Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt văn tả cảnh
lượt xem 54
download
Đối với học sinh lớp 5, các em bắt đầu được tiếp cận với kiểu văn tả cảnh nên còn nhiều lúng túng. Việc hướng dẫn các em học tốt văn tả cảnh tức là giúp các em tháo gỡ những vướng mắc, xóa đi mặc cảm ngại học văn, góp phần nâng cao chất lượng học tập đối với môn Tiếng Việt trong trường tiểu học. Tham khảo sáng kiến kinh nghiệm "Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt văn tả cảnh" để hiểu hơn về vấn đề này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt văn tả cảnh
- MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TỐT VĂN TẢ CẢNH A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Tiếng Việt ở bậc Tiểu học là một môn học có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng nghe, đọc, nói, viết để học tập và giao tiếp, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy. Ngoài việc được cung cấp các kiến thức ban đầu về Tiếng Việt, thông qua môn học này, các em còn được bồi dưỡng tình yêu với tiếng mẹ đẻ, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách. Trong chương trình Tiểu học, Tiếng việt được chia thành nhiều phân môn, mỗi phân môn có nhiệm vụ rèn cho HS những kĩ năng nhất định. Đặc biệt, Tập làm văn là phân môn có tính tổng hợp cao nhất, nó giúp học sinh rèn luyện năng lực trình bày trình bày ở dạng văn bản với nhiều thể loại khác nhau, tích lũy vốn sống, hướng các em tới đỉnh cao của chân, thiện, mĩ. Đối với học sinh lớp 5, các em bắt đầu được tiếp cận với kiểu văn tả cảnh nên còn nhiều lúng túng. Việc hướng dẫn các em học tốt văn tả cảnh tức là giúp các em tháo gỡ những vướng mắc, xóa đi mặc cảm ngại học văn, góp phần nâng cao chất lượng học tập đối với môn Tiếng Việt trong trường Tiểu học. Mặt khác còn bồi dưỡng cho các em tình yêu thiên nhiên,cao hơn nữa là bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước thông qua tình yêu đối với những cảnh vật thân thuộc quanh mình. Đó chính là lý do mà tôi lựa chọn đề tài “ Giúp học sinh lớp 5 học tốt văn tả cảnh”. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: 1
- Học sinh khối 5 nói chung , các đội tuyển Văn ; học sinh các lớp 5A năm học 2011 2012; năm học 2012 2013 ; năm học 2013 2014 ; năm học 20142015; Qua quá trình giảng dạy, bồi dưỡng, dự giờ,trao đổi học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp; Các tài liệu có liên quan đến các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học văn tả cảnh cho học sinh; Một số tác phẩm văn học cho thiếu nhi. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu: Rèn luyện cho học sinh thói quen quan sát tích cực, tưởng tượng, ghi chép và tích lũy kiến thức, vốn từ. Giúp học sinh biết cách xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng hướng làm bài. Hướng dẫn học sinh cách tìm ý , chọn ý cho bài văn tả cảnh. Rèn kỹ năng diễn đạt trong văn miêu tả cảnh cho học sinh. Giúp HS nhận ra và khắc phục lỗi. Nâng cao chất lượng làm văn nói chung và viết văn miêu tả nói riêng. 4. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu: Phương pháp nghiên cứu lý thuyết; Phương pháp nghiên cứu thực tiễn; Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm; Phương pháp thực hành, luyện tập; ………………. 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài: Tạo cho HS một thói quen học tập khoa học, chủ động đối với phân môn Tập làm văn nói chung và làm văn tả cảnh lớp 5 nói riêng; Làm tiền đề cho việc học tốt môn văn ở bậc học trên; 2
