intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sản xuất hàng hóa và sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa

Chia sẻ: Pham Quang Hai | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:11

206
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai hiểu tổ chức kinh tế: sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa. Đặc trưng cơ bản của sản xuất tự cấp tự túc là sản xuất sản phẩm ra để tự tiêu dùng, còn sản xuất hàng hóa là sản xuất sản phẩm ra để bán, trao đổi trên thị trường. Ở đây, quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa với nhau được biểu hiện thông qua thị trường- mua và bán sản phẩm hàng hóa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sản xuất hàng hóa và sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa

  1. SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA                    PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA I. SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA. 1­ Sản xuất hàng hoá và ưu thế của nó trong phát triển lực lượng sản xuất Lịch sử  phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai hiểu tổ  chức   kinh tế: sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa. Đặc trưng cơ bản của sản xuất tự  cấp tự túc là sản xuất sản phẩm ra để tự tiêu dùng, còn sản xuất hàng hóa là sản xuất   sản phẩm ra để  bán, trao đổi trên thị  trường.  Ở  đây, quan hệ  giữa những người sản   xuất hàng hóa với nhau được biểu hiện thông qua thị  trường­ mua và bán sản phẩm  hàng hóa. Sản xuất hàng hóa ra đời là một bước tiến quan trọng của sự phát triển nền sản   xuất xã hội. Do đó, không phải khi xuất hiện xã hội loài người đã có sản xuất hàng hóa   mà sản xuất hàng hóa chỉ  ra đời và tồn tại trên những điều kiện kinh tế­ xã hội nhất   định. Đó là: a. Phân công lao động xã hội: Phân công lao động là sự phân chia lao động xã hội   thành những ngành nghề khác nhau, tạo ra sự chuyên môn hóa lao động sản xuất. Tham   gia vào quá trình phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất ra một, hoặc một   vài sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu cuộc sống của họ lại rất đa dạng, phong phú,   cần đến nhiều loại sản phẩm khác nhau. Vì vậy, để  thỏa mãn nhu cầu toàn diện của   cuộc sống đòi hỏi họ  phải có mối liên hệ  phụ  thuộc vào nhau, trao đổi sản phẩm với   nhau. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và cách mạng khoa học công nghệ,  phân công lao động càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn,   đa dạng hơn. Chính vì vậy, phân công lao động xã hội là cơ  sở, tiền đề  của sản xuất   hàng hóa. ­ Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất. Trong lịch sử  phát triển của nền sản xuất xã hội, sự  tách biệt tương đối về  mặt   kinh tế  giữa những người sản xuất hình thành từ  khi xuất hiện chế  độ  tư  hữu về  tư  liệu sản xuất. Chế  độ  tư  hữu về  tư  liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất   độc lập với nhau, tư  liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu cá nhân của người lao động,  sản phẩm làm ra thuộc quyền chi phối của họ. Do đó, người này muốn tiêu dùng sản   phẩm lao động của người khác, nhất thiết phải thông qua trao đổi mua bán hàng hóa.  Tuy nhiên, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất không chỉ  do chế  độ  tư  hữu về  tư  liệu sản xuất quy định, mà trong nền sản xuất lớn nó còn do  các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và  sử dụng tư liệu sản xuất quy định. Như  vậy, sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại phải có đầy đủ  hai điều kiện trên,  thiếu một trong hai điều kiện đó thì không có sản xuất hàng hóa. b. Vai trò của sản xuất hàng hóa trong phát triển lực lượng sản xuất của nhân   loại. Sản xuất hàng hóa ra đời là một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của nền   sản xuất xã hội, đánh dấu một bước ngoặt của lịch sử  xã hội loài người, đưa loài 
  2. người thoát khỏi tình trạng “mông muội” tiến lên xã hội văn minh. Vai trò của sản xuất   hàng hoá được thể hiện ở các mặt sau: ­ Thứ nhất: sản xuất hàng hóa ra đời đã phá vỡ tính tự cấp, tự túc, bảo thủ, trì trệ,  lạc hậu của mỗi ngành, địa phương, vùng lãnh thổ, giải phóng lực lượng sản xuất, mở  rộng mối liên hệ  kinh tế. Do đó, nó có tác động thúc đẩy sự  phát triển của phân công  lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao động ngày càng cao, khai thác triệt để lợi  thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất, từng ngành và từng   địa phương, vùng lãnh thổ. Trên cơ  sở  đó, năng xuất lao động xã hội tăng lên nhanh   chóng, đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu của xã hội. Khi sản xuất hàng hóa phát   triển, quan hệ  trao đổi hàng hóa vượt