VẤN ĐỀ HÔM NAY<br />
<br />
<br />
QUY HOẠCH VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN VÙNG<br />
VEN ĐÔ THỊ<br />
VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP<br />
Ths. KTS. Nguyễn Thị Hồng Vân*<br />
Tóm tắt: Về mặt địa lý vùng ven đô được hiểu là khu vực Abstract: Geographically, urban subsurb can be<br />
cận kề với đô thị, nằm ở vùng ngoại thành của thành phố understood as the area adjacent to the city, located in the<br />
lớn, tuy nhiên trên thực tế vùng ven đô đa số vùng ngoại suburb of a big city. However, in fact, most suburbs have<br />
thành, ngoại thị đều có nhiều đặc điểm đô thị và có liên hệ the features of a city and have close relation to the city core.<br />
mật thiết với lõi đô thị, do vậy cần được nhìn nhận là khu Therefore, it should be seen as an area in the process of<br />
vực đang trong quá trình đô thị hóa, một khu vực đô thị có urbanization, a city with low density. The article states the<br />
mật độ thấp. Bài báo nêu vai trò, đặc trưng, thực trạng của roles, characteristics, factual situation of the suburban area,<br />
vùng ven đô để từ đó đưa ra định hướng giải pháp phát triển thus, providing orientations for the development of rural<br />
khu vực nông thôn ven đô thị. areas adjacent to city.<br />
Từ khóa: Quản lý quy hoạch, vùng ven đô, đô thị. Key words: Planning management, suburb, urban.<br />
Nhận ngày 20/10/2018, chỉnh sửa ngày 25/10/2018, chấp nhận đăng ngày 31/10/2018.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Các thành phố lớn sẽ tiếp tục phát triển mở rộng không gian đô thị trung tâm ra các huyện ngoại thành, đem lại nhiều cơ hội<br />
cũng như thách thức cho khu vực nông thôn ven đô thị trung tâm<br />
<br />
Tỷ lệ đô thị hóa Việt Nam năm 2017 đạt 37,5%(1). thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng<br />
Theo dự báo tại Điều chỉnh định hướng quy hoạch sẽ là đối tượng chịu tác động nhiều nhất của quá trình<br />
tổng thể hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và đô thị hóa tại các thành phố này. Các thành phố lớn nói<br />
tầm nhìn đến 2050(2), tỷ lệ đô thị hoá toàn quốc sẽ đạt trên sẽ tiếp tục phát triển mở rộng không gian đô thị<br />
45% vào năm 2025 và tiếp tục đạt ngưỡng 50% - 55% trung tâm ra các huyện ngoại thành, đem lại nhiều cơ<br />
vào năm 2035. Trong giai đoạn từ nay đến 2035, quá hội cũng như thách thức cho khu vực nông thôn ven<br />
trình đô thị hóa sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ tại các đô thị trung tâm. Việc tìm kiếm giải pháp quy hoạch và<br />
vùng đô thị lớn. Trong bối cảnh đó, khu vực nông thôn quản lý phát triển thích hợp cho vùng ven đô sẽ góp<br />
ven đô thị trung tâm tại các thành phố lớn như Hà Nội, phần thúc đẩy phát triển đô thị bền vững.<br />
<br />
*Viện Quy hoạch đô thị nông thôn Quốc gia<br />
<br />
52 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ<br />
VẤN ĐỀ HÔM NAY<br />
<br />
VAI TRÒ, ĐẶC TRƯNG CỦA VÙNG VEN ĐÔ THÀNH<br />
PHỐ LỚN<br />
Theo các quy định hiện hành về quản lý hành chính,<br />
trong ranh giới một thành phố, thị xã, chỉ có vùng nội<br />
thành, nội thị (các quận, phường), được coi là khu vực<br />
đô thị. Vùng ngoại thành, ngoại thị (các xã) được coi là<br />
