intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Giúp học sinh phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Chia sẻ: Thanhbinh225p Thanhbinh225p | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

181
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Giúp học sinh phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu trình bày về cơ sở lí luận; thực trạng của việc dạy học giúp học sinh tích cực, chủ động phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm Văn học; giải pháp và tổ chức thực hiện; kiểm nghiệm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Giúp học sinh phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

  1. GIÚP HỌC SINH PHÁT HIỆN VẤN ĐỀ XàHỘI TRONG TÁC PHẨM  CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NGUYỄN MINH CHÂU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI          Việc đổi mới chương trình giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học  nhằm phát huy vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập   ngày nay đang được áp dụng và triển khai rầm rộ. Trong đó,  học sinh đóng   vai trò chủ  động, tích cực khám phá và chiếm lĩnh tri thức. Có thể  nói đó là  vấn đề thiết thực, tiến bộ, phù hợp với thời đại.      Qua một vài năm nay, cá nhân tôi nhận thấy học sinh đã thực sự trở thành   những chủ thể tích cực và sáng tạo, hiệu quả giáo dục đã được cải thiện và   khởi sắc. Ngành giáo dục đã cho ra đời những con người tài giỏi, năng nổ,   thúc đẩy và đóng góp lớn vào quá trình phát triển của đất nước. Đó là điều   đáng mừng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, dư  luận xã hội và các  phương tiện thông tin đại chúng cũng đang báo động về tình trạng xuống cấp   đạo đức của con người : sống vô trách nhiệm, vô cảm, bạo lực học đường,   bạo hành gia đình, lối sống thực dụng, hưởng thụ  , …Đó cũng là vấn đề mà  những người làm công tác giáo dục có tâm với nghề  cần phải suy nghĩ, trăn   trở …        Có thể  nói qúa trình giáo dục nhân cách học sinh gồm có nhiều yếu tố.   Trong đó các môn học xã hội đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên   điều đáng nói   là  trong những năm gần đây, hiện tượng học lệch ngày nay ở phần lớn học   sinh đã  dẫn đến việc các em coi thường, học lệch, học qua loa đối phó, …   đối với phần lớn các môn xã hội, trong đó có môn Ngữ văn. Mặc dù đây là bộ  môn khoa học có những giá trị  lớn lao về nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, góp   phần quan trọng trong  việc hình thành và phát triển nhân cách của con người   một cách tự nhiên và hiệu quả nhất.            Là một giáo viên dạy văn, tôi tâm niệm, dạy văn trước hết là dạy làm  người, học văn trước hết là học làm người, tôi rất quan tâm và trăn trở  về  vấn đề nhân cách học sinh. Vì vậy trong nhiều năm qua tôi rất chú trọng việc  giáo dục nhân cách học sinh trong quá trình dạy học Ngữ văn bằng cách thức   1
  2. giúp các em tích cực, chủ  động khám phá ra các vấn đề    xã hội trong tác   phẩm văn chương, từ  đó nhận thấy văn học rất gần gũi, gắn liền với đời   sống và nhận thức được giá trị  giaó dục của văn học, hình thành, phát triển   và hoàn thiện nhân cách. Ở đây, tôi không lấn sân sang bộ môn gíao dục công  dân, chỉ xin phát huy giá trị giáo dục lớn lao của văn học nên chia sẻ với quý   đồng nghiệp một kinh nghiệm nhỏ  qua đề  tài :   GIÚP HỌC SINH PHÁT  HIỆN VẤN ĐỀ  XàHỘI TRONG TÁC PHẨM CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA  CỦA NGUYỄN MINH CHÂU II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Văn học là một bộ môn nghệ thuật. Tác phẩm văn học có nhiều giá trị.         Trước hết tác phẩm văn học là một tấm gương phản chiếu cuộc sống.   Tác phẩm văn học là kết quả  của quá trình nhà văn khám phá, lí giải cuộc  sống rồi chuyển hóa những hiểu biết đó vào nội dung tác phẩm.  