intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 viết đúng chính tả

Chia sẻ: Sinh Sinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

62
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phân môn Chính tả có vai trò quan trọng ở cấp Tiểu học.Nó giúp các em hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng Tiếng Việt. Học sinh viết đúng, viết nhanh mới có điều kiện học môn Tiếng Việt và các môn học khác được thuận lợi. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng học sinh viết sai chính tả ngày càng nhiều làm ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin. Chuyên đề này sẽ nêu ra một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 viết đúng chính tả, mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 viết đúng chính tả

  1. A ­ ĐẶT VẤN ĐỀ I. LỜI MỞ ĐẦU:       Người xưa có câu : “Nét chữ, nết người”. Tức là khi nhìn vào nét  chữ của người viết, tuy rằng ta chưa thể hiểu hết được toàn bộ  tính cách   của con người đó, song cũng có thể  đoán được phần nào tính cách chủ  nhân của nét chữ đó. Khi bạn thấy nét chữ được viết ngay ngắn, gọn gàng,   sạch sẽ và đều đặn thì ít nhất cho thấy đó là một người có tính cẩn thận,   coi trọng hình thức. Ngược lại, với nét chữ  được viết vội vàng, nghệch  ngoạc, lên, xuống thất thường thì dù có muốn bạn cũng không thể  cho   rằng đó là một người có tính cẩn thận được.            Khi đọc một văn bản, một tài liệu (chưa đề  cập đến nội dung)   nhưng khi thấy văn bản đó, tài liệu đó có nhiều lỗi sai chính tả, ta phần  nào có thể  đoán được trình độ  hiểu biết và diễn đạt ngôn ngữ  của người   đó có thành thục hay không (tuỳ theo mức độ  lỗi nhiều hay ít). Việc diễn   đạt sai chính tả sẽ dẫn đến những tình huống khôi hài, tuy chưa đến mức   độ hiểu sai một vấn đề nhưng trong thực tế vẫn có thể làm cho người đọc   dễ bị ngộ nhận và rơi vào tình trạng nhàm chán.        Là một giáo viên dạy ở bậc Tiểu học, thực hiện mục tiêu hình thành   và phát triển  ở  học sinh các kĩ năng sử  dụng Tiếng Việt (Nghe, nói, đọc,  viết) giúp học sinh học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động  của lứa  tuổi, môn Tiếng Việt ở Tiểu học đã lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm định  hướng cơ bản và chữ viết là một hình thức của ngôn ngữ giao tiếp.Vì vậy,  phân môn Chính tả  có vai trò quan trọng  ở  cấp Tiểu học.Nó giúp các em  hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả, nói  rộng hơn là năng  lực và thói quen viết đúng Tiếng Việt. Học sinh viết đúng, viết nhanh mới   có điều  kiện học môn Tiếng Việt và các môn học khác được thuận lợi.         Tuy nhiên, hiện nay tình trạng học sinh viết sai chính tả  ngày càng  nhiều làm ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em, hạn chế khả năng   giao tiếp, làm các em mất tự  tin.Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy,   1
  2. bản thân tôi luôn dành nhiều thời gian suy nghĩ để đi tìm câu trả lời: “Làm  thế nào để hạn chế tỉ lệ học sinh viết sai chính tả ? ” Vì Tiếng Việt là linh  hồn dân tộc Việt, văn hóa Việt.Viết đúng, nói chuẩn Tiếng Việt là việc  cần phải làm ngay.              Với ý nghĩ trên, tôi mạnh dạn chọn phân môn Chính tả để nghiên cứu  và thể hiện trong việc đổi mới phương pháp dạy học Chính tả ở Tiểu học.  Đó  chính là :“Một số biện  pháp giúp học sinh  lớp 4 viết đúng chính  tả”.     Đây là một sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã đúc rút từ thực tiễn dạy  học nhiều năm nay dùng để đồng nghiệp tham khảo. Rất mong được sự  đóng góp ý kiến của bạn đọc để sáng kiến kinh nghiệm này thật sự là một  người bạn thân thiết và hữu ích đối với giáo viên Tiểu học. II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:         Chính tả có nghĩa là gì ? Là cách viết chữ được coi là chuẩn.    Vậy dạy học sinh viết chính tả là dạy học sinh viết chuẩn. Nhưng thực   trạng cho thấy số học sinh Tiểu học được coi là viết chuẩn chỉ  đếm trên  đầu ngón tay  ở  mỗi trường học. Đây quả  là một vấn đề  đáng báo động  đến giáo viên và học sinh cần được giải quyết kịp thời trong phân môn  dạy Chính tả.   Là một người giáo viên dạy học sinh Tiểu học, tôi luôn chú ý đến việc   dạy các em viết đúng chính tả. Giúp các em viết đúng, viết đẹp chính là   rèn luyện tính :cẩn thận, kiên trì, nhẫn nại… trong cuộc sống hàng ngày  của các em.    Qua nhiều năm giảng dạy, tôi thấy chữ  Việt ngày càng bị  mai một; số  đông các em viết chữ vừa xấu lại vừa sai chính tả. Bản thân tôi rất buồn,   vì thế  hệ  trẻ  này sẽ  là tương lai của Đất nước, nếu không chịu rèn chữ  viết, không chịu tìm hiểu ngôn ngữ  của từ  để  viết đúng thì sự  trong sáng  của Tiếng Việt cũng dần dần bị mai một và mất đi.    Tôi đã khảo sát sơ  bộ  học sinh  ở  trường Tiểu học Hoằng Sơn, nơi tôi  đang trực tiếp giảng dạy cho thấy: Học sinh thường viết sai chính tả.   2
