intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quy chế pháp lý hành chính của viên chức nhà nước – Phần 1

Chia sẻ: Thiuyen3 Thiuyen3 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:21

187
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khái niệm "viên chức nhà nước"- "con người hành chính" Vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề quan trọng, là một yếu tố cơ bản của quản lý nhà nước. Cơ quan nhà nước không thể hình thành và hoạt động nếu không có viên chức nhà nước. Thật vậy. tất cả những hoạt động quản lý để đảm bảo trật tự xã hội sẽ mất đi nếu thiếu "con người hành chính" này. Vì vậy, cán bộ là người quyết định mọi vấn đề trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quy chế pháp lý hành chính của viên chức nhà nước – Phần 1

  1. Quy chế pháp lý hành chính của viên chức nhà nước – Phần 1 I. NHỮNG VẤN ÐỀ CHUNG VỀ VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC 1. Khái niệm "viên chức nhà nước"- "con người hành chính" Vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề quan trọng, là một yếu tố cơ bản của quản lý nhà nước. Cơ quan nhà nước không thể hình thành và hoạt động nếu không có viên chức nhà nước. Thật vậy. tất cả những hoạt động quản lý để đảm bảo trật tự xã hội sẽ mất đi nếu thiếu "con người hành chính" này. Vì vậy, cán bộ là người quyết định mọi vấn đề trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong đường lối chính trị của nhà nước ta, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã chú ý tới vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước. Bởi vì hiệu quả của quá trình quản lý xã hội tùy thuộc vào việc đào tạo cán bộ và khả năng làm việc của cán bộ. Ðể nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý h ành chính nhà nước thì việc đào tạo cho người cán bộ về trình độ học thức và trang bị cho họ những phẩm chất đạo đức cách mạng là điều rất quan trọng. Có được đào tạo tốt thì người cán bộ mới đủ
  2. năng lực và phẩm chất để phục vụ nhân dân vì nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ðặc biệt sự cần thiết có một đội ngũ cán bộ công chức đúng tầm vóc để quản lý tốt một nền kinh tế hiện nay là một thử thách và đòi hỏi bức bách đặt ra cho nhà nước ta. Như vậy, viên chức nhà nước là người đóng vai trò to lớn trong hoạt động quản lý của nhà nước. Thông qua hoạt động của mình, họ đảm bảo sự lãnh đạo các quá trình sản xuất, xác định hướng phát triển khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất, thực hiện các biện pháp tổ chức ... Viên chức nhà nước là lực lượng nòng cốt quyết định mọi vấn đề của đất nước. Viên chức nhà nước là những người làm việc trong các cơ quan nhà nước do tuyển dụng, bầu hoặc bổ nhiệm. Viên chức được trao những quyền hạn tương ứng với một chức vụ nhất định hoặc thực hiện công việc theo sự ủy nhiệm của nh à nước để thực hiện trực tiếp nhiệm vụ và chức năng nhà nước, được trả lương và các chế độ phụ cấp khác từ ngân sách nhà nước. 2. Ðặc điểm Như vậy, một người có thể trở thành viên chức nhà nước khi tham gia vào quan hệ lao động với nhà nước. Mối quan hệ viên chức- nhà nước gắn liền với các đặc điểm sau:
  3. 1. Quan hệ này được hình thành trên cơ sở quyết định tuyển dụng, quyết định bổ nhiệm hay quyết định công nhận kết quả bầu cử. 2. Quan hệ đó luôn tồn tại hai yếu tố là yếu tố tự nguyện của người lao động và yếu tố ý chí của nhà nước. Sự đồng ý của người lao động là yếu tố cần thiết, nó là điều kiện bước đầu để quan hệ phục vụ nhà nước được hình thành. Song, ý chí nhà nước mới là yếu tố quyết định cho sự hình thành quan hệ pháp luật giữa hai bên. Bởi vì quyền và nghĩa vụ của viên chức nhà nước phát sinh từ khi có quyết định tuyển dụng, quyết định bổ nhiệm hoặc quyết định công nhận kết quả bầu cử chứ không phải từ khi cá nhân người lao động thể hiện nguyện vọng của mình. 3. Hoạt động của viên chức nhà nước ít nhiều mang tính quyền lực nhà nước. + Hoạt động của họ có thể làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể hoặc tạo điều kiện cần thiết cho sự phát triển, thay đổi, chấm dứt những quan hệ ấy. + Viên chức nhà nước được giao cho những quyền hạn nhất định, những quyền hạn đó là phương tiện đảm bảo cho viên chức nhà nước hoàn thành nhiệm vụ của mình. Ðồng thời họ cũng phải gánh vác những nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước. Vì thế, quyền hạn và nghĩa vụ của viên chức nhà nước liên quan chặt chẽ với nhau.