Ở  đó qua   lăng kính nghệ thuật nhà văn trực tiếp hay gián tiếp chuyển tải những vấn đề   xã hội vào trong tác phẩm văn chương. Cho nên văn học là cuộc sống, gần  gũi và gắn bó với mỗi người. Vì vậy đọc văn là hoạt động nhằm thỏa mãn  nhu cầu   nhận thức của con người. Nó giúp chúng ta hiểu biết rõ hơn, sâu   hơn về  cuộc sống xung quanh và thậm chí chính bản thân mình, từ  đó tác   động vào cuộc sống hiệu quả  hơn. Thông qua cuộc sống và hình  ảnh của   nhiều người khác nhau được trình bày trong các tác phẩm cụ thể, văn học còn   giúp   cho   mỗi   người   đọc   hiểu   được   bản   chất   của   con   người   nói   chung  ( chẳng hạn như  đâu là mục đích tồn tại của con người ? Đâu là tư  tưởng,  tình cảm, khát vọng và sức mạnh của con người ? v.v …) Đồng thời chính từ  cuộc đời người khác, mỗi người đọc có thể liện hệ, tự so sánh, đối chiếu để  hiểu bản thân mình hơn với tư cách là một con người cá nhân.         Trong khi đó, nhà văn khi phản ánh hiện thực cuộc sống thông qua tác   phẩm văn học, dù trực tiếp hay gián tiếp bao giờ cũng bộc lộ một thái độ  tư  2
  3. tưởng, tình cảm, một sự nhận xét, đánh giá của mình, … như vậy, tất cả đều  sẽ  tác động đến người đọc. Bởi con người ta nhận thức không chỉ  để  nhận  thức mà nhận thức là để  hành động. Con người không chỉ  có nhu cầu hiểu   biết mà còn có nhu cầu hướng thiện, khao khát một cuộc sống tốt lành. Chính   vì vậy văn học có khả  năng đem đến cho người đọc những bài học quý giá   về  lẽ  sống để  họ  tự  rèn luyện bản thân mình ngày một tốt đẹp hơn.Về  tư  tưởng, văn học hình thành trong người đọc một lí tưởng tiến bộ, giúp cho học  có thái độ  và quan điểm đúng đắn về  cuộc sống. Về tình cảm, văn học giúp  con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn. Về  đạo đức, văn   học nâng đỡ cho nhân cách của con người phát triển, giúp cho học biết phân   biệt phải – trái, tốt ­ xấu, đúng ­ sai, có quan hệ tốt đẹp và biết gắn bó cuộc   sống của cá nhân mình với cuộc sống của mọi người. Tóm lại là văn học có   giá trị giáo dục lớn lao, nó có thể thay đổi hoặc nâng cao tư tưởng, tình cảm   con người theo chiều hướng tích cực, tốt đẹp, tiến bộ, đồng thời làm cho con   người ngày càng hoàn thiện về đạo đức.              Tuy nhiên đặc trưng giáo dục của văn học hoàn toàn khác với những   nguyên tác   áp  đặt  của  pháp luật  hay những  lời  giáo  huấn trực  tiết  trong  những   bài   giảng   về   đạo   đức.,bởi   văn   học   giáo  dục   con   người   bằng   con  đường đi từ  cảm xúc đến nhận thức, bằng cái thật, cái đúng, cái đẹp của  những hình tượng sinh động, đầy sức thuyết phục. Có lẽ vì thế tác dụng giáo  dục của văn học không phải ngay lập tức mà dần dần thấm sâu nhưng rất lâu  bền, nó gợi ra những cảm nghĩ sâu xa về cuộc đời và con người, nó gián tiếp   đưa ra những bài học những đề  nghị  về  cách sống. Với những khả  năng ấy,  văn học không những góp phần hoàn thiện nhân cách con người mà còn   hướng họ tới những hành động cụ thể, thiết thực, vì một cuộc đời ngày càng   tốt đẹp hơn. Mặt khác  văn học còn có khả  năng giúp con người biết cảm   nhận và rung động một cách tinh tế, sâu sắc trước mọi vẻ đẹp của cuộc đời,   hướng họ đến chân, thiện , mĩ.        Dựa vào những cơ sở những giá trị của văn học, đặc biệt là giá trị  giáo   dục, chúng tôi đề xuất cách thức giúp học sinh tích cực, chủ động phát hiện   vấn đề  xã hội trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Nguyễn   Minh Châu nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn, nhất là hiệu  quả giáo dục nhân cách học sinh thông qua tác phẩm văn học cụ thể. 3