  3. Năm học 2010 – 2011, tôi được phân công trực tiếp giảng dạy lớp 4B   trường Tiểu học Hoằng Sơn.  Lớp tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 18 học   sinh, trong đó có 9 em nữ  và 9 em nam. Phần lớn các em là con gia đình   nông nghiệp, một số  em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, một số  em gia  đình ít quan tâm đến việc học tập của con cái, đồ  dùng sách vở  còn thiếu  thốn...    Theo dõi việc học tập của học sinh trong lớp, tôi thấy các em viết sai   chính tả quá nhiều. Vì vậy, công việc đầu tiên của tôi ngay từ những tuần  lễ đầu của năm học là thống kê các lỗi sai phổ biến của học sinh trong lớp   thông  qua khảo sát bài viết chính tả đầu năm học, qua theo dõi các bài viết chính   tả  và các bài viết từ  các phân môn khác của học sinh để  tìm ra nguyên  nhân, từ đó có biện pháp khắc phục cho các em.    Thông qua khảo sát đầu năm học và qua theo dõi các bài viết chính tả  của học sinh, tôi thu được kết quả cụ thể như sau: Tỉ lệ học sinh mắc các lỗi chính tả thường gặp Dấu hỏi (?),  Vần an/ang, ăn/ăng,  Phụ   âm:   x/s   ;  Tổng dấu ngã (~) ân/âng, ươn/ương,  ch/tr ; d/gi/r. iên/iêng, uôn/uông,  số im/iêm ât/âc, ăt/ăc,  Lớp iêt/iêc, uôt/uôc,  học ươt/ươc, ut/uc, ưt/ưc,  ên/ênh, in/inh, êt/êch,  sinh iu/iêu,… 4B 18em 10em=55,5% 8em=44,4% 12em=66,6% Qua tìm hiểu thực tế cho thấy : Hiện tượng viết sai chính tả   ở  học sinh  xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau : 3
  4. 1. Do các em phát âm sai, dẫn đến việc viết sai (các em đọc như thế nào   là viết y như vậy).  2. Do không hiểu nghĩa của từ :  3. Do ảnh hưởng của ngữ âm địa phương : 4. Do các em không nhớ  các qui tắc chính tả  mà giáo viên cung cấp   thông qua các dạng bài tập chính tả. 5. Do tính cẩu thả, không chịu lắng nghe, học hỏi, rèn luyện, thiếu   kiên nhẫn luyện viết. Các em không coi trọng “chữ  viết” bằng “chữ   số. 6. Do sự  xâm nhập như  vũ bão của ngôn ngữ  “mạng”.   “Chat” đúng  chính tả... là không sành điệu, là thiếu phong cách (!). Giới trẻ tự quy  ước  những chuẩn mực mới để  đánh giá đối tượng giao tiếp. Và điều này lan  truyền   rất   nhanh,   tạo   sự   cộng   hưởng   mạnh   trên   cộng   đồng   dân   cư  “mạng”.       Ví dụ : Một học sinh đã viết: “Em sẽ cố gắng thay đổi cách học bài, dù có  pùn ngủ mún chít cũng phải giải quyết hết bài tập”. 7. Do cha mẹ không quan tâm đến việc học hành của con cái…. 8. Do giáo viên chưa phát âm rõ ràng khi đọc cho học sinh viết chính tả   đồng thời chưa thực sự  quan tâm đúng mức đến việc khắc phục lỗi   chính tả cho HS.  vv…(Đây là nguyên nhân khách quan)      Ngoài ra còn có một số nguyên nhân về sinh lý có ảnh hưởng đến kết  quả  viết chính tả  của học sinh như: Nói ngọng, tai nghe không rõ khi các  em viết chính tả nghe ­ viết…        Từ  thực trạng trên, để  công việc nghiên cứu đạt hiệu quả, tôi đã  mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp dạy học phân môn Chính tả phù  hợp với đặc điểm tình hình cụ thể của đối tượng học sinh trong lớp và lập  ra một số giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện. B ­ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 4
  5. I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:        Từ  những nguyên nhân trên, tôi quyết tâm vận dụng những kinh  nghiệm đúc rút được qua thực tiễn dạy học những năm học trước để  cố  gắng làm sao giảm được số  học sinh viết sai chính tả, viết chữ  xấu, tăng   dần số học sinh viết đúng chính tả, viết đẹp và rèn luyện cho các em tính  cẩn thận, kiên trì  ở  mọi nơi, mọi lúc,  ở  tất cả  các môn học. Theo tôi, để  giúp học sinh viết đúng chính tả phải là cả một quá trình giảng dạy và rèn  luyện cho các em xuyên suốt lâu dài chứ không phải là ngày một ngày hai,   vì vậy giáo viên cần phải kiên nhẫn, tận tâm, tận tụy với học sinh.    Bản thân tôi đã đề ra các giải pháp thực hiện cụ thể như sau: 1.  X ác đ   ịnh nội dung dạy ­ học chính tả  . Việc xác định được nội dung giảng dạy chính tả  của giáo viên sẽ  góp   phần  khắc phục lỗi chính tả ở học sinh. Nội dung giảng dạy chính tả phải theo  khu vực và sát hợp với phương ngữ. Nghĩa là phải xuất phát từ  tình hình   thực tế  mắc lỗi chính tả  của học sinh để  hình thành nội dung giảng dạy,  điều quan trọng là phải xác định được trọng điểm chính tả  cần dạy cho  các em theo địa  phương. Các trọng điểm chính tả càng được xác định cụ thể, chi tiết càng  tốt.      