ra khỏi phạm vi quốc gia, nó còn thúc đẩy phân  công lao động quốc tế, khai thác tốt hơn lợi thế so sánh để  phát triển sản xuất  ở  mỗi   nước cũng như từng khu vực và trên toàn thế giới. ­ Thứ hai: Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị  trường, của xã hội nên nó không bị giới hạn bởi quy mô sản xuất, nhu cầu, nguồn lực   mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ  sở  sản xuất mỗi địa phương,   vùng lãnh thổ. Do đó, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng nhanh nhất những   thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh  chóng. ­ Thứ  ba: Sản xuất hàng hóa chịu sự  chi phối của những quy luật kinh tế  khách   quan như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh, thua lỗ phá sản... do đó, người  sản xuất hàng hóa phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt, buộc họ phải   luôn luôn năng động, nhạy bén, tính toán, cải tiến kỹ  thuật, hợp lý hóa sản xuất, tiết   kiệm nguyên vật liệu nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế, hạ  thấp chi phí sản xuất đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. ­ Thứ tư: Sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa không chỉ mở rộng giao   lưu kinh tế mà còn mở rộng giao lưu văn hóa giữa các địa phương, vùng lãnh thổ, quốc  gia, khu vực và thế  giới; làm thỏa mãn ngày càng tốt hơn cả  đời sống vật chất và văn   hoá tinh thần người lao động. Từ đó, tạo động lực kích thích sản xuất phát triển nhanh  chóng.  2. Hàng hoá a) Khái niệm hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá  Hàng hoá là sản phẩm của lao động, có khả năng thoả mãn một nhu cầu nào  đó của con người và phải được đem trao đổi (bán­mua) trên thị trường. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể (hữu hình) như sắt thép, lương thực, thực phẩm,  máy móc... hoặc ở dạng phi vật thể (vô hình) như dịch vụ y tế, thương mại, giáo dục,  văn hóa, thương hiệu, sở hữu trí tuệ... Ngày nay, cùng với sự  phát triển của khoa học­  công nghệ  và sự  phát triển của sản xuất hàng hóa, khái niệm hàng hóa cũng được mở  rộng hơn, nhiều loại hình trước đây vốn không phải là hàng hóa, nay cũng được đem  trao đổi(bán­mua) hoặc sử lý nó như hàng hoá. Sản xuất hàng hóa ra đời từ  cuối xã hội cộng sản nguyên thủy và đã tồn tại qua  các chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Trong các hình thái   kinh tế­xã hội khác nhau thì sản xuất hàng hoá mang bản chất khác nhau. Nhưng đã là  hàng hóa thì đều có hai thuộc tính là: giá trị sử dụng và giá trị.
  3. ­ Giá trị  sử  dụng của hàng hóa là công dụng của vật phẩm có thể  thỏa mãn một   nhu cầu nào đó của con người. Mỗi một hàng hóa được sản xuất ra đều có một hay một số  công dụng nhất định   có thể thỏa mãn được một nhu cầu nào đó của con người, hoặc nhu cầu vật chất, hoặc   nhu cầu tinh thần. Ví dụ: máy móc, nguyên vật liệu là sản phẩm vật chất thỏa mãn nhu   cầu cho người sản xuất; lương thực, thực phẩm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng vật chất  cá nhân; phim ảnh, sách báo thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người... Chính công dụng của vật phẩm làm cho hàng hoá có giá trị sử dụng. Công dụng­giá   trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên (lý, hóa, sinh học) của thực thể  hàng hóa đó quy định. Do đó, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn  Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần trong quá trình phát triển của khoa  học ­ kỹ thuật và của lực lượng sản xuất. Thí dụ: Than đá trước đây chỉ dùng làm chất   đốt, khi khoa học kỹ  thuật phát triển than đá được dùng làm nguyên liệu cho một số  ngành công nghệ hóa chất, chế tạo ra nhiều sản phẩm có công dụng khác nhau như cao  su, tơ nhân tạo thậm chí có thể là nước hoa... Xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất   càng phát triển thì giá trị sử dụng của vật phẩm hàng hoá càng đa dạng, phong phú  Giá trị sử dụng với tư cách là một thuộc tính của hàng hóa không phải là giá trị sử  dụng cho người sản xuất trực tiếp mà là giá trị  sử  dụng xã hội, cho người khác, thông  qua trao đổi trên thị trường. Điều đó, đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn quan   tâm đến nhu cầu xã hội, thị hiếu của người tiêu dùng, làm cho sản phẩm của mình sản  xuất ra được thị trường thừa nhận. Trong nền sản xuất hàng hóa, giá trị sử  dụng đồng  thời là vật mang giá trị trao đổi. ­ Giá trị của hàng hóa: Để  hiểu được thực thể giá trị  của hàng hóa phải đi từ giá trị  trao đổi. Giá trị  trao   đổi là quan hệ về số lượng, là tỷ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác nhau. Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc.  