intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp dạy từ vựng cho học sinh tiểu học bằng việc học từ mới qua các bài khóa

Chia sẻ: Huynh Thi Thuy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

236
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhằm giúp các em học sinh nắm vững các từ vựng qua các từ khóa đã học để vận dụng vào việc rèn luyện các kỹ năng học tiếng Anh, mời các bạn cùng tham khảo sáng kiến kinh nghiệm "Một số biện pháp dạy từ vựng cho học sinh tiểu học bằng việc học từ mới qua các bài khóa" dưới đây. Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp dạy từ vựng cho học sinh tiểu học bằng việc học từ mới qua các bài khóa

  1. I.PHẦN MỞ ĐẦU 1.  Lý do chọn đề tài.       Đường lối quan điểm của Đảng và nhà nước ta đã xác định mục tiêu của giáo   dục là đào tạo con người toàn diện để  đáp  ứng yêu cầu chung của đất nước ­  công nghiệp hóa hiện đại hóa. Trong đó, ngoại ngữ  ­ Tiếng Anh là một trong   những ngôn ngữ  có vai trò như  một phương tiện tích cực hỗ  trợ  hiệu quả  nhất   cho quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của nước nhà. Vì vậy nâng cao chất   lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ  môn Tiếng Anh nói riêng là một  trong những mối quan tâm hàng đầu của sự  nghiệp giáo dục hiện nay. Và điều  đó được đặt biệt chú trọng hơn cho các đối tượng là học sinh ở  bậc tiểu học ­   Người mới bắt đầu tiếp cận với ngoại ngữ. Để thực hiện mục tiêu này cần có hỗ trợ của Đảng, nhà nước, ngành giáo dục,  nhất là đội ngũ các thầy cô giáo và các bậc phụ huynh học sinh góp sức.      Trong bất kỳ một ngôn ngữ nào, vai trò của từ vựng cũng hết sức quan trọng.   Có thể thấy một ngôn ngữ là tập hợp của các từ vựng. Không thể hiểu ngôn ngữ  mà không hiểu biết từ vựng,hoặc qua các đơn vị bài học. Nhưng điều đó không  phải chỉ hiểu những từ đơn lẻ, độc lập với nhau mà chỉ  có thể  năm vững được  ngôn ngữ thông qua mối quan hệ biện chứng giữa các đơn vị từ vựng. Như vậy  việc học từ  vựng và rèn luyện kỹ  năng sử  dụng từ  vựng là yếu tố  hàng đầu  trong việc truyền thụ  và tiếp thu một ngôn ngữ  nói chung và và tiếng Anh nói   riêng.       Vì từ vựng là một ngôn ngữ nên nó được thể hiện giữa hai hình thức: Lời nói   và chữ viết. Muốn sử  dụng được ngôn ngữ  đó tức là phải nắm vững hình thức  biểu đạt của từ bằng lời nói hay chữ viết. Song do có mối liên quan của từ vựng   với các yếu tố khác trong ngôn ngữ  ( ngữ pháp, ngữ âm, ngữ điệu..) hoặc trong  tình huống giao tiếp cụ thể ta thấy từ vựng là các “ viên gạch” còn ngữ pháp và  các yếu tố ngôn ngữ khác được coi như những “mạch vữa” để xây lên thành môt  ngôi nhà “ ngôn ngữ”. 11/20/2015Confidential Page  1
  2. Hiện nay tình trạng xao lãng việc học, học sinh học đối phó học vẹt mà không  biết tự học, học sinh yếu kém khá nhiều. Làm thế  nào để  khắc phục tình trạng   này ? Làm thế  nào để  thu hút học sinh chú tâm vào việc học là vấn đề  đòi hỏi   người làm giáo dục, các thầy cô tâm huyết với nghề, hội đồng sư  phạm nhà  trường quan tâm hàng đầu, luôn nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình, hình thức,   cải tiến phương pháp để dạy và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả  giáo dục. 2. Mục đích nghiên cứu.      Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ, chuẩn   bị bài một cách sơ sài, đối phó trong khi các em học rất yếu môn này. Từ đó, một   số  em có tâm lý chán học bộ  môn Tiếng Anh. Trong các giờ học, đa số  các em  thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc ­ nói Tiếng anh và ít tham gia  phát biểu để tìm hiểu bài học.      Học sinh tiểu học là những trẻ em, mức độ nhận thức của các em còn thấp,  chất lượng học tập bộ môn không đồng bộ. Thêm nữa, học sinh thư ờng chỉ quen  cách học cũ, ít đọc thêm sách báo phù hợp lứa tuổi để mở rộng bổ sung, nâng cao  kiến thức. Đồng thời đây là những năm đầu làm quen với một ngoại ngữ, trong  khi vẫn có một số lượng không nhỏ học sinh còn chưa học tốt tiếng mẹ đẻ của   mình.      