Chẳng hạn:       Dạy phân biệt tr/ch ; dấu hỏi/dấu ngã.                    Hoặc:  Dạy phân biệt s/x ; dấu hỏi/dấu ngã.                    Hay  :  Dạy phân biệt r/d/gi ; ên/ênh… Tất nhiên, muốn làm được việc này, phải tiến hành điều tra cơ bản, khảo  sát tình hình mắc lỗi chính tả  của học sinh trong lớp. Từ   đó, lựa chọn  được nội dung giảng dạy thích hợp và linh hoạt sát hợp với đối tượng học  sinh lớp mình giảng dạy.     ưu ý : Ở một chừng mực nào đó, có thể lược bớt những nội dung giảng   *L dạy trong sách giáo khoa xét thấy không phù hợp với học sinh lớp mình  giảng dạy, đồng thời bổ  sung những nội dung dạy cần thiết mà không có  5
  6. trong sách giáo khoa.            2. T    h   ực hiện tốt các biện pháp dạy học chính tả  . ­ Viết bài trên bảng rõ ràng, chính xác, đúng mẫu chữ… ­ Phát âm đúng, rõ ràng, đủ cho học sinh nghe ­ viết chính tả chính xác. ­ Chọn được các chữ  dễ viết sai đối với học sinh trong lớp để  luyện viết  đúng trước khi các em viết bài chính tả. ­ Chấm, chữa bài chính tả chu đáo cho các em. ­ Hướng dẫn học sinh luyện tập có hiệu quả  (làm bài tập chính tả  âm­ vần) nhằm khắc phục lỗi chính tả  chung và lỗi thường mắc đối với học   sinh.        3. P    hát âm đúng đ   ể viết đúng chính tả .     Theo tôi, đây chưa phải là giải pháp ưu việt và càng không phải là giải   pháp duy nhất mà chỉ có thể là giải pháp bổ trợ trong dạy học Chính tả. ­ Giáo viên cần rèn luyện nói và đọc chuẩn để  học sinh có sự  chuẩn mực  về nghe và viết . ­ Học sinh cũng cần phải được rèn luyện để nói và đọc đúng, từ đó các em  sẽ viết đúng chính tả.                 4. H     ọc chính tả bằng cách nhớ từng chữ mộ . t    Đây có thể coi là một giải pháp có tính khả  dụng, hữu hiệu và hợp lý   hơn cả vì học sinh Tiểu học có khả  năng nhớ  máy móc khá tốt, khả  năng  học thuộc khá nhanh.             Giáo viên nên vận dụng cách dạy:"Nhớ  từng chữ  một" đối với học  sinh  trong lớp theo phương châm sai gì học nấy.Tất nhiên, theo cách dạy này,  giáo viên chỉ cần hướng dẫn học sinh tập trung nhớ mặt chữ của những từ  dễ  viết sai, tránh sự  dàn trải, tản mạn.  Ở giải pháp này, học sinh được quan  sát chữ viết, tự phân tích tiếng (theo cấu tạo 3 bộ phận : Phụ âm đầu, vần,   thanh), được luyện thao tác viết đi viết lại nhiều lần để  ghi nhớ mặt chữ  lâu hơn. Ngoài ra, theo định hướng dạy học tích hợp thì ngay cả khi hướng  6
  7. dẫn đọc đúng trong giờ  Tập đọc, giáo viên cũng cần giúp các em được  luyện đọc đúng và tri giác chữ viết nhằm tránh viết sai chính tả. Đó là điều  mà tôi chú ý phối hợp trong quá trình dạy ­ học Chính Tả ở lớp.          5. H     ọc mẹo, luật chính tả để viết đúng chính tả  .       Không có một mẹo, luật chính tả nào là vạn năng, mỗi mẹo, mỗi quy  luật chỉ  có thể  giúp học sinh chữa một loại lỗi nào đó. Chẳng hạn: Mẹo   phân biệt dấu hỏi/dấu ngã ; mẹo phân biệt ch/tr hoặc s/x…      Đối với học sinh Tiểu học, giáo viên cần sử dụng các mẹo, luật chính  tả để chữa lỗi chính tả  cho các em thông qua các bài tập chính tả  để  học   sinh được phân tích, so sánh, đối chiếu…từ  đó rút ra các mẹo, quy tắc   chính tả.Ở  đây, học sinh được rèn luyện về  khả  năng tư  duy. Tôi đã sử  dụng và khai thác triệt để giải pháp này trong dạy học phân môn Chính tả  cho học sinh trong lớp mình giảng dạy . Chẳng hạn: Giúp học sinh ghi nhớ:Khi đứng trước các nguyên âm : i, e,   ê…                                           Âm “ cờ ” viết là “ k ”                                           Âm “ gờ ” viết là  “ gh ”                                           Âm “ ngờ ” viết là  “ ngh ”…          6. H     ọc chính tả bằng cách kết hợp ghi nhớ hình thức chữ viế   t của từ và nghĩa từ.      Muốn viết đúng chính tả, việc nhớ từ ngữ và nắm nghĩa của từ là rất   quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp học sinh viết   đúng chính tả. Chẳng hạn:  Giáo viên đọc một từ có hình thức ngữ âm là “za” thì các em  sẽ lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ đó. Nhưng nếu   giáo viên đọc: “gia đình” hoặc “da thịt” hay “ra vào”(đọc trọn vẹn từ gắn  với một nghĩa xác định) thì học sinh dễ dàng viết đúng chính tả.      Trong các bài tập chính tả phân biệt, giáo viên cần luyện cho học sinh tìm  hiểu nghĩa của từ đã được đặt trong ngữ cảnh cụ thể hoặc đặt câu với từ  đó hay tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật  7