  4. + Lưu ý rằng thẩm quyền của viên chức nằm trong phạm vi quyền hạn và trong giới hạn công vụ tương ứng. 4. Hoạt động của họ không trực tiếp tạo ra của cải vật chất mà xác định hướng phát triển và bảo đảm sự lãnh đạo nhà nước đối với các quá trình sản xuất. Nghĩa là họ có những hình thức và phương pháp hoạt động riêng, khác hẳn với hoạt động của công nhân. 5. Chịu sự thay đổi, điều động công tác và chấm dứt quan hệ theo sự điều động của nhà nước trên cơ sở pháp luật. Người lao động không có quyền đòi hỏi nhà nước phải trao cho mình một chức vụ hoặc cho quyền tiến hành những hoạt động nhất định nhằm thực hiện một chức vụ nào đó thuộc về nhà nước. Nhà nước, cụ thể là các cơ quan có thẩm quyền có quyền thay đổi, điều động công tác hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật lao động với viên chức nhà nước nếu lợi ích nhà nước đòi hỏi nhưng phải tuân theo các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. 3. Phân loại viên chức nhà nước Là sự phân chia viên chức nhà nước ra thành các loại, các hạng ngạch khác nhau theo những tiêu chuẩn nhất định. Có nhiều căn cứ để phân loại viên chức nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay người ta phân loại dựa vào ba căn cứ sau: - Căn cứ vào tính chất công việc.
  5. - Căn cứ vào đặc điểm pháp lý của công việc. - Căn cứ vào sự phân công lao động và đặc tính lao động của viên chức. Trong đó căn cứ quan trọng nhất là căn cứ vào tính chất công việc, bởi vì căn cứ này có liên quan đến việc xác định công chức và không công chức-yếu tố chỉ phát sinh ở chế độ có bộ máy công quyền. a. Căn cứ vào tính chất công việc Dựa vào căn cứ này người ta phân loại viên chức nhà nước thành công chức nhà nước và những viên chức nhà nước không phải là công chức nhà nước. ¨ Những người sau đây không phải là công chức nhà nước: - Các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. - Những người giữ các chức vụ trong hệ thống lập pháp, hành pháp, tư pháp được Quốc hội hoặc hội đồng nhân dân các cấp bầu hoặc cử ra theo nhiệm kỳ. - Những người làm việc theo chế độ tạm tuyển, hợp đồng và những người đang thời kỳ tập sự chưa được xếp vào ngạch. - Những hạ sỹ quan, sỹ quan tại ngũ trong quân đội nhân dân Việt Nam, bộ đội biên phòng. - Những người làm việc trong các cơ quan của Ðảng và đoàn thể nhân dân.