Hơn nữa Tiếng Anh ở bậc tiểu học chỉ là môn học phụ tự chọn, thế nên bản   thân học sinh và ngay cả  phụ  huynh cũng không quan tâm đến bộ  môn này, họ  chỉ đầu tư cho con mình học nâng cao môn Toán, Tiếng Việt….     Tuy Tiếng Anh  ở bậc tiểu học mới được coi là môn học chính khóa, năm học   này mới là năm học thứ hai. Song, nó có tính chất khởi đầu quan trọng trong các   năm học tiếp theo  ở cấp II. Vì thế  nó giữ một vai trò không nhỏ  trong quá trình  học tập của các em. Nó trang bị  cho các em vốn từ  vựng, ngữ  pháp và những  mẫu câu tối thiểu, cơ  bản, đơn giản nhất xoay quanh những chủ  điểm rất gần   gũi, được các em yêu thích và quen thuộc, là những chủ  điểm giới thiệu bản  11/20/2015Confidential Page  2
  3. thân, chủ  điểm trường lớp bạn bè, chủ  điểm gia đình, và chủ  điểm khác (thế  giới xung quanh các em). Chính vì thế  việc gây hứng thú và củng cố  kiến thức  cho học sinh là một việc vô cùng quan trọng thường xuyên. Bởi điều này  ảnh  hưởng rất nhiều đến động cơ học tập của học sinh, một yếu tố tác động cơ bản  đến quá trình học một ngôn ngữ: Không có động cơ  trẻ  sẽ  không học ­ và việc   củng cố  kiến thức còn làm khắc sâu hơn những ngữ  liệu đã học trong các tiết  học một cách có hệ thống, làm nền tảng vững chắc giúp các em học tốt hơn, tự  tin hơn trong quá trình học tập sau này.       Để  chất lượng môn học của các em đạt kết quả  tốt nhất thì không phải là  một chuyện dễ  dàng. Vậy làm thế  nào để  các em hình thành và phát triển kỹ  năng học tập toàn diện nhất ? Làm thế  nào để  các em yêu mến, khắc sâu vốn   kiến thức văn hóa nước ngoài ? Bằng hình thức nào giúp học sinh nắm bài vững   mà không nhàm chán, phải thật sự  lôi cuốn, tạo không khí vui tươi thoải mái  trong giờ  học, gây hứng thú cho học sinh  khi tiếp thu văn hoá nước ngoài mà  bản thân các em chưa biết được chút gì.    Ngày nay trên những phương tiện thông tin đại chúng xuất hiện rất nhiều trò  chơi truyền hình thu hút đông đảo khán giả, nhất là khán giả  trẻ  tuổi như  học   sinh, sinh viên.    Tất cả những trò chơi, chương trình ca nhạc truyền hình, nếu được hỏi: “Hãy   kể  tên các trò chơi, chương trình ca nhạc truyền hình mà em biết?” Các em sẽ  trả lời vanh vách như “Rồng Vàng”, “Tam sao thất bản”, “Ki­ốt âm nhạc”, “Nào  ta cùng hát” ... vì đây là lượng khán giả trung thành nhất.        Chúng ta đều biết bất cứ  một thứ  tiếng nào trên thế  giới, muốn giao tiếp   được với nó, đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ  bởi vì từ  vựng là một thành  phần không thể thiếu được trong ngôn ngữ. Trong tiếng Anh chúng ta không thể  rèn luyện và phát triển bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh mà không  dựa vào nền tảng của từ vựng.  11/20/2015Confidential Page  3
  4.      Thật vậy, nếu không có số vốn từ cần thiết, các em sẽ  không nghe được và  hệ quả của nó là không nói được, đọc không được và viết cũng không xong, cho  dù các em có nắm vững các mẫu câu.         Do vậy, giúp học sinh nắm vững các từ  đã học để  vận dụng vào việc rèn  luyện các kỹ  năng là việc làm rất quan trọng khiến tôi trăn trở  và quyết định   thực hiện đề  tài : “  Một số  biện pháp dạy từ  vựng cho học sinh tiểu học   bằng việc học từ mới qua các bài khóa.”  Xin ghi ra đây những kinh nghiệm  nhỏ bé của mình, có thể nó không mới nhưng tôi đã thực hiện và có một số kết   quả  tương đối. Mong rằng những kinh nghiệm này góp phần bổ  sung và làm   phong phú hơn phương pháp dạy học của các bạn đồng nghiệp. 3.Thời gian địa điểm.  Trong năm học 2013­2014 tôi được phân công giảng dạy môn tiếng Anh khối   lớp 5. Giáo trình tiếng Anh mới của bộ.Do vậy tôi đã  áp dụng đề tài này với học  sinh lớp 5 tại trường Tiểu học Quyết Thắng. Năm học 2013 ­ 2014. 4.Đóng góp mới về về mặt thực tiễn. Hiện nay tình trạng xao lãng việc học, học sinh học đối phó học vẹt mà không  biết tự học, học sinh yếu kém khá nhiều. Làm thế  nào để  khắc phục tình trạng   này ? Làm thế  nào để  thu hút học sinh chú tâm vào việc học là vấn đề  đòi hỏi   người làm giáo dục, các thầy cô tâm huyết với nghề, hội đồng sư  phạm nhà  trường quan tâm hàng đầu, luôn nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình, hình thức,   cải tiến phương pháp để dạy và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả  giáo dục. Trong nhà trường phổ  thông hiện nay, cũng giống như  các bộ  môn khác ,việc  dạy và học Tiếng  Anh đang diễn ra cùng với sự đổi mới phương pháp giáo dục,   cải cách sách giáo khoa, giảm nội dung chương trình học nhằm làm phù hợp với  nhận thức của học sinh, làm cho học sinh tiếp cận với các nội dung, kiến thức   11/20/2015Confidential Page  4