  8. thật, mô hình, tranh ảnh,… để các em dễ hiểu . Chẳng hạn:               Phân biệt:   giành  ­ dành                             Em không giành lấy phần hơn cho mình.                              Em để dành cho bé gói bánh. Ở một số  giờ  học thuộc các phân môn Tập đọc, Luyện từ  và câu, Tập   làm văn…giáo viên cũng cần chú trọng hướng dẫn để  các em nắm được  nghĩa của từ  ngữ  và hình thức chữ  viết nhằm trau dồi kĩ năng viết đúng  chính tả cho học sinh.     Ngoài ra, giáo viên còn cần vận dụng phối kết hợp lồng ghép một số  giải pháp khác trong quá trình dạy học Chính tả  nhằm giúp học sinh viết   đúng chính tả như: Giúp các em yêu thích, say mê tất cả các môn học, đặc  biệt là môn Tiếng Việt, trong đó có phân môn Chính tả. Dạy học sinh tự  phát hiện ra lỗi chính tả  và tự  sửa lỗi chính tả   trong tất cả các môn học.  Đồng thời  kết hợp rèn viết đúng chính tả thông qua các môn học khác, qua   trò chơi… Chẳng hạn: Trò chơi: Ô chữ kì diệu, tìm nhanh tìm đúng; đố chữ …    Với các giải pháp nêu trên, chắc chắn học sinh sẽ ghi nhớ lâu các chữ,   các âm mình viết sai. Từ đó,  ở các em sẽ  được hình thành kĩ năng, kĩ xảo  viết chính tả  một cách thuần thục. Khi đó ngôn ngữ  của Tiếng Việt sẽ  trong sáng hơn, chữ Việt sẽ tồn tại mãi mãi theo thời gian. II. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:    Để thực hiện tốt việc giúp học sinh trong lớp viết đúng chính tả, tôi đã  soạn ra các biện pháp sau để áp dụng trong các tiết dạy. 1.G    iúp cho h   ọc sinh yêu thích môn chính tả  :          Để  tránh sự  nhàm chán khi học môn Chính tả, tôi vận dụng nhiều   phương pháp và hình thức dạy học linh hoạt như :   1.a.Phương pháp trực quan : Phương pháp này đạt hiệu cao trong việc  phân biệt nghĩa của từ. 8
  9. Ví dụ : Khi dạy bài Gà Trống và Cáo (Tiếng Việt 4­ tập 1) có câu: “Nhác trông vắt vẻo trên cành”, từ khó là “vắt vẻo”, khi giải nghĩa từ này  tôi sử  dụng tranh vẽ một con gà đứng trên một cành cây cao, ít điểm tựa,  đó là “vắt vẻo”. 1.b.Tổ chức học theo tổ ­ nhóm, theo cặp :    Đầu năm, sau một tuần thực dạy, tôi đã tiến hành phân học sinh trong  lớp theo tổ  nhóm hoặc phân thành “đôi bạn cùng tiến”(em giỏi, khá ngồi   gần em yếu) để  các em có thể  hướng dẫn, giúp đỡ  lẫn nhau trong học  tập . Phương pháp này giúp các em phát huy tinh thần tự giác, tích cực học tập,  phát hiện ra những lỗi sai của nhau rồi tự trao đổi để tìm ra cách viết đúng  nhất, khi đó các em sẽ khắc sâu những kiến thức mới lĩnh hội được, đúng  như tục ngữ có câu “Học thầy không tày học bạn”.  1.c.Trò chơi đoán chữ :     Trong các dạng bài tập chính tả, tôi vận dụng lồng ghép trò chơi đoán  chữ phù hợp với từng bài dạy như: Trò chơi Ô chữ  kì diệu, tìm nhanh tìm  đúng; đố  chữ  hoặc giáo viên miêu tả  hình  ảnh còn học sinh thì suy luận   xem hình ảnh đó là từ nào ?…    Với phương pháp trò chơi này sẽ  gây cho các em sự  hứng thú, sự  tập  trung của tư  duy trí tuệ, tính nhanh nhẹn và qua hoạt động trò chơi kiến   thức kỹ năng viết đúng chính tả của các em sẽ được củng cố. Ví dụ : * Sau khi học xong bài: Phân biệt ươn /ương ….để  củng cố  lại  cách viết đúng, tôi tổ chức trò chơi cho cả lớp cùng tham gia bằng cách nêu   một số gợi ý : Đây là một con vật sống ở dưới nước, thân dài như con rắn,  mình nhẵn bóng đó là con gì ? Yêu cầu học sinh cả lớp viết tên con vật đó  vào bảng con, ai viết sai là bị thua cuộc…  (Con lươn) * Hoặc:  Sau khi học xong bài : phân biệt ch/tr , iêu/iu.  Tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Thi tìm từ nhanh, từ đúng  (Chia lớp  thành 2 đội tham gia trò chơi) với các nội dung như:  a. Tìm các từ  láy trong đó tiếng nào cũng bắt đầu bằng âm tr.( M: tròn  trịa…) 9
  10. b. Tìm các từ láy trong đó tiếng nào cũng bắt đầu bằng âm ch . ( M: chông chênh…)                                              (Tiếng Việt 4 ­ tập 2)        Tôi đã linh hoạt vận dụng những phương pháp dạy học như vậy nên thu   hút được sự say mê, tích cực, tự giác học tập của học sinh trong lớp. Đó là  một thành công bước đầu trong công tác giảng dạy của tôi.     Dựa trên nền tảng này, tôi tiếp tục phát huy tính tích cực, tự  giác học  tập của học sinh, để nắm bắt được sự phản hồi từ phía học sinh xem các   em tiếp thu bài đến đâu, lỗ hổng kiến thức ở chỗ nào. Khi đó giáo viên sẽ  nhanh chóng có biện pháp giải quyết một cách triệt để  nhất cho từng đối  tượng học sinh trong lớp .       