intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS

Chia sẻ: Thanhbinh225p Thanhbinh225p | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

386
lượt xem
72
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS được thực hiện nhằm tìm ra các biện pháp giáo dục học sinh cá biệt và vận dụng các biện pháp đó vào việc giáo dục học sinh cá biệt ở trường THCS Ba Đình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC  SINH Ở TRƯỜNG THCS Người thực hiện:   Trần Thị Nga Chức vụ:  Giáo viên Đơn vị công tác:  Trường THCS Ba Đình SKKN thuộc môn: Chủ nhiệm 1
  2. THANH HOÁ, NĂM 2013 A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài. Như chúng ta đã biết, mục đích của giáo dục là đào tạo những con người  phát triển toàn diện mà cụ thể là đức và tài. Đến nay chúng ta đã có rất nhiều   những thành công trong công tác giáo dục. Góp phần vào sự thành công ấy có  giáo dục của bậc THCS nói riêng và  ở  các cấp học nói chung. Nói về  giáo   dục  ở  bậc THCS, bên cạnh những đóng góp không nhỏ  cho nền giáo dục   nước nhà và rất nhiều học sinh của chúng ta có đạo đức tốt, có năng lực và  kết quả  học tập cao nhưng bên cạnh đó trong nhà trường vẫn còn tồn tại  những học sinh có kết quả  giáo dục chưa cao, đặc biệt là về  giáo dục đạo   đức. Đó là những học sinh có thái độ – biểu hiện đạo đức yếu kém mà ta hay   gọi là học sinh cá biệt. Đối  với  học sinh cá biệt chúng ta bỏ  ngoài  ư? Mặc kệ   ư? Không!  Không thể được. Nếu chúng ta có biện pháp giáo dục phù hợp với đối tượng  này thì tôi tin rằng công sức mà chúng ta bỏ  ra là không hề  lảng phí. Như  chúng ta đã biết, những em học sinh cá biệt là những em thường hay có cá  tính, hoặc có lí do đặc biệt. Nếu ta phát huy được cá tính tốt, hiểu rõ nguyên  nhân và có biện pháp khắc phục hợp lí thì tất sẽ  thành công, còn nếu chưa   được những gì tốt đẹp nhất thì việc làm đó cũng giúp cho học sinh cá biệt  chậm lại quá trình vi phạm để rồi dần thức tỉnh ra.   Chính vì thế  mà đã có nhiều nhà giáo dục, nhà khoa học, nhà sư  phạm  nghiên cứu, chỉ  ra các phương pháp giáo dục học sinh cá biệt. Kết quả   ấy   cũng đã được áp dụng rộng rãi và phong phú trên các trường học ở nước ta. 1.  Tình hình nghiên cứu .    Để  đưa ra các phương pháp giáo dục học sinh cá biệt và vận dụng các  phương pháp này, chúng ta không thể không nhắc đến tên nhà giáo học người  Liên Xô (cũ) Macarenkô, nhà giáo dục người Tiệp Khắc(cũ)­ Ông tổ của nền   sư  phạm cận đại Cômenxki đã nghiên cứu và áp dụng thành công vào việc  giáo dục học sinh cá biệt. Đồng thời làm phong phú và hình thành các lí luận   về  dạy học áp dụng rộng rãi trên thế  giới.  ở  Việt Nam chúng ta cũng đã có  rất nhiều nhà nghiên cứu về  lĩnh vực này và đã đưa ra nhiều phương pháp  2
  3. giáo dục học sinh cá biệt. Đó là những nghiên cứu của các giáo sư  : Phạm   Minh Hạc, Hồ  Ngọc Đại, Phạm Tất Dong, vv…Đặc biệt   Bác Hồ  đã từng  nói:                                                 “Hiền dữ đâu phải là tính sẵn                                              Phần nhiều do giáo dục mà nên”          Câu nói  đó của Bác đã thể hiện vai trò quan trọng của giáo dục đối với   sự  phát triển nhân cách nói chung và trong việc giáo dục học sinh cá biệt nói   riêng. Hiện nay cùng với sự  phát triễn của xã  hội,  bên cạnh những mặt tốt  của cơ  chế thị trường, những vấn đề tiêu cực, mặt xấu của xã hội cũng đang là mối  lo ngại cho toàn xã hội, bởi nó có thể len lỏi vào từng cá nhân. Với học sinh,  đặc biệt là học sinh THCS, lứa tuổi được coi là phát triển nhanh, mạnh về  mặt tâm sinh lí, cái tốt, cái xấu các em chưa dễ  dàng phân biệt. Vì vậy sự  xuống cấp về mặt đạo đức của một bộ phận học sinh đang làm nhức nhối xã  hội và nhà trường, hiện tượng đó có nơi có lúc đang ngày một gia tăng, khiến   cho các nhà giáo dục và các cấp quản lý, phụ huynh và xã hội đang rất  quan   tâm, đặc biệt là những người thầy giáo, cô giáo đang trực tiếp giảng dạy các   em.  Học sinh trường THCS Ba Đỡnh  cũng không tránh khỏi tình trạng đó.  3. Mục đích của đề tài. ­ Khi nghiên đề tài: “Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường   THCS Ba Đình” tôi nhằm tìm ra các biện pháp  giáo dục học sinh cá biệt và  vận dụng các biện pháp đó vào việc giáo dục học sinh cá biệt  ở  trường   THCS Ba Đình. II. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ­ Sau khi nghiên cứu đề  tài “Một số  biện pháp giáo dục học sinh cá   biệt  ở  trường THCS Ba Đình”  tôi muốn   được góp một phần kinh nghiệm  của mình vào việc giáo dục học sinh cá biệt  ở   trường THCS  Ba Đình  nói  riêng và ở các trường THCS  nói chung. Đồng thời góp phần vào việc kết hợp  giữa “ Gia đình – nhà trường và xã hội” trong việc giáo dục học sinh nhằm  hướng con em mình trở thành con ngoan – trò giỏi, người có ích cho xã hội. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1. Đối tượng: Khi nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục học sinh   cá biệt ở trường THCS ”thì đối tượng  nghiên cứu là học sinh lớp 9c trường   3