- Hỗ trợ cho GV Tiểu học một số biện pháp trong quá trình giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn tả cảnh cho học sinh lớp 5; B. PHẦN NỘI DUNG: 1. Cơ sở khoa học: a) Cơ sở lý luận: Chúng ta biết rằng, quá trình nhận thức của con người đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể coi mỗi tác phẩm văn học là một viên ngọc trong cuộc sống, nó bay bổng, tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Vậy làm thế nào để cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng cũng cảm nhận được chất thơ trong cuộc sống, cũng có thể sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật “ bé con” có giá trị? Tôi nghĩ đó chính là công việc mà mỗi giáo viên Tiểu học cần làm được. Thực tế, chương trình Tiếng Việt lớp 5 so với lớp 4 thì thời lượng các tiết luyện kĩ năng viết văn được nâng lên khá nhiều. Riêng kiểu bài tả cảnh có 15 tiết ( từ tuần 1 – tuần 11 ), sau đó lại ôn tập về cuối năm. Các em đã bước đầu làm quen với các khái niệm trừu tượng, làm văn đã đòi hỏi các em phải có cách viết già dặn hơn, sinh động hơn. Và đặc biệt, trong văn tả cảnh phải có hình ảnh sống động, thuyết phục lòng người, làm thế nào để khi đọc, ta có cảm giác như cảnh đó đang hiển hiện ngay trước mắt. Như vậy, tức là ta phải làm được cái việc của người họa sỹ là “ vẽ nên một bức tranh” nhưng không phải bằng cây cọ vẽ mà bằng ngôn từ. Điều đó không thể có được từ lý thuyết sang thực hành bởi tư duy của các em còn chưa tiếp nhận ngay được những kiến thức trừu tượng. Cảm quan của các em còn rất thô sơ, chưa có nhiều tính hình ảnh, sáng tạo nghệ thuật. b) Cơ sở thực tiễn: 3
- Thực tế học văn cũng còn nhiều bất cập. Các em học văn một cách khó khăn,miễn cưỡng. Hơn nữa, sự say mê của các em trong con đường tìm tòi tư liệu học văn cũng quá ít ỏi, hầu như là không có bởi những thông tin thời hiện đại: hoạt hình, truyện tranh, game… cuốn hút. Hiếm khi vào thư viện hay nhà sách thấy các em tìm lựa chọn những tác phẩm văn học như Dế Mèn phiêu lưu ký, Đất rừng phương Nam, Tuổi thơ dữ dội, Búp sen xanh hay những tập thơ nổi tiếng như Góc sân và khoảng trời…Mặt khác, sự trải nghiệm thực tế cuộc sống của các em còn bị bó hẹp bởi nhiều lý do. Điều đó đã làm nghèo đi vốn ngôn từ nghệ thuật quý giá của văn học trong mỗi học sinh. Chính vì vậy, lên bậc Trung học cơ sở, các em lại càng gặp nhiều khó khăn trong môn Ngữ văn, trong văn biểu cảm,trong những dạng đề mở đầy sáng tạo. Là một giáo viên làm công tác giáo dục ở bậc Tiểu học, tôi nhận thấy phương pháp học văn của học sinh và phương pháp dạy văn của một số giáo viên còn nhiều hạn chế, thường không biết nên bắt đầu từ đâu hoặc ngại khó bởi rèn kỹ năng viết văn là cả một quá trình bền bỉ “ mưa dầm thấm lâu”. 