intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 4 qua phân môn tập đọc

Chia sẻ: Sinh Sinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

78
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phân môn Tập đọc trong chương trình Tiếng Việt, ngoài nhiệm vụ rèn đọc đúng còn có hai nhiệm vụ quan trọng: rèn đọc diễn cảm và rèn năng lực cảm thụ văn học cho học sinh. Đây là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau: Cảm thụ văn học tốt giúp cho việc đọc diễn cảm tốt và ngược lại, đọc diễn cảm tốt giúp cho việc cảm thụ nội dung, tư tưởng của những bài văn, bài thơ thêm sâu sắc. Đọc hiểu và cảm nhận được cái hay, cái đẹp của các tác phẩm văn học sẽ giúp các em mở mang thêm tri thức, phong phú về tâm hồn. Sáng kiến kinh nghiệm này trình bày một số biện pháp bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 4 qua phân môn tập đọc. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 4 qua phân môn tập đọc

  1. A.M   Ở ĐẦU  I/ PHẦN MỞ ĐẦU:    Lời bất hủ của thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc sinh thời đã nói “ Nét  chữ nết người  “. Quả thật như thế: Chữ viết cũng là biểu hiện của nết   người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần  rèn cho các em tính cẩn thận lòng tự  trọng đối với mình, cũng như đối  với thầy cô và bạn đọc bài vở của mình .   Từ những buổi đầu tiên khi bước chân tới trường, trẻ bắt đầu làm  quen với việc học đọc, học viết. Vui sướng bao nhiêu khi các bậc cha  mẹ  nhìn thấy con mình tròn môi đánh vần và gắng viết những nét chữ  đầu tiên .Nếu như học vần,  tập đọc  giúp trẻ đọc thông thì tập viết giúp   trẻ viết thạo mở đường cho trẻ  ghi nhanh, ghi sáng những điều thầy cô  giảng và cả những điều trẻ nghĩ. Nhìn trang vở tập viết với những dòng  chữ đều tăm tắp, sạch sẽ, lòng ta dấy lên niềm vui, ta như được củng cố  thêm niềm tin vào tương lai con trẻ. Nhưng muốn viết thạo trẻ  phải   gắng công khổ  luyện dưới sự  chăm sóc tận tình của các thầy giáo, cô  giáo . Tập viết  ở  trường Tiểu học truyền thụ  cho học sinh những kiến   thức cơ bản về chữ viết, học sinh nắm bắt được các kiến thức cơ  bản   về cấu tạo bộ chữ cái la tinh và ghi âm Tiếng Việt, sự thể hiện chữ này   trên bảng, vở, đồng thời được hướng dẫn các yêu cầu kỹ thuật viết các   nét chữ, chữ  cái, tiếng, từ  và câu, rồi tiến đến viết một đoạn văn hoặc   cả bài. Vì vậy để có khả năng dạy tốt phân môn Tiếng Việt ở lớp 1 theo   nội dung sách giáo khoa và vở tập viết, tôi đã nghiên cứu đầy đủ về mẫu   chữ viết trong trường tiểu học được thực hiện từ năm học 2002 – 2003.  Nắm vững một số  quy định về  dạy và học viết chữ  ở  trường Tiểu học   theo Quy định số: 31/2002/QĐ­BGD&ĐT ngày 14 tháng 6 năm 2002 của  Bộ  trưởng bộ  Giáo dục và đào tạo. Để  so sánh về  độ  cao, hình dạng  cách trình bày với mẫu chữ  tại Thông tư  29/TT ngày 25 tháng 9 năm   ­ 1 ­
  2. 1986, để tạo điều kiện thuận lợi cho dạy và học theo xu hướng mới cho   học sinh lớp 1 nói riêng và học sinh Tiểu học nói chung.  Riêng  ở  lớp 1 việc dạy tập viết được phối hợp nhịp nhàng với  việc dạy học vần, học sinh luyện viết chữ dưới hai hình thức chủ yếu:  Luyện viết chữ trong các tiết học âm, chữ ghi âm ­ vần và viết theo các  yêu cầu kỹ thuật trong các tiết tập viết.  Ngoài các ý nghĩa to lớn nói trên  tập viết với những quy tắc chặt chẽ  tr ước những mẫu chữ  đẹp còn là  môi trường quan trọng bồi dưỡng cho trẻ  những phẩm chất như: Tính  cẩn thận , tinh thần kỷ luật và óc thẩm mỹ. Là một giáo viên trực tiếp   dạy lớp 1 trong năm học 2010­ 2011, tôi nhận thấy “ Tập viết là một  trong những nội dung có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu học, nhất là đối  với học sinh lớp1 “. Bởi lẽ tập viết trang bị cho học sinh ch ữ cái La tinh   và những yêu cầu kỹ  thuật để  sử  dụng bộ  chữ  cái đó trong học tập và  giao tiếp, Nếu viết chữ đúng mẫu, rõ ràng, tốc độ  nhanh thì học sinh có  điều kiện chép bài tốt, nhờ  vậy kết quả  học tập sẽ  cao hơn, viết xấu,   tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập. Ngày nay, chất lượng chữ  viết của học sinh bậc tiểu học nói riêng và  các cấp học nói chung đang là vấn đề  được mọi người quan tâm. Thật  đáng buồn biết bao khi tỉ  lệ  học sinh chữ  rõ ràng, đủ  nét, ngay ngắn,   thẳng hàng càng thấp. Trong thực tế có những học sinh viết rồi mà khi   đọc lại thì không đọc nổi nổi chữ  của mình nói gì tới giáo viên đọc để  chấm, chữa bài. Vì vậy rèn luyện học sinh có kỹ năng viết chữ đẹp ngày  càng được quan tâm, chú trọng đặc biệt.  Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài : “ Phương pháp rèn chữ  viết cho học sinh lớp 1 “  nhằm giúp các em có  một vốn kiến thức về cấu tạo chữ viết ,quy trình viết chữ vững chắc để  học lên các lớp học trên được tự tin hơn II/ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: ­ 2 ­