  4. 2. Thực trạng của việc dạy học giúp học sinh tích cực, chủ động phát  hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học.      a. cách thức khảo sát thực trạng:      Đi và thực hiện đề  tài, tôi đã tiến hành khảo sát hực trạng của việc dạy  học giúp học sinh phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn chương ở trung  học phổ thông bằng nhiều cách như: Dự giờ thăm lớp, phỏng vấn giáo viên,  thăm dò ý kiến giáo viên và học sinh, dùng phiếu trả lời trắc nghiệm…   b. Những biểu hiện cụ thể của thực trạng: * Về phía giáo viên:      Đa số giáo viên đều có ý thức trong việc đổi mới phương pháp dạy học và   vận dụng nó trong giờ dạy học môn Ngữ  văn nói chung. Về  việc vận dụng  cách thức giúp học sinh phát hiện vấn đề  xã hội trong giờ học tác phẩm văn   chương, phần đông giáo viên nhận thức được rằng đây là một trong những  yêu cầu quan trọng phát huy được tính tích cực chủ  động của học sinh góp   phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng dạy và học văn.      Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều giáo viên còn nặng về diễn giảng, đôi lúc   say sưa “độc tấu” hoặc hỏi rồi tự  trả  lời khiến bài học trở  nên đơn điệu,  chưa tạo được niềm say mê, hứng thú và hấp dẫn học sinh trong giờ học. * Về phía học sinh:      Học sinh hầu như chỉ tái hiện kiến thức một cách thụ động, rất ít sáng tao   trong các tình huống cụ thể của bài học. Vì thế, trong giờ đọc­ hiểu phần lớn   hoạt động của học sinh chỉ dừng lại  ở mức độ  nghe giảng ghi chép. Các em   ngại phát biểu xây dựng bài, khi được giá viên mời trả lời thường lúng túng.  Giờ văn vì thế  mà trở nên nặng nề, mệt mỏi dẫn đến kết qủa học tập chưa  cao.  * Kết luận:        Từ  việc tìm hiểu thực trạng dạy học Ngữ văn  ở  trường trung học phổ  thông nói chung   và thực trạng của việc vận dụng cách thức giúp học sinh   tích cực chủ  động phát hiện vấn đề  xã hội trong tác phẩm văn chương nói  riêng, tôi xác định nhiệm vụ trọng tâm của đề tài là:  Làm thế nào để tổ chức   giờ dạy đọc­ hiểu có hiệu quả cao hơn, khiến học sinh hứng thú với bài học   4
  5. hơn, biết cách liên hệ  với các vấn đề  trong thực tế  xã hội từ  đó nâng cao   chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn.  3. Giải pháp và tổ chức thực hiện      3.1 Giải pháp     * Đối với giáo viên:      ­ Hướng dẫn học sinh cách thức làm việc.      ­ Xác định những vấn đề xã hội trọng tâm được phán ánh trong tác phẩm,  hệ thống câu hỏi, dự kiến nội dung trả lời của học sinh để  có thể chủ  động  xử lí tình huống.      ­ Dự kiến thời gian thực hiện.       ­ Cách thức cho điểm, khen ngợi, khích lệ, động viên học sinh tham gia   phát biểu, thảo luận. * Đối với học sinh:      ­ Nắm vững cách thức thực hiện.      ­ Tiếp nhận tác phẩm văn học ( Đọc kĩ văn bản, nắm được về giá trị nội  dung nghệ thuật của tác phẩm,… )      ­ Phát hiện những vấn đề xã hội trọng tâm được phản ánh trong tác phẩm.      ­ Bày tỏ ý kiến cá nhân về những vấn đề đó dưới dạng đề cương.      ­ Chuẩn bị phát biểu tranh luận trước lớp.   3.2. Cách thức tiến hành          Bước một: Gíao viên cho học sinh nêu vấn đề  xã hội mà các em đã phát  hiện trong quá trình chuẩn bị  bài  ở  nhà và tìm hiểu tác phẩm trên lớp. Nếu  học sinh chưa nêu được những vấn đề  xã hội trọng tâm theo yêu cầu, giáo  viên có thể đặt ra hệ thống câu hỏi định hướng, gợi mở vấn đề.      Bước hai: Sau khi học sinh đã nêu ra được những vấn đề xã hội trọng tâm  được phản ánh trong tác phẩm văn học, giáo viên tổ  chức cho học sinh thảo   luận và trình bày ý kiến của bản thân về vấn đề đó trước lớp. 5
  6.      Bước ba: Giaó viên nhận xét, đánh giá, cho điểm phần trình bày của học   sinh. * Ứng dụng cụ thể trong bài học Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn  Minh Châu       Bước 1: Theo phân phối chương trình, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa  được học trong 3 tiết ( tiết 69,70,71 ban cơ bản). Sau khi hướng dẫn học sinh   tìm hiểu văn bản trên lớp(2 tiết: 69, 70) giáo viên dành 1 tiết cuối ( tiết 71)   yêu cầu học sinh nêu vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm mà các em đã   phát hiện ra. Gíao viên cũng có thể định hướng bằng cách kết hợp nhiều hình  thức nêu vấn đề theo từng nhân vật. Cụ thể như sau:    a: Nhân vật người đàn bà hàng chài ­ Giáo viên nêu vấn đề theo kiểu tái hiện kết hợp với suy lí để học sinh nhận biết đặc điểm ngoại hình và phát hiện về  số  phận và tính cách qua   ngoại hình nhân vật:    + Ngoại hình nhân vật người đàn bà góp phần hé mở  số  phận như  thế  nào?  ­ Giáo viên tiếp tục nêu vấn đề  theo kiểu  giả  định hoặc   cho học sinh  hóa thân vào nhân vật để hiểu nhân vật hơn:    + Giả  sử  là người đàn bà hàng chài bị  chồng đánh đập như  thế, anh  ( chị) sẽ phản ứng như thế nào?   + Giả sử được trực tiếp gặp người đàn bà ở  tòa án huyện cùng với Đẩu  và Phùng, anh ( chị) hãy phát biểu cảm nghĩ của mình về câu chuyện của   người đàn bà? ­ Giáo viên có thể nêu vấn đề theo kiểu khái quát:   +  Thông điệp nhà văn muốn gửi đến độc giả qua nhân vât người đàn bà  là gì? 6
  7.      Như vậy, sự thay đổi linh hoạt các cách nêu vấn đề  như  thế  giúp cho   giờ học sinh động, học sinh thật sự bị “cuốn” vào bài học.         b: Nhân vật người đàn ông ­ Giáo viên có thể nêu vấn đề theo kiểu trao đổi và tổ chức cho học sinh đàm thoại với nhau để nhận thức vấn đề sâu sắc hơn. Hình thức nêu vấn đề  như thế này tạo không khí dân chủ, thân thiện trong lớp học, giúp học sinh tư  duy độc lập từ đó thúc đẩy nhanh quá trình nhận thức.   + Tại sao người đàn ông không dùng cách khác để giải quyết bi kịch của mình mà trút nỗi bực dọc vào việc đánh vợ rất tàn nhẫn?   + Tác giả muốn gửi gắm thông điệp gì qua nhân vật này?    c: Nhân vật Bé Phác ­ Giáo viên cho học sinh nêu cảm nghĩ về hành vi của Phác đối với bố? ­ Cho học sinh hóa thân vào nhân vật để  nêu cảm xúc và suy nghĩ của  Phác khi thấy mẹ  bị  bố  hành hạ, sau hành động đánh lại bố  và lúc lau nước mắt  cho mẹ? ­ Cho học sinh tưởng tượng cách ứng xử khác của Phác? ­ Suy nghĩ về nạn bạo hành gia đình? ­ Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đóng vai để nói lên tiếng nói tự  bên trong của nhân vật?  ­  Nỗi lo âu đầy trách nhiệm của nhà văn qua nhân vật bé Phác là gì?    d: Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng ­ Giáo viên cho học sinh hóa thân vào nhân vật Phùng để nói lên cảm xúc khi chứng kiến cảnh bạo hành của gia đình hàng chài ­  Qua nhân vật Phùng tác muốn người đọc nhận thức gì về cách nhìn  cuộc sống và mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời?    e: Chánh án Đẩu 7
  8. ­ Giáo viên nêu vấn đề kiểu phỏng đoán, kết quả phỏng đoán được  kiểm nghiệm theo hệ thống hỏi­ đáp   + Anh (chị) hãy phỏng đoán chánh án Đẩu đang suy nghĩ gì và đã “vỡ ra’  điều gì khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà?   + Bài học rút ra từ nhân vật Đẩu?                  Bước hai: Sau khi học sinh phát hiện ra vấn đề xã hội rút ra từ tác  phẩm,  giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhanh và phát biểu ý kiến về vấn  đề đó trước lớp .           Bước ba: Giáo viên nhận xét, đánh giá ý kiến phát biểu của học sinh.  Và có thể nhấn mạnh một số ý sau:                       Nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm gây ấn tượng về  một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, cay cực, nạn nhân của sự bạo hành từ người  chồng vũ phu nhưng bên cạnh đó chị còn hiện lên với vẻ đẹp sâu xa.       Ngoại hình: trạc ngoài bốn mươi, thân hình thô kệch, mặt rỗ lúc nào  cũng  mệt mỏi, tái ngắt.          Dưới cái vẻ bề ngoài thô kệch, thậm chí xấu xí lại là một sức sống bền  bỉ, một tâm hồn đầy tình thương và giàu đức hy sinh: khi bị chồng đánh không chống trả, không tìm cách chạy trốn, nhất quyết gắn bó với người đàn ông vũ phu dù bị “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.          Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ   Việt Nam nhân hậu, bao dung, vị tha, giàu đức hy sinh.                           Thông qua câu chuyện cuộc đời của người đàn bà, nhà văn muốn gửi 8