  4. THCS  Ba Đình  có những biểu hiện vi phạm đạo đức và vận dụng các biện   pháp giáo dục những đối tượng học sinh này. 2. Phạm vi nghiên cứu : học sinh lớp 9c  trường THCS Ba Đình, Bỉm Sơn,  Thanh Hóa.  IV. Phương pháp nghiên cứu:   Để  thực hiện được đề  tài này, tôi đã quan sát, tìm hiểu thực tế, phân  tích và tổng hợp từ đó rút ra kết luận và áp dụng các biện pháp thích hợp cho   từng nội dung. B. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN I. Cơ sở khoa học và thực trạng học sinh  cá biệt  1. Cơ  sở  lý luận: Thực trạng học sinh cá biệt  ở  trường THCS hiện  nay Lâu nay, khi đề  cập đến nguyên nhân và trách nhiệm đối với học sinh  cá biệt, mọi người đều cho rằng cả ba môi trường: gia đình, nhà trường và xã  hội đều là nguyên nhân của tình trạng học sinh cá biệt và đều phải chịu trách  nhiệm. Nhưng khi đặt vấn đề  đâu là nguyên nhân trực tiếp và chủ  yếu đối   với học sinh cá biệt thì lại có nhiều ý kiến khác nhau. Một số  bậc cha mẹ  than phiền về  sự  giáo dục của nhà trường, cho   rằng nơi đây không chú ý nhiều tới giáo dục đạo lí làm người, bảo vệ thuần  phong mĩ tục…  Nhà trường có khi lại đổ lỗi cho phụ huynh học sinh thiếu trách nhiệm   với con cái vì theo nhà trường, ngoài nhà trường, phần giáo dục thuộc về gia   đình đặc biệt là những người làm cha làm mẹ. Một số khác lại đổ lỗi cho môi trường  xã hội có nhiều phim ảnh, sách   báo đồi truỵ, khiêu dâm, người lớn sống thiếu gương mẫu… Và cũng có một nguyên nhân nữa mà ít người để ý đến, đó là đặc điểm  sinh lí lứa tuổi ( từ  11 đến 18 tuổi ). Sau đây tôi xin đưa ra một số  nguyên  nhân cơ bản    Thứ nhất:  Đời sống tâm lý,  sinh lí của lứa tuổi học sinh THCS Học sinh THCS nằm trong độ từ 11 đến 15 tuổi. Đây là độ  tuổi có  sự  phát triển nhanh, mạnh cả  về  thể  chất lẫn tinh thần, tuổi mà các em giã từ  4
  5. một thời  ấu thơ non nớt, ngây thơ, tươi sáng để  bước vào một tuổi lớn hơn,  bắt đầu nhìn đời bằng những tò mò, có nhiều hứa hẹn, thậm chí là rất thích  thể  hiện mình là người lớn…Nhưng nhìn lại thì các em vẫn còn là lứa tuổi  thơ dại, dễ bị cám dỗ, sa ngã.  Học sinh THCS tuy là lứa tuổi phát triển nhanh, mạnh nhưng lại không   đồng đều về  mặt cơ  thể. Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy, trung bình  mỗi năm cao lên được từ 5 đến 6cm. Trọng lượng cơ thể mỗi năm tăng từ 2,5   đến 6kg. ở lứa tuổi này các em thường không mập béo mà cao gầy, thiếu cân   đối. Các em có vẻ  lóng ngóng vụng về, không khéo khi làm việc, thiếu thận  trọng, hay làm đổ vỡ….Điều đó gây cho các em một tâm lí khó chịu. Các em ý   thức được sự lóng ngóng vụng về của mình và cố gắng che dấu nó bằng một   điệu bộ không tự  nhiên, cầu kì, tỏ  ra vẻ  mạnh bạo, can đảm để  người khác   không chú ý đến vẻ bề ngoài của mình. Vì vậy chỉ một một sự mỉa mai, chế  giễu nhẹ nhàng về hình thể, tư thế đi đứng của các em  thì có thể gây cho các   em những phản ứng mạnh mẽ. Hệ  thần kinh của các em còn chưa có khả  năng chịu đựng những kích  thích  mạnh, đơn điệu, kéo dài…Do tác động của những kích thích như thế thường  xuyên sẽ  gây cho các em tình trạng  ức chế, hay xảy ra tình trạng bi kịch, bị  kích động mạnh. Vì vậy, sự phong phú của các ấn tượng, sự chấn động thần   kinh mạnh hoặc sự  chờ  đợi kéo dài vì những biến cố  gây xúc động đều có  thể  tác động mạnh đến tuổi vị  thành niên, có thể  làm cho một số  em bị   ức   chế, uể  oải, thờ   ơ, lơ  đãng, tản mạn,… số  khác lại làm những hành vi xấu,   không đúng với bản chất của các em. Sự  thay đổi về  thể  chất và tinh thần chưa  ổn định  ấy của lứa tuổi vị  thành niên làm cho các em có đặc điểm nhân cách khác với các em khi  ở lứa   tuổi trước đó. Nhận thức của người vị  thành niên cho thấy còn thiếu kinh   nghiệm về cuộc sống, dễ có hành động không đúng, có khi mang yếu tố cảm   tính, dễ bị  động, bị lôi kéo vào những việc làm sai trái.   Từ sự phân tích trên, ta có thể kết luận: đời sống tâm lí lứa tuổi là một   nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh cá biệt ở trường THCS. Thứ hai: Nguyên nhân từ phía gia đình 5