khu vực nông thôn. Trên thực tế, đa số vùng ngoại thành,<br />
ngoại thị đều có nhiều đặc điểm đô thị và có liên hệ mật<br />
thiết với lõi đô thị, khiến cho khu vực này không thể được<br />
coi là nông thôn, mà phải được nhìn nhận là khu vực<br />
đang trong quá trình đô thị hóa, một khu vực đô thị có ven đô còn là vùng không gian tự nhiên đảm nhận chức<br />
mật độ thấp. năng tiêu thoát nước và đảm bảo cân bằng sinh thái cho<br />
Về bản chất, đô thị là khu vực sinh sống của lực lượng đô thị và đặc biệt ven đô là nơi các dự án phát triển khu<br />
lao động phi nông nghiệp (thị dân), trong khi nông thôn đô thị, công nghiệp, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí phục vụ<br />
là khu vực sinh sống của nông dân. Quy hoạch và quản lý đô thị được đầu tư mạnh mẽ, làm thay đổi cấu trúc nông<br />
đô thị hướng tới tạo ra và quản lý những hệ sinh thái sao thôn của ven đô và là cơ sở hình thành những không gian<br />
cho thị dân có thể phát triển tốt nhất, bền vững nhất, còn đô thị thực sự trong tương lai.<br />
quy hoạch và quản lý nông thôn lại hướng tới làm sao THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN TẠI KHU VỰC VEN ĐÔ<br />
tạo ra hệ sinh thái tốt nhất cho nông dân. Hai hệ sinh thái THÀNH PHỐ LỚN<br />
này có logic phát triển trái ngược nhau. Đô thị càng sầm Mật độ dân số cao<br />
uất, càng đông dân, mật độ càng cao thì hiệu quả tích Đặc điểm nổi bật của khu vực ven đô thị trung tâm của<br />
hợp càng tốt, càng nảy sinh nhiều cơ hội phát triển kinh các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh<br />
tế. Trong khi đó, nông thôn muốn bền vững buộc phải là mật độ dân số cao. Mật độ dân số nhiều khu vực có thể<br />
giảm mật độ, gom đất vào sản xuất lớn. Đa số cải tiến, đạt 10.000 người/km2, tương đương tiêu chuẩn mật độ<br />
nâng cấp trong lĩnh vực nông nghiệp đều cần tự động của khu vực nội thị. Nếu tính mật độ theo tiêu chuẩn đô<br />
hoá, cơ giới hoá, để có thể tăng được năng suất. Ở những thị loại 5 của Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 của Ủy<br />
nước phát triển, toàn bộ ngành nông nghiệp sẽ không ban Thường vụ Quốc hội về Phân loại đô thị, thì gần như<br />
thể tạo thu nhập ổn định và cân bằng cho quá 5-10% dân toàn bộ vùng ngoại thành của Hà Nội và thành phố Hồ<br />
số. Đô thị với đặc điểm tập trung dân cư mật độ cao trong Chí Minh đạt tiêu chuẩn đô thị và vùng có mật độ đô thị<br />
một phạm vi diện tích với sự đa dạng về ngành nghề, này có thể mở rộng ra nhiều tỉnh thuộc vùng Đồng bằng<br />
thành phần, làm nảy sinh nhiều vấn đề. Trong khi đó Bắc bộ và vùng Đông Nam bộ. Mật độ dân số cao như vậy<br />
khu vực nông thôn với dân số ngày càng giảm, chỉ có ít dẫn đến đất đai cho phát triển nông nghiệp là không thể<br />
thành phần, ngành nghề đơn giản, trong một không gian đủ, cộng với khoảng cách địa lý gần đô thị lõi khiến lao<br />
rộng lớn, cũng có nhiều vấn đề khác phải giải quyết. Quy động nông nghiệp từ bỏ đồng ruộng, rời làng xóm đi vào<br />
hoạch và quản lý đô thị và nông thôn do đó có những yêu các khu vực đô thị để tham gia thị trường lao động có thu<br />
cầu hoàn toàn khác nhau, dẫn tới những nội dung, giải nhập tốt hơn. Công nghệ thông tin liên lạc và giao thông<br />