Hai hàng hoá(vải và thóc) có giá trị sử dụng hoàn toàn khác nhau nhưng chúng lại   trao đổi được với nhau theo một tỷ lệ nhất định (1 : 5) vì chúng đều là sản phẩm của lao  động, do hao phí lao động của người sản xuất hàng hóa tạo ra. Hao phí lao động chính cơ  sở chung cho sự trao đổi giữa tất cả các hàng hóa, là giá trị  của hàng hóa. Với phương  trình trao đổi trên, hao phí lao động để sản xuất ra 1m vải ngang bằng hao phí lao động  để sản xuất ra 5kg thóc; 1m vải có giá trị = 5kg thóc Giá trị  của hàng hóa là hao phí lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh   trong hàng hóa đó. Giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi, nó là nội dung bên trong, còn giá   trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị khi trao đổi. Giá trị hàng   hóa là biểu hiện quan hệ  xã hội, quan hệ  giữa những người sản xuất hàng hóa. Khi   trao đổi hàng hóa, thực chất là trao đổi lao động ẩn dấu trong các hàng hóa với nhau.   Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa. Như vậy, hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Một sản phẩm chỉ trở  thành hàng hoá khi nó vừa có giá trị  sử  dụng, vừa có giá trị. Thiếu một trong hai thuộc   tính đó thì nó không gọi là hàng hoá. Giá trị sử dụng và giá trị là hai mặt đối lập, cùng tồn   tại đồng thời và thống nhất với nhau trong một hàng hoá.   Trong nền sản xuất hàng hóa, người sản xuất không chỉ  là người bán mà còn là  người mua hàng hóa khác để  thỏa mãn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Khi sản xuất ra  
  4. hàng hóa để bán thì mục đích của họ là giá trị chứ không phải là giá trị sử dụng, nhưng   trong tay họ lại có giá  trị sử dụng, để có giá trị thì hàng hóa họ sản xuất ra phải phù hợp   với nhu cầu, thị hiếu của người mua; phải được thị trường thừa nhận. Do đó, họ  chú ý  đến giá trị sử dụng(chất lượng, mẫu mã, chủng loại hàng hoá) cũng chính là để đạt mục  đích giá trị. Ngược lại người  mua, mục đích của họ là giá trị sử dụng, nhưng muốn có   được giá trị sử dụng trước hết họ phải thực hiện được giá trị  hàng hóa, tức là phải trả  giá trị(trả tiền) cho người sản xuất ra nó thì  mới chi phối được giá trị sử dụng đó. Như  vậy, việc thực hiện giá trị và giá trị sử dụng là hai quá trình khác nhau. Do đó, hàng hóa  sản xuất ra có thể bán được và cũng có thể không bán được. Điều đó đòi hỏi người sản   xuất hàng hóa phải luôn quan tâm đến chất lượng, mẫu mã và giá cả của hàng hoá; sản   xuất phải phù hợp với nhu cầu thị hiếu và khả năng thanh toán của người tiêu dùng. b. Tính chất hai mặt của lao động và sản xuất hàng hóa. C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất  hàng hóa. Đó là là lao động cụ  thể  và lao động trừu tượng. Với phát hiện quan trọng   này, kinh tế chính trị của C. Mác thực sự là khoa học và cách mạng  ­ Lao động cụ thể: là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những ngành  nghề  chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ  thể  có đối tượng lao động, mục đích,  phương pháp công cụ lao động và kết quả(sản phẩm) khác nhau. Do đó, mỗi lao động   cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định. Khi lực lượng sản xuất càng phát triển, phân công lao động xã hội, sự chuyên môn  hóa càng cao thì lao động cụ  thể  càng đa dạng, phong phú và tạo ra nhiều giá trị  sử  dụng khác nhau. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, tồn tại cùng với nền sản   xuất xã hội. ­ Lao động trừu tượng: là lao động của người sản xuất hàng hóa đã gạt bỏ  hình  thức cụ thể của nó để quy về một cái chung, đồng chất. Đó là sự hao phí sức lao động,   tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh của người sản xuất hàng hóa. Lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa và tạo  ra giá trị hàng hóa. Lao động trừu tượng chỉ được biểu hiện ra khi trao đổi giữa những   người sản xuất hàng hóa và phản ánh tính chất xã hội của lao động của những người   sản xuất hàng hóa. Như vậy, chỉ có lao động của người sản xuất hàng hóa mới có tính chất hai mặt là  lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Đây là hai mặt của một quá trình lao động sản   xuất hàng hóa diễn ra trong cùng một không gian, thời gian. Quá trình lao động cụ  thể  đồng thời là quá trình lao động trừu tượng. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ánh tính chất tư  nhân và  tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa. Bởi vì, đối với mỗi người sản xuất   hàng hóa, sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như  thế  nào là việc riêng của   họ. Nhưng mặt khác, lao động của người sản xuất hàng hóa lại là một bộ  phận của  toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Chính sự phân công  lao động xã hội đã tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hóa  Lao động cụ thể và lao động trừu tượng phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã  hội của lao động sản xuất hàng hoá. Đó là mâu thuẫn cơ  bản của sản xuất hàng hóa  giản đơn. Mâu thuẫn đó được biểu hiện:
  5.  Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể ăn khớp với   nhu cầu của xã hội, hoặc không đủ cung cấp cho xã hội; hoặc vượt quá nhu cầu của xã   hội. Trong trường hợp sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, tức cung lớn hơn cầu thì  sẽ có một số hàng hóa không bán được, không thực hiện được giá trị của hàng hóa.  Khi hao phí lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn mức hao phí lao   động mà xã hội có thể  chấp nhận thì hàng hóa không bán được, người sản xuất sẽ  bị  thua lỗ, phá sản.  Ngược lại, khi hao phí lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa   thấp hơn hao phí lao động mà xã hội có thể chấp nhận thì hàng hóa bán được và có lãi,   họ sẽ giàu lên nhanh chóng. Vì vậy, sự vận động của mâu thuẫn giữa tính chất tư nhân và tính chất xã hội của   lao động sản xuất hàng hoá sẽ  dẫn đến sự  phân hóa giàu nghèo, đồng thời chứa đựng   khả năng sản xuất thừa và là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong tiến trình phát triển   của kinh tế hàng hóa. c. Lượng giá trị hàng hóa Giá trị  hàng hóa là do hao phí lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa  kết tinh trong hàng hóa. Lượng giá trị  hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao  để  sản xuất ra hàng hóa đó và được tính bằng thời gian lao động(ngày giờ...) Nhưng   trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hóa, với điều kiện sản xuất,   trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau, do đó, thời gian lao động để sản xuất   ra một đơn vị  hàng hóa cùng khác nhau, đó là hao phí lao động cá biệt tạo ra giá trị  cá  biệt của hàng hoá. Trên thị  trường, cùng một loại hàng hoá, tuy được sản xuất trong  điều kiện khác nhau nhưng chúng được bán cùng một giá­ giá cả thị trường.  Vì vậy, lượng giá trị  hàng hóa không thể  tính bằng thời gian lao động cá biệt mà  phải tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra một đơn vị  hàng hóa nào đó, trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình   độ  thành thạo trung bình và một cường độ  lao động trung bình trong xã hội đó. Thời   gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa gần sát với thời gian lao động cá  biệt của những người sản xuất ra phần lớn hàng hóa đó trên thị trường. Cần lưu ý, thời gian lao động xã hội cần thiết không phải là đại lượng cố định, nó   thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, lượng giá trị hàng hóa cũng   thay đổi, sự  thay đổi đó tùy thuộc vào nhiều yếu tố  như  năng suất, cường độ  và tính   chất của lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được tính bằng   số lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian, hoặc lượng thời gian lao động để  sản xuất ra một đơn vị  sản phẩm. Nếu trong cùng một đơn vị  thời gian làm ra được   nhiều sản phẩm hơn trước, hoặc sản xuất ra một đơn vị sản phẩm tốn ít thời gian hơn   trước gọi là tăng năng suất lao động. Để  tăng năng suất lao động phải thường xuyên   cải tiến kỹ  thuật, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao trình độ  chuyên   môn ngành nghề cho người lao động. Khi năng suất lao động tăng lên, trong một đơn vị  thời gian người sản xuất hàng   hóa tạo ra được nhiều sản phẩm hơn, lượng giá trị một đơn vị sản phẩm giảm, nhưng  tổng giá trị không đổi. 
  6. Tăng cường độ  lao động là tăng mức độ  khẩn trương căng thẳng, tức là tăng sự  hao phí sức lực của người lao động trong một đơn vị  thời gian. Do đó, số  lượng hàng   hóa được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên và tổng lượng giá trị càng tăng   lên tương ứng, nhưng lượng giá trị một đơn vị sản phẩm không đổi. Trong quá trình phát triển của nền sản xuất hàng hóa, người sản xuất hàng hóa có   sự  khác nhau về  mức độ  thành thạo và trình độ  nghề  nghiệp. Nhưng khi trao đổi trên  thị trường lại phải căn cứ vào lượng giá trị (thời gian lao động xã hội cần thiết). Do đó,  khi xét đến lượng giá trị hàng hóa và quan hệ trao đổi giữa những người sản xuất hàng   hóa phải xét đến lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động không qua đào tạo mà bất cứ  người nào có khả  năng lao động bình thường đều làm được. Còn lao động phức tạp là lao động phải   được học tập, đào tạo chuyên môn ngành nghề. Năng suất của lao động phức tạp bao  giờ cũng là bội số của lao động giản đơn. Bởi vì, trong cùng một đơn vị  thời gian, lao   động phức tạp sẽ  tạo ra số  lượng hàng hóa lớn hơn nhiều so với lao động giản đơn.   