2 .Thực trạng dạy và học văn hiện nay: Qua thực tế giảng dạy và trao đổi với các bạn đồng nghiệp về dạy học các tiết Tập làm văn có liên quan đến tả cảnh tôi nhận thấy còn nhiều bất cập. Về phía người dạy, đây là một phân môn khó, đòi hỏi năng khiếu cá nhân, đòi hỏi phải có một kiến thức tổng hợp, có sự rung cảm của tâm hồn. Bên cạnh đó, tổng số học sinh trên lớp vẫn còn đông nên chấm chữa khó có thể chi tiết, tỉ mỉ, một bộ phận giáo viên chưa thực sự tận tâm. Vì vậy,trong quá trình giảng dạy thường diễn ra hai thái cực: + Hoặc là hướng dẫn chung chung sau đó để học sinh tự mày mò. + Hoặc là hướng dẫn tỉ mỉ, mang tính định hướng, dùng văn mẫu. Cả hai cách trên đều làm cho học sinh không biết làm văn, không biết cách sáng tạo, dẫn đến tư tưởng ngại, chán . 4
- Về phía người học, kiến thức sách vở cũng như kiến thức thực tế còn nhiều lỗ hổng . Nhiều học sinh ở nông thôn chưa một lần ra thành phố, đến thủ đô, di du lịch…ở nhà bố mẹ ngôn ngữ thô mộc ( văn hóa gia đình rất quan trọng, các em có thể tích lũy trong quá trình giao tiếp hàng ngày). Ngược lại, học sinh thành phố nhiều em lạ lẫm với ruộng đồng, với những dòng sông, với đêm trăng sáng…. Tài liệu, văn mẫu tràn lan trong các hiệu sách, trên internet cộng với việc sử dụng thiếu tính tích cực đã tạo nên những bài văn với bức tranh phong cảnh giống hệt nhau về góc nhìn, cảm nhận, thiếu thực tế đến đáng buồn. Có em tả dòng sông Hồng nước trong văn vắt, soi rõ mây trời lồng lộng mà không biết dòng sông Hồng chở nặng phù sa đỏ chói như son về mùa lũ và hồng nhạt khi xuân về.Các em tả: Sau cơn mưa, trời hửng sáng, chị gà mái tơ dẫn đàn con lục tục kiếm mồi mà không biết gà mái tơ là gà mái chưa đẻ trứng lứa nào..v..v Về phía phụ huynh, nhiều người còn có cách nhìn lệch lạc về môn Tiếng Việt, cho rằng văn chỉ là lý thuyết, sáo rỗng, không phục vụ cho thực tế cuộc sống nên xem nhẹ, không đầu tư. Cụ thể qua nhiều năm học, tôi theo dõi, khảo sát nhận thấy các em có kĩ năng viết văn tốt, có hứng thú với văn tả cảnh chỉ mới đạt 2030 %, có khoảng 7 10% học sinh chưa đạt kỹ năng viết văn miêu tả. Điều đó thực sự đã làm tôi băn khoăn, trăn trở. Tôi đã nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp trong quá trình dạy văn miêu tả cảnh cho học sinh. Cụ thể: 3. Các giải pháp chủ yếu trong việc rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5: 3.1. Hướng dẫn học sinh quan sát, tưởng tượng, ghi chép và tích lũy kiến thức, vốn sống: 5
- Vốn là yếu tố quan trọng để học sinh có thể làm nên bài văn hay nhưng vốn không tự dưng mà có được, cũng như không phải chỉ tích cóp trong các tiết học mà đủ. Trong văn miêu tả, quan sát và tưởng tượng rất quan trọng. Việc quan sát và vị trí quan sát tốt, góc quan sát phù hợp: xa hay gần, trong hay ngoài, ban ngày hay ban đêm, mùa xuân hay mùa hạ,… sẽ giúp ta nắm được cái thần của đối tượng, cảm nhận đối tượng một cách rõ ràng, tinh tế hơn. Chẳng hạn, với ngòi bút của Thi Sảnh, Vịnh Hạ Long hiện lên sống động với từng góc nhìn, càm nhận khác nhau: Trước hết đó là vẻ đẹp kĩ vĩ với hàng nghìn đảo nhấp nhô khuất khúc , có chỗ đảo sừng sững chạy dài như bức tường thành vững chãi, ngăn khơi với lộng, nối mặt biển với chân trời. Có chỗ đảo dồn