pháp khác nhau. phát triển rất nhanh, khiến các khoảng cách về địa lý<br />
Về mặt địa lý vùng ven đô được hiểu là khu vực cận kề cũng như kinh tế, văn hoá giữa nông thôn - đô thị không<br />
với đô thị, nằm ở vùng ngoại thành của thành phố lớn. Về còn rõ ràng, mà giao thoa trên những vùng rộng lớn.<br />
tổng thể, vùng ven đô là nơi vừa có các hoạt động nông Mật độ dân số cao là một trong những tiền đề của đô<br />
thôn vừa có các hoạt động đô thị và chịu tác động mạnh thị hoá nhưng cũng đặt ra những thách thức về quản lý<br />
của đô thị hoá. Nó là sự pha trộn của các hệ thống sinh<br />
thái nông nghiệp và đô thị. Bởi vậy, vùng ven đô không<br />
tồn tại độc lập mà nằm trong một miền liên thông tạo<br />
thành một hệ thống nông thôn - ven đô - đô thị.<br />
Khu vực ven đô là bộ phận hữu cơ của các thành phố<br />
lớn, là đầu mối gắn kết hoạt động sản xuất, thương mại<br />
năng động giữa hai thị trường đô thị - nông thôn; ven đô<br />
cung cấp nguyên liệu, lao động cho đô thị; là nơi bố trí<br />
các công trình đầu mối hạ tầng kỹ thuật của đô thị cũng<br />
như các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội vùng. Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, có mật độ dân số đông<br />
<br />
<br />
Số 62-63.2019 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ 53<br />
VẤN ĐỀ HÔM NAY<br />
<br />
phát triển. Với một quy mô dân số cao, mật độ tập trung, Bất động sản là một ngành kinh doanh quan trọng,<br />
cộng các hoạt động sản xuất sôi động, việc quản lý khu của các nhà đầu tư lớn, nhỏ và các đơn vị Nhà nước. Đây<br />
vực ven đô không thể áp dụng như đối với làng xã nông là một lãnh vực kinh doanh rất tốt cho cả người xây dựng<br />
thôn đơn thuần, nơi hoạt động sống của con người diễn lẫn người mua bán. Lĩnh vực này thành công ở cả phân<br />
ra chậm, trên quy mô đất đai rộng lớn, và môi trường có khúc thị trường nhà ở cao cấp với các khu đô thị mới hiện<br />
khả năng tự cân bằng. đại và cả phân khúc nhà ở bình dân rất lớn (xây nhà ở<br />
Các hoạt động đầu tư đa dạng nhưng thiếu tính ngoại thành dành cho người dân từ các tỉnh lân cận di cư<br />
tổng thể về thành phố).<br />
Do sức hút và nhu cầu phát triển mạnh mẽ từ đô thị, Đầu tư phát triển công nghiệp cả chính thức và phi<br />
do những lợi thế của khu vực ven đô về nguồn cung đất chính thức gồm các nhà máy công nghiệp của nhà nước,<br />
đai với giá thấp và các điều kiện quản lý phát triển còn đầu tư nước ngoài và các cơ sở sản xuất tư nhân phát<br />
lỏng lẻo ở ngoại thành, các loại hình công trình được đầu triển mạnh là môi trường để chuyển đổi lao động từ nông<br />
tư xây dựng phát triển nhanh chóng và phần nào thiếu nghiệp sang phi nông nghiệp, tạo giá trị gia tăng cao hơn.<br />
kiểm soát, thiếu tính tổng thể. Các mô hình đầu tư được Các hoạt động nghỉ dưỡng đáp ứng nhu cầu nghỉ<br />
áp dụng tại khu vực ven đô có thể bao gồm nhiều công ngơi vui chơi rất lớn của người dân đô thị cũng là một<br />
trình công nghiệp và dịch vụ mang tính tạo thị, các công hoạt động đem lại thu nhập cao, tăng giá trị khai thác của<br />
trình phục vụ nông nghiệp với cả quy mô lớn, nhỏ đan đất đai ven đô<br />
