra, kiểm soát các hoạt động xuất, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa;
phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại tại
cửa khẩu, cảng biển và các địa bàn kiểm soát hải quan theo quy định của pháp
luật.
Lực lượng Hải quan chịu trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát, giám sát đối với
hàng hóa, phương tiện vận tải trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan; thực
hiện và tổ chức công tác phối hợp trong đấu tranh chống buôn lậu và gian lận
thương mại qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan; xử lý
các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật. Thực hiện hợp tác quốc tế, trao
đổi thông tin và quan hệ phối hợp với lực lượng hải quan các nước trong đấu
tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Lực lượng Công an chịu trách nhiệm phát hiện, bắt giữ, điều tra, xác minh
làm rõ đường dây, ổ nhóm buôn lậu và gian lận thương mại trên phạm vi toàn
tỉnh; phối hợp, hỗ trợ các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, xử lý những vụ
việc buôn lậu và gian lận thương mại; tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để
phòng ngừa, điều tra, phát hiện, đấu tranh ngăn chặn với tội phạm buôn lậu và
gian lận thương mại và xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật;
phối hợp với cơ quan chức năng phát hiện, dừng, bắt giữ phương tiện vận
chuyển hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng gian lận thương mại trên các tuyến
đường bộ và đường thủy.
Lực lượng Quản lý thị trường chịu trách nhiệm tham mưu cho Sở Công
Thương trong thực thi công tác quản lý thị trường trong tỉnh; thực hiện chức
74
năng phòng, chống, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thương mại
trên thị trường nội địa; chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành Công Thương; kịp thời phát hiện, xử lý các
hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật. Chủ trì, phối hợp các ngành chức
năng trong việc tham mưu Giám đốc Sở Công Thương, Chủ tịch UBND tỉnh đề
ra các biện pháp chỉ đạo về đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại. Hoàn thành tốt chức trách Cơ quan Thường trực của Ban chỉ đạo chống
buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (Ban chỉ đạo 389/KG).
Sở Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm thanh, kiểm tra và xử lý
các hành vi vi phạm trong việc nhận, gửi, chuyển phát thư, kiện, gói hàng hóa
qua mạng bưu chính; xuất bản phẩm, sản phẩm in không phải là xuất bản phẩm
được nhập khẩu, xuất bản, in và phát hành trái phép; viễn thông và công nghệ
thông tin; các thiết bị phần cứng và phần mềm trong lĩnh vực công nghệ thông
tin; việc kinh doanh qua mạng Internet, đường Bưu điện, quảng cáo trên báo
chí,...
Sở Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát trong lĩnh
vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa; các hoạt động đánh
giá sự phù hợp liên quan đến giám định, thử nghiệm hàng hóa phục vụ cho công
tác chống buôn lậu và gian lận thương mại; chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành,
thực hiện hoạt động thanh, kiểm tra để xử lý các hành vi vi phạm quy định của
pháp luật trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm hàng hóa,
sở hữu trí tuệ theo lĩnh vực được phân công.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm thanh, kiểm tra
phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi khai thác, vận chuyển và tiêu thụ gỗ
lậu, động vật và các sản phẩm động vật hoang dã, quý hiếm và những loài thực
vật, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên
quan trong việc ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm các quy định về sản
75
xuất, kinh doanh, vận chuyển, quảng cáo vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủy sản, về an toàn thực phẩm nông, lâm, thủy sản và muối, về
nhập khẩu giống vật nuôi, giống cây trồng.
Sở Tài chính chịu trách nhiệm phối hợp các ngành chức năng khác tiến
hành thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm về giá theo quy định của
pháp luật. Đồng thời xem xét các chế độ, chính sách, hỗ trợ kinh phí bảo đảm
điều kiện làm việc, thông tin liên lạc, phương tiện tuần tra, kiểm tra, kiểm soát
cho các cơ quan chức năng phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trình
cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Bên cạnh giải pháp phân công, phân cấp giữa các ngành, để nâng cao chất
lượng công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, cần quan tâm
kiện toàn hơn nữa Ban Chỉ đạo 389 các cấp. Thể hiện ý thức, vai trò trách nhiệm
của từng cá nhân, từng đơn vị trong công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại.
Với những công việc mang tính đặc thù này nên các thành viên của Ban
Chỉ đạo cũng thường xuyên thay đổi, do vậy kịp thời kiện toàn Ban Chỉ đạo 389
sẽ là một cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các
giải pháp phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh. Ngoài
ra, Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang hiện nay thực hiện chung các nhiệm vụ
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, chống hàng giả nên thiếu sự cụ
thể, rõ ràng trách nhiệm của các thành viên trong Ban. Vì vậy, thời gian tới, Ban
Chỉ đạo nên có sự tách bạch tương đối các nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu,
gian lận thương mại và chống hàng giả trong các chương trình cụ thể, đồng thời
đối với từng lĩnh vực cụ thể nên phân định thêm chức danh phó trưởng ban cho
các ngành chức năng có liên quan, ví dụ như Sở Khoa học và Công nghệ là Phó
trưởng ban trong lĩnh vực chống hàng giả, chống gian lận về đo lường; Cục Hải
quan là Phó trưởng ban trong lĩnh vực chống gian lận thương mại đối với hoạt
76
động xuất, nhập khẩu; v.v...