Để  trao đổi ngang bằng giữa những sản phẩm hàng hóa của lao động phức tạp và lao  động giản đơn người ta lấy lao động giản đơn làm đơn vị  tính toán và quy tất cả  lao   động phức tạp thành lao động giản đơn. Trong nền kinh tế hàng hóa dựa trên chế độ tư  hữu về tư liệu sản xuất, việc quy đổi diễn ra một cách tự phát trên thị trường. II. BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ. 1. Nguồn gốc và bản chất của tiền Không phải ngay từ khi có sản xuất hàng hóa tiền tệ đã ra đời mà tiền tệ ra đời là kết  quả của sự vận động phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Tiền tệ  là một   hình thái giá trị, nhưng là hình thái giá trị cao nhất phản ánh trình độ phát triển cao của sản  xuất và lưu thông hàng hóa. Trong lịch sử  phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa,  tương ứng với mỗi giai đoạn lịch sử và trình độ phát triển của nó có một hình thái giá trị.  Hình thái giá trị cũng phát triển từ thấp đến cao: từ giản đơn (ngẫu nhiên) tới hình thái mở  rộng(đầy đủ); hình thái chung; hình thái tiền tệ. a. Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. Hình thái giá trị này xuất hiện khi sản xuất hàng hóa mới ra đời nhưng còn ở trình  độ  thấp. Số  hàng hóa sản xuất ra còn rất ít, nên trao đổi giữa những người sản xuất   hàng hóa mang tính chất ngẫu nhiên. Trong hình thái giá trị này, giá trị của hàng hóa thứ  nhất được biểu hiện ra duy nhất ở hàng hóa thứ hai. Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc Ở đây giá trị của 1m vải được biểu hiện ở 5kg thóc. Trường hợp này, vải là hàng  hoá có hình thái giá trị tương đối; còn thóc đóng vai trò vật ngang giá.  Hàng hóa đóng vai  trò ngang giá là hình thái phôi thai của tiền tệ. b. Hình thái giá trị mở rộng hay đầy đủ  Khi lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội mở rộng, năng suất  lao động tăng lên, do đó có nhiều sản phẩm thặng dư hơn. Điều đó đã làm cho trao đổi   trở  nên thường xuyên và đa dạng hơn. Thích  ứng với sự  phát triển của sản xuất hàng  hóa ở giai đoạn này là hình thái giá trị mở rộng hay đầy đủ. Hình thái giá trị này xuất hiện khi mà một sản phẩm lao động nào đó được trao đổi   với nhiều hàng hóa khác một cách thông thường, phổ biến. Thí dụ: 1 hàng hóa A = 2 hàng hóa B
  7.   = 5 hàng hóa C   = 10 hàng hóa D   = 0,02 gam vàng Ở đây giá trị của một hàng hóa A được biểu hiện ở  nhiều hàng hóa khác nhau có   tác dụng làm vật ngang giá. So với hình thái giá trị  giản đơn hay ngẫu nhiên, hình thái   giá giá trị mở rộng có nhiều tính chất ưu việt hơn; tính chất ngẫu nhiên giảm, tỷ lệ trao  đổi tương đối cố  định, có nhiều hình thức lao động cụ  thể  để  so sánh. Nhưng vẫn là  trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng. Do đó, khi sản xuất hàng hóa phát triển, trao đổi trực  tiếp hàng hóa A lấy hàng hóa B, C, D... không còn thích hợp, thậm chí cản trở làm cho   trao đổi không thực hiện được. Bởi vì, người có hàng hóa A cần hàng hóa B, nhưng  người có hàng hóa B lại không cần hàng hóa A mà lại cần hàng hóa khác C, D... Để  khắc phục trở ngại đó, hình thái chung của giá trị ra đời.  ­ Hình thái chung của giá trị. Ở hình thái này, giá trị của hàng hóa đều được biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai  trò làm vật ngang giá chung. Thí dụ: 10 hàng hóa A  8 hàng hóa B = 1 hàng hóa X  5 hàng hóa C  15 hàng hóa D Tất cả các hàng hóa A, B, C, D... đều đem đổi được lấy hàng hóa X, rồi dùng hàng  hóa X đổi lấy thứ hàng hóa cần dùng. Hàng hóa X trở thành vật ngang giá chung. Hình  thái chung của giá trị có ưu việt hơn, tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi giữa những   người sản xuất các loại hàng hóa khác nhau. Giá trị  các hàng hóa đều được biểu hiện  đơn giản, giống nhau  ở  một vật duy nhất. Vật ngang giá chung trở  thành môi giới,  phương tiện để trao đổi. Nhưng ở mỗi vùng khác nhau lại có vật ngang giá chung khác nhau. Do đó khi sản  xuất phát triển và có tính chất xã hội hóa cao, nhiều vật ngang giá chung đã gây cản trở  khó khăn cho trao đổi. Vì vậy đòi hỏi phải có vật ngang giá chung thống nhất. ­ Hình thái tiền tệ: Khi vật ngang giá chung được cố định ở một vật độc tôn, quý hiếm, thống nhất và  phổ biến thì hình thái tiền tệ của giá trị ra đời. Ví dụ: 50kg thóc 10kg chè = 0,1 gam vàng 5m vải ...... Vật ngang giá chung là 0,1gam vàng trở thành tiền tệ. Lúc đầu có nhiều kim loại  đóng vai trò tiền tệ, nhưng dần về sau được cố định ở kim loại quý bạc, vàng và cuối   cùng là vàng. Bạc vàng là những hàng hóa có những đặc điểm thích hợp nhất với vai   trò tiền tệ như thuần nhất, dễ chia nhỏ nh ưng có giá trị cao. Như vậy, tiền tệ xuất hiện là kết quả  sự vận động phát triển lâu dài của sản xuất và   trao đổi hàng hóa. Khi tiền tệ ra đời thì thế  giới hàng hóa phân làm hai cực: một cực là   hàng hóa thông thường, cực khác là hàng hóa đóng vai trò tiền tệ.