xen như: Ngành nghề sản xuất tiểu thủ công nghiệp, làng nghề<br />
- Các khu công nghiệp được xây dựng mới chiếm đều là hoạt động cung cấp dịch vụ cho đô thị. Ngay cả<br />
nhiều diện tích đất nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu phát hoạt động sản xuất nông nghiệp phần nhiều cũng không<br />
triển và yêu cầu dịch chuyển xí nghiệp, nhà máy không còn mang tính nông nghiệp đơn thuần, rất nhiều hoạt<br />
còn phù hợp tồn tại trong khu vực nội đô. động nông nghiệp ven đô thực chất là nông nghiệp<br />
- Các khu đô thị, công trình công cộng mới được xây mang tính dịch vụ, là đầu mối hoàn thiện và cung cấp sản<br />
dựng hiện đại chiếm nhiều diện tích đất nông nghiệp, do phẩm nông nghiệp cho đô thị, cho vùng hoặc có thể cho<br />
nhu cầu phát triển mới và yêu cầu dịch chuyển từ nội đô thị trường Quốc gia, quốc tế (như chợ hoa ở Văn Giang,<br />
ra khu vực ven đô. làng gốm Bát Tràng…)<br />
- Các khu du lịch sinh thái, dịch vụ vui chơi giải trí được Dưới tác động của đô thị, các hoạt động kinh tế của<br />
phát triển phục vụ chung cho người dân đô thị, đặc biệt khu vực ven đô dần chuyển đổi từ nông nghiệp sang phi<br />
là người dân khu vực nội đô, nơi còn thiếu nhiều dịch vụ nông nghiệp, đem lại giá trị gia tăng cao, giảm dần sự<br />
nghỉ ngơi, vui chơi giải trí. phụ thuộc vào không gian đất đai nông nghiệp, tạo nên<br />
- Các khu, công trình tiểu thủ công nghiệp được phát sự tăng trưởng kinh tế chung đặt cơ sở cho tiến trình đô<br />
triển đáp ứng nhu cầu hàng hóa dân sinh cho người dân thị hoá nông thôn.<br />
đô thị, đặc biệt cho khu vực nội đô.<br />
- Các công trình đầu mối hạ tầng kỹ thuật (giao<br />
thông, cấp, thoát nước, cấp điện,...) phục vụ chung cho<br />
khu vực đô thị, đặc biệt có sự liên kết chặt chẽ với khu<br />
vực nội đô.<br />
- Các khu nhà ở, công trình công cộng phát triển xen<br />
kẽ trong các làng xóm, khu ở hiện có.<br />
- Phát triển đất đai xây dựng dân cư khá tuỳ tiện dưới<br />
ảnh hưởng của các cơn sốt của thị trường bất động sản,<br />
đất đai đô thị.<br />
- Các trang trại phát triển theo hướng nông nghiệp<br />
đô thị, công nghệ cao được hình thành đáp ứng nhu cầu Sự phát triển của các khu đô thị, hạ tầng và khu công nghiệp tạo ra<br />
hàng hóa dân sinh cho người dân đô thị, đặc biệt cho khu một động lực mạnh trong phát triển các vùng nông thôn<br />
vực nội đô. ở xung quanh các đô thị lớn<br />
Hoạt động sản xuất phi nông nghiệp chiếm ưu thế, Ảnh hưởng của đầu tư xây dựng đến dân cư vùng ven<br />
nhiều cơ hội phát triển kinh tế Quá trình đô thị hóa ven đô diễn ra theo 2 phương thức:<br />
Sự phát triển của các khu đô thị, hạ tầng và khu công (1) Sự chuyển đổi sang sản xuất hàng hóa công nghiệp,<br />
nghiệp tạo ra một động lực mạnh trong phát triển các dịch vụ của dân cư tại chỗ và (2) Sự đầu tư các cơ sở công<br />
vùng nông thôn ở xung quanh các đô thị lớn. nghiệp, dịch vụ, đô thị quy mô lớn của các chủ đầu tư.<br />
<br />
54 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ<br />
VẤN ĐỀ HÔM NAY<br />
<br />
Với phương thức (1): Sự chuyển đổi diễn ra từ từ và Sự phát triển xây dựng điểm dân cư nặng về tính hiệu<br />
bản thân người nông dân được hưởng lợi từ quá trình ích kinh tế trong sử dụng đất đai và coi nhẹ việc tạo môi<br />