Đối với cấp huyện chưa có Ban Chỉ đạo 389 thì cần thành lập để nâng cao
vị trí, tầm quan trọng của công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại tại các địa phương trong tỉnh. Cơ cấu này sẽ giúp các chỉ đạo, điều hành
cũng như các giải pháp phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại được
thực hiện thông suốt từ tỉnh đến cấp đơn vị hành chính cơ sở và ngược lại, tỉnh
cũng có thể nắm bắt, theo dõi kịp thời tình hình buôn lậu và gian lận thương mại
một cách cụ thể, kịp thời và chính xác.
3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong hoạt động phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại
Phối/kết hợp trong quản lý nhà nước và nhất là trong đấu tranh phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại là yêu cầu cần thiết khách quan, nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang và các cơ
quan thực thi nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác này cũng sẽ góp phần quan
trọng cho việc tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện nhiệm
vụ được giao.
Ngoài ra, cần tiếp tục đổi mới công tác điều hành của Ban Chỉ đạo 389 tỉnh
Kiên Giang, của các cơ quan quản lý nhà nước làm nhiệm vụ phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại. Trước mắt, tập trung thực hiện đổi mới công
tác điều hành tại Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang. Nâng cao chất lượng việc
nghiên cứu các địa bàn, đối tượng, mặt hàng trọng điểm cần phải tập trung đấu
tranh. Từ đó, các ngành xây dựng các chương trình, kế hoạch phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại theo các chuyên đề, theo từng đối tượng, trong
từng thời gian cụ thể với sự tham gia phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các
doanh nghiệp hoặc với các tổ chức chính trị - xã hội.
Đồng thời, thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết trong việc chỉ đạo điều
hành công tác của Ban. Qua đó để các cơ quan chức năng nhìn nhận, đánh giá
77
kịp thời các điểm mạnh, điểm yếu mà công tác phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại đang tồn tại, tìm ra nguyên nhân, kịp thời khắc phục khuyết
điểm, phát huy ưu điểm, khen thưởng những cá nhân, tổ chức có thành tích xuất
sắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Tiếp tục đổi mới công tác điều hành tại cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo
389 tỉnh Kiên Giang là Chi cục Quản lý thị trường thuộc Sở Công Thương. Theo
đó, Chi cục Quản lý thị trường phải nâng cao vai trò đầu mối, tổng hợp mọi hoạt
động của các cơ quan để tham mưu UBND tỉnh như nâng cao chất lượng xây
dựng các chiến lược, chương trình, kế hoạch, báo cáo của Ban; thường xuyên
nắm bắt kịp thời các hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
của các cơ quan khác trong Ban, v.v...
Đối với vị trí là các cơ quan có nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại thì việc đổi mới công tác điều hành là việc phải bảo đảm đầy đủ
thông tin trong quá trình chỉ đạo, điều hành. Cần có các biện pháp để nắm bắt
kịp thời các diễn biến đang xảy ra trên địa bàn, các thủ đoạn buôn lậu và gian
lận thương mại mới nhằm có biện pháp xử lý kịp thời. Trong đó, đặc biệt quan
tâm đến nguồn tin từ các doanh nghiệp và quần chúng nhân dân. Đẩy mạnh việc
xây dựng quy chế phối hợp giữa các ngành của tỉnh và các huyện, thị xã, thành
phố; giữa các ngành với nhau trong công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại.
Ngoài ra, Ban Chỉ đạo 389 tỉnh cần chỉ đạo việc xây dựng cơ chế phối/kết
hợp giữa với các ngành chức năng của tỉnh, lực lượng Bộ Đội biên phòng, Cảnh
sát biển, Hải quan, Công an và UBND các địa phương có đường biên giới đất
liền và đường biển nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động buôn lậu và gian lận
thương mại tại khu vực biên giới đất liền và đường biển.
3.2.5. Về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại
Đội ngũ cán bộ, công chức đóng một vai trò vô cùng quan trọng, giữ vai trò
tiên quyết cho sự thành công hay thất bại trong tất cả mọi hoạt động. Và đối với 78
các hoạt động quản lý nhà nước nói chung hay hoạt động phòng, chống buôn lậu
và gian lận thương mại nói riêng, yếu tố của đội ngũ cán bộ, công chức càng
đóng vai trò quan trọng hơn nữa. Bởi đội ngũ cán bộ, công chức chính là những
người được Nhà nước trao quyền để thực thi các nhiệm vụ của mình.