  3. ­Trong quá trình giảng dạy tôi thấy đối tượng học sinh của tôi  ( phát âm chưa chuẩn tiếng phổ thông ), một số em còn nói ngọng do đó   các em hay viết sai lỗi chính tả. Ví dụ: ­ ch/tr; s/x; ?/~  ­ uynh, inh; hưu,hiêu…          ­ Cách đặt bút, dừng bút của các em chưa rõ ràng gây cho học sinh   lúng túng trong khi viết.Tư  thế  ngồi viết chưa đúng như: Lưng không  thẳng ,các em còn ngồi tự do như đang ngồi chơi . Ngực tì vào cạnh bàn,  mắt cúi sát xuống trang vở ,hai chân choải dài ,lưng không thẳng . ­ Là lớp đầu cấp nên học sinh chưa có ý thức nề  nếp học tập và  phương pháp học.  ­ Trong lớp vẫn còn một số em chưa qua lớp mẫu giáo. Một số em  do sức khoẻ  yếu nên tác phong chậm,  ảnh hưởng nhiều đến tác phong  học tập . ­ Hầu hết học sinh nói chung, học sinh lớp 1A nói riêng cha mẹ  sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, đi làm thuê con ở  nhà với ông bà,  kinh tế  gia đình gặp nhiều khó khó khăn, bố  mẹ  không mấy quan tâm  đến việc học của con em, phó mặc hoàn toàn cho cô giáo chủ  nhiệm.   Các em còn thiếu bút, vở ,đồng thời trong quá trình dạy dỗ các em cách   học ,cách viết đều do cô đảm nhận để các em hình thành một thói quen   ngay từ  đầu cấp học Vì bố  mẹ  ông bà ít ai quan tâm đến việc con cái   của họ  có ngồi đúng tư  thế  học hay không vì thực ra họ  cũng không  hiểu được tư thế ngồi viết bài có tầm quan trọng trong cả quá trình học  tập và rèn luyện như thế nào.. ­ Các em đang học từ mẫu giáo vừa học vừa chơi, nay đến tr ường  Tiểu học phải thực hiện nề nếp: Học ra học, chơi phải tuân thủ theo nội  quy, quy định của nhà trường. Vì vậy giáo viên rất khó khăn trong khâu  quản lý và đưa các em vào nề  nếp . Hơn nữa các em tiếp xúc với kiến  thức học cao và nhiều cái mới lạ mà cha mẹ  các em ít hoặc không nắm  ­ 3 ­
  4. được . Điều này gây không ít khó khăn trong công tác giảng dạy của giáo  viên và học tập ở nhà của học sinh: ­ Chưa đảm bảo điều kiện vật chất, đồ  dùng học tập viết đúng  quy định, khoa học. Bên cạnh số  học sinh chịu khó, chăm chỉ  tập viết cũng   có học  sinh ngại viết hay viết ngoáy, ý thức tự  học kém, chưa kiên trì và và  chịu khó học tập. Trong cuộc họp phụ  huynh giữa năm học khi chưa nhắc đến có  em còn viết chữ xấu thì có một số phụ huynh phát biểu như sau: ­ Tay các em nhỏ nên cầm bút khó, mỏi ­ Việc học hành chữ  xấu hay đẹp là nhờ  các thầy cô dạy bảo  ở  trường, gia đình chị vì bận và còn một phần phụ huynh thì bảo  Con cái  chỉ nghe lời cô mà không nghe lời bố mẹ . Sau khi nhận lớp được 2 tuần, tôi tiến hành kiểm tra về chữ viết   của học sinh bằng việc cho học sinh viết lại các chữ cái đã học: e, ê, b,  v, l, h  (Mỗi chữ một dòng trong vòng 30 phút ) Tổng hợp kết quả xếp loại vở sạch chữ đẹp đầu năm. Tổng  Chữ loại A Chữ loại B Chữ loại C số h/s SL TL SL % SL % 28 2 7,12 19 67,64 7 24,92 Qua khảo sát đầu năm, tôi thấy học sinh viết còn yếu chưa nắm  vững được quy tắc viết. Cách ngồi chưa đúng tư thế, cách cầm bút chưa  đúng quy định. Vì vậy các em viết còn xấu và chưa chuẩn về  độ  cao,  kích thước cho nên chất lượng chữ viết đầu năm còn kém. III / KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ CỦA THỰC TRẠNG: 1/ KẾT QUẢ CỦA THỰC TRẠNG: ­ 4 ­
  5. Sau một thời gian giảng dạy và nghiên cứu nắm được thực trạng của  học sinh đầu cấp học nên tôi đã giúp học sinh: ­ Viết đúng: Hình dáng, đường nét, khoảng cách chữ ... ­ Viết đẹp: Tính thẩm mỹ của bài viết, viết liền nét chữ ... ­ Viết nhanh: Đảm bảo tốc độ quy định  Mặt khác các em lại rèn được đức tính kiên trì khi học và khi làm bài. 2/ HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯƠC:    Hiệu quả đạt được sau gần một năm giảng dạy như sau: Chữ loại A Chữ loại B Chữ loại C Định kỳ SL % SL % SL % Đầu  2 7,12 19 67,64 7 24,92 năm Giữa   kỳ  10 35,7 18 64,3 I Cuối   kỳ  15 56,2 13 43,8 I Giữa   kỳ  20 71 8 29 II Cho đến nay lớp tôi còn 8 em chữ viết xếp loại B, tôi sẽ cố gắng   nhiều hơn, sát sao hơn để  uốn nắn các em đến cuối năm học   chất  lượng chữ viết lọai A  được nâng cao hơn nữa cả về chữ và vở.  B/  NỘI DUNG I/ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: ­ 5 ­