  8. Tiền tệ  là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho tất cả  các  hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản   xuất hàng hóa. Đó là bản chất của tiền tệ. 2. Chức năng của tiền tệ Bản chất của tiền tệ thể hiện ở các chức năng của nó. Trong nền kinh tế hàng hóa  phát triển, tiền tệ có 5 chức năng sau đây: a. Thước đo giá trị. Thước đo giá trị là chức năng cơ bản của tiền tệ. Khi thực hiện chức năng thước   đo giá trị, tiền được dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa khác. Tiền  làm được thước đo giá trị, vì bản thân tiền cũng là một hàng hóa, có giá trị sử  dụng và  giá trị như những hàng hóa khác. Giá trị của tiền(vàng, bạc) cũng do hao phí lao động xã  hội cần thiết để khai thác, sản xuất ra vàng, bạc quyết định. Khi giá trị  hàng hóa được biểu hiện và đo lường bằng một số  tiền nhất định thì  gọi là giá cả  của hàng hóa. Giá cả  là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả  hàng hóa do các nhân tố: giá trị, quan hệ  cung cầu, giá trị  của tiền, tâm lý người tiêu  dùng... quyết định. Giá cả hàng hoá tỷ lệ thuận với giá trị hàng hoá và tỷ lệ nghịch với   giá trị của tiền. Giá cả lên xuống xoay quanh giá trị do tác động của quan hệ cung, cầu.   Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị; ngược lại khi cung nhỏ hơn cầu thì giá  cả  cao hơn giá trị. Tuy nhiên, nếu xét trong toàn xã hội và trong một khoảng thời gian   dài thì tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị. b) Phương tiện lưu thông. Khi làm chức năng phương tiện lưu thông, tiền làm trung gian(môi giới) trong việc  trao đổi hàng hóa. Mọi hàng hóa trao đổi với nhau thường phải thông qua tiền tệ. Công  thức lưu thông hàng hóa là H ­ T ­ H (Hàng ­ Tiền ­ Hàng). Khi hàng hóa chuyển từ tay   người bán sang tay người mua thì tiền chuyển từ tay người mua sang tay người bán. Do  đó, làm phương tiện lưu thông nhất thiết phải là tiền mặt. Lúc đầu tiền  là vàng thỏi,   bạc nén, dần dần tiền đúc ra đời và sau đó là tiền giấy, tiền tín dụng. Bản thân tiền  giấy không có giá trị(hoặc có nhưng rất nhỏ) mà chỉ là ký hiệu của giá trị, do nhà nước   phát hành và được xã hội công nhận. Lượng tiền mặt cần thiết làm chức năng phương   tiện lưu thông phụ  thuộc vào ba yếu tố: Số lượng hàng hóa lưu thông trên thị  trường,   giá cả  hàng hóa, số  vòng quay của đồng tiền cùng loại. Có thể  minh họa bằng công   thức sau:                P. Q              M =                    V Trong đó: ­ M là lượng tiền cần thiết cho lưu thông.     ­ P là mức giá      ­ Q là khối lượng hàng hóa và dịch vụ đem ra lưu thông     ­ V là số vòng lưu thông của đồng tiền. Thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền tệ  làm cho việc sản xuất, trao   đổi hàng hóa thuận lợi hơn. Nhưng, đồng thời cũng làm cho việc mua bán có thể  tách  rời nhau cả không gian và thời gian. Do đó, xuất hiện khả năng khủng hoảng kinh tế. c. Phương tiện cất trữ.