Tục ngữ xưa có câu “Cô giáo như mẹ hiền”, trường học cũng chính là  ngôi nhà thứ hai của các em, vì vậy thầy và cô chính là những người cha,   người mẹ  thứ  hai dìu dắt  các em nên người. Từ  những tình thương yêu,  sự động viên, an ủi, vỗ về sẽ làm cho các em thấy tin tưởng, thấy yên tâm,  thấy thích thú mỗi khi cắp sách đến trường. Tuy nhiên, không phải lúc nào   tôi cũng mềm mỏng với các em, nhiều lúc phải vừa “cương” mà phải vừa   “nhu”, đó chính là “một nghệ thuật sư phạm” mà tôi đã sử dụng trong quá  trình giảng dạy. Khi các em mắc lỗi, tôi nhắc nhở  ngay để  các em sửa  chữa, khi các em chăm ngoan, học tốt tôi tuyên dương trước lớp để cho các  bạn khác noi theo. 2. Ren phat âm đung chinh ta ̀ ́ ́ ́ ̉ :    Khi viết chính tả, học sinh thường mắc phải các lỗi sau: lỗi về thanh  điệu, lỗi về  âm đầu, âm chính, âm cuối. Học sinh mắc lỗi có thể  do cách   phát âm lẫn lộn trong phương ngữ, do sự  khá phức tạp của chữ  quốc   ngữ  .Vì vậy, muốn học sinh viết đúng chính tả, tôi luôn không ngừng tự  rèn luyện nói và đọc rõ tiếng, đúng, chuẩn để  học sinh có sự  chuẩn mực  về nghe và viết .    Đồng thời, tôi chú ý rèn luyện phát âm đúng cho học sinh để giúp các em   phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính hay âm cuối vì chữ quốc ngữ là  10
  11. chữ  ghi âm­âm thế  nào, chữ  ghi lại thế   ấy. Việc rèn luyện phát âm đúng   tôi  không chỉ  thực  hiện  trong tiết Chính tả  mà còn thực hiện kết hợp  thường xuyên, liên tục trong tất cả  các tiết học khác như  Tập đọc, Tập   làm văn, Luyện từ và câu, Lịch sử... Ví dụ :+Trong bài chính tả (Nghe­viết): Họa sĩ Tô Ngọc Vân (TV4­ tập2)   có câu:  “Tô Ngọc Vân là một nghệ  sĩ tài hoa.”   Có một số  em trong lớp   viết: “Tô Ngọc Vân là một nghệ sỉ tài hoa.”  Hoặc câu:“Trong chiến dịch lịch sử  Điện Biên Phủ, ông đi cùng bộ  đội,   dân   công   hỏa   tuyến,   vẽ   nhiều   tranh   và   kí   họa   về   họ.” ,   các   em   viết:  “Trong chiến dịch lịch sữ Điện Biên Phũ, ông đi cùng bộ đội, dân công   hõa tuyến, vẻ nhiều tranh và kí họa về họ.”, v,v… +Hoặc: Điền tiếng có vần in hoặc inh (Vở bài tập TV4­tập 2) :  thầm…… ; lặng ….., có một số HS điền là: thầm kính ; lặng thin...          Tôi luyện cho học sinh phát âm đúng theo từng bài học(Dạy đánh vần)  Sĩ = sờ ­ i ­ si ­ ngã ­ sĩ. Phủ = phờ ­ u – phu ­ hỏi ­ phủ.                     Thinh = thờ ­ inh ­ thinh … 3.Rèn phân biệt chính tả bằng phân tích, so sánh:    Song song vơi viêc phat âm, tôi ap dung biên phap phân tich câu tao cua ́ ̣ ́ ́ ̣ ̣ ́ ́ ́ ̣ ̉   ́ ́ ́ ̃ ̃ ̣ ́ ̣ ̀ ̉ tiêng, so sanh các tiêng dê lân lôn, phat hiên va chi ra nh ưng điêm khac nhau ̃ ̉ ́   ̉ ọc sinh lưu y sau đó tôi cho các em đ đê h ́ ọc lại từ  mà các em đã phân tích   và luyện viết từ đó vào bảng con để  kiểm tra, theo dõi và tiếp tục hướng  dẫn sửa sai cho những học sinh viết chưa đúng chính tả trước khi viết vào   vở để học sinh ghi nhớ.  Ví dụ:   *Khi viết tiếng “làng” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “làn”         Tôi yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này: ­ làng = l + ang + thanh huyền ­ làn = l + an + thanh huyền. 11
  12.           So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “làng” có âm cuối là “ng”,   tiếng “làn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ  điều này, khi viết, các  em sẽ không viết sai. 4. Rèn phân biệt chính tả bằng giải nghĩa từ: ̀ ̣ ̣ ́ ất hữu hiệu nhăm khăc phuc l     Đây cung la môt biên phap r ̃ ̀ ́ ̣ ỗi chinh ta ́ ̉  cho học sinh vi muôn viêt đung chinh ta phai hiêu nghia cua t ̀ ́ ́ ́ ́ ̉ ̉ ̉ ̃ ̉ ừ chinh xac. ́ ́   ̣ ̉ ̃ ừ tôi thương xuyên giúp các em th Viêc giai nghia t ̀ ực hiên trong tiêt Tâp ̣ ́ ̣   ̣ ̣ ư va câu, T đoc, Luyên t ̀ ̀ ập làm văn,…        Đó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết Chinh ta  ́ ̉ khi mà các em  không thể  phân biệt từ  khó dựa vào phát âm hoặc phân tích cấu tạo  tiếng. Vi du: ́ ̣     Phân biêt:  “ bat ” va “ bac ” ̣ ́ ̀ ́ ́ ́ ư (anh cua ba)    ;  Bat = cai bat (đô dung ăn c               Bac = Bac T ̉ ́ ́ ́ ̀ ̀ ơm)…    Đế hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa từ, tôi thực hiện theo nhiều cách  khác nhau: có thể  cho học sinh đọc chú giải, đặt câu (nếu học sinh đặt  câu đúng tức là học sinh đã hiểu nghĩa từ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa,   miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh,… Ví dụ:   Phân biệt chiêng và chiên + Giải nghĩa từ  chiêng: Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh  ảnh cái chiêng hoặc miêu tả đặc điểm (chiêng là nhạc cụ bằng đồng, hình  tròn, đánh bằng dùi, âm thanh vang dội). + Giải nghĩa từ  chiên: Giáo viên có thể cho học sinh đặt câu với từ  chiên hoặc giải thích bằng định nghĩa (chiên là làm chín thức ăn bằng cách  cho thức ăn vào chảo dầu, mỡ, đun trực tiếp trên bếp lửa). Ví dụ : *Phân biệt  ch/tr :                                    Chân : bộ phận nâng đỡ cơ thể người hoặc vật                     Trân  : ngó trân trân hoặc trân trọng            * Phân biệt s/x:          Sen: hoa sen, vòi sen 12