  6. + Về  hình thức: Tập viết dạy học sinh những khái niệm cơ  bản  về đường kẻ, dòng kẻ, toạ  độ  viết, tên gọi nét chữ, cấu tạo chữ  cái, vị  trí dấu thanh, dấu câu , các khái niệm liên kết nét chữ  hoặc liên kết các  chữ … Từ đó hình thành cho các em những biểu tư ợng về hình dáng, độ  cao, sự cân đối, tính thẩm mỹ của chữ viết.            + Về kỹ năng: Dạy học sinh các thao tác chữ  viết từ  đơn giản   đến phức tạp bao gồm kỹ năng viết nét, liên kết nét tạo chữ cái và liên  kết chữ tạo chữ ghi tiếng. Đồng thời giúp các em xác định khái niệm cỡ  chữ trên vở kẻ ô ly để  hình thành kỹ  năng viết đúng mẫu chữ , rõ ràng   và cao hơn là viết nhanh viết đẹp. Ngoài ra tư thế ngồi viết, cách cầm  bút, để vở, cách trình bày bài viết cũng là một kỹ năng đặc thù của việc   dạy học tập viết mà giáo viên cần thường xuyên quan tâm chú ý đến.            +Tư thế ngồi viết: ­ Lưng thẳng ­ Không tỳ ngực vào bàn ­ Đầu hơi cúi ­ Mắt cách vở 25   30 cm ­ Tay phải cầm bút, tay trái tỳ nhẹ lên mép để giữ vở ­ Hai chân để song song thoải mái Tiếp tục dạy học sinh cách cầm bút ­ Cầm bút bằng 3 ngón tay ( Ngón cái, ngón giữa, ngón trỏ ) kể cả  khi viết ( Hai ngón tay và phần dưới của bàn tay là chỗ dựa khi viết ) Tiếp tục hướng dẫn học sinh cách viết. Sau khi hướng dẫn tỷ mỉ  tôi dành hẳn một tiết đầu để  tập cho các em làm, tôi quan sát từng em  để sửa lại cho học sinh. Việc tập viết không đảm bảo quy định đã được xây dựng trên cơ  sở khoa học sẽ để lại nhiều di hại suốt cuộc đời học sinh. Mắt cận, cột  sống cong vẹo, lưng gù.....do ngồi không đúng tư thế. ­ 6 ­
  7. Vì vậy khi hướng dẫn học sinh tập viết cần phải coi việc phối   hợp đồng bộ các bộ phận Tay,đầu,mắt,cổ…  Và từ  đó trong quá trình học sinh viết, tôi luôn nhắc nhở  và động viên  kèm cặp các em. Sau còn một số  em phải uốn nắn thêm vài tuần nữa  mới tạo cho mình thói quen tư thế ngồi viết đúng trong sự uốn nắn của  tôi. Về  cách cầm bút, đầu tiên tôi hướng dẫn và làm mẫu trước cho  toàn lớp quan sát thật kỹ­ sau đó tôi cho cả lớp thực hành giơ lên thì 2/3   lớp cầm bút đúng, còn lại tôi tiếp tục sửa luôn. Tiếp   theo   luyện   để   học   sinh   viết   nét   thẳng,   nét   cong,   nét  khuyết...tôi đi quan sát tổng thể  thì các em vẫn còn một số  em ngồi  chưa đúng tư thế, cầm bút còn sai, bằng lòng kiên trì tôi tiếp tục hướng   dẫn các em làm đúng quy định. Đối với lứa tuổi các em nhanh nhớ  nhưng cũng   nhanh quên. Vì  vậy trong suốt quá trình dạy, tôi luôn sát sao nhắc nhở  kịp thời những  em có biểu hiện tư  thế ngồi viết sai và cầm bút không đúng quy cách.   Bởi muốn viết em phải nhìn lại mình để đặt vở sao cho đúng cách. Khi   học viết chữ cái học sinh phải nhớ hình dạng của nó thể hiện trên dòng  kẻ và nhớ di chuyển ngòi bút. Em đó cần nhớ tư  thế ngồi nào cho hợp  lý. Một đứa trẻ  sẽ  không quen thuộc mọi việc nêu trên về  những hoạt  động đó đòi hỏi sự nổ lực về ý chí. Khi một học sinh lớp 1 viết, các bộ  phận trong cơ thể nó đều căng thẳng, đặc biệt là các cơ quan trong bàn   tay và ngón tay, điều này dẫn tới việc cần phải thực hiện các bài tập  thể  dục trong khi chuyển tiết học. Do vậy trong mỗi giờ  tập vi ết tôi   thường   cho   học   sinh   chơi   trò   chơi,   múa   hát   các   bài   hát   để   thư  giản.....nhằm giúp học sinh thả  lỏng chân tay, quên đi sự  căng thẳng  mệt mỏi để tiếp tục giờ học được tốt hơn. Sự  phân tích nguyên tắc này cho thấy kỹ  năng viết của học sinh  chỉ  thực sự  có được khi có sự  đồng bộ  của các bộ  phận cơ  thể. Việc   ­ 7 ­