Do vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động của công tác phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại tại tỉnh Kiên Giang cần tập trung nâng cao hơn nữa
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác này cả về chuyên môn,
nghiệp vụ lẫn tư tưởng, đạo đức, cụ thể như:
Triển khai thực hiện hiệu quả Đề án vị trí việc làm, biên chế và ngạch công
chức của tỉnh Kiên Giang. Đây sẽ là căn cứ quan trọng để tiến hành việc rà soát,
đánh giá tổng thể yêu cầu của từng ngành, từng bộ phận công tác về số lượng,
chất lượng cán bộ, công chức. Từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tổng
thể về đào tạo, đào tạo lại; tuyển dụng mới và điều động, luân chuyển cán bộ,
công chức cho phù hợp với từng lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ về đấu tranh
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Cần phải xây dựng một kế hoạch đào tạo bài bản, dài hạn và có lộ trình
thực hiện cụ thể, đảm bảo nguyên tắc bố trí cán bộ, công chức thuộc lĩnh vực
nào phải được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực này hoặc tiếp nhận từ cơ quan có
làm công tác chuyên môn đó. Trước mắt, tập trung đầu tư cho việc đào tạo các
lớp kiến thức chuyên sâu đối với nghiệp vụ quản lý nhà nước về hoạt động
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, quy trình cam kết khi Việt Nam
gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, kiến thức pháp luật trong xử lý
các hành vi vi phạm trong lĩnh vực thương mại, các lớp bồi dưỡng những kiến
thức thực tế về sản phẩm, quy trình sản xuất để phục vụ cho việc thực hiện các
công tác chuyên môn liên quan.... Đồng thời, làm tốt ngay từ đầu công tác tuyển
chọn cán bộ, công chức, cán bộ, công chức được tuyển chọn phải có kiến thức
pháp luật, có chuyên môn nghiệp vụ, có trình độ ngoại ngữ, tin học. Bên cạnh
79
đó, cần đổi mới quy mô và phương pháp đào tạo: đối với việc đào tạo tại các địa
bàn, khu vực đặc thù nên có số lượng học viên vừa phải, đào tạo về lý thuyết kết
hợp với thực hành.
Hiện nay, việc học tập tại các nước có chuyên môn và kinh nghiệm về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại nhìn chung còn rất hạn chế. Do
đó, cần lựa chọn những cán bộ, công chức trẻ, có năng lực, trình độ để cử đi đào
tạo, tập huấn tại các nước về các chuyên đề phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại, thực thi các cam kết, hợp tác quốc tế trong hội nhập kinh tế thế giới.
Cần tổ chức các đoàn khảo sát, học tập, trao đổi kinh nghiệm về những vấn đề
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại mà các lực lượng chức năng
trong tỉnh còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm. Song song đó, cần đẩy mạnh công
tác nghiên cứu khoa học nhằm thay đổi tư duy, nâng cao chất lượng giải quyết
công việc, hình thành các phương pháp giải quyết công việc mới trong phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại phù hợp với tình hình của địa phương.
Với đặc thù của công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại,
cán bộ, công chức theo thời gian quy định sẽ được luân chuyển, dễ dẫn đến sự
xáo trộn về cán bộ, công chức cá biệt có trường hợp cán bộ, công chức được
luân chuyển không phù hợp về chuyên môn dẫn đến tình trạng lúng túng, thậm
chí còn sai sót trong thực thi nhiệm vụ dẫn đến tạo sơ hở cho hoạt động buôn lậu
và gian lận thương mại. Do đó, cần xây dựng chế độ công tác chuyên trách,
chuyên sâu dựa trên chế độ luân chuyển hợp lý: ổn định đội ngũ cán bộ, công
chức theo hướng chuyên môn hóa, thực hiện việc luân chuyển phải đúng chuyên
môn, nghiệp vụ, năng lực của cán bộ, công chức.
Ngoài ra, cũng cần có cơ chế, chính sách khen thưởng, chính sách tiền
lương thỏa đáng đối với cán bộ, công chức làm nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu
và gian lận thương mại. Hiện nay, chính sách tiền lương cho cán bộ, công chức
còn rất nhiều điểm bất hợp lý, nhất là trong tình hình kinh tế khó khăn. Thời
gian tới, Nhà nước nên tiếp tục cho các ngành thực hiện nhiệm vụ phòng, chống
80
buôn lậu và gian lận thương mại như: Bộ Đội biên phòng, Hải quan, Quản lý thị
trường, v.v... thực hiện cơ chế khoán chi dựa trên số thu nộp ngân sách nhà nước
mà các ngành thu từ nguồn xử lý đối với các hành vi buôn lậu và gian lận
thương mại nộp vào ngân sách nhà nước. Trên cơ sở đó, các ngành này nghiên
cứu, đề xuất với các cấp, cơ quan có thẩm quyền cho cơ chế tăng thêm thu nhập
đối với lực lượng thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại để cán bộ, công chức yên tâm công tác.
Thường xuyên quan tâm giáo dục ý thức trách nhiệm, bồi dưỡng phẩm chất
đạo đức, rèn luyện ý chí và ý thức chấp hành pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại thông qua việc
đẩy mạnh cuộc vận động Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh, nêu gương những cán bộ, công chức tiêu biểu, v.v... Đồng thời, tăng
cường công tác thanh, kiểm tra việc tuân thủ quy định, quy trình nghiệp vụ, phát
hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi sai phạm của cán bộ, công chức. Thực
hiện nghiêm túc quy định về chống tham nhũng để phòng ngừa, ngăn chặn tiêu
cực trong hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
3.2.6. Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho công
dân và doanh nghiệp
Giáo dục, tuyên truyền ý thức pháp luật nói chung và ý thức pháp luật về
buôn lậu và gian lận thương mại nói riêng trong điều kiện hiện nay là yêu cầu có
tính cấp bách, khách quan.