  6. - Những người làm việc trong các tổ chức sản xuất, kinh doanh của nhà nước. ¨ Qua các qui định trên đây, ta rút ra ba yếu tố căn bản gắn liền với công chức - Sự tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một cương vị thường xuyên trong một công sở nhà nước. Ðại biểu quốc hội và HÐND làm theo nhiệm kỳ, còn công chức có thể thực thi công việc công vụ suốt đời. - Ðược xếp vào ngạch của "tính nghề nghiệp" công chức, bậc hưởng lương do nhà nước qui định - Ðược hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp. ¨ Vậy ai là công chức? Do tính chất đặc thù của các quốc gia khác nhau nên khái niệm công chức giữa các nước cũng không hoàn toàn đồng nhất. Có nước chỉ giới hạn công chức trong phạm vi quản lý nhà nước, thi hành pháp luật. Có nước quan niệm công chức bao gồm cả những người làm việc trong các cơ quan sự nghiệp thực hiện dịch vụ công. Song, nhìn chung các nước đều giới hạn công chức trong phạm vi bộ máy hành chính nhà nước; những nhà hoạt động chính trị do bầu cử hay hoạt động kinh doanh không phải là công chức. ởớ Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước, Ðảng, đoàn thể nên chúng ta không dùng khái niệm cán bộ-công chức để chỉ tất cả những
  7. nhân viên làm việc trong hệ thống chính trị mà trong đó có phân biệt các loại khác nhau. Công chức nhà nước là công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của nhà nước ở trung ương hoặc địa phương, ở trong nước hoặc ngoài nước đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp. Căn cứ vào những dấu hiệu nêu trên, những người sau đây gọi là công chức nhà nước: 1. Những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương, ở các tỉnh, huyện và cấp tương đương. Vậy, cán bộ cấp xã (cấp hành chính), ấp không phải là công chức. 2. Những người làm việc trong các đại sứ quán, lãnh sự quán của nước ta ở nước ngoài. 3. Những người làm việc trong các bệnh viện, trường học, cơ quan nghiên cứu khoa học, cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình của nhà nước và nhận lương từ ngân sách. 4. Những nhân viên dân sự làm việc trong các cơ quan Bộ Quốc phòng. 5. Những người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong bộ máy các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát các cấp.
  8. Ví dụ: Thẩm phán, kiểm sát viên, hoặc thư ký toà án đã vào ngạch công chức. 6. Những người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong bộ máy của văn phòng Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Ví dụ: Thư ký văn phòng quốc hội đã vào ngạch. b) Căn cứ vào đặc điểm pháp lý của công việc mà viên chức đảm nhiệm Theo tiêu chuẩn thì ta phân loại viên chức nhà nước thành nhân viên giúp việc và viên chức phụ trách. * Nhân viên giúp việc: Là những người phục vụ, thực hiện các hoạt động vật chất và kỹ thuật như: đánh máy, thông tin liên lạc, lưu trữ hồ sơ, lái xe...Ðặc điểm pháp lý của hoạt động giúp việc là không trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hay đình chỉ các quan hệ pháp luật cụ thể. Hoạt động của đội ngũ nhân viên giúp việc góp phần quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan. * Viên chức phụ trách: Là những người giữ chức vụ nhất định trong bộ máy nhà nước. Ðể thực hiện chức vụ, nhân viên phụ trách có quyền sử dụng quyền lực nhà nước theo quy định của
  9. pháp luật. Quyết định của viên chức phụ trách có thể trực tiếp làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ các quan hệ pháp luật cụ thể. c) Căn cứ vào sự phân công lao động và đặc tính lao động của viên chức Theo căn cứ này ta có ba loại viên chức là viên chức lãnh đạo, viên chức chuyên môn và viên chức thừa hành nghiệp vụ-kỹ thuật. * Viên chức lãnh đạo: Bao gồm những người giữ những công việc mà nội dung hoạt động là quyết định và tổ chức thi hành quyết định. Căn cứ vào đối tượng và phạm vi lãnh đạo thì viên chức lãnh đạo bao gồm hai nhóm: - Nhóm những chức vụ lãnh đạo các cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân. - Nhóm những chức vụ lãnh đạo các bộ phận cấu thành trong các cơ quan tổ chức. * Viên chức chuyên môn: Gồm những người làm nhiệm vụ chuẩn bị các phương án, quyết định, chuẩn bị thông tin, làm công tác c huyên môn giúp viên chức lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ. Dựa vào nội dung và tính chất công tác, viên chức chuyên môn chia làm năm nhóm: - Nhóm gồm các chức vụ chuyên môn làm công tác kinh tế -nghiệp vụ-kỹ thuật.