  8. đánh giá sản phẩm chữ  viết được kết hợp với việc theo dõi quá trình  viết của các em. II/ CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: Việc rèn kỹ  năng đòi hỏi người học sinh phải chi viết chính xác  sản phẩm, nắm vững cách thao tác kỹ thuật và kiên trì lặp đi lặp lại các  thao tác đó. Chữ viết Tiếng Việt  là hệ thống chữ cái ghi âm, mỗi nhóm  chữ  cái có đặc điểm riêng nên quy trình thực hiện các thao tác  ở  từng  nhóm cũng không giống nhau. Do đó, khi rèn luyện kỹ  năng viết chữ  học sinh phải nắm được hình dáng, đặc điểm của từng chữ cái, các thao  tác viết nhóm chữ  cái ( Thao tác viết nhóm chữ  cái, chữ  nét cong khác  thao tác viết nhóm chữ nét khuyết... ) và phải luyện tập liên tục nhiều  lần trên vở tập viết. Tuy nhiên đặc điểm tâm­sinh lý lứa tuổi học sinh lớp 1 thường   gặp phải 2 khó khăn lớn: + Tri giác của các em thiên về nhận biết tổng quát đối tượng, chi   tiết từng nét chữ, từng động tác kỹ thuật tỉ mỉ. Do vậy, khi tiếp thu kỹ  thuật viết chữ, học sinh không tránh khỏi những lúng túng, khó khăn. + Học sinh lớp 1 thường hiếu động, thiếu kiên trì, khó khăn thực  hiện các thao tác đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận. Để  khắc phục những nhược điểm trên, người giáo viên phải có  đức tính kiên trì, tận tình tránh nôn nóng, tức giận. Sự  nhiệt tâm, chu   đáo của giáo viên là một trong những yếu tố  đảm bảo sự  thành công   của giờ dạy tập viết. Kỹ năng viết chữ được rèn luyện ở 2 mức độ: + Tập viết các chữ  cái, phải đúng hình dáng, cấu tạo, quy trình  viết. + Tập viết  ứng dụng; Giáo viên hướng dẫn học sinh viết liền  mạch các chữ cái, viết dấu phụ, dấu thanh trên hoặc dưới các chữ cái. Để  hình thành kỹ  năng viết cho học sinh, việc dạy tập viết phải   trải qua 2 giai đoạn: ­ 8 ­
  9. Giai đoạn 1: Giai đoạn này hình thành và xây dựng biểu tựng về  chữ   viết,   giúp   các   em   hiểu   và   ghi   nhớ   được   những   hình   dáng   kích  thước, quy trình viết từng chữ cái. Các hiểu biết này giúp học sinh viết  chữ  một cách tự  giác. Như  vậy kết quả  đạt được sẽ  nhanh và chắc  chắn hơn. Bước 1: Mô tả cấu tạo chữ:  Ví dụ: Chữ a gồm 2 nét: Nét cong kín và nét móc ngược. Bước 2: Giáo viên hướng dẫn quy trình viết các nét + Để  viết nét tròn ta nên chấm các điểm chuẩn 1, 2, 3, 4 (làm  mẫu) rồi nối các điểm đó cho tròn. + Để viết nét móc ngược ta chấm điểm 5, 6 sau đó nối 2 điểm này   lại.  VD :Các con chữ a , â, ă ... + Giáo viên đưa ra các mẫu chữ có sẵn trong bộ đồ dùng chữ viết   làm mô hình trực quan.  Giai đoạn 2: Đây là giai đoạn củng cố Hoàn thiện các biểu tượng về  chữ  viết thông qua các hình thức  tập luyện viết chữ. Giai đoạn này hướng dẫn các em luyện viết các chữ  cái để luyện viết tiếng, từ ứng dụng. Khi các em viết sang tiếng, từ  câu  ứng dụng để  giúp các em viết  đẹp tôi phải hướng dẫn học sinh viết đúng cỡ  chữ, kiểu chữ, đảm bảo  nguyên tắc liền mạch trong khi viết, có khoảng cách hợp lý. Các con chữ trong 1 tiếng cách nhau nửa con chữ. Các tiếng cách   nhau một con chữ. Các từ  cách nhau 2 con chữ.( Lưu ý lấy con chữ  o   làm chuẩn ). Ngoài ra đối với việc tô chữ  cái viết hoa đòi hỏi giáo viên nắm   được một cách chắc chắn từng kiểu chữ  để  hướng dẫn cho học sinh   ­ 9 ­
  10. nắm bắt được đáp  ứng cho yêu cầu tô đúng. ( Giáo viên phải nắm tên  nét để tiện trong quá trình hướng dẫn ) Ví dụ :Để hướng dẫn học sinh tô chữ  cái a, A, giáo viên cho học  sinh quan sát mẫu. Rồi nêu tên nét (hướng dẫn học sinh nêu) cuối cùng là quy trình tô (tô  theo thứ tự các nét). Đặc biệt trong việc dạy học sinh hình thành kỹ năng viết chữ, cần  phải quan tâm đến yếu tố  cảm xúc­tâm lý chi phối việc viết chữ. Quá  trình lĩnh hội và thể hiện chữ viết ở các em sẽ diễn ra rất nhanh nếu trẻ  viết với tâm lý vui vẻ, phấn chấn khi được tiếp xúc mảnh liệt nhưng   cũng rất hồn nhiên sinh động khi trẻ học viết chữ. Vậy để  làm được những vấn đề  như  đã nêu trên đòi hỏi người   giáo   viên  không   được   cứng  nhắc   đơn  điệu   trong   việc  vận   dụng  các  phương pháp dạy học mà trái lại cần có sự  mềm dẻo, linh hoạt trong   việc vận dụng các phương pháp dạy tập viết. Đối   với   học   sinh   lớp   1   tôi   nhận   thấy   3   phương   pháp   sau   đây  thường được quan tâm sử dụng nhiều hơn cả trong việc dạy tập viết. Phương pháp trực quan:      Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con   đường: Kết hợp mắt nhìn với tay nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các  em chủ  động phân tích hình dáng, kích thước và cấu tạo theo mẫu, tìm   sự  giống nhau giữa chữ  cái đang học với chữ  cái đã học trước đó trong  cùng 1 nhóm các thao tác so sánh tương đồng. VD: Bài 9 ( vở tập viết ),.Chữ o , e.         Bài 10 ( vở tập viết ) cho học sinh luyện chữ ô. ơ * Chữ mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết, đây là   điều kiện đầu tiên để  các em viết đúng. Tuy nhiên chữ  mẫu có nhiều  hình thức: Chữ  mẫu cơ  bản in sẵn, chữ  mẫu phóng to trên bảng, trong  vở tập viết, hộp chữ mẫu.....Tiêu chuẩn cơ bản của chữ mẫu phải đúng  ­ 10 ­