Trước tiên, cần thường xuyên giáo dục, tuyên truyền và triển khai trong đội
ngũ cán bộ, công chức về những nguyên nhân, điều kiện, tình huống dẫn đến vi
phạm buôn lậu và gian lận thương mại để xây dựng cho cán bộ, công chức thực
thi công vụ các kiến thức thực tế, chủ động đối phó với hoạt động buôn lậu và
gian lận thương mại ngày càng tinh vi, khắc phục những thiếu sót trong hoạt
động thực thi nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại còn gặp
81
phải.
Đồng thời, trong quá trình tuyên truyền, giáo dục cũng cần phổ biến cho
doanh nghiệp, người dân thấy được các tác hại của buôn lậu, gian lận thương
mại đối với lợi ích chung của xã hội, trong đó có cả lợi ích của cá nhân, doanh
nghiệp. Chỉ khi xã hội ổn định, kinh tế phát triển, môi trường kinh doanh lành
mạnh thì đời sống của cá nhân hay hiệu quả kinh doanh của danh nghiệp mới
ngày càng được nâng cao và phát triển. Từ đó, xây dựng cho họ một nhận thức
đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của mình, tiến tới điều chỉnh hành vi hoạt động
để đảm bảo hài hòa lợi ích giữa cá nhân, tập thể và xã hội.
Tiếp theo, bên cạnh việc chấp hành pháp luật của công dân, phải chú trọng
đến việc giáo dục tình cảm tôn trọng pháp luật, không ngừng nâng cao kiến thức
pháp luật của doanh nghiệp, công dân.
Do vậy, cần tập trung thực hiện các nội dung tuyên truyền sau:
Phổ biến, quán triệt rộng rãi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
bằng nhiều hình thức. Các nội dung cần thực hiện bao gồm: các hành vi buôn lậu
và gian lận thương mại; các quyền và trách nhiệm của các chủ thể; các biện pháp
xử lý khi thực hiện các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại,... Tăng cường
lồng ghép giáo dục ý thức phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại tại các
chợ, siêu thị, trung tâm thương mại cho tiểu thương, hộ kinh doanh.
Xây dựng cơ chế phổ biến thông tin về các hành vi buôn lậu và gian lận
thương mại của các doanh nghiệp, cá nhân, tình hình xử lý đối với các vi phạm
này cho người dân nắm bắt thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,
thông báo công khai trên website của tỉnh, của các ngành chức năng, báo, đài
phát thanh truyền hình. Khuyến khích các hoạt động sản xuất kinh doanh chân
chính, hiệu quả trong cộng đồng xã hội, nêu gương điển hình. Lồng ghép các nội
dung tuyên truyền về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trong các
cuộc họp tổ dân phố, của khu phố, của hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, hội
82
nông dân, hội phụ nữ và của các tổ chức khác.
Tổ chức ký kết cơ chế phối hợp trong hoạt động phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại giữa Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang và các tổ chức chính
trị - xã hội, các tổ chức xã hội trong tỉnh. Ban hành các văn bản hướng dẫn về
mua tin trên lĩnh vực phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại để thu hút
sự tham gia của toàn xã hội trong việc cung cấp thông tin các chủ thể thực hiện
hành vi buôn lậu và gian lận thương mại nhằm xử lý kịp thời. Nâng cao vai trò
của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội trong công tác giám sát quá
trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân. Tiếp tục đưa tiêu chí
không thực hiện các hành vi gian lận thương mại trong việc xét duyệt khen
thưởng “doanh nghiệp xuất khẩu uy tín” và các giải thưởng khác dành cho
doanh nghiệp cũng như có các ưu tiên, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh chân chính như làm thủ tục hải quan, các chương
trình hỗ trợ sản xuất kinh doanh của tỉnh, v.v...
3.2.7. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất, phương tiện hỗ trợ cho hoạt
động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại
Qua thực tiễn phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại, các hoạt
động buôn lậu và gian lận thương mại ngày càng tinh vi, liều lĩnh, phức tạp với
quy mô ngày càng lớn với nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau.
Vấn đề tiên quyết hiện nay là chất lượng và số lượng của lực lượng chức
năng phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại nhưng không thể đưa ra kết
luận điều tra nếu chỉ dựa trên kinh nghiệm và quan sát trực quan. Do vậy, lực
lượng chức năng phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại cần được trang
bị các phương tiện kiểm định nhanh chất lượng hàng hóa để có thể áp dụng các
biện pháp xử lý vi phạm hành chính kịp thời. Vì vậy, UBND tỉnh Kiên Giang
cần hỗ trợ nguồn kinh phí cho các lực lượng chức năng trong công tác điều tra,
mua tin, giám định sản phẩm cũng như đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại, đặc biệt đối với mặt hàng thuốc lá, gỗ, đường cát, mỹ phẩm,
83
thực phẩm, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật....