đô thị hóa này. Với phương thức (2): Sự biến đổi nhanh trường sống tốt.<br />
chóng, gây ảnh hưởng nhiều đến người dân sở tại: Người Các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cho phát triển loại hình<br />
dân mất đất sản xuất, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp điểm dân cư này chưa được định hình. Rõ ràng không thể<br />
là khó khăn, đặc biệt với người lớn tuổi; việc đền bù nhiều áp dụng các chỉ tiêu cho phát triển điểm dân cư nông<br />
khi không thỏa đáng, không tính đầy đủ các chi phí thiệt thôn chung vào vùng ven đô.<br />
hại, gây thiệt thòi cho người nông dân dẫn đến phản ứng Nguy cơ ô nhiễm môi trường<br />
của người dân. Vấn đề này cần được nghiên cứu, đánh Các hoạt động sản xuất tập trung không được quy<br />
giá và thể chế hóa đầy đủ để tạo cho quá trình đô thị hóa hoạch và giám sát đầy đủ là nguy cơ đối với môi trường<br />
thuận lợi cũng như đảm bảo quyền lợi của người dân. ven đô. Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ<br />
Nhiều vấn đề hạ tầng bị quá tải trước sự phát triển công nghiệp, đặc biệt các làng nghề... đều là những hoạt<br />
nhanh chóng, thiếu kiểm soát động có thể gây ô nhiễm.<br />
Mặc dù ven đô là khu vực được đầu tư nhiều công Khu dân cư nông thôn ven đô với mật độ cao, phương<br />
trình hạ tầng thành phố và vùng, giúp cho việc liên kết thức sinh hoạt gần giống đô thị với thói quen xả thải cao<br />
giữa ven đô và đô thị trung tâm cũng nhưng liên kết vùng trong khi mô hình quản lý, các dịch vụ hạ tầng đô thị<br />
thuận lợi. Tuy nhiên, hạ tầng tại các khu vực hiện hữu lại không hoàn thiện được như đô thị gây nên vấn đề lớn về<br />
ít được quan tâm, cải thiện. Chưa thấy rõ mối quan hệ rác thải, nước thải, ô nhiễm môi trường.<br />
tác động qua lại giữa các điểm dân cư với các dự án xây Cảnh quan<br />
dựng đô thị mới, khu công nghiệp... ở vùng ven. Các dự Đặc thù cảnh quan nông thôn là đường ngõ nhỏ, nhà<br />
án mới được tôn nền lên mức cao, không được nghiên ở thấp tầng có sân vườn rộng và nhiều cây xanh, không<br />
cứu nghiêm túc về cao độ nền và thoát nước có thể gây có cây xanh công cộng. Do việc tăng mật độ, đất đai nhà<br />
nguy cơ ngập úng cho các vùng dân cư hiện hữu. ở bị chia nhỏ, không gian cây vườn mất dần, nhà xây cao<br />
Việc tăng mật độ và phát triển công trình xây dựng chèn ép lên đường ngõ nhỏ khiến không gian nông thôn<br />
trong các điểm dân cư một cách tự phát và nhanh trở nên chật chội, ngột ngạt, không đảm bảo chất lượng<br />
chóng, gây sự mất cân bằng về môi trường sinh thái khu môi trường sống.<br />
dân cư. Công trình kiến trúc được phát triển theo kiểu Công trình công cộng của làng xóm nông thôn<br />
xây dựng đô thị trên cơ sở hạ tầng kỹ thuật của làng xóm thường nhỏ và thiếu. Khi quy mô dân số tăng lên, không<br />
nông thôn, gây ra quá tải cho mạng lưới cơ sở hạ tầng gian công cộng trước đây không còn đủ cho cộng đồng<br />
kỹ thuật hiện có như giao thông, hệ thống thoát nước. dân cư mới.<br />
Lồng ghép giữa mô hình nông nghiệp hiện đại có giá trị sản xuất cao với công viên, mặt nước và các khu vực xây dựng mật độ thấp<br />