  5. hiện đại. Vốn từ vựng tiếng Anh trong trương trình học cũng được sử dụng phù  hợp với sự phát triển chung của xã hội.      Trước hết, xuất phát từ  đối tượng giảng dạy là học sinh ở  lứa tuổi từ 6­12   về  hiểu biết về xã hội chưa có do vậy vốn từ vựng dạy cho các em ở  cấp học   này thường phải được kết hợp với các kỹ  năng dạy học phù hợp để  gây hứng   thú cho học sinh. Bên cạnh đó việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường còn   diễn ra trong môi trường giao tiếp giữa thầy và trò còn nhiều hạn chế. Số lượng   học sinh  ở  mỗi lớp rất đông, nhiều lớp tới 35 học sinh.Trình độ  nhận thức có  nhiều cấp độ  khác nhau phương tiện giảng dạy còn thiếu thốn…Điều này làm  ảnh hưởng không nhỏ tới việc rèn kĩ năng cho học sinh và sự phân bố thời gian   cho từng phần nội dung bài sao cho phù hợp từng loại bài giảng( thực hành, kĩ  năng) cũng là một tác động tới việc lựa chọn, nghiên cứu và áp dụng kĩ năng dạy  từ vựng sao cho phù hợp.     Qua thực tế dạy học những năm qua, tôi nhận thấy phương pháp cũ dạy học   từ  vựng thường theo kiểu cũ. Giáo viên đọc bài rồi liệt kê ra từng từ, cho học   sinh đọc và giải thích nghĩa của từ, từ  loại, cách sử  dụng từ  đó…Nó còn có   những hạn chế cơ bản như sau: Học sinh học từ một cách thụ động, sử dụng từ  trong từng ngữ cảnh giao tiếp bị hạn chế, không linh hoạt và còn lệ thuộc nhiều   vào cấu trúc ngữ pháp. Do đó vấn đề được đặt ra là nghiên cứu áp dụng  kĩ năng   dạy từ vựng, cụ thể là các kĩ năng dạy từ vựng, khả năng giới thiệu và kiểm tra  từ vựng sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao. II. PHẦN NỘI DUNG 1. CHƯƠNG TRÌNH 1: TỔNG QUAN 1.1. Cơ sở lý luận. 11/20/2015Confidential Page  5
  6. Như  chúng ta đã biết, năm học 2013 ­ 2014 là năm học tiếp theo toàn  ngành giáo dục ta thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung nhằm   nâng cao chất lượng giáo dục. Ở trường trung học cơ sở giáo viên dạy học sinh  các môn học khác nhau trên cơ sở trang bị cho học sinh hệ thống những kỹ năng,  kỹ xảo cần thiết, nhằm đào tạo đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề, có kỹ  năng thực hành, năng động và sáng tạo … Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “ Giúp học sinh phát triển toàn diện về  đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ  năng cơ  bản, phát triển năng lực   cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam   Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị  cho học   sinh tiếp tục học lên những lớp cao hơn hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham   gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.  Chương   trình   giáo   dục   phổ   thông   ban   hành   kèm   theo   quyết   định   số  16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo  cũng đã nêu:“Phải phát huy tính tích cực, tự  giác, chủ  động, sáng tạo của học  sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện  từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự  học, khả  năng hợp tác,   rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem  lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”. 1.2. Cơ sở thực tiễn: a. Thuận lợi :      ­ Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi về cơ  sở  vật chất và tài liệu chuyên môn phục vụ  cho việc giảng dạy bộ  môn : bộ  tranh giáo trình Let’s go, máy cassette, máy chiếu Overhead …..      ­ Chính quyền địa phương và các đoàn thể trong và ngoài nhà trường luôn hỗ  trợ giáo viên trong quá trình công tác.     ­ Bản thân giáo viên bộ môn luôn nhận được sự  hỗ trợ từ các giáo viên cùng   tổ chuyên môn và các đồng nghiệp. 11/20/2015Confidential Page  6