Với điều kiện khó khăn như hiện nay, trước mắt lực lượng Quản lý thị
trường và Hải quan cần tập trung nguồn nhân lực cũng như các thiết bị, phương
tiện của ngành phục vụ cho công tác kiểm tra, kiểm soát hàng hóa xuất, nhập
khẩu là thuốc lá, gỗ, đường cát, mỹ phẩm, thực phẩm, phân bón, thuốc bảo vệ
thực vật....vừa đảm bảo chất lượng công việc, kịp thời phát hiện các hành vi
buôn lậu và gian lận thương mại. Về lâu dài, cần quan tâm đầu tư cơ sở vật chất,
v.v... cho các ngành chức năng thực thi nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại nhằm bảo đảm điều kiện làm việc cho cán bộ, công chức cũng
như nâng cao uy tín của cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Tiếp
theo, cần đầu tư trang thiết bị, phương tiện tiên tiến, hiện đại cho các ngành chức
năng để giúp việc thực hiện các công việc hành chính cũng như việc kiểm tra,
kiểm soát đạt chất lượng cao và không tốn nhiều thời gian của cán bộ, công
chức, doanh nghiệp như: phương tiện kiểm định, camera, cân điện tử, các dụng
cụ lấy mẫu... Song song, đó là việc ứng dụng rộng rãi các phần mềm quản lý
chuyên dụng cho từng ngành chức năng như: Hải quan, Quản lý thị trường,...
Đặc biệt là tại các trung tâm thương mại, khu công nghiệp, nơi có mật độ doanh
nghiệp tập trung khá cao, từ đó giúp ngành chức năng nhanh chóng nhận được
thông tin quản lý khi nhập dữ liệu về các cá nhân, tổ chức thường xuyên có hành
vi gian lận thương mại cũng như liên kết các thông tin trong xử lý vi phạm.
Đẩy mạnh công tác ứng dụng công nghệ thông tin theo từng ngành, lĩnh
vực. Ví dụ như cần hình thành website riêng cho lực lượng Quản lý thị trường cả
nước nhằm nâng cao vị trí, vai trò của lực lượng này trong cuộc đấu tranh
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. Khi hình thành website riêng của
lực lượng Quản lý thị trường, các ngành, các cấp cũng như cả xã hội sẽ có nhiều
thông tin về kết quả đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại;
các vụ việc vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại; các quy định mới
của Nhà nước... cũng như nhanh chóng tiếp nhận những thông tin phản hồi từ
các ngành, tổ chức, doanh nghiệp và người dân. Bên cạnh đó, triển khai Đề án
công nghệ thông tin của lực lượng Quản lý thị trường để hiện đại hóa công tác 84
thu thập số liệu báo cáo và xử lý thông tin nghiệp vụ; xây dựng hệ thống cơ sở
dữ liệu và tin học hóa công tác kiểm tra, kiểm soát.
Ngoài ra, xây dựng hệ thống tiêu chí thông tin quản lý doanh nghiệp, tiêu
chí đánh giá mức độ chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp. Cập nhật
thường xuyên các doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm, doanh nghiệp kinh doanh
những mặt hàng trọng điểm để có kế hoạch kiểm tra kịp thời.
Về kinh phí phục vụ công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương
mại: Một số Ban Chỉ đạo địa phương chưa được UBND địa phương quan tâm
đến kinh phí hoạt động từ đó còn gặp nhiều khó khăn cho Ban Chỉ đạo hoạt
động; việc thanh quyết toán các nội dung chi còn gặp nhiều khó khăn về thủ tục
chi, phải bảo đảm đầy đủ yêu cầu về hồ sơ, chứng từ hợp lệ, tuy nhiên với một
số khoản chi đặc thù rất khó thực hiện (ví dụ như chi thuê phương tiện theo dõi,
truy bắt đối tượng trong một số trường hợp do quá gấp nên khó có thể hoàn
thiện chứng từ theo quy định).
Do đó, UBND các huyện, thị xã, thành phố và UBND tỉnh Kiên Giang cần
có sự cân đối nguồn ngân sách cho phù hợp giữa các nhiệm vụ, cũng như xây
dựng quy định chung thống nhất giữa các ngành có chức năng phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại tại địa phương trong các khoản chi, mức chi
cho việc đầu tư trang thiết bị, phương tiện. Trong đó, hướng tới việc giảm tỷ lệ
trích nộp ngân sách về cấp trên, nâng cao mức chi đầu tư trang thiết bị, phương
tiện nhằm nâng cao tính tích cực, chủ động, tự chịu trách nhiệm của các ngành,
85
các cấp tại địa phương.
Tiểu kết chƣơng 3
Luận văn đã hệ thống quan điểm, mục tiêu và phương hướng phòng chống
buôn lậu và gian lận thương mại trên đại bàn tỉnh Kiên Giang. Trên cơ sở kết
quả phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân buôn lậu và gian lận thương
mại ở chương 2.
Luận văn đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm quản lý nhà nước có hiệu quả
hơn về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang bao gồm: xây dựng và chỉ đạo tổ chức thực hiện các chiến lược, chương
trình, chính sách, kế hoạch phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại; ban
hành và tổ chức thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật về phòng, chống buôn
lậu và gian lận thương mại; hoàn thiện về tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại; tăng cường sự phối hợp giữa các
cơ quan trong hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại; về nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại; tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho công
dân và doanh nghiệp; tăng cường trang bị cơ sở vật chất, phương tiện hỗ trợ
cho hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Để triển khai thực hiện các giải pháp trên cần có sự chuẩn bị một cách chu
đáo, cần đầu tư thích đáng và có sự phối hợp đồng bộ giữa các sở, ngành của tỉnh,
giữa các cấp chính quyền, các tổ chức và cá nhân cùng sự phân định chu kỳ thực
86
hiện một cách rõ ràng, xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của từng đối tượng.