  11. mẫu quy định, rõ ràng và đẹp. Chữ  mẫu có tác dụng tạo sự  chú ý tập   trung cao độ của học sinh trong tiểu học cụ thể: + Chữ mẫu phóng to trên bảng có tác dụng giúp học sinh dễ quan  sát, từ đó tạo điệu kiện để các em phân tích hình dáng, kích thước và các  nét cơ  bản cấu tạo chữ  cái trong 1 chữ  nhằm đảm bảo yêu cầu viết  trong bài học. + Chữ  mẫu của giáo viên viết trên bảng lớp giúp học sinh nắm  được thứ  tự  viết các nét chữ  trong từng chữ  cái ( Quy trình viết ) cách   nối các chữ  cái trong một chữ  nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch,  viết nhanh + Chữ mẫu trong hộp chữ giúp học sinh kết hợp mắt nhìn, tay sờ  để kết hợp thành các thao tác viết chữ 1 cách đồng bộ. Bên cạnh đó, chữ  viết của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng  được học sinh quan sát như loại mẫu chữ. Vì thế giáo viên cần có ý thức   viết đẹp, đúng mẫu rõ ràng. Ngoài ra, để việc dạy chữ viết không đơn điệu, giáo viên cần coi  trọng việc xử  lý giữa đọc và viết. Do đó trong tiến trình dạy tập viết  nhất là tập viết những âm hay nhầm lẫn (r/d/gi;tr/ch;s/x). Giáo viên cần  đọc mẫu ( Có thể  đọc nhiều lần ). Viết đúng sẽ  củng cố  cho việc đọc  đúng và đọc đúng đóng vai trò quan trọng để đảm bảo viết đúng.    Phương pháp đàm thoại cởi mở:       Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở đầu tiết học. Giáo viên  dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ  cái sẽ  học bằng 1 hệ  thống câu   hỏi về  các nét cấu tạo chữ  cái độ  cao, kích thước chữ  cái đến việc so  sánh sự giống nhau và nét khác giữa chữ đang học và chữ đã học. VD: Khi dạy chữ “đ” giáo viên có thể đặt câu hỏi: (?) Chữ “đ” cấu tạo bằng những nét nào ?  (?) Chữ “đ” có mấy ô ? độ rộng của chữ là bao nhiêu ? ­ 11 ­
  12.   (?) Khi viết chũ “đ” nét nào viết trước ? nét nào viết sau ?   (?) Chữ “đ” giống chữ “d” ở điểm nào..... Với những câu hỏi khó giáo viên cần định hướng trả  lời cho các   em vai trò của người giáo viên ở đây là người tổ chức, hướng dẫn học  sinh phân tích cấu tạo chữ chữ cái chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập chữ  viết ở sau. Đối với việc tô các chữ  cái theo kiểu chữ  viết hoa giáo viên cần  gợi mở, thảo luận để  học sinh nhận ra tên nét, hiểu nét của từng chữ  cái. VD: Để hướng dẫn học sinh tô chữ A, giáo viên cho học sinh quan   sát chữ mẫu. Sau đó nêu tên nét ( Hoặc hướng dẫn học sinh nêu ) Chữ A hoa gồm 3 nét: Hai nét móc dưới                                                Một nét ngang, hơi lượn Phương pháp luyện tập: Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ.   Việc hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành từ thấp ­ cao để học sinh   dễ  tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích thước  các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng, đúng tốc độ quy định. Việc rèn chữ  viết phải được tiến hành đồng bộ   ở  lớp cũng như   ở  nhà,  ở  phần môn  tập viết cũng như tất cả các phân môn khác. Khi học sinh tập viết chữ, giáo viên cần luôn luôn chú ý uốn nắn   để  các em cầm bút đúng và ngồi đúng tư  thế, bài viết đẹp phải đi kèm   với tư  thế  viết đúng. Rèn cho trẻ  viết đẹp mà quên mất việc uốn nắn   cách ngồi viết là thiếu sót lớn của giáo viên. Cần chú ý các hình thức   luyện tập cơ bản sau: ­ Tập viết chữ (Chữ cái, chữ số, từ ngữ ) trên bảng lớp. Hình thức   tập viết trên bảng đen có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết chữ và   bước đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này thường  được dùng khi kiểm tra bài cũ hoặc sau bước giải thích cách viết chữ,  ­ 12 ­