  9.                đến thông điêp: Không thể  dễ  dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự   việc, hiện tượng cuộc sống. Đây chính là hình tượng nhân vật ám  ảnh nhất  trong các nhân vật của thiên truyện.           Người đàn ông xuất hiện trong vẻ độc dữ gây ác cảm với mọi người           Ngoại hình: “ Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. mái   tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước những bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ  xuống hai con mắt đầy vẻ  độc dữ  lúc nào cũng nhìn dán vào   tấ m lưng áo bạc phếch và rách dưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”.        Hành vi: “Lão đàn ông lập tức trở  nên hùng hổ, mặt đỏ  gay, lão rút   trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều   phải nói với nhau họ đã nói hết,chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như   lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn   bà , lão vừa đánh vừa thở  hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két,  cứ  mỗi   nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng đau đớn…”        Có lẽ  cuộc sống đói nghèo, vất vả, quanh quẩn bao nhiêu lo toan đã   biến  “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa trở  thành một người chồng vũ  phu, một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ là lão đánh vợ, đánh như để  giải tỏa uất ức, để trút sạch nỗi tức tối, buồn phiền. Trong đời vẫn có những   kẻ như thế, nói như Nam Cao chỉ để thỏa mãn lòng ích kỉ, chúng tự cho mình  cái quyền được hành hạ  người khác để  giải tỏa những bực dọc trong lòng.  Người đàn ông này vừa đáng bị  lên án bởi sự  độc ác, thói vũ phu, tính ích kỉ  nhưng ở anh ta có chỗ để cảm thông, chia sẻ bởi xét đến cùng anh ta cũng chỉ  là một nạn nhân của cuộc sống khắc nghiệt. Trong sự bủa vây của nghèo đói,   muốn đưa   gia đình thoát khỏi bi kịch nhưng  điều kiện làm ăn sinh sống  không thuận lợi, bản thân không đủ  năng lực người đàn ông đã không trộm   cắp, cờ  bạc…mà chỉ  chọn cách hành hạ  vợ.  Phải chăng đó là dấu hiệu của   trách nhiệm với cuộc đời? Và, phải chăng khuất lấp bên trong vẻ độc dữ  của  người đàn ông là một đốm sáng cưa nhân cách? Từ  đó tác giả  gửi đến một   thông điệp:  không thể  nhìn người, nhìn đời một phía, phải tìm hiểu những   9
  10. nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành vi con người trước khi kết luận về  tính   cách hay phán xét họ; phải làm sao để nâng cao phần thiện­ cái phần người   trong những kẻ thô bạo ấy.            Nhân vật người đàn ông hàng chài gợi liên tưởng tới các nhân vất của Nam Cao như chí Phèo( Chí Phèo), Hộ( Đời thừa)…Các nhân vật này đều có điểm chung: vốn là những con người hiền lành, lương thiện nhưng do những  xô đẩy dữ dội của hoàn cảnh mà thay đổi tính cách, trở nên dữ dằn, tàn nhẫn.  Từ sự tha hóa của người đàn ông hàng chài qua điểm nhìn của một người lính đã  từng chiến đấu bảo vệ mảnh đất này, Nguyễn Minh Châu muốn nói đến một cuộc chiến mới không kém phần khó khăn gian khổ so với hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược đã qua: Cuộc chiến đấu bảo vệ nhân tính, thiên  lương và vẻ đẹp tâm hồn con người hơn thế nữa nhà văn luôn thể hiện niềm tin ở con người, luôn tìm kiếm để khẳng định các giá trị nhân bản bền trong việc  hướng con người đến tới sự thức tỉnh, sự nhận thức để hoàn thiện nhân cách.           Qua chi tiết Phùng chứng kiến gã đàn ông đánh vợ bằng chiếc thắt  lưng của lính ngụy, ở nơi có chiếc xe tăng hỏng của Mĩ Ngụy có lẽ Nguyễn Minh Châu muốn kí thác một điều: không phải hễ cứ đánh đuổi được ngoại xâm,  giải phóng được dân tộc là có thể giải phóng được con người, lại càng không thể đem vinh quang của quá khứ mà bào chữa  cho thực tại còn đầy khó khăn.  Tàn dư của xã hội cũ vẫn còn đó trong nạn bạo hành gia đình. Kết thúc tác phẩm  là sự bỏ lửng, nó nhấn sâu hơn bức thông điệp khắc khoải, đau đáu về số phận  con người sau chiến tranh. Rằng: cuộc chiến chống đói nghèo, lạc hậu còn diễn  ra 10