  10. - Nhóm gồm các chức vụ chuyên môn làm công tác nông -lâm -ngư nghiệp. - Nhóm gồm các chức vụ chuyên môn làm công tác y tế-giáo dục, nghiên cứu khoa học, văn học nghệ thuật. - Nhóm gồm các chức vụ chuyên môn làm công tác quan hệ quốc tế. - Nhóm gồm các chức vụ chuyên môn làm công tác pháp chế. * Viên chức thừa hành nghiệp vụ kỹ thuật: Gồm những người làm các công việc cụ thể giúp cán bộ lãnh đạo và viên chức chuyên môn chuẩn bị ra các quyết định và tổ chức thực hiện quyết định. Dựa vào các dạng hoạt động loại này được chia ra làm ba nhóm: - Nhóm gồm các viên chức làm công tác thanh toán kiểm tra. - Nhóm gồm các viên chức làm công tác chuẩn bị tư liệu, công tác hành chính. - Nhóm gồm các viên chức làm công tác phục vụ. II. NHỮNG VẤN ÐỀ CHUNG VỀ CÔNG VỤ NHÀ NƯỚC: 1. Khái niệm công vụ nhà nước Nhà nước là một tổ chức công quyền (thực hiện quyền lực công), việc phục vụ trong cơ quan và công sở Nhà nước là công vụ Nhà nước. Công vụ là hoạt động do
  11. các cán bộ, viên chức nhà nước tiến hành nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước. 1. Công vụ Nhà nước là một phần hay một mặt hoạt động có tính tổ chức Nhà nước, nhằm thực hiện chức năng nhà nước. + Hoạt động này được phân biệt với các hoạt động khác trong xã hội như sản xuất vật chất, sáng tạo giá trị tinh thần và hoạt động phục vụ trong các tổ chức chính trị xã hội bởi sự gắn bó chặt chẽ của công vụ Nhà nước với quyền lực Nhà nước. + Công vụ Nhà nước, nếu nhìn từ góc độ vị trí của nó trong tổ chức Nhà nước, được bắt đầu từ lúc xác lập các chức vụ Nhà nước. Hoạt động công vụ Nhà nước là một dạng lao động xã hội, nhằm quản lý các hoạt động công vụ liên quan đến nhiều mặt hoạt động xã hội, và nó đòi hỏi nhiều lĩnh vực khoa học và nghề nghiệp, nhưng nghề nghiệp cơ bản nhất của viên chức Nhà nước là thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và chức năng lập pháp, xét xử, kiểm sát của Nhà nước. 2. Hoạt động công vụ Nhà nước trước hết là hoạt động quyền lực, tác động đến ý chí của con người, dẫn đến những hành vi có ý thức hoặc đáp ứng những nhu cầu chung của mọi người trong xã hội. Hoạt động công vụ do các viên chức nhà nước mang quyền lực nhà nước đảm nhiệm nhằm thực hiện nhiệm vụ Nhà nước. Quyền lực Nhà nước được những người có chức vụ Nhà nước thực hiện, vì rằng mỗi chức vụ là một phần thẩm quyền của cơ quan đó.
  12. 3. Chức vụ là bộ phận cơ cấu cơ sở của công vụ cơ quan Nhà nước, bao gồm hàng loạt vấn đề: xác định các chức vụ, các quy tắc, và phương thức tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi chức, tuyên chuyển... 2. Các nguyên tắc của công vụ Nhà nước Các nguyên tắc của công vụ Nhà nước được xác định bởi nội dung hoạt động công vụ, nghĩa là được xác định bởi tính chất của Nhà nước. Nguyên tắc công vụ là những quan điểm, những tư tưởng, những quy định chung nhất nhằm thực hiện một cách có hiệu quả việc quản lý nhà nước. Do có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với khái niệm và nội dung của công vụ Nhà nước nên cũng có sự khác nhau về cách phân loại các nguyên tắc của công vụ Nhà nước. Từ quan niệm công vụ Nhà nước chỉ tập trung vào hoạt động của viên chức Nhà nước thì các nguyên tắc của công vụ Nhà nước gồm : 1. Viên chức nhà nước phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động Ðiều 8-Hiến pháp 1992 quy định: Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng. .