  9. Khi làm phương tiện cất trữ, tiền được rút ra khỏi lưu thông để dự trữ, khi cần lại   được đưa vào phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cất trữ tiền là cất trữ của   cải, cất trữ giá trị. Lượng tiền cất trữ nhiều hay ít, tăng hay giảm là tùy thuộc vào tình hình kinh tế  của mỗi nước và ở từng thời kỳ khác nhau. Thông thường tiền đưa vào cất trữ phải là  tiền vàng. d. Phương tiện thanh toán. Khi kinh tế hàng hóa phát triển đến một trình độ  nào đó tất yếu sẽ  nảy sinh việc   mua bán chịu hàng hoá với nhau. Việc mua bán chịu hàng hoá được bảo đảm bằng   những hối phiếu(kỳ  phiếu) thương mại. Do đó, tiền có chức năng phương tiện thanh   toán. Tiền làm phương tiện thanh toán, tức là tiền được dùng để chi trả sau khi giao dịch,   mua­ bán đã hoàn thành. Thí dụ: trả tiền mua hàng chịu, trả nợ, nộp thuế... Chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ  ra đời đã làm tăng thêm sự  phụ  thuộc lẫn nhau và tạo nên mối liên hệ đặc biệt giữa những người sản xuất và trao đổi   hàng hóa. Phương tiện thanh toán của tiền tệ gắn liền với chế độ tín dụng, đặc biệt là   tín dụng thương mại (mua ­ bán chịu hàng hóa). Việc mua ­ bán chịu hàng hóa đã làm  cho những người sản xuất hàng hóa luôn có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Sự phát   triển hình thức mua bán chịu, một mặt tạo khả năng trang trải nợ nần bằng cách khấu  trừ  thanh toán lẫn nhau không cần đến tiền mặt, nên giảm được lượng tiền mặt phát  hành cần thiết cho lưu thông. Mặt khác, trong việc mua ­ bán chịu, người mua biến   thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ, khi quan hệ con nợ ­ chủ nợ mở rộng và tăng  lên sẽ dẫn đến hiện tượng: nếu một người nào đó bị phá sản không đủ khả năng thanh  toán nợ  sẽ  gây  ảnh hưởng đến một loạt người sản xuất hàng hóa khác, gây rối loạn  nền kinh tế. Khi tiền làm chức năng phương tiện thanh toán công thức tính lượng tiền cần thiết  cho lưu thông là: Đây chính là quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật này phát sinh và phát huy tác  dụng cho mọi hình thái kinh tế xã hội có sản xuất hàng hoá và lưu thông tiền tệ đ. Tiền tệ thế giới. Khi sản xuất, trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia và hình thành  quan hệ  buôn bán giữa các nước thì tiền tệ làm chức năng tiền tệ thế giới. Chức năng  tiền tệ thế giới là tiền dùng làm phương tiện lưu thông và thanh toán quốc tế; làm công  cụ tín dụng di chuyển của cải từ nước này sang nước khác. Làm chức năng tiền tệ thế giới phải là tiền vàng hoặc tiền giấy được các bên liên  quan công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Việc chuyển đổi tiền giấy giữa  nước này với nước khác được tiến hành theo một quan hệ tỷ nhất định gọi là tỷ giá hối  đoái. Tóm lại, tiền tệ  có năm chức năng, các chức năng này ra đời cùng với sự  ra đời   phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Các chức năng này có quan hệ  mật thiết   với nhau, thông thường tiền có thể làm nhiều chức năng cùng một lúc.
  10. III­ QUY LUẬT GIÁ TRỊ  ­ QUY LUẬT KINH TẾ  CƠ  BẢN CỦA SẢN XUẤT   HÀNG HOÁ Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Ở  đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác   dụng. 1. Nội dung và hình thức biểu hiện của quy luật giá trị. Nội dung: Quy luật giá trị  quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải căn  cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Quy luật giá trị biểu hiện mối quan hệ xã hội  giữa những người sản xuất, trao đổi hàng hoá. Cơ  sở của sự  trao đổi đó là hao phí lao  động xã hội cần thiết chứ không phải là hao phí lao động cá biệt. Bởi vì, trong nền sản   xuất hàng hoá, cùng một loại hàng hoá có thể  có nhiều người cùng sản xuất ra. Tuy  nhiên, do trình độ tay nghề khác nhau, công nghệ khác nhau, năng suất khác nhau... nên   hao phí cá biệt để sản xuất ra hàng hoá khác nhau. Song trên thị  trường, do cạnh tranh   giữa người bán với người bán, giữa người bán với người mua, giữa người mua với   người mua... mà hàng hoá không phải bán theo hao phí lao động cá biệt mà là hao phí lao  động xã hội cần thiết.  Hình thức biểu hiện: Quy luật giá trị  hoạt động thông qua sự  lên xuống của giá   cả  thị  trường. Giá cả  thị  trường là biểu hiện bằng tiền của giá trị  thị  trường. Nó lên   xuống xoay quanh giá trị thị trường, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và một số yếu tố  khác. Giá cả thị trường là mệnh lệnh đối với mọi người sản xuất và trao đổi hàng hoá.   