  6. Một trong những nguyên nhân quan trọng  ảnh hưởng đến số  học sinh   cá biệt ở trường THCS đó là sự tác động từ phía gia đình. Có rất nhiều người   cho đây là nguyên nhân cơ bản nhất. Trong nhiều gia đình, cha mẹ  mãi lo làm ăn, xây dựng kinh tế, thiếu  thời gian quan tâm đến việc giáo dục con cái, việc học hành  của con thì phó   mặc cho nhà trường, đoàn thể. Nên việc phối hợp giáo dục chưa được quan  tâm đúng mức Mặt khác, năng lực giáo dục, những hiểu biết về  mặt phát triễn của  sinh lí, tâm lí đối với con cái của các bậc cha mẹ  còn rất hạn chế, nên chưa  sử  dụng được các biện pháp giáo dục cho phù hợp khi có tình huống xảy ra   với trẻ. Ta thấy rất nhiều gia đình chiều chuộng con cái từ khi còn nhỏ vì chỉ  có một cậu “ấm”. Thói quen vòi vĩnh, đòi gì được nấy, không vâng lời, việc   gì cũng  ỷ  lại cho bố  mẹ…đã trở  thành thói quen khó sửa cho các em. Hoặc   nhiều cha mẹ lại quá khắt khe, bảo thủ gây cho trẻ những phản ứng gay gắt.   Cũng có những gia đình ít quan tâm, buông lỏng cho trẻ  tự  do hành động  khiến cho trẻ hư hỏng lúc nào không hay. Bên cạnh đó lại những gia đình mà cha mẹ lại là người rượu chè, thiếu   gương mẫu không làm tròn nhiệm vụ của người làm cha làm mẹ, người công  dân… Điều đó cũng khiến cho tâm lí vốn chưa  ổn định và chưa có sự  chọn  lọc  ở các em trở nên buồn chán và dẫn đến lơ là, chán nản trong học tập, dễ  bị bắt trước và bị   kẻ  xấu lôi kéo và dẫn đến những hành vi xấu ( đánh bài,   đánh “chát”, chơi bi ăn tiền, tụ tập chơi điện tử và nhiều thứ khác…)           Hoặc có nhiều gia đình kinh doanh làm ăn bất chính để kiếm tiền như  buôn bán văn hoá phẩm đồi trụy, mua bán ma túy, tổ chức đánh bạc, chứa gái  mại dâm… ….cũng là môi trường gây độc cho trẻ. Còn một lí do mà ta không thể bỏ qua, đó là nhiều trẻ em sinh ra trong  gia đình quá nghèo túng, nên chúng mặc cảm   về  bản thân gia đình mình,  chúng cảm thấy thua kém bạn bè, thiếu thốn. Thế rồi chúng lơ là, bỏ bê việc  học tập, thường  xuyên vi phạm những nội qui, qui  định của trường,  lớp.   Thậm chí có em vì không có tiền thoả mãn nhu cầu cá nhân, sở  thích, những  cuộc vui chơi…chúng sinh ra trộm cắp, lừa dối. 6
  7. Một số  em do cha mẹ đánh cãi nhau, bất hòa, ly hôn nên em  ở với mẹ  thí thiếu bố, em ở với bố thì thiếu mẹ. Thậm trí có nhiều gia đình bố mẹ bị đi   cải tạo nêm con cái không được nuôi dạy cẩn thận. Trên đây là những nguyên nhân từ phía gia đình dẫn đến tình trạng học  sinh cá biệt. Các bậc cha mẹ cần lưa tâm chú ý để giáo dục con cái mình. Cha   mẹ phải là tấm gương đầu tiên cho con cái noi theo. Thứ ba: Nguyên nhân từ nhà trường   Nhà   trường   là   môi   trường   giáo   dục   học   sinh   theo   hệ   thống   và   có  phương pháp nhất. Nhưng có thể  nói, hiện nay trong nhà trường còn tồn tại   một kỉ luật học đường chưa thật nghiêm. Ta thấy rõ, thầy cô giáo và nhà trường ngoài các biện pháp nhắc nhở,   cảnh báo, đuổi học không được phép răn đe học sinh hư, học sinh chậm tiến   bằng hình phạt khác. Vì lẽ  đó cũng hình thành  ở  học sinh  tâm lí “nhờn” với  thầy cô giáo, hỗn với người trên tuổi. Bên cạnh đó, việc giảng dạy các môn đạo đức (dạy làm người ), dạy  pháp luật lại chưa được chú trọng. Trong nhà trường, đội ngũ cán bộ  giáo  viên giảng dạy môn đạo đức và pháp luật còn rất hạn chế, không có hoặc ít  giáo viên chuyên ngành được đào tạo dạy đạo đức và pháp luật. Mặt khác, trong nhà trường có một số  giáo viên chủ  nhiệm hoặc giáo  viên bộ môn đã không thực sự quan tâm đến học sinh, đặc biệt là học sinh cá  biệt. Với học sinh cá biệt, giáo viên cần   quan tâm nhiều hơn để  giúp đỡ,  khuyến khích động viên các em tu dưỡng, rèn luyện nhân cách đạo đức của   mình. Đôi khi giáo viên thiếu kinh nghiệm, lại không được chuẩn bị  đầy đủ  chu đáo về kiến thức, kĩ năng nên dễ  giải quyết các tình huống gay cấn bằng thói quen, bằng kinh nghiệm, bằng   trực giác. Vì thế  khó tránh khỏi những sai lầm. Ví dụ  thiên về  trừng phạt  nặng, có thái độ  cứng rắn đến mức độ  thờ   ơ, lạnh nhạt trái với lòng tin và  mong đợi của học sinh. Trong tình thế  này , người ta còn lẫn lộn giữa tâm lí   học tội phạm với tâm lí trẻ  khó giáo dục.Thầy cô ra lệnh, cấm đoán nhiều  điều càng kích thích trí tò mò của học sinh và  lại bị vi phạm. Thế là cái vòng   luẩn quẩn xuất hiện: thầy cô, cha mẹ  liên tục giao việc, nêu yêu cầu để  trẻ  làm. Không hoàn thành được, thế  là  ở  nhà trẻ  bị  cha mẹ  quở  mắng,  đến  trường lại cũng bị thầy cô khiển trách.  Hệ  quả  là chúng chán nản, rã rời,  hết có phản ứng này đến phản ứng khác. Các nhà sư phạm non tay lại không   7
  8. thông cảm, mà lại dùng kỉ luật cứng nhắc bắt trẻ vào khuôn phép. Thế là mọi  sự giáo dục lại không có hiệu quả. Cái sai lầm về nghệ thuật giáo dục dẫn đến hình thành ở học sinh thói  xấu như sợ sệt, nói dối, ác cảm với thầy cô giáo… Thái độ thờ ơ, ác cảm với học sinh cá biệt ở một số nhà giáo dục cũng  do họ không hiểu được tâm lí của lứa tuổi này. Thái độ  quá tự  tin, chủ  quan   vào tài năng giáo dục cũng tạo nên tình trạng mạnh ai nấy làm, thậm chí trở  thành tình trạng      “ trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Điều đó cũng giống  như cảnh gia đình lộn xộn, đổ vỡ, trẻ bị bỏ rơi, thiếu sự quan tâm chăm sóc,  thiếu tình thương, dần dần thoát  li khỏi ảnh hưởng giáo dục cần thiết. Tóm lại việc nghiên cứu phát hiện đúng nguyên nhân khó giáo dục  ở  học sinh là vô cùng quan trọng đối với tất cả các giáo viên và cả các bậc cha  mẹ. Nó cũng giống như việc chuẩn đoán bệnh của thầy thuốc trước khi bắt   tay vào chữa trị Thứ tư: Nguyên nhân từ phía xã hội Việc chuyển đổi nền kinh tế  sang cơ  chế  thị  trường đã gây ra những  biến đổi xã hội rất lớn, có  ảnh hưởng không nhỏ  đối với lứa tuổi học sinh.   