  7.      ­ Đa số các em học sinh trong lớp đều yêu thích học Tiếng Anh và chuẩn bị  tốt sách vở, đồ dùng cho việc học tập.       ­ Phần lớn phụ  huynh học sinh luôn quan tâm và tạo điều kiện để  con em  mình học tập. b. Khó khăn:       ­ Đa số các em chưa có phương pháp học từ vựng thật sự hiệu quả. Về phía  phụ  huynh, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các em tự  học ở nhà bởi môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào cũng biết.        ­ Một số  học sinh nhất là các học sinh nam thường xao lãng và ít quan tâm  đến việc học tập cũng như học từ vựng.      ­ Một số học sinh ít có thời gian học bài ở  nhà vì ngoài giờ  học các em còn   phải phụ  giúp cha mẹ  làm việc nhà, nhiều gia đình cũng rất vất vả  về  kinh tế  nên muốn mua cho con môt quyển sách để học còn khó thì nói gì đến sách tham   khảo để nâng cao vốn từ ngoài những từ vựng mà sách giáo khoa cung cấp.       ­ Các em ít có điều kiện để  giao tiếp bằng tiếng Anh và các em cũng ngại   giao tiếp, trao đổi nhau bằng tiếng Anh ngoài giờ học. 2.  CHƯƠNG 2:   NỘI DUNG VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU 2.1. Thực trạng * Khảo sát. Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập,   thì chúng ta cần tổ  chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động  của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến  thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em  phải tự học bằng chính các hoạt động của mình. 11/20/2015Confidential Page  7
  8. Phương pháp chủ  đạo trong dạy học ngoại ngữ của chúng ta là lồng ghép,  nghĩa là từ mới cần được dạy trong ngữ cảnh, ngữ cảnh có thể  là một bài đọc,   một đoạn hội thoại hay một bài khoá. Tuy nhiên, nói đến cùng thì việc dạy và   học ngoại ngữ vẫn là việc dạy từ mới như thế nào ? Dạy cấu trúc câu mới như  thế  nào để  học sinh biết. cách sử  dụng từ  mới và cấu trúc mới trong giao tiếp   bằng tiếng nước ngoài.Theo khảo sát cho thấy  nếu chúng ta áp dụng phương   pháp cũ để  giảng dạy từ  mới học sinh tiếp thu bài chậm khả  năng nhớ  từ  khó   hơn và chóng quên.Học sinh học một cách thụ  động ép buộc không có hứng   thú.Điều này dẫn tới chất lượng tiết học không đảm bảo. *Đánh giá. Ngay từ đầu, giáo viên cần xem xét các thủ thuật khác nhau cho từng bước   xử lý từ vựng trong các ngữ cảnh mới : gợi mở, dạy từ, kiểm tra và củng cố  từ  vựng. ­Có nên dạy tất cả những từ mới không ? Dạy bao nhiêu từ trong một tiết thì   vừa. ­ Dùng sẵn mẫu câu đã học hoặc sắp học để giới thiệu từ mới. ­ Dùng tranh ảnh, dụng cụ trực quan để giới thiệu từ mới . ­ Đảm bảo cho học sinh nắm được cấu trúc , vận dụng từ vựng vào cấu trúc  để hoàn thiện chức năng giao tiếp, thiết lập mối quan hệ giữa cấu trúc mới và  vốn từ đã có. ­ Khắc sâu vốn từ  trong trí nhớ  của học sinh thông qua các mẫu câu và qua   những bài tập thực hành.Qua việc nghiên cứu tình trạng dạy và học từ vựng tôi   đưa ra một số giải pháp sau. 2.2.Các giải pháp. a.Những vấn đề cần quan tâm trong quá trình dạy từ. ­Trước mỗi bài học giáo viên cần chuẩn bị tranh ảnh liên quan đến từng bài học  lên tường hai bên phòng học để  học sinh dễ  nhìn và dễ  nhận biết chúng đang  11/20/2015Confidential Page  8
  9. học bài nào? Mục đích cũng làm tăng thêm sự  chú ý cũng như  không khí trong   lớp học thỏa mái dễ chịu ­ Sắp xếp những học sinh nhút nhát ngồi phía bàn trên gần giáo viên để tiện lắng  nghe và tạo cơ hội động viên khích lệ trẻ. ­ Giáo viên phải nghiên cứu bài giảng trước khi lên lớp,viết tóm tắt định hướng   tiết dạy,nhằm tìm ra mối liên quan giữa bài trước với bài sau, phần nào nên dạy  trước phần nào sẽ dạy sau trong tiết dạy để học sinh dễ hiểu bài. ­ Nếu dạy bằng máy giáo viên nên bấm máy chậm vừa đủ để hs nghe­ hiểu ­đọc   chính xác theo máy. Giáo viên không cần đọc mẫu, học sinh chỉ đọc khi máy đã  đọc xong. Giáo viên luôn chú ý luyện cho học sinh cách phát âm,đọc đúng ngữ  điệu theo máy và không được dạy mở  rộng.GV không nên dịch tiếng việt khi   dạy từ. ­ Trong tiết dạy giáo viên phải bám sát khung phân phân bổ  chương trình.Thực  hiện đúng giáo học pháp qui định trong tài liệu hướng dẫn.  ­ Sử  dụng hiệu quả  kỹ  thuật giảng dạy và ghi điểm thi đua trong tiết học để  học sinh luôn phải chú ý hoà vào không khí học tập của lớp.Thực hiện mỗi học   sinh phải đọc cá nhân ít nhất 1 lần/ tiết và đọc nhiều lần theo nhóm trong một   tiết dạy, giúp học sinh nhớ ngay bài trên lớp. Đối tượng học là HS tiểu học nên  giáo viên cần phải dạy tỉ mỉ hơn. ­ Khi tổ chức chơi trò chơi trên lớp.GV phải chú ý hướng dẫn thật cụ thể và rõ   ràng luật chơi cho học sinh hiểu.Khen thưởng động viên kịp thời và công bằng   với mỗi học sinh. b. Nhiệm vụ cụ thể của thày giáo trên lớp.      Dựa vào các hoạt động cụ  thể  trên lớp và quan điểm mới về  vai trò người   thầy giáo, có thể tóm tắt những nhiệm vụ cụ thể của thầy giáo trên lớp như sau: ­ Soạn thảo chuẩn bị các hoạt động dạy học. ­ Chuẩn bị về tâm lý và kiến thức cho học sinh vào bài mới . ­ Giới thiệu bài mới. 11/20/2015Confidential Page  9
  10. ­ Hỏi các câu hỏi phù hợp cho các mục đích dạy học khác nhau. ­ Điều khiển các bài tập luyện. ­ Kiểm tra mức độ nắm bắt, hiểu bài của học sinh. ­ Tạo cơ hội thực hành sử dụng ngữ liệu mới. ­ Điều hành các hoạt động học tập của học sinh. ­ Củng cố dạy lại bài khi cần thiết. Hiểu biết thêm về  vai trò của người thày giáo giúp giáo viên có cơ  sở  để  xem   xét, phối hợp với kinh nghiệm bản thân để chủ động xác định cho mình một vai  trò phù hợp với từng giai đoạn học tập sao cho có thể phát huy được tối đa năng   lực của học sinh và đem lại hiệu quả dạy và học cao nhất.   c. Mục tiêu và đặc điểm cần đạt trong phần giới thiệu từ mới. 1. Lựa chọn từ để dạy: Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp   với các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt đòi hỏi chúng ta phải có một vốn  từ phong phú. Ở  môi trường phổ  thông hiện nay, khi nói đến ngữ  liệu mới là chủ  yếu  nói đến ngữ pháp và từ  vựng, từ  vựng và ngữ  pháp luôn có mối quan hệ  khắng  khít với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy  và giới thiệu từ  vựng là vấn đề  cụ  thể. Thông thường trong một bài học luôn  xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy.  Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề:       ­ Từ chủ động   (active vocabulary)       ­ Từ bị động      (passive vocabulary) Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên  quan đến bốn kỹ  năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ  này giáo viên  cần đầu tư thời gian để giới thiệu và hướng dẫn học sinh luyện tập nhiều hơn. 11/20/2015Confidential Page  10
  11. Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư  thời gian vào các hoạt động  ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết  định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động.       ­ Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là: +  Form. +  Meaning. +  Use. Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ  điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên  cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ  từ  riêng lẻ, mà còn biết phát âm  đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ.       ­ Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ  thuộc vào nội dung bài và trình độ  của  học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực  hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ.       ­ Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau:  + Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ? + Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ? ­ Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học  sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh.       ­ Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ  của  học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ  tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho   học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay.       ­ Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm   thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán nghĩa của từ. 2 Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới:  Giáo viên có thể  dùng một số  thủ  thuật gợi mở  giới thiệu từ  mới, giúp   các em học sinh tiếp thu từ một cách chủ động như:                                * Visual (nhìn) : 11/20/2015Confidential Page  11