ra thưa thớt, hòn này với hòn kia biệt lập, xa trông như quân cờ bày chon von trên mặt biển. Tác giả còn nhận thấy Hạ Long chẳng những kì vĩ mà còn duyên dáng. Đó chính là sự tươi mát của sóng nước, rạng rỡ của đất trời. Sóng nước Hạ Long quanh năm trong xanh. Đất trời Hạ Long bốn mùa sáng nắng… Chính vì vậy, tôi thường hướng dẫn học sinh quan sát, ghi nhận, khám phá những cảnh vật xung quanh một cách tích cực. Trong những buổi sinh hoạt ngoại khóa, thậm chí giờ chơi, tôi cùng học sinh quan sát . Ví dụ, một buổi sáng thời tiết đẹp, tôi cùng các em quan sát bầu trời. Tôi yêu cầu các em nói lên những điều mình thấy, khuyến khích tìm ra những nét riêng biệt mà người khác chưa phát hiện ra . Có em thấy bầu trời hôm nay thật cao và thật xanh; có em lại thấy trên nền trời còn có những cụm mây trắng xôm xốp trôi bồng bềnh; tinh tế hơn, có em còn trông thấy một cánh cò mải mốt bay ngang như một dấu ngã của cậu học trò viết vội trên trang giấy…. Hay khi quan sát góc sân trường mùa xuân, có em thấy sân trường như vừa được thay một lần áo mới. Cây xoài đâm 6
- những lớp lá non màu nâu đỏ nổi bật trên nền xanh thẫm của lá già. Trên những cành bàng khẳng khiu đã có vô số ngọn nến xanh lấp ló. Cây phượng cũng vội vã khoe những chiếc lá non tơ, xanh mượt . Tất cả tạo nên một bức tranh xuân tràn đầy sức sống. Tuy nhiên, có em còn phát hiện ra: Bụi cỏ gà hôm qua còn xanh thẫm bởi lớp lá già mà hôm nay đã xuất hiện một lớp lá mới trắng xanh, non nớt. Cũng có khi, tôi cho các em xem các đoạn video về : cảnh dòng sông, cơn mưa, một vùng quê…tôi yêu cầu các em xem lần thứ nhất và nêu xem mình quan sát được những gì. Lần thứ hai cho các em xem lại và ghi chép, nói những điều em nhìn thấy, nghe thấy, liên tưởng…để bổ sung cho các em những cảnh quan mà mình chưa từng được đến. Song song với các biệp pháp đó thì thư viện cũng được xem là một công cụ đắc lực cho quá trình giúp học sinh tích lũy cho mình cái vốn. Thời gian ngoại khóa không có nhiều nên tôi định hướng cho các em chủ đề đọc sách trong 2 tháng. Chẳng hạn tháng 9,tháng 10, tôi yêu cầu các em đọc cuốn Dế Mèn phiêu lưu kí của nhà văn Tô Hoài, ghi lại những tình tiết thú vị, những câu văn tả cảnh mà em thích. Cuối tháng 10, tôi tổ chức sinh hoạt ngoại khóa, xây dựng các trò chơi có liên quan đến nội dung câu chuyện hoặc có thể đưa ra các câu hỏi: Khi bị bắt bỏ nằm trong đáy giỏ, Dế Mèn thấy cảnh vật xung quanh như thế nào? ( Cỏ non xanh rờn, mặt nước bạc mênh mông. Nắng vàng rải trên lá cây, vàng một màu tươi lạ lùng – điều đó nói lên được tâm trạng buồn man mác của Dế Mèn.) Khi rời quê hương lần thứ hai vào mùa thu, Dế Mèn thấy cảnh vật thế nào? 7
- ( Hôm ấy nước đầm trong xanh. Những áng cỏ mượt rời rợi. Trời đầy mây trắng. Gió hiu hiu thổi như giục lòng kẻ ra đi.) Mùa đông trong con mắt của Dế Mèn như thế nào? ( Cánh đồng vàng rượi xưa kia đã được người ta lấy liềm gặt, bó từng lượm, cái đòn xóc đâm ngang thành từng gánh, quẩy về sân. Trên mênh mông chỉ còn trơ lại những gốc rạ khô. Thế là mùa rét đã tới. Cánh đồng vắng ngắt, màu xám trên trời và màu xám dưới đất đã liền vào nhau và ở giữa có gió suốt đêm ngày.) Dế Mèn chu du thiên hạ trong tiết trời mùa xuân. ( Trời đất giờ đây lại sắp sang xuân. Gió nhẹ. Thinh không cao cao. Mỗi năm gặp lại mùa xuân, trong lòng lại thấy hai câu thơ tự nhiên trở lại, thật xinh tươi thay: Cỏ non xanh rợn chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Ai nấy đều ca hát.)