có tính khả thi cao chính là sự phát triển bền vững của khu vực ven đô<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Số 62-63.2019 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ 55<br />
VẤN ĐỀ HÔM NAY<br />
<br />
Biến đổi cơ cấu dân số - lao động – nghề nghiệp theo các mô hình như khu du lịch, dự án trang trại, dự án<br />
– di cư nông nghiệp công nghệ cao, dự án khu công nghiệp và<br />
Đô thị hóa làm đa dạng cơ cấu xã hội: Dân cư vùng ven cả rất nhiều các dự án khu nghỉ dưỡng, khu đô thị. Trong<br />
đô luôn đa dạng hơn so với dân cư đô thị hoặc nông thôn, cái vỏ là khu vực nông thôn, với bộ máy, công cụ quản lý<br />
bao gồm nông dân (có tỷ trọng ngày càng giảm), công nông thôn, với hệ thống hạ tầng kỹ thuật và xã hội nông<br />
nhân, viêc chức, thợ thủ công, dịch vụ, buôn bán nhỏ... thôn, nhưng nhiều khu vực có trình độ phát triển kinh<br />
Nghề nghiệp, việc làm, sinh kế thường xuyên biến tế rất mạnh mẽ mà năng lực quản lý và hạ tầng không<br />
động do sức hút và đẩy của công nghiệp hóa và đô thị đáp ứng được nhu cầu phát triển đã gây nên những ảnh<br />
hóa vùng nội đô gần kề hưởng xấu tới môi trường, tới đời sống văn hóa xã hội.<br />
Định cư của dân cư mới và cũ phức tạp: Dân sống tại Các khu vực nông thôn này không những không đón bắt<br />
chỗ hàng ngày vào nội thành làm ăn; dân nông thôn di cư được cơ hội phát triển mà còn cản trở quá trình đô thị hoá<br />
vào đô thị tạm dừng chân ở ven đô do giá nhà/ đất rẻ hơn của thành phố và vùng đô thị.<br />
nội thành; dân nội thành chuyển ra ven đô để cải thiện Đồ án quy hoạch nông thôn mới là công cụ quản lý để<br />
điều kiện sống; công nhân, lao động trẻ ở các nơi về làm đầu tư phát triển nông thôn theo các tiêu chí về sản xuất<br />
việc tại khu công nghiệp, sinh viên các trường thuê nhà nông nghiệp, hạ tầng nông thôn và phát triển điểm dân cư<br />
trọ ở ven đô... nông thôn. Quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới theo 19<br />
Hiện tượng biến động và luôn di chuyển dẫn đến cơ tiêu chí áp dụng toàn quốc đã không phù hợp, nhất là với<br />
cấu dân cư khu vực ven đô không thuần nhất, chưa đạt các khu vực chịu tác động mạnh bởi quá trình đô thị hoá tại<br />
được các yếu tố văn minh đô thị nhưng cũng không đủ các huyện ngoại thành thành phố trực thuộc Trung ương,<br />
tính gắn kết của cộng đồng dân cư nông thôn thuần. gây lãng phí đầu tư, không phù hợp với nhu cầu mở rộng<br />
Quy hoạch và quản lý khu vực ven đô và phát triển đô thị. Tiêu chí nông thôn mới và quy hoạch<br />
Ở cấp quản lý vĩ mô, Chính phủ đã lập và phê duyệt nông thôn mới khu vực ven đô rõ ràng cần điều chỉnh để<br />
các đồ án quy hoạch xây dựng vùng gồm các thành phố có thể trở thành công cụ quản lý quy hoạch mang tính địa<br />
trực thuộc Trung ương với các tỉnh liền kề giai đoạn đến phương hữu ích cho khu vực đặc thù này.<br />
năm 2030 hoặc năm 2035. Theo đó, định hướng vai trò, ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KHU VỰC<br />
tính chất và chức năng hệ thống đô thị trong vùng, định NÔNG THÔN VEN ĐÔ THỊ<br />
hướng mối liên kết đô thị và nông thôn, định hướng kết Đặc điểm của các vùng ven đô là trước kia vốn là nông<br />
nối hạ tầng và các trung tâm kinh tế động lực… nhằm thôn thuần tuý, nhưng nay có chịu ảnh hưởng của đô<br />