  13. bước luyện tập chữ  viết  ở  lớp. Qua  đó giáo viên phát hiện chỗ  sai   ( Hình dáng, kích thước, thứ tự viết các nét..... ) để  uốn nắn chung cho   cả lớp hoặc đánh giá, cho điểm. ­ Tập viết chữ vào bảng con của học sinh.  Học sinh luyện viết chữ  bằng phấn trên bảng cong trước khi tập viết   vào vở học sinh, có thể tập viết chữ cái, vần, các chữ hoặc từ có 2 đến  3 chữ vào bảng con. Khi sử dụng bảng con, giáo viên hướng dẫn các em   cả  cách lau bảng từ  trên xuống dưới, cách sử  dụng và bảo quản phấn,   cách lau tay sau khi viết để giữ vệ sinh, sau khi học sinh viết xong, giáo  viên kiểm tra bằng cách cho học sinh giơ  bảng. Cần chú ý giữ  trật tự  trong khi dùng hình thức luyện tập này ( Lưu ý phải có giẻ   ướt để  lau  bảng ). Đối với học sinh lớp 1, cần phải có mẫu trình bày bảng con từng   nội dung để học sinh nhìn vào bảng đó mà viết theo ­ Luyện viết trong vở tập viết. Muốn cho học sinh sử  dụng có hiệu quả  vở  tập viết, giáo viên  cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về  kỹ  năng viết của từng bài  viết ( Chữ mẫu, dấu chỉ khoảng cách chữ, dấu chỉ vị chí đặt bút, thứ tự  nét viết ). Đảm bảo tốt các công việc trên sẽ giúp các em viết tốt hơn ở  những dòng sau. VD: Luyện viết trong vở luyện viết chữ đẹp. ở lớp tôi cuốn vở này tôi luyện cho học sinh vào 15 phút đầu giờ  và những hoạt động ngoại khoá. Để  luyện viết đẹp đòi hỏi học sinh  phải có sự  nổ  lực cao về  kỹ  thuật viết cũng như  tốc độ  viết. Có lẽ  vì  thế mà chữ viết của học sinh lớp tôi ngày một đúng và đẹp hơn. Luyện   viết   trong   khi   học   các   môn   khác   (   Toán,   TNXH,   Đạo   đức... )  ­ Giáo viên cần tận dụng việc viết các bài học, bài làm ở các môn  học khác để học sinh tập viết. Đối với lớp 1 nói riêng, bậc Tiểu học nói  ­ 13 ­
  14. chung, sự  nghiêm khắc của giáo viên về  chất lượng chữ  viết  ở  tất cả  cac môn học là sự  cần thiết. Có như  thế, việc luyện tập chữ  viết mới  được củng cố  đồng bộ, thường xuyên. Việc làm này đòi hỏi giáo viên  ngoài hiểu biết về  chuyên môn cần phải kiên trì, cẩn thận và lòng yêu  nghề mến trẻ. Khi đến lớp, người giáo viên cùng lúc đóng hai vai trò: Một là giáo viên với tư  cách tổ  chức, hướng dẫn học sinh cách   học, cách viết và đồng thời giáo viên phải tỏ  ra mình là một người bạn  thân thiết với học sinh đẻ  các em cảm thấy không có sự  xa cách, phân   biệt, mặc cảm dể từ đó phát huy tối đa tính tự  tin, tự  chủ  cho học sinh   cũng như tạo một không khí thoải mái, sôi động của tiết học. Luyện “ Viết chữ thạo ” phải dựa trên cơ sở “ Đọc thông ” Thực tế cho thấy học sinh mà “ Đọc thông ” thì sẽ  “ Viết thạo ”.   Vì vậy muốn rèn chữ  “ Viết thạo ” phải gắn liền với việc “ Đọc thông   ”  Nhìn lại một số học sinh viết chưa đẹp, tốc độ  viết chậm thì tất  cả các em này đều có điểm chung là: Đánh vần chậm, đọc hơi kém. Vậy   tôi lại có biện pháp như sau: + Trong các bài đọc ở lớp bất kỳ bài đọc nào tôi cũng gọi các em  đọc đi, đọc lại nhiều lần và giúp các em sửa sai ngay nếu có. + Giao việc về  nhà: Yêu cầu đọc bài cũ nhiều lần đến thuộc và  xem trước bài mới SGK tập viết 1 đồng thời viết bài cũ vào vở ở nhà. Đặc biệt lưu ý học sinh đọc đúng để  viết đúng bởi vì tại địa bàn học   sinh đọc hay nhầm lẫn s/x; tr/ch; r/d; ?/~  dẫn đến viết sai lỗi chính tả.  ( Tuy nhiên trường hợp này cũng chỉ ở một số học sinh ). Ngoài ra còn một số học sinh còn viết sai vần trong tiếng. VD: “ Con khướư ” là “ Con khíu ”          “ Buổi chiều ” là “ Bủi chiều ” ­ 14 ­
  15. Để rèn luyện và giúp đỡ các em sửa những lỗi này tôi lại áp dụng   biện pháp sau: + Rèn phát âm và viết tiếng bằng cách: * Giao việc về nhà: Đọc đi đọc lại nhiều lần những âm, vần hay  sai và viết những chữ có âm vần hay lẫn lộn, ví dụ: Sạch sẽ, chăn trâu,  bé ngã, buôn làng..... *Trong cácgiờ  học : Học sinh phát âm nhiều lần những tiếng, từ  có âm mà học sinh hay nhầm lẫn rồi học sinh cùng nhóm nhận xét, đọc   lại phần việc của bạn 2.3. Tổ chức học nhóm:  Ngoài những biện pháp nói trên theo tôi việc tổ chức học sinh học   theo nhóm, học theo tổ, nhóm là mọt biện pháp rất hữu hiệu trong quá  trình dạy tập viết. Ông cha ta đã dạy “ Học thày không tầy học bạn ”.   Thật vậy, không thể  lúc nào giáo viên cũng có thể  bao quát toàn lớp,  quan tâm sát sao đến từng học sinh. Việc tổ  chức cho các em học tập   lẫn nhau là một vấn đề  đơn giản nhưng mang lại hiệu quả không nhỏ.   Do vậy tôi luôn xếp học sinh học kèm cặp VD: Một em học khá giỏi,  viết chữ  đẹp ngồi cùng bàn với những em viết chậm, chữ  chưa đẹp –   Nên  kết  quả  khả  quan và   đáng mừng. Sau một thời gian  ngắn chất  lượng chữ viết được nâng lên rõ rệt. 2.4. Chú ý đến chữ cái, chữ số có sự thay đổi về kích cỡ, kiểu dáng: Trong quá trình dạy tập viết cho học sinh lớp 1 tôi nhận thấy học   sinh   hay   viết   sai   hoặc   viết   xấu   ở   những   chữ   có   nét   khuyết   (   Trên.  dưới ), hoặc chữ có nét thắt (s/r...) Đây là những chữ có sự thay đổi về chiều cao so với mẫu chữ cải  cách trước đây. Hiện nay các em còn chữ b, h, l, k, g, y thành những con   chữ  có độ  cao 2,5 đơn vị   tương ứng với 5 ô ly trên vở. Có một số  học  sinh chỉ viết 4 hàng kẻ, tuy nhiên có một số học sinh viết đúng chiều cao   ­ 15 ­