Những mặt trái từ phía xã hội như buôn lậu, nghiện hút, cờ bạc, đề đóm, mại   dâm….và các hành vi phạm pháp khác của người lớn đã ảnh hưởng tiêu cực   đến các em.   Do sự  quản lí không chặt chẽ  của các nhà chức trách, do lợi nhuận   kinh tế  của các nhà kinh doanh, buôn bán không cần để ý đến đã ảnh hưởng  đến ai. Ra đường ta thấy đầy rẫy những quán “chát”, “Game”, quán bi­a và  nhiều loại quán khác đã rất thu hút trẻ như một “ma lực”. Bao nhiêu hình ảnh,  bao nhiêu câu chuyện không lành mạnh đã tiêm vào đầu trẻ  như  một liều   thuốc rất không bổ. Mặt khác do trẻ em a dua theo bạn bạn bè, bị  bạn bè rủ rê lôi kéo vào  những hoạt động xấu gây tác hại cho gia đình, nhà trường và xã hội Hoặc cũng có thể  do hoàn cảnh sống đã tác động đến trẻ.  ở  đâu có tệ  nạn xã hội xảy ra nhiều thì ở đó tập trung nhiều trẻ em phạm pháp Trên đây là những nguyên nhân cơ  bản, dẫn đến tình trạng học sinh cá  biệt – khó giáo dục. Chúng ta và tất cả  những người làm công tác giáo dục  cần tìm ra nguyên nhân cụ thể đối với từng học sinh cá biệt để có biện pháp  giáo dục đạt hiệu quả nhất. 8
  9. 2. Cơ sở thực tiễn: Thực trạng học sinh  cá biệt lớp 9c  trường THCS   Ba Đỡnh.    2.1 Tình hình thực tế .        Lớp 9C tôi chủ nhiệm 37 HS phần lớn là HS phường Ba Đình, phường  Lam Sơn, nhiều em có hoàn cảnh đặc biệt : cha mẹ li hôn, cha thì nghiện  ngập, đi lao động nước ngoài, 1 số gia đình cha mẹ lao động tự do. Các em ít  được sự quan tâm sống thiếu tình yêu thương đùm bọc của người thân, thiếu  sự quan tâm chăm sóc giáo dục. Vì thế mà việc học tập của các em sa sút, rèn  luyện đạo đức cũng bị hạn chế, những ời nói tự do thô tục thiếu văn hóa càng  được biểu hiện rất rõ trong tâm hồn các em. Khi  nhận lớp thời gian đầu tôi  đã nhận ra một số bạn nữ tâm sinh lí phát triển nên có những biểu hiện về  tình cảm khác giới tâm lí các em có độ lì , các bạn nam hiếu động nói năng tự  do, thô tục thiếu văn hóa và thường xuyên bỏ học để vui với các trò chơi điện  tử, có những em gia đình đã bất lực, phó mặc cho nhà trường quản lí. Cái khó  khăn của tôi là mới nhận lớp nên tìm hiểu đối tượng tính cách , hoàn cảnh  của mỗi em chưa được nhiều về thời gian . Vì thế, tôi suy nghĩ, trăn trở tìm ra  giải pháp đúng đắn phù hợp với từng đối tượng tâm sinh lý HS – HS cá biệt. THỐNG KÊ HOÀN CẢNH GIA ĐÌNH HỌC SINH Số HS Hoàn cảnh gia đình 2 em cha mẹ công chức, điều kiện khá giả quan tâm chăm sóc chu đáo 5 em Cha mẹ bỏ nhau sống với ông bà nội, ngoại 20 em Cha mẹ  làm nghề  lao động tự  do, lao động nước ngoài, ít quan  tâm đến việc học tập của các em 10 em Hộ nghèo, gia đình khó khăn Chất lượng hạnh kiểm năm học trước 2011 ­ 2012 Tốt (%) Khỏ (%) Trung   Bỡnh  Yếu (%) Kộm (%) (%) 20 20 40 20 0 2.2 Tình hình nhà tr   ường        Như  trên chúng ta đã biết, việc thay đổi cách sống, cách sinh hoạt của   cộng đồng tất sẽ dẫn đến sự thay đổi của trẻ em ( trẻ thường lấy người lớn   làm gương, các gương xấu dễ  bị  tiếp thu hơn). Học sinh THCS   Ba  Đỡnh   cũng nằm trong tình trạng chung của học sinh THCS trên địa bàn của thị  xã.  9
  10. Trong những năm qua, do có sự  đi lại thuận lợi, cơ  sở  vật chất trường lớp   được khang trang hơn, chất lượng và thành tích của nhà trường được nâng lên   ( trong đề tài này tôi chưa nói đến thành tích của học sinh và nhà trường) nên  có một số  học sinh  ở  khác phường xin về  học . Trong số các em chuyển về  trường học có  nhiều em chăm ngoan học giỏi, song vẫn có một số em thuộc   dạng học sinh cá biệt. Những học sinh này kết hợp với số học sinh hư trong  trường  làm tăng thêm số  lượng học sinh cá biệt, một số  học sinh lớp 9C là   điển hình.  Mặt khác, phần lớn phụ  huynh học sinh còn hạn chế  về  kiến thức, kinh   nghiệm giáo dục con em, sự  quan tâm, quản lý con cái còn chưa đúng mức.   Nhiều gia đình chưa thực sự phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục con   cái ­ phó mặc cho nhà trường. Nhiều phụ huynh nhà trường cần găp thì không  đến, có phụ huynh đến thì thái độ lại khó chịu. Nhiều học sinh bố mẹ không  quản lý được như  để  cho con em đi chơi lêu lổng, nói dối ( ban đêm không   học vẫn tụ tập để đi chơi ngoài đường từ đó nảy sinh nhiều vấn đề  về đạo   đức). Hiện nay nhà trường có 16 lớp học, mỗi khối có 4 lớp nhìn chung các em   đều chăm ngoan, học giỏi , song rải  ở các lớp vẫn có những học sinh cá biệt   đạo đức yếu kém là do bố mẹ thiếu quan tâm hoặc biện pháp giáo dục thiếu   tính hợp lý. Một số  do mâu thuẫn cá nhân có tính chất phân biệt đẳng cấp   giàu nghèo  và bị một số thanh niên xấu rủ  rê,  cổ  vũ khích lệ  dẫn đến đánh   nhau. Một số khác do động cơ học tập không cao dẫn đến thờ ơ với việc học   tập. II.  Một số biện pháp và kết quả giáo dục học sinh cá biệt A. Biện pháp  giáo dục  học sinh cá biệt  Việc giáo dục học sinh cá biệt cần có sự phối kết hợp giữa gia đình – nhà  trường – xã hội, nhất định sẽ  nâng cao được chất lượng giáo dục. Hồ  Chủ  Tịch đã từng căn dặn: “ Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, cần có sự  giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để  giúp cho việc giáo dục trong nhà  trường được tốt hơn. Giáo dục nhà trường dù có tốt đến mấy nhưng thiếu   giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”. Vì   vậy, 10