  11. dai dẳng. Nó cũng khốc liệt chắng khác gì cuộc chiến chống ngoại xâm vừa qua.           Bé Phác          Giáo viên tổ chức cho học sinh đóng vai phỏng vấn (PV) và người trả  lời phỏng vấn (TLPV)  để rút ra vấn đề xã hội qua nhân vật này.   + PV: Vì sao Phác giật chiếc thắt lưng quật lại bố rồi cầm dao ngăn bố?    TLPV: Vì bố hành hạ mẹ, tôi muốn bảo vệ mẹ.   + PV: nhưng người đó lại là bố, Phác không sợ mất bố sao?     TLPV: Ông ấy quá độc ác, người như thế không phải là bố tôi.   + PV: Đành là thế. Phác không còn cách hành xử nào khác sao?     TLPV: Tôi không biết.   + PV: Phác có cảm xúc gì và suy nghĩ như thế nào sau hành động đánh lại  bố và lúc lau nước mắt cho mẹ?     TLPV: Tôi rất thương mẹ, tôi lau những giọt nước mắt trên mặt mẹ như muốn xóa đi những đau khổ  bất hạnh của mẹ. Tôi tuyên bố  nếu tôi còn có   mặt ở dưới biển này thì mẹ tôi không bị đánh… Tôi không hiểu nổi tại sao bố độc   ác còn mẹ lại chịu đựng như thê. Tôi rất đau khổ khi sống trong gia đình không  có tình thương.     Sau cuộc phỏng vấn, học sinh nhận thức được:            Phác đáng trách ở hành vi đối với bố, đáng mến ở tình thương  mẹ dào dạt, đáng thương xót bởi phải chịu cảnh bạo hành gia đình.          Đề cập tình trạng bạo lực trong gia đình cậu bé Phác, nhà văn đã dấy lên   trong lòng người đọc nỗi lo âu đầy trách nhiệm về tình trạng phụ nữ  và trẻ   em bị ngược đãi, về nguy cỏ trẻ em sớm nhiễm thói vũ phu, thô bạo do bị tổn   thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào cuộc sống đồng thời kêu gọi mọi   người hãy bảo vệ  trẻ  em, chống nạn bạo hành gia đình và trách nhiệm của   cha mẹ đối với con cái. Cha mẹ sinh ra con cái phải có trách nhiệm đối với   11
  12. chúng – cho chúng một không khí gia đình hòa thuận hạnh phúc, nuôi dạy   chúng nên người, không vì hạnh phúc, sự  ích kỉ  cá nhân mà làm gia đình tan   vỡ, làm tổn hại tâm hồn và tương lai của con trẻ. Nhà văn cũng chỉ  ra một  nguy cơ đáng sợ: Nếu không giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối thì   không thể tiêu diệt được các ác.         Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng         Qua nhân vật Phùng, tác giả muốn người đọc nhận thức rằng:  cuộc đời   không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí. Cuộc sống luôn   tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn: xấu­ đẹp, thiện­ ác…khi nhìn   nhận, đánh giá con người và sự  vật, hiện tượng trong cuộc sống không nên   nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngoài với nội dung bên   trong; đừng vội đánh giá con người, sự vật, hiện tượng khi chưa thấu thị.          Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: Nghệ thuật không thể chỉ   dừng lại ở vẻ đẹp bề ngoài mà còn phải thấu thị tới bề sâu, bề sâu của cuộc   đời không hề đơn giản mà tâm điểm chính là con người với số phận đa đoan,   với ,mọi nhọc nhằn và cả  khổ  đau, không hiếm những ngang trái bi kịch .  Hành trình của gia đình kì lạ kia đã phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình  yêu và hạnh phúc, về lòng nhân ái và sự khoan dung.          Chánh án Đẩu: Nhận thức vấn đề xã hội qua nhân vật Đẩu         Đẩu có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng anh chưa thực sự đi sâu   vào đời sống nhân dân. Lòng tốt đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần   thiết nhưng cần phải đi sâu vào đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải   được đặt vào những hoàn cảnh cụ  thể, không thể  áp dụng cho bất kì đối   tượng nào. Con người cần phải vượt lên, từ bỏ cái nhìn và lối nghĩ đơn giản   để  nhìn thấu cái phức tạp đa đoan của hiện thực cuộc  đời còn không ít   những nghịch lí và từ  bỏ   ảo tưởng về  sự  thay đổi dễ  dãi cuộc sống con   người sau chiến tranh. 4. Kiểm nghiệm  12