  12. Cho học sinh nhìn tranh  ảnh hoặc vẽ phác hoạ cho các em nhìn, giúp giáo   viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chóng. * Mine (điệu bộ):             Thể hiện qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ.  Ex : Unit 6: How ‘s the weather ? ­sunny, windy, rainy, snowy, hot, cold, hungy, thirsty * Realia (vật thật)               Dùng những dụng cụ trực quan mà thực tế có được.         Ex:            Để  dạy các từ  về  rau, củ, quả  , bánh kem, thịt ,cá,…giáo viên nên sưu tầm   vật thật học tranh ảnh để minh họa cho bài giảng của mình.                         * Situation / Explanation:            Dùng tình huống và giải thích để học sinh nắm bắt từ mới một cách hiệu  quả.  Giáo viên có thể đưa ra một vài tình huống để học sinh tự đoán nghĩa. * Example :           Đưa ra các ví dụ cụ thể có liên quan đến từ sắp học tạo sự tò mò và hấp   dẫn học sinh. * Synonym \ antonym:( từ đồng nghĩa \ trái nghĩa):          Giáo viên dùng những từ đã học rồi có nghĩa tương đương để  giúp   học sinh nhận biết nghĩa cuả từ sắp được học.      “giáo viên có thể yêu cầu học sinh tự đoán nghĩa thông qua từ đã học trước  đó.          Ex: tall / short, thin / fat, young/ old, pretty/ urly….             T. asks  “What’s another word for nice?” 11/20/2015Confidential Page  12
  13.              Ss answer  “ pretty” * Translation (dịch):      ­ Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để  cung cấp  nghĩa từ trong tiếng Anh.      ­ Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi không còn cách nào khác, thủ  thuật này thường được dùng để dạy từ  trừu tượng, hoặc để  giải quyết một số  lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, giáo viên gợi ý học sinh tự dịch  từ đó.  * True or False statements:       Giáo viên cung cấp một số câu và yêu cầu học sinh chọn lựa câu trả  lời đúng nhất có liên quan đến từ sắp được học. 3. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới: Sau khi từ  vựng đã được dạygiáo viên cần tổ  chức cho học sinh thực hành, ôn  luyện thường xuyên các từ  đã được học, đồng thời luôn có những hình thức  kiểm tra xem học sinh đã hiểu đúng chưa đểkịp thời só những bài dạy bổ sung. Quá trình này là quá trình thường xuyên và lâu dài, không nhất thiết phải xảy ra  trong một tiết dạy. Tuy nhiên cũng có những bài tập quá trú trọng riêng cho phần  học từ. có thể hình dung quá trình quá trình dạy và học từ qua 4 giai đoạn sau: ­Giới thiệu từ ­Thực hành ­Kiểm tra ­Ôn luyện củng cố. Chúng ta biết rằng chỉ  giới thiệu từ  mới thôi chưa đủ, mà chúng ta còn  phải thực hiện các bước kiểm tra và củng cố từ mới ngay tại lớp. Các thủ thuật   kiểm tra và củng cố sẽ khuyến khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn. 11/20/2015Confidential Page  13
  14. * Có rất nhiều thủ thuật để kiểm tra từ      * CHECKING TECHNIQUES FOR VOCABULARY    Rub out and  Jumbled words Remember Bingo Ordering 7 TECHNIQUES   What and where   Matching Slap the board  4. Bài tập luyện nhớ từ. ­ Bên cạnh đó để  giúp học sinh nhớ  được từ  lâu, giáo viên có thể  dùng các bài   tập luyện nhớ từ như sau: 1. Observe and remember. 11/20/2015Confidential Page  14
  15.     Giáo viên chuẩn bị một số vật khác nhau để trên một cái khay hoặc một bức   tranh gồm nhiều chi tiết khác nhau cho học sinh quan sát từ 1 đến 2 phút .Sau đó  không cho học sinh nhìn nữa và phải viết lại những gì đã quan sát được. Cùng với hiện vật này giáo viên, giáo viên cá thể  đổi vật, vị  trí hoặc màu sắc.  Sau đó học sinh phải nói lại, phát hiện xem có những thay đổi gì. 2. Kim’s game     Giáo viên đọc to hoăc viết lên bảng 10 từ thuộc các loại từ khác nhau, sau đó   xoá bảng , yêu cầu học sinh đếm từ25 xuống 1, sau đó viết lại 10 từ  đã nghe   hoặc nhìn. 3.Finding the right word. 4. Brainstorming. 5.Find things which / Find people who…. 6. Gap­ filling. 7. Matching. 8. Multiple choice. 9. Collocation grid. 5. Các trò chơi về từ vựng.    Để học từ, ngoài những bài tập luyện còn có những trò chơi để luyện từ vựng.  Sau đây là một số trò chơi phổ biến có thể dùng trong lớp học.       1.An ice breaker.    ­Chia lớp thành hai nhóm nhỏ .    ­ Chọn một nhóm từ nào đó     Eg: hungry, thirsty,hot, cold, cool… ­Yêu cầu học sinh tự giới thiệu tên mình và dùng một từ trong số đó để đặt câu. 2. Life key words. ­ Hỏi học sinh ngày của hôm nay. Eg: What date is it today? ­Sau đó hỏi tiếp tục ngày của 7 năm trước. 11/20/2015Confidential Page  15