  11. 1.  Đối với nhà trường . Trường học là cơ  sở  chính ­ chủ  đạo trong quá trình giáo dục với ý nghĩa  nó là nhà điêu khắc chính tạo nên tâm hồn con người. Trường học để lại dấu  ấn không phai mờ trên bộ  mặt văn hoá của tất cả  những ai đã học tập ở  đó.  Trường học chân chính lấy làm tự  hào là tất cả  những người lớn tuổi đều  hãnh diện tự coi mình là học trò của các em. Trường học là nơi hình thành và  bảo vệ cái cốt lõi đạo đức của người công dân. Những mối quan hệ lẫn nhau   được hình thành trong tập thể  của trường học. Vì vậy để  cho trường học   giảm bớt tình trạng học sinh cá biệt thì nhà trường nên có những biện pháp  như sau: Tăng cường những giờ  giảng  có hiệu quả  và chất lượng về  luân lí đạo   đức, pháp luật cho học sinh.  ở  mỗi lớp, nhà trường chọn ra số  học sinh cá   biệt, tập trung lại và cho giáo viên có kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn về  đạo đức, về  pháp luật để  bồi dưỡng. Những học sinh  này cần được truyền  thụ  kiến thức đạo đức ( bài học làm người, các phẩm chất và bổn phận đạo  đức của công dân ) và kiến thức pháp luật để  các em biết và giác ngộ, sửa   chữa dần dần những việc làm, hành vi không phù hợp với chuẩn mực của xã   hội. Vì vậy, trong trường học, cần có giáo viên dạy pháp luật nói riêng và dạy  giáo dục công dân nói chung có trình độ  và chuyên môn vững vàng để truyền  đạt đến học sinh một cách có hiệu quả. Mặt khác, giáo viên chủ nhiệm và các  giáo viên bộ môn cần có sự quan tâm chú ý đến học sinh lớp mình, đặc biệt là   học sinh cá biệt. Giáo viên chủ  nhiệm là người chịu trách nhiệm trước nhà  trường, trước cha mẹ học sinh về sự phát triển nhân cách của từng học sinh   theo mục tiêu giáo dục. Do đó, đối với học sinh cá biệt, bản thân tôi đưa ra một số  biện pháp sau  đây: Thứ nhất: Biện pháp xây dựng lại niềm tin Bình thường, trẻ  em vốn có niềm tin vào “thế  giới” người lớn, hồn  nhiên và yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em cũng như  những người xung  quanh. Vì những lí do xã hội và hoàn cảnh phức tạp của cá nhân mà niềm tin  của các em bị phai nhạt và đổ vỡ, thậm chí các em có những tình cảm ngược   lại: oán giận xã hội, căm ghét gia đình và những người xung quanh, mặc cảm  11
  12. về  chính bản thân, về  thân phận bất hạnh của mình. Vì vậy, nhà giáo dục  như chúng tôi nên thực hiện theo các yêu cầu sau: Từ những phút đầu tiên tiếp xúc với trẻ, phải tạo cơ hội để  các em có   cái nhìn đúng đắn ( không bị khúc xạ, xuyên tạc, làm méo mó đi ) về thế giới   khách quan, về  các mối quan hệ  giữa người với người. Từng bước, từng   bước khôi phục lại, nâng dần lên, hiểu đúng các quy tắc xã hội và những tiêu  chuẩn đạo đức nhân cách, những tiêu chuẩn hành vi, gợi lên lòng tin của các  emg với mọi người, với cuc sống   ( mà trước đó do bị  cuộc sống vùi dập   trong nỗi bất hạnh khiến chúng nhìn hoàn toàn ngược lại). Theo thời gian   phải đồng thời gợi mở  vạch ra cho các em thấy những khía cạnh sai lầm,   những ngộ  nhận trong cách nhìn người, nhìn việc, xem xét các mối quan hệ  để cảm hoá  và tạo điều kiện cho các em tự cảm hóa mình. Nên tổ chức các hoạt động ( lao động, văn nghệ, thể thao… ). Để trẻ tiếp  xúc và  giao lưu với nhau, với cộng đồng  ở  dạng trong sáng, dần dà trẻ  sẽ  nhận ra  cái đúng, phát hiện ra thái độ  lệch lạc, cực đoan của mình để  từ  đó tự  điều  chỉnh. Có như vậy chúng mới có cơ sở  để tin rằng: Người với người là bạn,  nam nữ bình đẳng, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn là điều tất nhiên,  là việc   làm cần thiết và phải làm trong thực tế. Với ai cũng vậy, nhận thức được các   qui tắc tối thiểu: ăn thì phải làm, nhận được sự  giúp đỡ  phải cảm  ơn…Có  thể nói: được học kiến thức và được thử nghiệm trong thực tế  niềm tin của   trẻ được khôi phục dần dần và đó là cơ sở để ta phê phán cái sai, ủng hộ và  làm theo cái đúng trong những lần sau: Quá trình xây dựng lại niềm tin cần vạch ra bức tranh tổng thể, vì cuộc  sống buông thả  vô nguyên tắc cuối cùng sẽ    gặm nhấm, làm tiêu tan cuộc  sống lành mạnh của mỗi người.  Cần chú ý là khi khôi phục lại niềm tin phải hết sức tế nhị, không bao giờ  tỏ ra nghi ngờ hoặc chế nhạo sự non nớt, sự sai lầm của trẻ, k ể c ả việc bác   bỏ thẳng thừng thô bạo các quan niệm sai lầm của trẻ. Thế giới tâm hồn trẻ  cực kỳ phong phú nhạy cảm, dù hế sức gần gủi với trẻ chắc chắn chúng vẫn  còn nhiều điều bí  ẩn, khó lòng thấu hiểu hết. Sự  khéo léo  ứng xử  về  sư  phạm phải tinh thông, có như  vậy trẻ  mới tin ta và từ  đó chúng mới tin vào   bản thân chúng và vào cuộc sống nói chung. Thứ hai: Biện pháp khuyến khích và trừng phạt. 12