  13. + Như vậy, theo quy định của pháp luật viên chức nhà nước hoạt động nhân danh nhà nước và theo sự ủy nhiệm của nhà nước nói chung cũng như theo sự ủy nhiệm của cơ quan nhà nước nơi họ phục vụ nói riêng. Mọi hoạt động của viên chức nhà nước phải nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. + Ðể quán triệt được nguyên tắc này thì đội ngũ viên chức phải tự đổi mới, phải thay đổi nếp suy nghĩ và cách làm việc, phải tự đổi mới để thực hiện nhiệm vụ đổi mới. Mọi quá trình đổi mới đều bắt đầu từ đổi mới đội ngũ cán bộ, từ việc giáo dục đào tạo lại hoặc thay thế một phần đội ngũ cán bộ. Ðổi mới đội ngũ cán bộ là cơ sở cho những hướng khác của đổi mới đời sống nhà nước và xã hội. 2. Các viên chức Nhà nước phải báo cáo và chịu giám sát của nhân dân và cơ quan quyền lực Nhà nước. Thật vậy, viên chức nhà nước có thể bị nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bãi miễn nếu viên chức nhà nước không đáp ứng được yêu cầu mà nhà nước đã đề ra đối với họ. Một người trở thành viên chức nhà nước khi họ tham gia vào quan hệ lao động với nhà nước. Quan hệ lao động này được hình thành trên cơ sở quyết định tuyển dụng, quyết định bổ nhiệm hay quyết định công nhận kết quả bầu cử. Tuy nhi ên, dù quan hệ lao động được hình thành trên cơ sở quyết định nào thì người lao động cũng không có quyền giữ vĩnh viễn chức vụ đó. Hay nói khác hơn viên chức nhà nước có thể bị thay thế nếu họ tỏ ra không đủ năng lực thực hiện công việc đ ược
  14. giao, vi phạm kỷ luật nhà nước, kỷ luật lao động, có biểu hiện quan liêu cửa quyền, vi phạm pháp luật. Những yêu cầu mà nhà nước đặt ra đối với đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước là những yêu cầu về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực tổ chức. Người cán bộ phải là một nhà chuyên môn có khả năng nhìn xa trông rộng, phân tích tình hình, biết tiếp thu cái mới, biết gắn liền lý luận với thực tiễn, biết lựa chọn phương pháp tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ, phải biết tận tụy với công việc, phải trung thực. Ngoài năng lực tổ chức, người cán bộ phải nắm vững khoa học quản lý, phải có chí tiến thủ, phải có khả năng đạt được kết quả tốt trong công tác, có khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn, phát huy sáng kiến, khả năng bố trí và sử dụng cán bộ, có tính tổ chức, tự chủ cao, có tính quyết đoán và lòng nhân ái đối với con người. 3. Không có bất kỳ một hạn chế n ào về mặt đảm nhiệm chức vụ ngoài những hạn chế nhằm đảm bảo việc thực hiện tốt các chức vụ đó Mọi công dân đều bình đẳng trong việc đảm nhiệm chức vụ nhà nước. Ðây là biểu hiện cụ thể của quyền bình đẳng trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Mọi công dân đều có thể tham gia gánh vác công vụ nhà nước nếu đáp ứng yêu cầu của công vụ ấy không phân biệt dân tộc, tôn giáo, thành phần nhân thân, giới tính.