  13.                                   Xen: xen lẫn, xen kẽ *Lưu ý: Với những từ nhiều nghĩa, tôi hướng dẫn học sinh đặt từ đó trong   văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ. Ví dụ:   Giải nghĩa từ “ đi ”          Tôi yêu cầu học sinh đặt câu sau đó giải nghĩa từ trong câu vừa đặt  ­Bạn Lan đi học.( Hoạt động rời chỗ bằng chân với tốc độ bình thường) ­Tôi đi con tốt nhé. (Chuyển vị trí quân cờ để tạo ra thế cờ mới) ­  Cụ ấy ốm nặng đã đi hôm qua rồi. ( chết, mất,...)            5. Củng cố, ghi nhớ  một số quy tắc chính tả cho học sinh.     Quy tắc chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối  hàng loạt từ và giúp các em khắc phục được lỗi chính tả rất hữu hiệu.      Để  giúp cho học sinh nắm vững các quy tắc chính tả, khắc phục được  tình trạng hay mắc lỗi chính tả, tôi tập trung rèn luyện cho các em trong  lớp vào các loại bài chính tả phân biệt. Qua loại bài chính tả phân biệt này,  các em được phân tích, so sánh, đối chiếu...rút ra các quy tắc chính tả, mẹo   chính tả cần ghi nhớ và tôi lồng ghép để  ôn luyện nhiều lần cho học sinh   trong buổi học thứ  hai sẽ  giúp các em nắm chắc được các mẹo, các quy   tắc chính tả.      ưu ý : Đối với học sinh hay mắc lỗi chính tả, tôi yêu cầu các em chép  * L lại chữ  viết đúng từ  5 đến 10 dòng (tùy mức độ) vào sổ  tay chính tả  của  mình. Ngoài  ra, tất cả  học sinh trong lớp  đều phải ghi chép lại các từ  ngữ  thường viết sai chính tả và cách sửa chữa,  các quy tắc chính tả, mẹo chính  tả    vào sổ  tay chính tả  theo từng bài học. Cách này tôi thấy rất có hiệu   quả, giúp học sinh nhớ lâu, ít khi lặp lại lỗi đã mắc. Ví dụ 1:   Điền vào chỗ chấm: “ c ” hay “ k ”     : …éo co, cổ …ính, …iên nhẫn, tổ …iến. “ g ” hay “ gh ”   : …ồ ghề, ..e thuyền, …i nhớ, chán …ét. “ ng ” hay “ ngh ”: ngốc …ếch, ngạo …ễ, …iêng …ã 13
  14.        Dựa vào bài tập này, tôi hướng dẫn học sinh ghi nhớ các quy tắc chính  tả khi viết âm: g/gh; ng/ngh; c/k  như sau: * Các âm đầu: k, gh, ngh đứng trước các nguyên âm i, e, ê, iê,… * Các âm đầu: c, g, gh đứng trước các nguyên âm o, ô, ơ, a, ă, â, u, ư,… Ví dụ 2:  Khi dạy bài chính tả phân biệt tr / ch.  Tôi cho các em tự tìm và viết ra những từ để phân biệt  tr / ch theo quan sát  hoặc theo gợi ý của giáo viên.  Chẳng hạn:  Quan sát một số  hình  ảnh về  gia đình, về  đồ  vật, về  con  vật…         Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: thi viết các từ  ngữ  về các thành  viên  trong gia đình, tên đồ vật trong nhà và tên con vật …bắt đầu bằng âm ch? Và tổ chức cho học sinh làm bài tập điền vào chỗ trống tr hay ch :  …ịnh …ọng, …ụ  sở, …uyền thống, …ình độ, lởm …ởm, …eo leo, lừng  …ừng, …ồm hổm.          Dựa vào bài tập, học sinh ghi nhớ quy tắc chính tả khi viết âm: tr/ch  như sau: * Những danh từ  chỉ  mối quan hệ  gia  đình thường viết ch :(cha, chú,  chồng, cháu, chắt,…) * Những danh từ chỉ các vật dụng trong gia đình thường viết ch :(  cái chổi,   cái chai, cái chạn, các chõng,cái chậu, chuồng gà,…) * Những danh từ  chỉ   tên các con vật thường viết ch :(   chồn, chí, chuột,   chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo   bẻo, …) * Ngoài ra, viết ch thường đi với các vần : oa, oă, oe, uê.   (khăn choàng, loắt choắt, chích chèo, chuệch choạc, …) Hoặc :  ch có thể viết ở vị trí thứ nhất hay thứ hai trong từ láy vần. * Đối với các từ Hán Việt mà không biết là ch hay tr nhưng đi kèm với dấu  nặng hay dấu huyền  thì viết là tr.   14