…v.v. Phần thưởng cho các em đôi khi chỉ là que kẹo mút, bông hoa hay được ghi tên vào “ bảng vàng” trong vườn văn học nhưng đã thực sự tạo cho các em sự hứng khởi với việc đọc sách tích cực. Bên cạnh việc quan sát, khám phá, tôi hướng dẫn các em ghi chép lại các câu, từ, hình ảnh mà mình thích, mà mình quan sát được hoặc học được từ bạn, từ cô giáo và những người xung quanh, vào Sổ tay văn học. Như vậy, dần dần, các em đã tích lũy được cho mình một cái “ vốn” nhất định phục vụ cho quá trình học tập, giao tiếp. 3.2. Hướng dẫn học sinh xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng hướng làm bài. Đề bài, chủ đề của bài văn quyết định cách quan sát, tìm ý, sắp xếp ý và diễn đạt của bài văn. Nếu không nắm vững yêu cầu của đề bài thì bài văn sẽ 8
- đi chệch hướng và không đạt yêu cầu. Nhiều học sinh làm văn lạc đề, xa đề là vì vậy. Bởi thế ,cần thiết phải luyện tập cho học sinh kỹ năng tìm hiểu, xác định đúng yêu cầu đề ra. Các yêu cầu đều nằm toàn bộ trong lời văn của đề ra. Vì thế, việc đầu tiên là tìm những từ ngữ thể hiện yêu cầu của đề bằng cách trả lời các câu hỏi: Tả cái gì? ( xác định đối tượng miêu tả ), tả như thế nào? ( đặc điểm, tính chất đối tượng), tả để làm gì? ( mục đích miêu tả). Khi trả lời xong tất cả những câu hỏi này chúng ta sẽ định hướng bộ xương, cái khung của bài văn. Ví dụ: Hãy tả lại cảnh quê hương em vào một buổi chiều thu. GV hỏi: Đề yêu cầu tả gì? ( cảnh quê hương ) Tả vào thời điểm nào?(buổi chiều thu đặc điểm,tính chất của cảnh ) Vậy cảnh quê hương gồm có những gì? ( Ở quê như: dòng sông, cây đa, bến nước, con đường, cánh đồng, triền đê, làng mạc…. Ở thành phố như: góc phố, những ngôi nhà, vỉa hè, hàng cây, con đường..) Vậy đó là cảnh tổng hợp hay phong cảnh hay 1 địa điểm? ( cảnh tổng hợp – quang cảnh ) GV mở rộng thêm: yêu cầu tả cảnh tổng hợp thường chứa các từ ngữ như: một miền quê, quê hương em, cảnh vùng quê, nơi em ở… Nó bao gồm nhiều cảnh nhỏ, lẻ, gộp lại. Vậy buổi chiều mùa thu thường có những đặc điểm gì ? ( Trời trong xanh, cao, nắng vàng rải nhẹ, không gay gắt, không gian thường thật êm, thật dịu dàng. Cuối thu thường có gió heo may. Sắc màu của mùa thu thường là màu vàng: vàng hoa cúc, lá vàng…Mùa thu cũng là mùa quả 9
- chín. Ở quê ta có thể ngửi được hương quả chín trong các vườn nhà. Bức tranh thu thường được toát lên vẻ dịu dàng, êm ả ) Sau khi làm xong các công đoạn đó, các em đã có được một hướng đi cho mình khi quan sát và chọn ý . 