  13.      Tôi kiểm nghiệm hiệu quả của việc triển khai sáng kiến kinh nghiệm  bằng thực nghiệm sư phạm và đánh giá kết quả thực nghiệm. a. Mục đích của thực nghiệm:      Mục đích của thực nghiệm là kiểm tra tính khả thi của vấn đề nêu trong  sáng kiến kinh nghiệm qua đó đánh giá khả năng ứng dụng cách thức giúp  học sinh tích cực chủ động phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học  vào hoạt động dạy học môn ngữ văn, trên cơ sở đó đối chiếu kết quả giữa  lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để xác định tính  đúng đắn và mức độ  thành công của đề tài.  b. Đối tượng:      Tôi chọn học sinh của 4 lớp khối 12 ban cơ bản trường THPT Triệu Sơn  IV,  2 lớp dùng dạy thực nghiệm, 2 lớp dùng đối chứng, trình độ học sinh  tương đối đồng đều, sĩ số bằng nhau, điều kiện học tập bình thường. c. Tổ chức dạy học thực nghiệm 1 tiết ( tiết 71 theo PPCT ban cơ bản) ­ Tôi tiến hành dạy thực nghiệm theo hướng đã trình  bày như trên, tiến  trình bình thường, đảm bảo tính khách quan ­ Kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh sau giờ dạy: Cả hai lớp thực  nghiệm và đối chứng có cùng một đề kiểm tra và đáp án. Tôi trực tiếp chấm bài kiểm  tra và xử lí bằng phương pháp toán học. d. Đánh giá kết quả thực nghiệm: ­ Căn cứ vào không khí giờ học ( sôi nổi chủ động hay im lặng thụ động) ­ Căn cứ vào phản ứng của học sinh trước tình huống có vấn đề ( học sinh  tỏ ra phấn khởi hào hứng hay thờ ơ) ­ Căn cứ vào dung lượng kiến thức được chuyển tải trong tiết học ­ Căn cứ vào mức độ tư duy của hoc sinh ( hăng hái tham gia trao đổi thảo luận hay chậm chạp, không linh hoạt) e. kết quả thực nghiệm 13
  14. Bảng đánh giá tổng hợp kết quả bài kiểm tra của học sinh lớp đối chứng   (ĐC) và lớp thực nghiệm (TN) Đối  Điểm bài kiểm tra tượng Điểm 1­2 Điểm 3­4 Điểm 5­6 Điểm 7­8 Điểm 9­10 SL % SL % SL % SL % SL % TN 00 00 10 12.3 42 47.4 32 35.1 8 5.2 92 HS ĐC 5 5.3 21 22.8 51 54.8 13 14.5 2 2.6 92 HS * Bảng điểm cho thấy:   ­ Ở lớp thực nghiệm:    + Tỉ lệ bài đạt điểm khá, giỏi cao hơn so với lớp đối chứng ( TN: 40.3% >   ĐC: 17.1%).      + Số  học sinh trung bình và yếu giảm xuống, đặc biệt tỉ  lệ  học sinh yếu  giảm đáng kể ( TN: 12,3% 
  15. sống từ đó giúp các em  rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội. Điều này   thực sự góp phần nâng cao chất lượng học tập môn Ngữ văn của học sinh. III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 1. Để  có thể  tổ  chức hiệu quả  những tiết dạy học tác phẩm văn chương   theo cách thức giúp học sinh chủ   động tích cực phát hiện những vấn đề  xã hội   trong tác phẩm văn học, giáo viên cần lưu ý một số vấn đề sau :      Mỗi tác phẩm văn chương nghệ thuật chứa đựng những hình tượng nghệ  thuật đa nghĩa, phản ánh nhiều vấn đề  xã hội khác nhau. Vì vậy trước hành  động tích cực tiếp nhận của người đọc, nó hiện lên như một cấu trúc vừa ổn  định vừa biến đổi của những hình  ảnh mang ý nghĩa thẩm mĩ. Nội dung ý   nghĩa của tác phẩm là một hệ thống mở đối với những cách lí giải khác nhau.  Cho nên mỗi sự  phát hiện, cắt nghĩa, lí giải đúng đắn, hợp lí về  ý nghĩa tác  phẩm đều có khả  năng mang lại cho học sinh những tác động  ảnh hưởng   nhất định, tạo nên hệ quả đa chiều. Vì vậy trong giờ  đọc văn, giáo viên cần   tránh giới hạn, gò ép vào một kết quả diễn giảng duy nhất, vào quan điểm, ý   đồ  của nhà văn mà cần gợi ra cho học sinh nhiều chiều hướng lí giải khác   nhau về  ý nghĩa tác phẩm. Đặc biệt cần tránh tình trạng chỉ  chú trọng khai   thác khía cạnh xã hội  mà không có sự  đầu tư  thỏa đáng cho việc tiếp nhận   những giá trị khác của tác phẩm văn học.      Ngoài ra, việc tiếp nhận văn học của học sinh bao giờ cũng vừa mang tính  cá nhân gắn liền với cảm xúc, vốn sống, thị  hiếu, trình độ, tâm lí riêng của   từng cá thể lại vừa mang tính tập thể xã hội, thể hiện sự gặp gỡ, quan điểm   chung, tiếng nói hòa đồng của tập thể   lớp. Cho nên giáo viên cần phải tác  động và xử lí thông qua các định hướng sư phạm thích hợp, tinh tế nhằm cân   bằng ở chừng mực nhất định, tạo ra được sự nhất trí thỏa đáng trên tinh thần   chung của lớp học, đồng thời nhấn mạnh và phát huy tính tích cực sáng tạo,  năng động chủ  quan của học sinh. Muốn vậy , giáo viên cần có những định   hướng cho từng đối tượng học sinh, phải nhạy bén nắm bắt, kích thích và   15