Căn cứ  vào giá cả  của hàng hoá trên thị  trường, người sản xuất sẽ  biết được hao phí   lao động cá biệt của mình cao hơn hay thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết. Từ  đó, họ quyết định mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất, cũng như đưa ra các giải pháp   tăng năng suất lao động, hạ  chi phí sản xuất xuống thấp hơn mức trung bình của xã  hội. Tức là, quyết định: sản xuất ra cái gì, bao nhiêu, như thế nào, cho ai.  2. Tác dụng của quy luật giá trị Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, quy luật giá trị có ba tác dụng cơ bản sau: a) Tự phát điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Điều tiết sản xuất là sự  dịch chuyển tư liệu sản xuất và sức lao động từ  ngành  này sang ngành khác, làm cho quy mô của ngành sản xuất này được mở  rộng, ngành  khác bị thu hẹp. Điều tiết lưu thông là sự dịch chuyển của hàng hoá từ nơi này đến nơi   khác (từ  nơi có giá thấp đến nơi có giá cao). Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn,  dựa trên chế  độ  tư  hữu về  tư  liệu sản xuất, có hiện tượng người sản xuất thu hẹp   hoặc mở rộng sản xuất; bỏ ngành này, đổ xô vào sản xuất ngành khác; đưa hàng hoá từ  nơi này đến nơi khác. Hiện tượng trên chính là do tự phát điều tiết của quy luật giá trị.  Quy luật giá trị tự phát điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá thông qua sự biến động   của giá cả thị  trường. Nếu một hàng hoá nào đó trên thị  trường có cung nhỏ  hơn cầu,   giá cao, bán chạy, lợi nhuận nhiều thì những người sản xuất hàng hoá  mở rộng quy mô   sản xuất. Do đó, tư liệu sản xuất, sức lao động được di chuyển sang ngành này nhiều  hơn, quy mô sản xuất được mở rộng. Ngược lại, nếu một hàng hoá nào đó có cung lớn   hơn cầu, giá cả hạ, khó bán, ít hoặc không có lợi nhuận thì người ta thu hẹp sản xuất... Như  vậy, thông qua sự  lên xuống của giá cả  thị  trường mà quy luật giá trị  phát   huy tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. b. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất tăng năng suất lao động.
  11. Trong những điều kiện khác nhau, hàng hoá được sản xuất ra có giá trị  cá biệt  khác nhau, nhưng trên thị trường thì tất cả các hàng hoá đều phải được trao đổi theo giá   trị xã hội. Do đó, người sản xuất có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị  xã hội sẽ  ở vào thế  có lợi, thu được nhiều lợi nhuận, người sản xuất có giá trị  cán biệt cao hơn giá trị  xã  hội ở vào thế bất lợi, có nguy cơ thua lỗ, phá sản. Để giành ưu thế trong cạnh tranh và   thu nhiều lợi nhuận, mọi người sản xuất đều phải tìm cách làm cho giá trị cá biệt của  hàng hoá do mình sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội. Muốn vậy phải cải tiến kỹ thuật,   hợp lý hoá sản xuắt, tăng năng suất lao động. Việc làm này lúc đầu diễn ra  ở  một số  người, nhưng về  sau do cạnh tranh với nhau nên cuối cùng kỹ  thuật của toàn xã hội  được cải tiến. Cứ như vậy, quy luật giá trị đã có tác dụng kích thích cải tiến kỹ thuật,   hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, làm cho lực lượng sản xuất phát  triển. c) Phân hoá giàu­ nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá, làm nảy sinh quan   hệ sản xuất  tư bản chủ nghĩa Trong nền sản xuất hàng hoá nhỏ, người nào sản xuất ra hàng hoá có giá trị  cá   biệt thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá thì ở vào thế có lợi, thu được nhiều lợi nhuận   dần trở nên giàu có, có điều kiên mở  rộng sản xuất, thuê lao động trở  thành ông chủ.   Ngược lại, người nào sản xuất ra hàng hoá có giá trị  cá biệt cao hơn giá trị  xã hội của  hàng hoá thì  ở  vào thế  bất lợi, thua lỗ, phá sản phải đi làm thuê cho người khác. Như  vậy, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời bắt nguồn từ sự vận động của mâu   thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hoá giản đơn, dưới tác động của quy luật giá trị.  Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào sự tác động của quy luật giá trị thì chủ nghĩa tư bản ra đời   rất chậm chạp. Vì vậy, để thúc đẩy chủ nghĩa tư bản ra đời nhanh chóng, trong lịch sử  các nước tư  bản Tây Âu, Nhật Bản đã thực hiện biện pháp tích luỹ  nguyên thuỷ  tư  bản. Thực chất tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản là quá trình dùng bạo lực tước đoạt tư  liệu sản xuất của ngườisản xuất nhỏ, biến họ  thành những người tay trắng và tập  trung một số tiền lớn vào tay một số người để có thể lập ra được xí nghiệp tư bản chủ  nghĩa. Nhờ tích luỹ tư bản chủ nghĩa mà phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời   nhanh chóng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2