  13. 1.1 Trừng phạt. Trừng phạt phải được đối tượng nhận thức tiếp thu như là hình thức đặc  biệt của yêu cầu chung đối với hành vi sai trái của các em. Trong nội dung  trừng phạt đồng thời nên có các nội dung:  ­  Phê phán, chỉ trích việc làm sai trái ­  Lời chỉ dẫn sửa chữa hoặc qui tụ hành vi để khắc phục sai phạm đó. ­  Cảnh báo, răn đe sự việc tái diễn để phòng ngừa về sau ­ Trừng phạt được áp dụng để  sửa trị  những lỗi lầm của trẻ  sai phạm  ở  mức độ  nặng nề  ( như  chúng đã xúc phạm thô bạo bạn bè, mọi người, luôn  luôn bộc lộ tính  hung tợn, tính chấp nhặt trả thù khiến cho trẻ khác sợ hãi) .  Nhưng trừng phạt phải chặt chẽ, thích đáng, tránh tạo cơ hội để  trẻ  bộc   lộ sự ranh mãnh đối phó theo kiểu đạo đức giả. Khi trừng phạt phải vạch rõ   lý do chính đáng đảm bảo cho việc trừng phạt đạt hiệu quả  mong đợi của  mọi người, làm cho đối tượng chuyển biến thái độ  hành vi. Thực hiện việc   trừng phạt phải được dư luận của  nhóm đồng tình ủng hộ. Phải nhạy bén linh hoạt thay đổi hình thức phạt khi cần thiết và cũng  không nên trừng phạt một cách máy móc hình thức. Tối kị  việc trừng phạt   hàng loạt trẻ với một hình thức sáo mòn nào đó. Khi bản thân trẻ  đã hiểu rõ   tính nết và cung cách giáo dục của nhà giáo dục mà người đó lại không chịu  cải tiến hình phạt, rễ dẫn đến thái độ  khinh nhờn của trẻ, vì chúng cho rằng  như  vậy là tắc trách, là không khách quan. Vì vậy đối với mỗi đối tượng,   phải sâu sát với chúng và cá biệt hoá cả cách thức trách phạt thì hiệu quả mới   tốt. Ví dụ: có trẻ phải cương quyết, có trẻ phải dùng áp lực, dư luận tập thể;   có trẻ  phải tâm tình thuyết phục, thậm chí mời gia đình giáo dục. Việc thực   hiện thực hiện trừng phạt không nên hấp tấp vội vã, tránh tình trạng để  trẻ  có lỗi chưa đủ thời gian tự xem xét đã phạt.  Về  tâm lý khi trẻ  vừa rơi vào tâm lý xung đột, sự  cuồng nhiệt chưa lắng   lại, người phạm lỗi chưa có đủ thời giờ để suy ngẫm, phân tích cảm nhận rõ  ràng, nếu ta phạt ngay dễ dẫn đến sự phân tán trong dư luận và bản thân trẻ  cũng chưa có đủ điều kiện để tiếp thu. Vậy, việc phạt trẻ phải đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng, đúng mức sẽ  có tính giáo dục cao. 1.2.  Khuyến khích – khen thưởng  13
  14. Có nhiều người cho rằng không nên áp dụng biện pháp này đối với học  sinh cá biệt. Tuy vậy, trong giáo dục sự  nâng đỡ, khuyến khích cái tốt, cái   thiện dù là nhỏ đều rất cần cho sự khôi phục lại niềm tin của người lầm lỗi. Nếu trừng phạt thực hiện 3 chức năng ( Giúp trẻ ý thức đầy đủ về khuyết  điểm, từ đó thừa nhận không thể dung thứ được những sai phạm như vậy, và  từ  việc ý thức như  vậy sẽ  tìm cách khắc phục sai phạm, khuyết điểm và tự  điều chỉnh hành vi của mình) thì khen thưởng, khuyến khích cũng có ba chức   năng như vậy. Nhìn chung việc kết hợp cả  khuyến khích   và trừng phạt được kết hợp  một cách hệ thống liên tục sẽ giúp trẻ hiểu rõ, phân biệt được cái tốt cái xấu,  cái gì được xã hội chấp nhận, cái gì không thể  và không được làm. Từ  đó   khuyến khích trẻ làm theo cái tốt loại dần những sai trái. Đến một mức phát   triển cao chúng sẽ  hình thành được năng lực tự nhận xét, phê phán, chỉ  trích  mọi hành vi sai trái của mình. Đặc biệt đối với trẻ  thiếu thốn tình cảm gia  đình thì sự yêu thương thông cảm khiến chúng có sức cảm hoá rất mạnh.  Tuy nhiên khuyến khích phải mang tính cá biệt hoá sao cho phù hợp với  đối tượng. Có trẻ  cần tuyên dương công khai, có trẻ  cần trao tặng phẩm, có  trẻ chỉ cần ánh mắt thông cảm, động viên là đủ. Việc đề  xuất và tổ  chức thực hiện khuyến khích phải được người có uy  tín, được trẻ  tin tưởng, tránh trường hợp người có va chạm với trẻ  lại làm   việc khen chê đó. Khen thưởng đối với loại trẻ  này phải nhằm vào sự  cố  gắng thực sự của trẻ. Khuyến khích là nhằm khơi gợi những nhân tố tích cực trong trẻ, giúp trẻ  hiểu rõ  các phảm chất, các năng lực, tính cách của mình. Điều đó làm cho trẻ  tin   tưởng ở bản thân mình, hình thành ở trẻ  tư  tưởng phấn đấu trở  thành người   tốt hơn. Cần khuyến khích cùng với giao việc cụ  thể, tổ  chức các hoạt động tạo   cơ hội cho trẻ bộc lộ tiềm năng, thử thách tự sửa chữa trong thực tế. Tóm lại, việc khuyến khích trong giáo dục học sinh các biệt cũng là một  trong những biện pháp quan trọng, tạo cơ hội cho trẻ tự sửa chữa, vươn lên  và trở thành người học sinh tốt hơn.        2.Đối với gia đình. 14