  16. thì điểm thắt bụng của chữ  lại không đúng vị  trí hoặc nét khuyết viết   không thẳng theo quy định. Tương tự với chữ  r/s thì học sinh thường chỉ viết một đơn vị thay  vào đó là phải viết với chiều cao 2,5 đơn vị. Đối với chữ  số  nhìn chung các chữ  số  căn bản đựơc giữ  nguyên   về  hình dáng. Song để  đáp  ứng nhu cầu khoa học cũng như   thẩm mỹ  nên có một vài chữ thay đổi một chút về  hình dáng.Ví dụ  : Số  3, 4 , 5 ,   7 . Đặc biệt là nửa học kỳ 2, học sinh bắt đầu tập viết vần , tiếng và   từ   ứng dụng ... theo cỡ  chữ  nhỏ  nét đều ( ngoài việc học viết chữ  cỡ  vừa) nên lúc này những chữ có nét khuyết và chữ s/r học sinh dễ viết sai   (vì sự lại một nửa về chiều cao). Thật sự với học sinh lớp 1 việc phân  biệt con chữ về chiều cao như thế là rất khó vì các em chưa có sự  ước  lượng về chia phần nên dẫn tới hay viết sai. Hơn nữa chữ  viết của ta có nhiều nét phụ  nên khi dạy tập viết   cần lưu ý quy tắc viết dấu phẩy, quy trình viết một chữ có dấu phụ như  thế  nào để  đảm bảo tốc độ  viết cho học sinh. Có thể  hướng dẫn như  sau: VD: “Thưởng” thì viết xong “Thuong” rồi mới đánh dấu phụ. ­Từ những đúc rút kinh nghiệm trong cả quá trnh tôi rút ra đ ́ ược  quy trnh d ́ ạy một tiết tập viết như sau:  I/ Đối với giáo viên: Bản thân mỗi giáo viên cần nắm vững  quy trình dạy tập viết của   từng con chữ để không ngừng nâng cao chất lượng dạy viết chữ mà còn   phối hợp với các phần khác nhau nhằm phát huy vai trò công cụ  của   việc dạy tập viết. 1. Thực hiện nghiêm túc chương trình chung của một bài tập viết. Hệ  thống của các hoạt động dạy một tiết tập viết gồm các quy trình  sau: ­ 16 ­
  17. a.Giới thiệu nội dung bài học: Giáo viên đọc gộp cả tiếng, có thể giảng nghĩa từ và dòng chữ ứng  dụng. Gọi học sinh đọc lại toàn bài kết hợp với đánh vần (Nắm cấu tạo  chữ ). b.Phân tích cấu tạo chữ: b1. Phân tích chữ  cái:  Giáo viên gợi ý và đặt câu hỏi, gắn chữ  mẫu lên bảng lớp để học sinh nhận xét và phân tích hình dáng, cấu tạo   chữ  cần dạy (Các nét, sự  liên kết các nét, điểm đặt bút, điểm dừng bút  của chữ). Quan sát chữ mẫu, học sinh sẽ phát hiện được sự giống nhau, khác nhau  của chữ  đang học với chữ  đã học, từ  đó khắc sâu về  biểu tượng chữ  đang học. b2. Phân tích vần, từ và dòng chữ viết ứng dụng: Bước này giáo  viên củng cố một số chữ cái khó viết hoặc chữ  cái mà học sinh dễ viết   sai  (những con chữ có nét khuyết, nét cong, nét vòng). c.Giáo viên viết mẫu: ­ Giáo viên giảng giải và minh hoạ  cách viết như  cách đưa ngòi  bút thế  nào thứ  tự   viết nét ra sao. Giáo viên cần phân tích cả  dấu phụ  của từng con chữ và các dấu thanh. ­ Viết mẫu là thao tác trực quan của giáo viên trên bảng lớp giúp  học sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét chữ, từng chữ. Do vậy, giáo viên phải viết chậm, đúng quy tắc viết chữ. Khi viết  mẫu trên bảng lớp, giáo viên phải tạo điều kiện để  học sinh nhìn thấy  tay giáo viên viết từng nét chữ. Đối với những nét chữ khó (hoặc nét nối) giáo viên cần phối hợp   giảng giải về  cách viết, hoặc có thể  phân tích và viết mẫu trích đoạn  những nét chữ đó ra phần bảng phụ. ­ 17 ­
  18. VD: Khi viết chữ “b”, giáo viên có thể phân tích cách viết chữ  “b”  gồm 2 nét: Nét khuyết trên và nét khuyết thắt. Học sinh thảo luận so sánh chữ  “b” với chữ “e” mới được học ở  bài trước giống nhau và khác nhau như thế nào?. d.Học sinh luyện viết trên bảng: d1. Học sinh đựơc luyện tập: Viết trên bảng con (cả lớp) và viết  trên bảng lớp (một số học sinh) theo từng chữ mà giáo viên yêu cầu. Nội   dung luyện tập có thể theo thứ tự bài dạy hay chỉ  chọn những chỗ viết  khó mà học sinh hay viết sai. Học sinh không cần viết hết toàn bộ dòng  chữ   ứng dụng mà có thể  chọn những chữ  khó viết hoặc những chữ  có   chỗ nối không thuận lợi khi liên kết các con chữ. d2. Nhận xét chữ viết luyện tập của học sinh: ­ Học sinh quan sát lại chữ mẫu, giáo viên nêu câu hỏi để học sinh   nhận xét chữ  viết của mình, của bạn và tham gia sửa chữa những chỗ  viết sai. ­ Giáo viên khẳng định lại kiến thức học sinh cần nắm vững,   chữa nét chữ học sinh viết sai. Đối với chữ viết sai, giáo viên không viết   đè lên mà viết chữ đúng cỡ bên cạnh. e. Học sinh viết vào vở: ­ Giáo viên nêu yêu cầu và nội dung cần viết trong bài cần viết  (điểm đặt bút, khung chữ  đường kẻ  dòng, số  dòng viết của từng nội  dung ...). ­ Học sinh thực hành viết vào vở. ­ Giáo viên hướng dẫn từng học sinh viết chữ (sửa chữa chữ sai,   tư  thế  ngồi viết, cách cầm bút, cũng có thể  rút kinh nghiệm chung cả  lớp). ­ 18 ­