KẾT LUẬN
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay ở nước ta, phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là một trong
những nội dung quan trọng và không thể thiếu trong hoạt động quản lý nhà nước
về kinh tế, bởi lẽ chỉ có thể thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu và
gian lận thương mại mới đảm bảo được thực hiện trọn vẹn các nội dung về phát
triển kinh tế, mang lại môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, cũng như
đảm bảo các điều kiện tốt nhất cho việc phát triển đất nước theo hướng bền vững
và các cam kết quốc tế của Việt Nam nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng.
Nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải
tiếp tục được quan tâm, giải quyết. Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn
được trình bày trong luận văn, có thể rút ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại là một nhiệm vụ
rất quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước. Muốn quản lý nhà nước đối
với các hành vi này có hiệu quả cần thiết phải xây dựng hệ thống văn bản quy
định pháp lý chặt chẽ, rõ ràng và khả thi; một bộ máy quản lý nhà nước về
phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại có hiệu quả; với đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận
thương mại có trình độ và năng lực. Luận văn đã hệ thống và xây dựng khung lý
thuyết và căn cứ pháp lý về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Thứ hai, để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về phòng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại cần thực hiện nghiêm, đầy đủ các nội
dung đối với công tác thanh, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm về buôn lậu
và gian lận thương mại trên địa bàn, đảm bảo nghiêm minh, răn đe và triệt để.
Luận văn đã hệ thống và trình bày một số kinh nghiệm quản lý nhà nước về
buôn lậu và gian lận thương mại ở một số Quốc gia, tổ chức quốc tế và địa
87
phương trong nước.
Thứ ba, phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại nếu chỉ có sự nổ
lực, hành động của các cơ quan quản lý nhà nước thì sẽ không đạt kết quả cao.
Do vậy, bên cạnh việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, cần thực hiện có hiệu
quả công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng
doanh nghiệp, trong việc phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. Luận
văn đã hệ thống về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và những tác động đến
quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang, phân tích thực trạng, kết quả, hạn chế và những nguyên nhân,
đây là những căn cứ quan trọng để đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước để
nâng cao chất lượng và hiệu quả phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Thứ tư, luận văn đã hệ thống các quan điểm và phương hướng, mục tiêu
quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang tầm nhìn đến năm 2025, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả quản lý nhà nước về phòng, chống buôn lậu và gian
lận thương mại trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Đối với Chính phủ
Thứ nhất, sớm hoàn thành và đưa vào thực hiện Chương trình hành động
quốc gia về phòng, chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại từ nay đến
2020, tầm nhìn đến 2025.
Thứ hai, hoàn chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công
tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại như: các Nghị định, Thông tư
hướng dẫn thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính để Luật sớm đi vào thực tế;
thống nhất chế độ chi trong công tác lãnh đạo, điều hành của các ngành trong
công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại theo địa phương (Thông
tư số 51/2010/TT-BTC ngày 14 ngày tháng 4 năm 2010 của Bộ Tài chính chỉ
quy định theo ngành); kịp thời ban hành, sửa đổi, bổ sung các chế tài xử phạt
88
các hành vi buôn lậu và gian lận thương mại; v.v...
Thứ ba, để công tác phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại đạt hiệu
quả cao hơn, đối với các tuyến biên giới, đường bộ, đường sông, đường biển,
đường sắt giữa các địa phương, tùy thuộc vào tình hình thực tế mà quy định một
tỉnh chịu trách nhiệm chính cho tuyến đường đó, phạm vi đó.
Thứ tư, thành lập Website cho lực lượng Quản lý thị trường; đẩy mạnh
triển khai Đề án công nghệ thông tin cho lực lượng Quản lý thị trường.
3.3.2. Đối với UBND tỉnh Kiên Giang
Thứ nhất, đẩy mạnh ký kết cơ chế phối hợp trong hoạt động phòng, chống
buôn lậu và gian lận thương mại giữa Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang và các
tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội trong tỉnh. Xây dựng Quy chế phối
kết hợp trong hoạt động phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại giữa các
ngành chức năng của tỉnh với lực lượng Bộ Đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải
quan, Công an và UBND các địa phương có đường biên giới đất liền, đường
biển nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn tình hình buôn lậu và gian lận thương mại.
Thứ hai, thành lập Ban Chỉ đạo 389 ở các huyện chưa có Ban Chỉ đạo,
củng cố nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại ở cấp xã,
phường, thị trấn bằng cách bố trí công chức chịu trách nhiệm trực tiếp về công
tác này, đồng thời với phải có sự tham gia của công chức này trong Ban Chỉ đạo
389 ở cấp huyện, thị xã, thành phố.
Thứ ba, kiến nghị Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Kiên Giang tùy theo lĩnh vực mà
chỉ định thêm chức danh Phó trưởng Ban cho một số Sở, ban, ngành có liên
quan.
Thứ tư, nâng mức chi đối với cá nhân, tổ chức làm lực lượng mật cung cấp
89
thông tin cho cơ quan quản lý về phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công Thương (2008), Thông tư số 15/2008/TT-BCT, ngày 02 tháng
12 năm 2008 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 06/2008/NĐ-
CP ngày 16 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong hoạt động thương mại.