thúc đẩy phát triển kinh tế và đô thị hóa toàn vùng, đồng thị. Đối với vùng này, có thể hình dung cả khả năng định<br />
thời tránh tập trung dân cư vào đô thị trung tâm các hướng nông thôn mới và đô thị hoá. Nếu là định hướng<br />
thành phố lớn gây quá tải và mất cân bằng trong vùng. quy hoạch nông thôn, sẽ phải tính tới giãn bớt dân, và<br />
Đồ án quy hoạch chung thành phố trực thuộc Trung cung cấp những hoạt động khép kín cho nhóm nhỏ còn<br />
ương giai đoạn đến năm 2030 hoặc năm 2035 cũng đã ở lại, nhằm nâng cao đời sống, cho họ yên tâm làm nông<br />
được phê duyệt và hoạch định các chiến lược phát triển nghiệp lâu dài. Ngược lại, nếu là định hướng đô thị thì sẽ<br />
tổng thể đô thị, hình thành mạng lưới đô thị trung tâm, phải tìm cách kết nối họ với lõi trung tâm đô thị càng chặt<br />
đô thị vệ tinh, vành đai giao thông và hành lang xanh giới chẽ càng tốt, để họ trở thành những cấu phần không thể<br />
hạn không gian phát triển đô thị; phát triển khu vực đô tách rời của cả một đại đô thị. Nên theo định hướng nào<br />
thị và nông thôn, các khu vực bảo tồn và phát triển. Hệ cần dựa vào xu hướng của thị trường. Các chính sách quy<br />
thống quy hoạch này cũng đã xác định nhiều vùng nông hoạch, quản lý chỉ có thể hỗ trợ xu hướng đó, chứ không<br />
thôn khu vực ngoại thành trong tương lai (10-20 năm) sẽ thể làm ngược lại.<br />
chuyển đổi thành đô thị. Sau khi các quy hoạch chung Nếu một khu vực dân cư bị mất dân, mất lao động<br />
được duyệt, chính quyền đô thị đã tiến hành lập các đồ đáng kể. Những người còn lại ngày một ít, nhưng cũng<br />
án quy hoạch phân khu để kêu gọi đầu tư trên địa bàn các không làm được gì ngoài nông nghiệp, thì cần định<br />
huyện ngoại thành. hướng nâng cấp nông thôn mới cho họ, khiến cho môi<br />
Đối với huyện ngoại thành, quản lý thực hiện quy trường nông thôn trở nên ngày một đáng sống hơn.<br />
hoạch phân khu đô thị thuộc chính quyền thành phố, Ngược lại, khi xảy ra quá trình đô thị hoá ở các vùng ven,<br />
còn thực hiện quy hoạch xã, huyện nông thôn mới thuộc sẽ có tình trạng li nông bất li hương. Đa số những thành<br />
về cấp huyện. Thực tế, nhiều dự án đầu tư ở huyện ngoại phần trước đây là nông dân nay chuyển thành thị dân, và<br />
thành đã không phù hợp với cả quy hoạch phân khu đô khi đó môi trường sống của họ chuyển từ nông thôn sang<br />
thị và quy hoạch xã nông thôn mới. Trong khi đó, vùng thành thị, với những đặc thù là tỷ lệ phi nông nghiệp cao,<br />
ven đô là nơi có các dự án đầu tư tập trung rất sôi động, thu nhập tăng, mật độ xây dựng tăng, mật độ dân cư<br />
<br />
<br />
56 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ<br />
VẤN ĐỀ HÔM NAY<br />
<br />
tăng. Môi trường này không còn tối ưu cho hoạt động không gian trống của khu vực này như những cấu phần<br />
nông nghiệp, do quá đông người và đa số không quan không thể tách rời của cả một hệ thống đô thị lớn, thì cấp<br />
tâm tới nông nghiệp, không sống bằng nông nghiệp nữa. quản lý địa phương sẽ không có cơ sở gì để làm được điều<br />
Vì thế, không thể dùng định hướng nông thôn mới với đó. Các khu vực ven đô này do đó phải được quy hoạch<br />