  15. Nhà trường cần kết hợp với gia đình để giáo dục học sinh các biệt. Người   giáo viên chủ  nhiệm có học sinh các biệt cần phải kết hợp với gia đình để  trao  đổi và tư  vấn các biện pháp giáo dục trong gia đình . Phần lớn các gia  đình  đặc biệt các gia đình ở  nông thôn ( địa bàn ph ường Ba Đỡnh) trình độ,  biện pháp giáo dục còn hạn chế, do vậy cần có sự  hỗ  trợ, tư  vấn, kết hợp  của giáo viên về biện pháp giáo dục. Trong phạm vi gia đình, những người làm cha làm mẹ   dù có bận như  thế  nào thì mỗi ngày nên dành một thời gian nhất định để  quan tâm đến trẻ.   Cha  mẹ  phải biết phòng ngừa các hành vi xấu của con bằng các biện pháp  giáo dục cẩn thận và đặc biệt khi trẻ có các hành vi hư hỏng thì phải phương   pháp giáo dục một cách đúng đắn . Khi con cái đã mắc các sai lầm khuyết  điểm thì các bậc  cha  mẹ có thể thực hiện theo những điều sau đây: + Tránh vội vàng qui kết cho con theo kiểu áp đặt, chụp mũ ( lười,   ngang bướng, hư  hỏng, đồ  bỏ  đi, vô dụng, đồ  ăn cắp, …) mà phải tự  đặt ra   câu hỏi đâu:     “ Vì đâu có thái độ, hành vi sai trái? ” và tìm căn nguyên để  khắc phục. + Khi giáo dục trẻ  cần có thái độ  bình tĩnh, tránh tức giận, bực bội cá   nhân. Nên có lời khuyên giải một cách chân tình thể hiện tình thương và trách   nhiệm. + Nên tìm mặt tích cực để tìm cách khuyến khích, động viên và khuyến  khích mặt tích cực của trẻ. + Tránh tình trạng bênh vực hành vi xấu của trẻ, tô vẽ  nên “ bức tranh   vô tội” của trẻ hoặc là đánh giá một cách bi quan không thể giáo dục. + Đứng trước hành vi sai trái của trẻ thì tránh đối xử một cách thô bạo   với trẻ  (hắt hủi, đánh đập…). Vì như  vậy sẽ  đẩy trẻ  lún sâu vào những sai   phạm, có những tiêu cực, khó lường, gây nên những vết thương sâu sắc trong  tâm hồn trẻ. + Đối với những đứa trẻ  trái tính trái nết, do dối loạn tâm lí thì phải  quan tâm xem xét các mặt sinh hoạt trong gia đình và bản thân trẻ, phải chăm  sóc chữa trị chúng theo các biện pháp y học. Với các biện pháp cơ  bản như  trên, mong các bậc cha mẹ  lưu tâm và   tìm  thêm biện pháp khác phù hợp với đặc điểm con trẻ  để  giáo dục chúng phát   triển tốt  15
  16. về tư cách, giỏi về văn hoá                                                                     3.  Đối với các tổ chức xã hội  Nhà trường cần có nội dung, mục tiêu giáo dục trong nhà trường vào các  tổ  chức xã hội  ở  địa phương như: Đoàn thanh niên, Hội phụ  nữ, Hội cựu   chiến binh, Hội người cao tuổi… nhằm thống nhất, định hướng, tác động đối   với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Các cơ quan truyền thông và báo chí xuất bản phim ảnh nên tăng cường   những phim tốt và những chương trình,  ấn phẩm tốt nhằm giáo dục hướng   trẻ   vị   thành   niên.   Ngăn   chặn   những   sản   phẩm   văn   hoá   có   tính   đầu   độc.   Chương trình truyền thanh và truyền hình nên mở  rộng, tăng cường các tiết  mục thông tin giáo dục đại chúng, trong đó có chương trình hướng dẫn về  sức khoẻ, y tế, cộng đồng…giải trí lành mạnh. Mặt khác, cần tăng cường các hoạt động nghiệp vụ  về  pháp luật của  các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc phát hiện, điều tra, xử lí đối với trẻ  em vị thành niên phạp tội. Cảnh sát khu vực, cảnh sát phụ trách xã, công an xã  cần chú ý đến trẻ vị thành niên để theo dõi, ngăn chặn kịp thời hành vi phạm   tội của trẻ. Nhà trường phối hợp với địa phương tổ chức cho học sinh tham gia tích   cực vào tất cả các hoạt động văn hoá, xã hội như: xoá đói, giảm nghèo, đền  ơn đáp nghĩa, gia đình văn hoá mới, dọn dẹp đường làng ngõ xóm….Nhằm   góp phần cải tạo môi trường gia đình và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn đối với   quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. B. Kết quả đạt được được trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt Với những biện pháp nêu trên, trong quá trình giảng dạy  ở  nhà trường  THCS, tôi đã mạnh dạn áp dụng để giáo dục học sinh cá biệt ở lớp mình chủ  nhiệm và đồng giáo dục học sinh trong trường thì kết quả  đạt được rất khả  quan. Em Nguyễn Thanh Phong, ban đầu tôi nhận lớp em có thái độ vô lễ, nói  năng thiếu văn hóa và “bất cần”, thường lôi kéo bạn bè làm theo ý của mình.   Trước những hành vi đó tôi cũng luôn nhắc nhở  giáo dục em trước lớp song   không có kết quả  gì. Suy nghĩ để  tìm ra giải pháp, tôi đã gặp riêng tìm hiểu  hoàn   cảnh   gia   đình,   lúc   đó   tôi   biết   được   Phong   có   hoàn   cảnh   thật   đáng   thương: cha thì nghiện ma túy, mẹ thì lao động tự do, em ít được sự quan tâm  và yêu thương của gia đình. Có lẽ  vì thế  em chán trường, không muốn học.   16