2. Bộ Công Thương (2009), Thông tư số 02/2009/TT-BTC, ngày 21 tháng
01 năm 2009 hướng dẫn việc phân bổ và sử dụng nguồn kinh phí hỗ trợ công tác
chỉ đạo, điều hành chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.
3. Bộ Tài chính (2008), Thông tư số 59/2008/TT-BTC, ngày 04 tháng 7
năm 2008 hướng dẫn việc quản lý, sử dụng nguồn thu từ xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả.
4. Bộ Tài chính (2009), Thông tư số 11/2009/TT-BTC, ngày 20 tháng 5
năm 2009 quy định một số điều của Nghị định số 107/2008/NĐ-CP ngày 22
tháng 9 năm 2008 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính các
hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá, đưa tin thất thiệt, buôn lậu và gian lận
thương mại.
5. Bộ Tài chính (2010), Thông tư số 51/2010/TT-BTC, ngày 14 tháng 4 năm
2010 về việc sửa đổi, bổ sung Thông tư số 59/2008/TT-BTC ngày 04 tháng 7 năm
2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý, sử dụng nguồn thu từ xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả.
6. Bộ Tài chính (2010), Thông tư số 93/2010/TT-BTC, ngày 28 tháng 6
năm 2010 hướng dẫn việc xác định các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tài chính là hành vi buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.
7. Bộ Tài chính (2010), Quyết định số 3107/QĐ-BTC, ngày 26 tháng 11
năm 2010 ban hành Quy chế quản lý, sử dụng nguồn thu từ xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả.
8. Bộ Tài chính (2012), Thông tư số 215/2012/TT-BTC, ngày 10 tháng 12
năm 2012 về hướng dẫn thực hiện một số nội dung về quản lý, xử lý tang vật,
phương tiện tịch thu sung quỹ nhà nước do vi phạm hành chính.
9. Trần Minh Chất (2015) Buôn lậu, gian lận thương mại ở nước ta - Những
vấn đề đặt ra cho lực lượng Hải quan và Cảnh sát kinh tế trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, tháng 02 năm 2015, tr.23, Hà Nội.
10. Chính phủ (2008), Nghị định số 06/2008/NĐ-CP, ngày 16 tháng 01
năm 2008 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại.
11. Chính phủ (2008), Nghị định số 107/2008/NĐ-CP, ngày 22 tháng 9
năm 2008 quy định xử phạt vi phạm hành chính các hành vi đầu cơ, găm hàng,
tăng giá quá mức, đưa tin thất thiệt, buôn lậu và gian lận thương mại.
12. Chính phủ (2009), Nghị định số 68/2009/NĐ-CP, ngày 06 tháng 8 năm
2009 sửa đổi, bổ sung khoản 7 điều 4 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04
tháng 4 năm 2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến
thương mại.
13. Chính phủ (2010), Nghị định số 112/2010/NĐ-CP, ngày 01 tháng 12
năm 2010 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2008/NĐ-CP
ngày 16 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thương mại.
14. Chính phủ (2011), Nghị định số 120/2011/NĐ-CP, ngày 16 tháng 12
năm 2011 sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại một số Nghị định của Chính
phủ quy định chi tiết Luật Thương mại.
15. Chính phủ (2013), Nghị định số 81/2013/NĐ-CP, ngày 19 tháng 7 năm
2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm
hành chính.
16. Chính phủ (2013), Nghị định số 163/2013/NĐ-CP, ngày 12 tháng 11
năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa chất, phân
bón và vật liệu nổ công nghiệp.
17. Chính phủ (2013), Nghị định số 185/2013/NĐ-CP, ngày 15 tháng 11
năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại,
sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dung.
18. Chính phủ (2013), Nghị định số 202/2013/NĐ-CP, ngày 27 tháng 11
năm 2013 quy định về quản lý phân bón.
19. Chính phủ (2015), Nghị định số 01/2015/NĐ-CP, ngày 02 tháng 01
năm 2015 về việc quy định chi tiết phạm vi, địa bàn hoạt động Hải quan, trách
nhiệm phối hợp trong phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa
qua biên giới.
20. Chính phủ (2015), Nghị định số 124/2015/NĐ-CP, ngày 19 tháng 11
năm 2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày
15 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
21. Chính phủ (2016), Nghị định số 77/2016/NĐ-CP, ngày 01 tháng 7 năm
2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 202/2013/NĐ-CP ngày 27
tháng 11 năm 2013 của Chính phủ về quản lý phân bón.
22. Chính phủ (2016), Nghị định số 115/2016/NĐ-CP, ngày 08 tháng 7
năm 2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2013/NĐ-CP ngày
12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hóa chất, phân bón và vật liệu nổ công nghiệp.
23. Chính phủ (2015), Nghị quyết số 41/NQ-CP, ngày 09 tháng 6 năm 2015
về việc đẩy mạnh công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và
hàng giả trong tình hình mới.
24. Đinh Thị Kim Cúc (2011), Các giải pháp phòng, chống gian lận
thương mại trên đại bàn tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính
công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
25. Cục Thống kê tỉnh Kiên Giang (2016), Niên giám Thống kê.
26. Lê Văn Dành (2006), Những giải pháp tăng cường quản lý nhà nước
đối với công tác chống hàng giả ở nước ta hiện nay (từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai),
Luận văn thạc sỹ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà
Nội.