  15. Những hạn chế trong việc đảm nhiệm chức vụ nhà nước đều xuất phát từ lợi ích công vụ và đều được pháp luật quy định chặt chẽ. Nhà nước hạn chế không cho một số đối tượng trở thành viên chức nhà nước đó là: a) Người mất trí; b) Người bị toà án tước một số quyền; c) Người bị tòa án cấm không cho giữ một chức vụ hoặc đảm nhận, tiến hành một hoạt động nhất định; d) Người đang bị phạt tù; e) Ngoài ra, trong cùng một cơ quan nhà nước không được sắp xếp những người có quan hệ thân thích với nhau làm những công việc mà nhiệm vụ của người này là kiểm soát công việc của người kia, nhất là những công việc liên quan đến tài sản như kế toán, thủ quỹ, thủ kho... 4. Không có đặc quyền đặc lợi nào dành riêng cho viên chức nhà nước Viên chức nhà nước cũng làm việc và hưởng lương theo chức vụ và khả năng như mọi người khác chứ không có một đặc quyền đặc lợi nào dành riêng cho họ. Trong một số ngành do điều kiện làm việc đặc biệt nên có quy định về chế độ đãi ngộ đặc biệt cho loại viên chức nhà nước này hoặc viên chức nhà nước khác như: những người thường xuyên tiếp xúc với hóa chất độc hại, những người phải làm
  16. việc liên tục cả ngày nghỉ, ngày lễ...Những quy định này xuất phát từ tính chất, đặc điểm của công việc mà viên chức đảm nhận giống như tất cã những người khác. Ðiều này nhằm đảm bảo những điều kiện cần thiết để viên chức nhà nước hoàn thành nhiệm vụ chứ không phải là đặc quyền, đặc lợi dành riêng cho viên chức nhà nước. Từ cách tiếp cận công vụ trên bình diện rộng, không chỉ bao gồm viên chức mà cả cơ quan Nhà nước và thể chế hành chính công vụ, các nguyên tắc được phân loại như sau: 1. Công vụ Nhà nước thể hiện ý chí và đáp ứng lợi ích của nhân dân và của Nhà nước. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ công vụ là phương tiện thực hiện nhiệm vụ và chức năng Nhà nước, viên chức Nhà nước phải chịu sự kiểm tra của nhân dân và của cơ quan quyền lực Nhà nước, viên chức thực thi chức vụ nhằm mục đích phục vụ nhân dân, phục vụ Nh à nước. 2. Công vụ Nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện: + Các cơ Nhà nước ở Trung ương xác định danh mục cách chức vụ trong cơ quan và công sở Nhà nước, định ra các phương thức tuyển chọn và công sở Nhà nước, định ra các phương tuyển chọn, thăng chức, giáng chức và thuyên chuyển viên chức, qui định các ngạch bậc công chức và chế độ đãi ngộ chung.
  17. + Khi quyết định những vấn đề quan trọng đó, các cơ quan Trung ương cần phải tham khảo ý kiến của các cơ quan Nhà nước ở địa phương và các tổ chức xã hội. + Có phân cấp quản lý viên chức rõ ràng, xuất phát từ các nguyên tắc phân biệt chức năng của Ðảng và Nhà nước, phát huy tính tự chủ, tự quản địa phương xem trọng ý kiến và dư luận xã hội... 3. Công vụ Nhà nước được hình thành và phát triển theo kế hoạch Nhà nước. Trong phạm vi toàn xã hội phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng viên chức Nhà nước. Trong các tổ chức phải xác định được danh mục các chức vụ, các ngạch bậc của mỗi công vụ, số lượng biên chế cần thiết. Các kế hoạ ch như vậy cần có trong từng cơ quan, từng địa phương và từng ngành và cao hơn là kế hoạch chung của Nhà nước về công tác cán bộ - viên chức Nhà nước. 4. Tổ chức hoạt động công vụ Nhà nước trên cơ sở pháp luật và bảo đảm pháp chế XHCN. Vì vậy, yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với công vụ Nhà nước cấp bách là làm thế nào để viên chức Nhà nước thực hiện đúng thẩm quyền của mình, không lạm dụng quyền lực để đi đến tham nhũng, hối lộ và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. III. QUY CHẾ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH CỦA VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC 1. Sư phát triển của quy chế viên chức nhà nước ta