  17. Phong tâm sự: Em đến trường cốt để  hòa đồng với bạn bè song nhiều bạn  thường chế  giễu và mỉa mai “con của thằng nghiện”, những lời lăng nhục  của bạn bè càng khiến em cảm thấy nhục nhã nên em phải thể  hiện mình   trước mọi người để bạn bè không làm những điều đó, mong cô hiểu cho em.   Nghe Phong tâm sự tôi cảm động và xót xa phân tích cho em hiểu được những   điều em cần sửa chữa và phải làm gì cho đúng đạo lí. Phong đã hiểu và xin  lỗi, hứa với tôi sẽ tiến bộ. Từ lần gặp đó cho đến hôm nay Phong đã có thay  đổi và ý thức học tập tốt hơn. Em Hà Thị Thủy,  HS có thể xem là “đại ca” của tốp nữ. Đầu năm em   thường bỏ học đi chơi với bạn trai, trang phục đến trường thường bắt chước  theo kiểu ca sĩ, không phù hợp với tuổi HS. Khi giáo viên nhắc nhở thì em có  những hành vi thiếu văn hóa. Lúc đó tôi rất buồn vì trong lớp cũng có một vài   em đạo đức kém như vậy. Lo lắng suy nghĩ để tìm ra một giải pháp giáo dục   các em như thế nào? Tôi gặp riêng em tâm sự  và hiểu được cái suy nghĩ của  Thủy đó là  ưa nhẹ  nhàng, tế  nhị  kín đáo bởi vì tuổi nhỏ  em không được sự  chăm sóc yêu thương của mẹ, cho nên em khao khát tình mẹ. Hiểu được tâm   sự của em tôi đã tìm ra được phương pháp giáo dục em Thủy theo một chiều   hướng tốt. Một lần em đã xin được gặp tôi nói: cô  ơi giờ em mới thấm thía   lời cô nói. Em cảm ơn cô nhiều. Em  Nguyễn Văn Thắng   sinh ra trong một gia  đỡnh rất hạnh phỳc,   nhưng em đó bị sự cỏm dỗ của bạn bố, thường xuyên bỏ học đi chơi điện tử.  Tôi đó đến gia đỡnh nhiều lần thỡ  được biết mẹ  rất nuông chiều, con thích  gỡ  được nấy. Tôi đó xin phộp gia đỡnh để  phân tích cái đúng cái sai để  gia  đỡnh và em hiểu được cần phải học tập như thế  nào là tốt nhất, không nên   chiều chuộng con cái. Ban đầu gia đỡnh khụng hợp tỏc, rồi thời gian người   mẹ  đó hiểu được nuông chiều con cái là tác hại lớn. Từ  đó cả  hai phía kết  hợp với nhau để giáo dục em và kết quả học kỡ II em đó đi học đều đặn, ghi   bài đầy đủ, chăm chỉ học tập hơn.  Trong lớp tôi còn rất nhiều học sinh cá biệt. Tuy thời gian chủ  nhiệm   các em có một năm chưa đủ  để  hiểu hết được tâm tư  tình cảm của các em.   Song có một điều tôi nhận ra rằng: người giáo viên không chỉ truyền thụ kiến   thức cho các em mà còn phải rèn luyện đạo đức, mình phải thực sự là người  mẹ  thứ  hai, các em như  những đứa con yêu đấu của mình. Khi làm công tác  chủ nhiệm, thực sự tìm hiểu hoan cảnh sống của học sinh để cảm thông chia  17
  18. sẻ với những em có số phận bất hanh, phải gần gũi yêu thương và hiểu được  tính cách của từng em trong lớp để  có một phương pháp giáo dục rèn luyện   đạo đức cho học sinh một cách có hiệu quả. Điều quan trọng giáo viên phải  có tõm huyết với nghề nghiệp, yờu thương học sinh. Đặc biệt giáo viên chủ  nhiểm phải có thời gian  tỡm hiểu tớnh cỏch và  hoàn cảnh  từng em trong  lớp, có thể cảm nhận được các em suy nghĩ gỡ  để có phương pháp giáo dục   đúng đắn. Đối với những HS chậm tiến bộ  GV  kiờn trỡ từng bước, có cái  tâm của người Mẹ. Với một phương pháp giáo dục đa dạng và linh hoạt, tôi  tin rằng sẽ đạt hiệu quả cao trong rèn luyện đạo đức cho học sinh. Chất lượng hạnh kiểm cuối năm học 2012 ­ 2013 Tốt (%) Khỏ (%) Trung   Bỡnh  Yếu (%) Kộm (%) (%) 89 11 0 0 0 C.  KẾT LUẬN Thực trạng học sinh cá biệt  ở  trường THCS hiện nay đang trở  thành  vấn đề  nhức nhối cho gia đình, xã hội, đặc biệt là cho người làm công tác  giáo dục. Số học sinh cá biệt hầu như trường nào cũng có, nó tồn tại ở nhiều   dạng và nhiều hình thức khác nhau. Để  khắc phục tình trạng đó, tôi đã mạnh dạn đưa ra những nguyên  nhân, biện pháp khác phục và đã đạt được kết quả trong quá trình thực hiện.   Vậy các nguyên nhân chủ  yếu dẫn đến trẻ  hư  đó là: do đặc điểm tâm sinh lí  lứa tuổi, do ảnh hưởng từ phía gia đình, do nhà trường và do tác động từ phía   xã hội. Cùng với mỗi nguyên nhân đó là các biện pháp khắc phục trong nhà   trường, gia đình và xã hội. Về mặt nghiệp vụ, đề tài này giúp tôi có kĩ năng và thao tác của người   tập làm công tác nghiên cứu. Đồng thời là giáo viên dạy Ngữ văn nó còn giúp  tôi trau dồi kiến thức, nâng cao tay nghề để giảng dạy có hiệu quả tốt nhất. Trong khuôn khổ của một đề tài nghiên cứu, tôi mong đồng nghiệp xem  đây như một ý kiến nhỏ góp tiếng nói chung trong việc giáo dục số học sinh   cá biệt. Đề tài như  một tài liệu tham khảo để  bạn đọc, các bậc cha mẹ, nhà   trường và xã hội có thể lựa chọn giáo dục cho con em mình. 18
  19. Tuy nhiên trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tôi sẽ  không tránh khỏi   những hạn chế. Vì vậy rất mong sự đóng góp ý kiến của đông đảo bạn đọc,  của các đồng nghiệp để bài viết sau tốt hơn, hoàn thiện hơn.  Xác nhận của thủ trưởng đơn             Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh  vị nghiệm này do tôi nghiên cứu  và thực  hiện. (Đã ký) Bỉm Sơn, Tháng  3 năm 2013 Người viết Hoàng Mạnh Hùng Trần Thị Nga 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2