  16. Eg: What date was it 7 years ago? ­Ghi lên bảng câu trả lời. ­Bước tiếp theo, yêu cầu học sinh viết 10 từ tiêu biểu diễn tả cuộc sống 7 năm  trước đây. ­Sau đó học sinh làm việc theo cặp, nhóm, giải thích cho bạn rõ ý nghĩa của 10   từ đó. Eg: now                                         then 3.Whose handbag / pocket is it ?   Giáo viên yêu cầu học sinh tưởng tượng ra một nhân vật và ghi ra phiếu những   vật , những người đó thường mang theo người khoảng 5 đến 10 từ. Sau đó xáo   trộn phiếu của học sinh , cho các em bốc thăm và đoán xem nhân vật đó là ai.    Trò chơi này có thể hướng vào một số các nhân vật có nghề nghiệp đặc trưng   khác nhau, các nhân vật nổi tiếng với một số thói quen phổ  biến, hay chính các   bạn trong lớp học mà mọi người cùng biết. 4.Words my neighbour  knows. Giáo viên đề nghị học sinh viết ra 10 từ cho 3 loại sau: ­ Từ mình cho rằng bạn ngồi cạnh phải biết. ­ Từ mình cho rằng bạn phải biết nhưng bạn lại không biết ­ Từ chắc chắn bạn không biết. Sau đó làm việc theo cặp với bạn, kiểm tra xem mình có làm đúng không. 5.One initial letter only. 6.Twenty questions. ­ Trò chơi này rất phổ biến, không chỉ có tác dụng học từ mà còn giúp học sinh   ôn luyên cách đặt câu hỏi và phản ứng nhanh . ­ Một học sinh A sẽ nghĩ về một vật thuộc một trong 3 nhóm qui định : Animals: người, động vật. Minerals: vật dụng, nguyên liệu . Vegetables: thực vật, rau quả. 11/20/2015Confidential Page  16
  17. ­ Cả lớp sẽ đoán vật đó bằng cách chỉ được hỏi bạn A các câu hỏi đúng sai ( yes   – no questions ). Tối đa là 20 câu hỏi để tìm câu trả lời. 6. Biện pháp tổ chức thực hiện:  * Các bước tiến hành giới thiệu từ mới: Để giới thiệu từ mới, giáo viên dạy cho học sinh theo bốn kỹ năng :             + Nghe: Giáo viên đọc mẫu, học sinh lắng nghe.             + Nói: Giáo viên đọc từ, học sinh đọc lại.             + Đọc: Giáo viên viết từ lên bảng, học sinh đọc từ bằng mắt, bằng miệng             + Viết: Học sinh viết từ vào tập.              ­ Bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ  đề: đây là bước khá quan trọng  trong việc dạy            từ vựng. Bước này sẽ  quyết định sự  thành công của tiết  học, nó sẽ gợi mở cho học sinh liên tưởng đến những từ sắp học qua chủ điểm   vừa mới được giới thiệu. Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải   thực hiện theo trình tự: nghe, nói, đọc, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động  nào khác “nghe”. Hãy nhớ  lại quá trình học tiếng mẹ  đẻ  của chúng ta, bao giờ  cũng bắt đầu bằng nghe, bắt chước phát âm rồi mới tới những hoạt động khác.  Hãy giúp cho học sinh của bạn có một thói quen học từ mới một cách tốt nhất:           ­ Bước 1: “nghe”, bạn cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu.            ­ Bước 2: “nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần bạn mới yêu cầu học sinh  nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại , bạn cần chú ý cho cả  lớp nhắc lại trước,   sau đó mới gọi cá nhân ­ Bước 3: “đọc”, bạn viết từ  đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để  đọc.  Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một chừng   mực mà bạn cho là đạt yêu cầu. ­ Bước 4: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi bạn mới   yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở. ­ Bước 5: bạn hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ  đó không và yêu cầu   một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt. 11/20/2015Confidential Page  17