họ. Tuy nhiên, môi trường này cũng chưa thực sự có chất và quản lý như những phân khu đô thị chứ không phải là<br />
lượng sống đô thị thật tối ưu, do mật độ, dân số còn quá quy hoạch huyện và nông thôn mới. Sự khác biệt cơ bản<br />
thấp và thiếu nhiều loại thiết chế, dịch vụ để trở thành quy hoạch chung một huyện hay quy hoạch nông thôn<br />
một đô thị sầm uất. Khi đó, chiến lược để có thể nâng cấp mới của một xã về cơ bản coi những đơn vị này là những<br />
các đô thị tự phát này là tìm cách sáp nhập chúng vào cấu tế bào nông thôn tương đối độc lập, trong khi bản thân<br />
trúc và đời sống của cả đô thị lớn càng chặt chẽ càng tốt. cái tên quy hoạch phân khu cho thấy vấn đề chính là phải<br />
Khi đó, ngoài những khu định cư thì tất cả những diện giải trình mối liên hệ của phân khu đó với các phân khu<br />
tích nông nghiệp của họ cũng phải được sáp nhập vào khác của tổng thể đô thị.<br />
chức năng của đại đô thị. Bởi vì xét về kinh tế, một đại đô Tốc độ đô thị hóa của Việt Nam được dự báo là sẽ<br />
thị sẽ không quan tâm đến sản lượng của những mảnh tiếp tục tăng nhanh trong 2 thập kỷ tới. Nhiều thay đổi<br />
ruộng ven đô này. Tuy nhiên, một đại đô thị sẽ cần rất đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ tại các khu vực<br />
nhiều chức năng để cho hệ sinh thái của mình được tốt nông thôn ven đô thị lõi tại các thành phố lớn như Hà<br />
hơn, và bền vững hơn. Những không gian trống này là rất Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng, Hải<br />
cần thiết. Chúng có thể được dùng vào nhiều chức năng Phòng. Khu vực khu vực nông thôn ven đô có vai trò<br />
khác nhau, trong đó có nông nghiệp. Nhưng nếu là nông quan trọng, là yếu tố chịu ảnh hưởng nhiều nhất và<br />
nghiệp thì khi đó sẽ không phải là nông nghiệp theo kiểu cũng nảy sinh nhiều tác động (cả tích cực và tiêu cực)<br />
nông thôn, mà là nông nghiệp đô thị, như một chức năng đến quá trình phát triển của toàn bộ thành phố. Việc tìm<br />
đô thị. Một số đặc điểm của nông nghiệp đô thị là: Đẹp, kiếm các giải pháp quy hoạch, quản lý phát triển phù<br />
sạch, chất lượng cao, có tương tác với hoạt động sống đô hợp là cần thiết để ứng phó có hiệu quả với thách thức<br />
thị, có tác dụng gia tăng đối với giá trị bất động sản đô và tận dụng tốt các cơ hội nhằm từng bước nâng cao<br />
thị, có tác dụng đối với hạ tầng đô thị. chất lượng cuộc sống của khu vực nông thôn ven đô,<br />
Về mặt thể chế, việc quy hoạch và quản lý nông thôn góp phần phát triển đô thị bền vững.<br />
mới được phân cấp về địa phương, cấp huyện, xã, với lý Tài liệu tham khảo<br />
do là những cấp này sẽ hiểu rõ nhất về những vấn đề 1. Số liệu của Cục phát triển đô thị, Bộ Xây dựng<br />
nông thôn của riêng mình. Thế nhưng, nếu bài toán đặt 2. Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 07/4/2009 của Thủ<br />
ra là phải nhìn nhận cả những không gian xây dựng lẫn tướng Chính phủ<br />
Giải pháp quy hoạch, quản lý phát triển phù hợp là cần thiết để từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của khu vực nông thôn ven đô,<br />
góp phần phát triển đô thị bền vững<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Số 62-63.2019 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ 57<br />