27. Nguyễn Đức Dũng (2014), Báo chí đấu tranh chống buôn lậu và gian
lận thương mại, Luận văn cao học, Học viện Báo chí và Truyền thông, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Nguyễn Minh Hải (2010), Một số giải pháp tăng cường đấu tranh
chống hàng giả và gian lận thương mại, Học viện Hành chính Quốc gia, Tạp chí
Quản lý nhà nước (số 12), tr.36-39, Hà Nội.
30. Học viện Hành chính Quốc gia (2003), Quản lý học đại cương, Nxb
Giáo dục, [1,2,3,4, tr.15-16], [5,6, tr.21-22], Hà Nội.
31. Học viện Hành chính Quốc gia (2004), Quản lý nhà nước trên các lĩnh
vực kinh tế, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
32. Học viện Hành chính Quốc gia (2010), Giáo trình Lý luận Hành chính
nhà nước, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Thiên Hương (2010), Tăng cường quản lý nhà nước đối với
công tác chống gian lận thương mại trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn tỉnh
Tây Ninh, Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc
gia, Hà Nội.
34. Nguyễn Bỉnh Lại (2013), Đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương
mại ở nước ta hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 2, tr.45-48, Hà Nội.
35. Khiêu Linh (2014), Một số quan điểm và giải pháp tăng cường phối
hợp trong đấu tranh phòng, chống buôn lậu của lực lượng Hải quan hiện nay,
Tạp chí Cộng sản tháng 11, Hà Nội.
36. Nguyễn Xuân Phúc (2015), Những giải pháp lớn trong công tác phòng
chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả năm 2015, Tạp chí Tài chính
số 01, tr.03, Hà Nội.
37. Quốc hội (1985,1999,2009), Luật Hình sự năm 1985, Hình sự sửa đổi,
bổ sung năm 1999 và Luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009.
38. Quốc hội (2005), Luật Thương mại.
39. Quốc hội (2010), Luật Bảo vệ người tiêu dùng.
40. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính.
41. Thủ tướng Chính phủ (1997), Chỉ thị số 853/1997/CT-TTg, ngày 11
tháng 10 năm 1997 về đấu tranh chống buôn lậu trong tình hình mới.
42. Thủ tướng Chính phủ (1999), Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg, ngày 27
tháng 10 năm 1999 về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả.
43. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chỉ thị số 23/2012/CT-TTg, ngày 07
tháng 9 năm 2012 về việc tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động kinh doanh tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu và gửi kho ngoại quan.
44. Thủ tướng Chính phủ (2014), Chỉ thị số 30/2014/CT-TTg, ngày 30
tháng 9 năm 2014 về tăng cường công tác chống buôn lậu thuốc lá.
45. Thủ tướng Chính phủ (2012), Công điện khẩn số 1126/CĐ-TTg, ngày
03 tháng 8 năm 2012 về việc tăng cường công tác chống buôn lậu, hàng giả và
gian lận thương mại góp phần bình ổn thị trường, bảo vệ sản xuất và người tiêu
dùng.
46. Thủ tướng Chính phủ (2013), Công điện khẩn số 10/CĐ-TTg, ngày 03
tháng 01 năm 2013 về việc tăng cường công tác chống buôn lậu, gian lận
thương mại và hàng giả.
47. Thủ tướng Chính phủ (2013), Công điện khẩn số 2245/CĐ-TTg, ngày
19 tháng 12 năm 2013 về việc tăng cường công tác chống buôn lậu, hàng giả và
gian lận thương mại.
48. Thủ tướng Chính phủ (2014), Công điện khẩn số 2118/CĐ-TTg, ngày
28 tháng 10 năm 2014 về việc tăng cường công tác chống buôn lậu, gian lận
thương mại và hàng giả.
49. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 18/2010/QĐ-TTg, ngày 03
tháng 02 năm 2009 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
vùng biển và ven biển Việt Nam thuộc vịnh Thái Lan thời kỳ đến năm 2020.
50. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 65/2010/QĐ-TTg, ngày 25
tháng 10 năm 2010 ban hành Quy chế về trách nhiệm và quan hệ phối hợp hoạt
động giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống
buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại.
51. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 2044/QĐ-TTg, ngày 09
tháng 11 năm 2010 về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Kiên Giang đến năm 2020.
52. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 19/2016/QĐ-TTg, ngày 06
tháng 5 năm 2016 ban hành Quy chế về trách nhiệm và quan hệ phối hợp hoạt
động giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống
buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.
53. Phan Văn Trung (2012), Đấu tranh phòng chống buôn lậu của Chi cục
Hải quan Bình Định thực trạng và giải pháp, Luận văn cao học Luật học, Đại
học Đà Nẵng.
54. Từ điển tiếng Việt (1992), Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.
55. UBND tỉnh Kiên Giang (2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016), Công
văn, Kế hoạch, Quyết định về công tác phòng, chống buôn lậu, hàng giả và gian
lận thương mại các năm 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016.
56. UBND tỉnh Kiên Giang (2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016), Báo cáo
kết quả công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả các năm
2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016.