  18. ­ Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ  và yêu cầu học sinh nhận diện âm  tiết có trọng âm và đánh dấu. ­ Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học. *   Trong khi dạy từ mới phải ghi nhớ các điểm sau:  Nên giới thiệu từ trong từng mẫu câu cụ thể. Ở những tình huống giao tiếp khác   nhau, giáo viên có thể kết hợp việc làm đó bằng cách thiết lập được sự quan hệ  giữa từ cũ và từ mới, từ vựng phải được củng cố liên tục. Giáo viên thường xuyên kiểm tra từ vựng vào đầu giờ  bằng cách cho các   em viết từ vào bảng con và giơ lên, với cách này giáo viên có thể quan sát được  toàn bộ  học sinh  ở  lớp, bắt buộc các em phải học bài và nên nhớ  cho học sinh   vận dụng từ vào trong mẫu câu, với những tình huống thực tế  giúp các em nhớ  từ lâu hơn, giao tiếp tốt và mang lại hiệu quả cao. Để học sinh tiếp thu bài tốt đòi hỏi khi dạy từ mới, giáo viên cần phải lựa   chọn các phương pháp cho phù hợp, chúng ta cần chọn cách nào ngắn nhất,   nhanh nhất, mang lại hiệu quả cao nhất, là sau khi học xong từ vựng thì các em   đọc được, viết được và biết cách đưa vào các tình huống thực tế.   ướng dẫn học sinh học từ vựng ở nhà:   *  H Thời gian học ở trường rất ít, cho nên đa phần thời gian còn lại ở gia đình  các em phải tự tổ chức hoạt động học tập của mình. Vì thế, ngay từ đầu từ năm   học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách học từ mới. học từ mới có rất nhiều   cách. Ex:  Hôm nay gv hướng dần học sinh  học 10 từ về nhà ngày đầu tiên hs   học 5 từ ngày thứ  2 học 5 từ cũ và 5 từ  tiếp theo (ôn lại từ  cũ ) và cứ  như  vậy   ngày nào học sinh cũng ôn tập thì sẽ  thuộc từ rất nhanh do vậy viêc học tập  ở  nhà thật quan trọng.  7. Sườn giáo án minh họa : ­Trước khi soạn giáo án giáo viên cần nắm vững vấn đề liên quan đến một   giờ học. 11/20/2015Confidential Page  18
  19. ­ Đối tượng học sinh : lứa tưổi, trình độ chung , vốn kiến thức và kĩ năng đã có,   điểm mạnh điểm yếu, sở thích, tâm lý… ­Nội dung yêu cầu bài học: Trọng tâm ngôn ngữ (cấu trúc, từ vựng), các kĩ năng  sẽ học. Đảm bảo nắm chắc kiến thức sẽ dạy và sử  dụng được thành thạo vốn   kiến thức đó. ­ Môi trường, điều kiện dạy học: trường lớp, cách bố  trí bàn ghế, các phương   tiện có trong phòng họ. ­ Các thủ thuật dạy học và bản chất của các hoạt động trên lớp. ­Sử dụng thành thạo các phương tiện trực quan và các phương tiện dạy học sẽ  dùng vào bài.   Dưới đây là sườn một giáo án tiếng Anh 5. Week 15: Period 59 Unit 10: How I  learn English Lesson 1(part1, 2) I.Overview   1. Objectives:  By the end of the lesson SS will be able to ask and answer questions   about one’s favourite school subject.   2. Language focus:        ­ Vocabulary: translator,difficult, best       ­ Sentence patterns: What subject do you like best? Science( I like science  best)  3 . Resources: student books, puppets/ flashcards / pictures, CD,  II. Procedure  Content Interaction I. Warm up: ­ slap the board( subjects) ­ T­ WC 11/20/2015Confidential Page  19
  20. ­ Team work. II. New lesson ­ Explain the title of this unit. 1. Look, listen and repeat. ­ T explains the requirement of  ­ Who are they? where are they from?  the task. ­ What are they talking  about ?  ­ Run through all the pictures  ( Characters/ places/  objects/activities) ­ Model: T­ Ps, P­ P ­ Play the recording all the way  through( once) ­ Listen and repeat. ­ Ps practice in pairs/groups 2. Point, ask and answer ­ T explains the requirement of  Eg: Picture a. the task. What subject is it? / Do you like it? ­ Run through  all the subjects.  How often do you have it? + Vocabulary ­ Teach vocabulary Translator, difficult,best + Checking vocab: R& R ­ Model: T­ Ps, P­ P  + Sentence patterns ­ Ps practice in pairs       What subject do you like best?  ­ Call on some pairs to perform          Science( I like science best) in front of the class. III. Reinforcement  ­ Gives comment. ­ Repeat vocabulary and subjects. ­   T­ WC IV. Homelink ­ Learn by heart the words, sentence  patterns you have learnt in this lesson. 2.3. Kết quả nghiên cứu * Tiêu chí đánh giá. 11/20/2015Confidential Page  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2