  16. phát huy tính sáng tạo của các em, khơi gợi các hoạt động bên trong của mỗi   học sinh để các em tiếp nhận tác phẩm, tự tin và hào hứng phát biểu ý kiến,   bộc lộ cái riêng của mình.      Trong quá trình dạy học, gíao viên cần vận dụng nhiều phương pháp, nhất   là phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm, … tạo không khí học tập nhẹ  nhàng, linh hoạt, thân thiện nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả sư phạm, phát huy  được tối đa tính chủ  động, sáng tạo của học sinh trong học tập. Mặt khác,  việc giáo viên nhận xét, đánh giá ý kiến phát biểu của học sinh  cũng hết sức  quan trọng. Nó là một trong những yếu tố tạo hứng thú học tập cho học sinh,   tác động trực tiếp đến hiệu quả giáo dục. Vì vậy  giáo viên cần nắm vững kĩ   năng sư phạm, nhạy bén, xử lí tình huống hợp lí, có sự định hướng, nhận xét   và đánh giá thỏa đáng, điều chỉnh, uốn nắn những quan niệm, cách nghĩ,   cách   hiểu   lệch   lạc,   sai   quỹ   đạo   chung,   đồng   thời,   động   viên   khen   ngợi,   thưởng điểm cho những học sinh đúng lúc sẽ  giúp các em hứng thú, chủ   động, tích cực hơn trong việc học văn.   2.  Qua viêc thực hiện đề tài, tôi mạnh dạn đề xuất một vài ý kiến sau:           Thống nhất quan điểm giáo dục tích cực là dạy học phát huy tính chủ  động, sáng tạo của chủ  thể  học tập nhưng  không nên tuyệt đối hóa vai trò   của học sinh mà coi nhẹ  văn bản văn học và vai trò của giáo viên. Mô hình  dạy học tối ưu là mô hình tương tác nhiều chiều với ba điểm nhìn: Nhà văn,  giáo viên và học sinh        Không thể  biệt lập hóa, chuyên biệt hóa phương pháp của các bộ  môn   vốn có nhuwnngx điểm giao thoa.  Ví dụ: Có những điểm gần gũi giữa dạy  học nêu vấn đề của môn Ngữ văn với thảo luận nhóm hay thuyết trình trong   giờ học các bộ môn, khác chăng là ở tư liệu học tập.      Không có phương pháp, biện pháp dạy học nào là tối ưu, điều quan trọng  là trong quá trình tổ  chức soạn giảng giáo viên phải biết lựa chọn kết hợp   sao cho các phương pháp, biện pháp phát huy được những thế mạnh của nó   để đem lại hiệu quả cao trong dạy học.      Cách thức dạy học giúp học sinh tích cực, chủ động phát  hiện vấn đề  xã  hội trong tác phẩm văn học cần được quan niệm một cách “mềm dẻo” hơn,  16
  17. sử dụng một cách linh hoạt hơn để nó thực sự “là yếu tố cấu thành, là động   lực cho tiến trình giảng dạy môn Ngữ văn. 3. Tất cả những đề  xuất của đề  tài xuất phát từ  những yêu cầu cơ  bản của   việc đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường trung học phổ thông  hiện nay, là kết quả của sự tìm tòi học hỏi với quan niệm giáo viên là động  lực của quá trình đổi mới phương pháp. Tuy nhiên, những vấn đề mà tôi đặt  ra trong sáng kiến kinh nghiệm khó có thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy,   tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn đồng  nghiệp để  đề  tài được phát triển và thực nghiệm trên diện rộng, nâng cao   hơn nữa giá trị thực tiễn. Thanh Hóa, ngày     tháng 5 năm 2013 XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN  của mình viết, không sao chép  nội dung của người khác   Thiều Thị Thanh Lê 17
  18. MỤC LỤC I. Lí do chọn đề tài   ………………………………………………  Trang 01 II. Nội dung đề tài   ..…………..…………………………………   Trang 02 1. Cơ sở lí luận …………………………………………………… Trang 02 2.  Thực trạng của việc dạy học giúp học sinh tích cực,                chủ động phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học       Trang 03…   3. Giải pháp và tổ chức thực hiện       ……………………………Trang 04      4. Kiểm nghiệm    ……………………………………………          Trang 11     III. Kết luận và đề xuất                                                                Trang 13 18
  19. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0