  18. Quy chế pháp lý hành chính của viên chức nhà nước là tổng thể những quy định pháp luật về trình tự và điều kiện bổ sung đội ngũ viên chức nhà nước, địa vị pháp lý của viên chức nhà nước, những điều kiện và trình tự thực hiện hoạt động công vụ, các hình thức khen thưởng và trách nhiệm của viên chức nhà nước. Khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, một trong những nhiệm vụ quan trọng được đặt ra là phải xây dựng nền hành chính của chế độ mới, đào tạo, xây dựng đội ngũ công nhân viên chức nhà nước, ban hành các quy định về quy chế pháp lý hành chính của viên chức nhà nước. Quá trình này trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Mỗi giai đoạn đánh dấu một bước phát triển mới với những đặc thù riêng của nó. Từ năm 1980 đến nay, nhà nước ta đã ban hành những quy định chung cho cả công nhân và viên chức nhà nước về tuyển dụng, cho thôi việc, bảo hiểm xã hội, tiền lương, kỷ luật lao động...Sự thống nhất về cơ bản giữa quy chế công nhân và quy chế công chức thể hiện rõ quan điểm của nhà nước ta cho rằng trong xã hội xã hội chủ nghĩa, viên chức nhà nước cũng là người lao động, không phải là một đẳng cấp tách biệt với công nhân, những quyền và nghĩa vụ cơ bản của viên chức nhà nước cũng được quy định như đối với công nhân và do luật lao động điều chỉnh. 2. Quyền hạn của viên chức nhà nước a. Những quyền hạn chung
  19. Là những quyền hạn mà mọi viên chức nhà nước đều được hưởng. Những quyền hạn này không gắn với chức vụ cụ thể mà gắn với hoạt động công vụ nói chung, đó là: - Viên chức nhà nước có quyền được học tập để nâng cao tr ình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như trình độ lý luận chính trị. - Viên chức nhà nước có quyền thi tuyển lên chức vụ cao hơn. - Viên chức nhà nước được hưởng các chế độ bảo trợ xã hội theo quy định của pháp luật. - Viên chức nhà nước được hưởng chế độ khen thưởng do quy định của pháp luật. b. Những quyền hạn cụ thể Ðây là những quyền hạn của viên chức nhà nước gắn liền với chức vụ nhà nước là phương tiện để viên chức nhà nước thực hiện nhiệm vụ của mình. Do vậy, viên chức nhà nước không được quyền sử dụng quyền hạn nhà nước trao cho để thực hiện các mối quan hệ ngoài các mối quan hệ được nhà nước cho phép. Ðồng thời, khi tham gia vào các mối quan hệ có liên quan tới công vụ được nhà nước giao phó viên chức nhà nước cũng không được thực hiện hành vi vượt quá thẩm quyền của mình. Viên chức nhà nước phải sử dụng đầy đủ thẩm quyền để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, việc từ chối thẩm quyền và lạm quyền là hành vi không hợp pháp.
  20. Với tư cách là một công dân, viên chức nhà nước được hưởng các quyền như mọi công dân khác như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tài sản, thư tín... Với tư cách là một viên chức nhà nước, viên chức có những quyền tùy thuộc vào công việc mà mình đảm nhiệm, tùy theo từng lĩnh vực của hoạt động quản lý nh à nước. 3. Nghĩa vụ của viên chức nhà nước - Nghĩa vụ trung thành đối với chính quyền nhân dân Viên chức nhà nước phải thực sự trung thành với sự ủy nhiệm của nhà nước, đem hết sức mình hoàn thành tốt nghĩa vụ được giao, hoặc trung thành với Ðảng, với Nhà nước, với nhân dân trong mọi hoàn cảnh, điều kiện. - Nghĩa vụ giữ gìn bí mật nhà nước và bí mật công tác Xuất phát từ tính chất của công việc, viên chức nhà nước có điều kiện tiếp xúc biết được những vấn đề thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Nói chung, đây là nghĩa vụ của mọi công dân nh ưng viên chức nhà nước có trách nhiệm đặc biệt hơn bởi vì họ được ủy nhiệm trực tiếp giữ gìn những bí mật ấy, nếu vi phạm họ phải chịu trách nhiệm pháp lý trước nhà nước. - Nghĩa vụ thi hành mọi mệnh lệnh hợp pháp của cấp trên
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2