  15.                     (trừng trị, trùng hợp, trụy lạc, trận mạc, vũ trụ, trịnh trọng…)   Ví dụ  3:  Khi dạy bài chính tả  phân biệt s / x.   Học sinh được viết rất   nhiều các từ ngữ để phân biệt  s / x .  Chẳng hạn: Tổ chức cho các em chơi trò chơi: “Ô chữ kì diệu” chứa các từ  bắt đầu bằng “s” chỉ người, chỉ cây,chỉ đồ vật, chỉ hiện tượng tự nhiên và  bằng “ x ” chỉ thức ăn hay đồ dùng liên quan đến thức ăn? Dựa vào trò chơi này, tôi hướng dẫn học sinh ghi nhớ như sau:  *  Đa số  Danh từ  viết là s.  ( sứ  giả, ông sư, bà sãi…cây si, cây sắn, cây  sung,…sao, sương,…sỏi, sợi dây, súc vải…)  *  Tên thức ăn và các đồ dùng liên quan đến thức ăn thường viết với x.  ( xôi, xúch xích, xà lách, xoong, xiêm,…)  Ví dụ 4:  Khi dạy dạng bài chính tả: Phân biệt dấu hỏi/dấu ngã:    Ngoài các bài tập đã có trong sách Tiếng Việt 4 và vở bài tập Tiếng Việt  4,                         Tôi sử dụng thêm một số bài tập trắc nghiệm, điền dấu  thanh hoặc điền từ vào chỗ trống để luyện cho học sinh như: a) Khoanh tròn vào những chữ cái trước những từ viết đúng chính tả: a. sữa tươi d. thi đỗ b. sửa sai e. nghiêng ngã c. ngả ba    g. mãi miết  b) Chọn từ thích hợp trong ngoặc để điền vào chỗ trống:                                                    ­ (đổ, đỗ ) :  thi … ,  … rác            ­ ( giả, giã ) :  … vờ (đò),  … gạo c )   Đặt dấu hỏi hoặc dấu ngã vào những chữ  in đậm trong các câu thơ  sau: ­ Kiến cánh vỡ tô bay ra   Bao táp mưa sa gần tới. ­ Muốn cho lúa nay bông to      Cày sâu, bừa ki, phân gio cho nhiều…         Dựa vào các bài tập, tôi cung cấp cho học sinh quy luật chính tả theo  15
  16. nhóm thanh điệu: huyền – ngã ­ nặng / sắc ­ hỏi – ngang. ( Nghĩa là nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, ngã, nặng thì yếu tố  đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang thanh  sắc, hỏi,   ngang  thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi . Chẳng hạn:   .Thanh ngang + thanh hỏi: Nho nhỏ, lẻ  loi, trong trẻo, vui  vẻ… .Thanh sắc  + thanh hỏi: Nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ… .Thanh hỏi  + thanh hỏi: Lỏng lẻo, thỏ thẻ, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ… .Thanh huyền + thanh ngã: Sẵn sàng, lững lờ, vồn vã .Thanh nặng + thanhngã: Nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,… .Thanh ngã + thanh ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…     ưu ý  : Đối với những từ Hán ­Việt phát âm không phân biệt dấu hỏi,   * L dấu ngã. Gặp những từ bắt đầu bằng một trong các phụ âm : m, n, nh, v, l,   d, ng và ngh, tôi cho học sinh nhớ câu:  “ Mình Nên Nhớ Viết Là Dấu Ngã  ” thì đánh dấu ngã. Còn những từ  bắt đầu bằng các phụ  âm khác hoặc   không có phụ âm đầu thì đánh dấu hỏi. Chẳng hạn: ­ Vĩ nhân, cần mẫn, nhã nhặn, lãnh đạm, vãng lai, phụ lão, dã  man, ngôn ngữ, tín ngưỡng ... (Trừ  "ngải" trong "ngải cứu).  Đảo điên,  tưởng tượng,  kiểu cách , …. * Nhưng vẫn có một số trường hợp ngoại lệ vẫn viết bằng dấu ngã .   Chẳng hạn :  kỹ (kỹ thuật),  bãi (bãi bỏ, bãi khóa),                         hữu  (bằng hữu, hữu nghị),  phẫu  (phẫu thuật, giải phẫu ),                         tiễn  (tiễn đưa, tiễn biệt), … 5. Rèn chính tả qua phát hiện lỗi và sửa lỗi.   Trong  các tiết  Chính tả, tôi  hướng dẫn cho học sinh phát hiện ra những  lỗi viết sai và tự bản thân các em sửa lỗi trong các bài viết chính tả qua các  hình thức khác nhau như:  ­ Giáo viên đọc lại bài văn hay khổ  thơ  trong bài viết chính tả  mà   học sinh đã viết để  cho học sinh tự  soát lỗi cho mình hoặc cho bạn. Tôi   16
  17. hướng dẫn các em dùng bút chì gạch dưới lỗi sai và viết chữ  đúng ra lề  vở.           ­ Giáo viên chỉ ra cho học sinh thấy được các lỗi sai, học sinh viết   lại các lỗi sai đó và sửa lỗi vào sổ tay chính tả của mình.  Qua đó hình thành cho học sinh bản năng tự kiểm tra soát lỗi và có ý thức  tự sửa lỗi . Ngoài ra, tôi còn vận dụng rèn cho học sinh tự phát hiện ra lỗi chính tả và  sửa lỗi qua hệ thống các dạng bài tập khác nhau.( Dạy ở buổi học thứ  hai ).       Từ các hình thức nêu trên, tôi đã giúp học sinh trong lớp quen dần với   cách tự  phát hiện ra lỗi và tự  sửa lỗi, dần dần các em sẽ  nhớ  cách viết  đúng, thấy được các từ viết sai để tránh.  6. Rèn chính tả qua chấm ­ chữa bài của giáo viên.      Đây là một biện pháp rất quan trọng trong quá trình dạy học của giáo   viên. Việc chấm và chữa bài cho học sinh ngoài yêu cầu về  chuyên môn  còn đòi hỏi lương tâm và trách nhiệm cao của mỗi giáo viên.     Trong các tiết Chính tả, sau khi chấm xong bài cho học sinh, tôi thường   thống kê các loại lỗi các em đã mắc để  có kế  hoạch rèn sửa về  chính tả  cho các em ở buổi học thứ hai trong ngày. *Lưu ý: Chấm bài cho học sinh nhất thiết phải dùng bút mực màu đỏ. * Cách chấm và chữa bài chính tả cho học sinh, tôi thực hiện như sau: ­ Gạch dưới những chữ viết sai chính tả, không chữa lỗi hộ cho các em . ­ Có thể phê lời nhận xét ngắn gọn vào bài viết của các em như: Bài viết   đúng, chữ  đẹp; Cần viết hoa đầu câu; Chú ý viết đúng dấu hỏi/dấu ngã  (tr/ch; s/x;…)    Đối với những học sinh mắc lỗi, tôi yêu cầu các em đọc và viết lại cho  đúng chính tả những chữ đã mắc lỗi để ghi nhớ.(mỗi chữ đọc và viết  từ 5  đến 10 dòng –tùy mức độ).     ưu ý : +Nếu học sinh viết chính tả  còn mắc quá nhiều lỗi, giáo viên  *  L 17