  19. ­ Chấm điểm tại chỗ: Kết hợp với quá trình nhận xét cá nhân học   sinh giáo viên có thể  chấm bài của một số  học sinh vào cuối thời gian   viết vào vở. g. Củng cố bài viết: Tuỳ  thời gian còn lại của giờ  dạy, giáo viên củng cố  kiến thức   trọng tâm bằng các hình thức sau: ­ Sử  dụng bài viết của học sinh trong vở  để  cùng học sinh nhận  xét, rút kinh nghiệm ưu khuyết điểm về kĩ năng viết chữ. ­ Yêu cầu học sinh viết bảng lớp các chữ  có liên quan đến trọng   tâm của bài tập viết, sau đó giáo viên và học sinh khác cùng sửa chữa. ­ Khi viết chữ đúng mẫu, rõ ràng, đẹp,có thể dùng bộ chữ rời cho   học sinh thi ghép nét tạo chữ cái. Với những kiến thức củng cố đa dạng như trên, nội dung bài viết   sẽ  được khắc sâu. Học sinh ghi nhớ cách viết chữ  cái, viết từ, câu ứng  dụng trong hoàn cảnh khác nhau. Cần tăng cường những hình thức củng  cố, nâng cao bài viết để  một mặt tạo cho giờ  học không khí vui tươi  sinh động, nhẹ nhàng, mặt khác tạo diều kiện phối hợp nhịp nhàng giữa  tập viết với học vần, chính tả, góp phần nâng cao hiệu quả đọc và viết  cho học sinh. C: KẾT LUẬN CHUNG Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng vào  thực tế giảng dạy cho học  sinh tôi thấy kết quả đạt được khả quan hơn nhiều so với kết quả khảo   sát đầu năm, học sinh xác định được rõ ràng về độ cao, hình dáng, điểm  đặt bút và điểm kết thúc của chữ. Từ đó các em không những viết đúng,  đẹp mà còn viết nhanh. Mặt khác tôi còn có thể  đọc cho học sinh viết  hoặc học sinh tự chép được một đoạn văn ngắn từ 2 đến 3 câu mà vẫn   đảm bảo được tốc độ  quy định, khoảng cách của chữ, viết liền nét… tính thẩm mỹ của bài viết. I/ Đối với giáo viên: ­ 19 ­
  20.  Không ngừng đổi mới phương pháp dạy học: Cả chữ viết của giáo viên cũng xem là chữ  mẫu trực quan nhất để  học   sinh nhìn vào đó mà học tập, luyện theo. Chính vì thế chữ viết của giáo  viên phải thực sự chuẩn về kiểu cách lẫn kích thước. Học sinh lớp 1 có đặc điểm dễ bắt chước. Chính vì thế các em sẽ  học ở cô giáo của mình từ  việc cầm bút, cầm phấn, tư thế khi viết đến  kỹ  thuật viết. Có thể  nói, đối với lớp 1  chỉ  cần nhìn chữ  viết của học   sinh sẽ  đánh giá được một phần năng lực giảng dạy của giáo viên. Vì  vậy việc viết mẫu của giáo viên là hết sức cần thiết và quan trọng. Đây  là yếu tố  quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy học của giáo viên  duy trì những nề  nếp, thói quen của học sinh, tạo điều kiện cho việc   phát triển toàn diện. Cần thấy rằng chất lượng viết của học sinh lớp 1   là một trong những yếu tố hàng đầu cơ bản của chất lượng học tập môn  Tiếng Việt, kỹ  năng viết đúng, rõ ràng, nhanh, trình bày bài viết sạch  đẹp theo yêu cầu đề  ra sẽ góp phần tạo điều kiện cho học sinh học tốt  các môn học khác  ở  Tiểu học. Đồng thời hình thành đựơc nhiều thói  quen và phẩm chất cao đẹp của học sinh. Kỹ  năng viết chữ  được hình  thành rèn luyện trước tiên và chủ yếu trong giờ tập viết, song cũng được  củng cố  và hoàn thiện trong nhiều giờ  học của các môn học khác. Do  vậy, nó đòi hỏi sự quan tâm và trách nhiệm của giáo viên trong tất cả các   giờ học. ­ Giáo viên có ý thức tự  rèn luyện, tự  bồi dưỡng và hưởng  ứng  tích cực cuộc thi “ viết chữ đẹp ” do Vụ Tiểu học và Nhà xuất bản giáo  dục phối hợp tổ chức. Đặc biệt là mối quan hệ tay ba giữa “nhà trường  – gia đình – xã hội”. ­ Mỗi giáo viên phải luôn tự rèn luyện về chữ viết để có khả năng  phục vụ  tốt cho việc dạy học sinh từ  nề  nếp và thói quen chữ  viết   thường xuyên kiểm tra đánh giá và nhắc nhở học sinh thực hiện các yêu  cầu “giữ vở sạch, viết chữ đẹp”. Tích cực tham gia phong trào rèn luyện  và năng cao chất lượng chữ viết trong nhà trường. ­ 20 ­
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2