  18. không nên cho ngay điểm yếu vào bài viết của các em mà nên nhắc nhở,   tạo điều kiện để học sinh viết lại bài chính tả lần hai sau đó cô giáo chấm  điểm lại để lấy kết quả tốt hơn.                + Ngoài cho điểm về chính tả, giáo viên có thể tách riêng điểm về  chữ viết để động viên hoặc nhắc nhở các em giữ vở sạch, rèn chữ đẹp. Biện pháp này tôi đã thực hiện thường xuyên không những trong các tiết   Chính tả mà còn trong tất cả các môn học khác nên đã giảm dần được tỉ lệ  học sinh trong lớp viết sai chính tả. 7. Rèn chính t   ả  qua     các môn h   ọc khác.       Để giúp các em viết đúng chính tả, trong quá trình dạy ­ học, tôi chú  trọng lồng ghép phối kết hợp rèn luyện chính tả cho học sinh trong các  môn học khác.  * Đối với phân môn Tập đọc, tôi luyện phát âm cho các em rất kỹ, hướng  dẫn các em giải nghĩa từ ngữ theo nhiều cách khác nhau (đã nêu ở phần rèn  nghĩa từ). Đặc biệt chú ý các em hay viết sai, tôi cho các em đó phát âm lại  nhiều lần. Đối với phân môn Luyện từ và câu, tôi giúp cho học sinh hiểu  được nghĩa của từ, hiểu về câu một cách chính xác. Ví dụ : * Phân biệt : líu  hay  níu:  ­ Líu :  Chim hót líu lo                                                                         ­ Níu :  Đừng níu áo nhau             * Phân biệt  :  đổ hay đỗ :   ­ Xe đổ : Xe bị lật nghiêng                                    ­ Xe đỗ : Xe dừng lại không chạy nữa             * Phân biệt  :  vỏ hay võ :  ­ Vỏ :    bóc vỏ,  vỏ chai                                                        ­ Võ :    võ nghệ,  vò võ    Đối với phân môn Tập làm văn, tôi cho các em đọc những đoạn văn,  bài văn mình đã viết hoặc bài tham khảo để tìm ra lỗi đọc sai sau đó rèn  cho các em đọc lại cho đúng. Chấm điểm kĩ trong bài viết đồng thời chỉ ra  những lỗi chính tả (Theo cách chấm bài ở phân môn Chính tả) cho các em, sau đó  hướng dẫn, uốn nắn, sửa chữa kịp thời cho từng đối tượng học sinh trong  tiết trả bài.   *  Ở  môn Toán, tôi giúp học sinh viết đúng đề  toán, đúng câu lời giải   18
  19. bằng  cách nhắc nhở, sửa lỗi sai khi kiểm tra, chấm bài. Chỉnh sửa học sinh phát  âm đúng khi trả lời miệng các câu hỏi của bài toán giải.  * Ở môn Đạo đức; môn Khoa học, môn Lịch sử  và Địa lý…để  đạt được  hiệu quả tiếp thu cao và để tự các em so sánh, phát hiện ra những lỗi chính  tả  trong phát âm của mình. Tôi thường cho học sinh thảo luận theo từng   cặp hỏi ­ đáp, qua đó giáo viên kịp thời uốn nắn, chỉnh sửa học sinh phát  âm khi trả lời miệng câu hỏi bài trong học… Biện pháp này hình thành cho các em thói quen ý thức tập trung khi học   tập, tôi đã vận dung triệt để nên học sinh trong lớp có sự tiến bộ khá rõ rệt  trong việc viết đúng chính tả.     Ngoài các biện pháp nêu trên, tôi còn kết hợp lồng ghép sử dụng  linh  hoạt một số biện pháp khác trong quá trình giảng dạy của mình như: Lập  kế hoạch cụ thể phụ đạo, kèm cặp cho đối tượng học sinh trong lớp hay   viết   sai   chính   tả.  Đồng   thời,   khuyến   khích   học   sinh   đọc   nhiều   sách  báo,truyện thiếu nhi…, viết nhiều các bài thơ, bài văn ở các tiết sinh hoạt  15 phút đầu giờ và ở nhà để giúp nhớ lâu.… Điều này hỗ trợ rất tốt cho kĩ   năng đọc và viết đúng chính tả của học sinh.  Phối hợp với phụ huynh học   sinh trong việc kèm cặp các em khi học tập ở nhà… 19
  20. C ­ KẾT LUẬN: I.  KẾT QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG SKKN:       Năm học 2010 ­2011, tôi đã áp dụng thực triệt để tất cả các biện pháp   đã nêu trên  ở  lớp 4B trường Tiểu học Hoằng Sơn trong quá trình dạy  học.Tôi thu được kết quả cụ thể như sau: * Khảo sát cuối học kì I :          Tỉ lệ học sinh mắc các lỗi chính tả thường gặp Dấu hỏi (?),  Vần an/ang, ăn/ăng,  Phụ   âm:   x/s   ;  Tổng dấu ngã (~) ân/âng, ươn/ương,  ch/tr ; d/gi/r. iên/iêng, uôn/uông,  số im/iêm ât/âc, ăt/ăc,  Lớp iêt/iêc, uôt/uôc,  học ươt/ươc, ut/uc, ưt/ưc,  ên/ênh, in/inh, êt/êch,  sinh iu/iêu,… 4B 18em 2em = 11 % 3em = 16,7 % 4 em=22,2% * Khảo sát cuối học kì II :     Tỉ lệ học sinh mắc các lỗi chính tả thường gặp Dấu hỏi (?),  Vần an/ang, ăn/ăng,  Phụ âm : x/s,  dấu ngã (~) ân/âng, ươn/ương,  ch,tr, d/gi/r. Tổng iên/iêng, uôn/uông,  số im/iêm ât/âc, ăt/ăc,  Lớp học  iêt/iêc, uôt/uôc,  sinh ươt/ươc, ut/uc, ưt/ưc,  ên/ênh, in/inh, êt/êch,  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2