3.3. Hướng dẫn học sinh cách tìm ý cho bài văn tả cảnh: Khi học sinh đã xác định đúng yêu cầu của đề, xác định chính xác đối tượng miêu tả nhưng chắc chắn chưa thể định hướng một cách cụ thể cho bài viết. Để giúp học sinh định hình được hướng viết bài tả cảnh, tôi đã hướng dẫn các em các bước tìm ý: Nhất nhất phải theo trình tự: tìm ý bao quát không gian của cảnh chung sẽ tả, sau đó cụ thể sẽ có những cảnh nào? Cảnh như thế nào? Bao quát không gian cảnh được coi là một bước phác hình cơ bản trong hội họa, là một thao tác sơ khoáng của bức tranh phong cảnh ,rất quan trọng trong việc định hình tâm thế cũng như nhãn thế cho người thưởng thức bức tranh bằng ngôn từ.Vậy học sinh cần phải nắm được cách viết phần bao quát không gian cảnh như thế nào. Thực tế tôi thấy học sinh thường viết một cách cộc lốc, cụt lủn, có khi chỉ được 12 câu cho phần tả bao quát. Nên dù văn không phải là lĩnh vực tự nhiên, tôi vẫn đưa ra theo một công thức dễ nhớ cho học sinh: + Để tả bao quát cảnh, trước hết phải có câu xác định vị trí miêu tả khái quát. ( từ xa, từ trên nhìn xuống, đứng trên triền đê…) Thường là một vị trí cao hơn, xa cảnh trung tâm để có thể chụp được toàn cảnh miêu tả vào nhãn quan của người quan sát một cách tương đối trọn vẹn. + Sau câu văn giúp người đọc biết được vị trí của người quan sát là những lời văn nhận xét, đánh giá đầy nghệ thuật về cảnh chung đó. Cũng không quên lưu ý với học sinh rằng: Lời văn nhận xét, đánh giá khái quất đầy nghệ thuật là những lồ văn sử dụng linh hoạt các biện pháp tu 10
- từ sao cho cảnh tả nổi lên sống động,tự nhiên, hồn hậu, trong sáng, sát hợp với yêu cầu của đề đã xác định, bộc lộc được tình cảm của người quan sát cảnh. Ví dụ: Tả cảnh quê hương em vào một buổi chiều thu. Đứng trên triền đê, thả mắt ngắm nhìn toàn cảnh quê hương, tôi như đang đắm mình trong sắc thu vàng của chốn làng quê thanh bình, trù phú. Chiều thu êm ả lạ lùng, chỉ có làn gió nhè nhẹ thổi cùng tiếng sáo diều du du trên thinh không. Hay một ví dụ khác về tả dòng sông quê hương. Đứng trên núi cao nhìn xuống, dòng sông Ngàn Phố hiện ra trước mắt tôi như một con rồng đang mải mê tưới mát cho xóm làng, cho bãi mía nương ngô.Chẳng biết sông bắt nguồn từ đâu, chỉ biết lòng sông đầy ăm ắp nước , hiền hòa trôi mãi rồi hợp lại ở bến Tam Soa….. Những ý cốt yếu nhất của một dàn bài văn tả cảnh còn có cụ thể những cảnh nào? ( nếu là cảnh tổng hợp thì cảnh sẽ chia thành nhiều cảnh đơn, trong đó cảnh đơn nào là nổi bật nhất? nếu là tả cảnh đơn thì trong cảnh đơn có điểm nổi bật gì? Như thế nào?) Muốn như vậy, người viết phải quan sát và dẫn ra được hình ảnh cụ thể, tiêu biểu. Nhưng phần lớn học sinh thường sa vào gặp đâu nói đó và không hề xác định được mình đưa ra những cảnh đó nhằm mục đích làm nổi lên diện mạo gì của cảnh, có làm nổi bật được chủ đề mà mình đã xác định ở đầu bài yêu cầu không? Để khắc phục tình trạng này, tôi đã chú trọng rèn luyện cho học sinh kỹ năng xác định, lựa chọn những đặc điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả. Ví dụ: Cảnh khu vườn buổi sáng mùa thu sẽ có những gì? Đầu tiên, tôi giúp các em xác định: đó là một khu vườn tươi tốt, đầy hoa thơm trái ngọt, rất thanh bình, đậm chất thôn quê, dân dã mà mang được vẻ đẹp trù phú của chốn quê hương yêu dấu. Đặc biệt cảnh phải mang được 11
- dáng dấp của thời gian, không gian mà đề quy định ( có đặc trưng của mùa thu). Trong khu vườn đó nổi bật nhất là cây gì? Đặc điểm cây đó như thế nào? Nó có tác dụng như thế nào trong tổng quan của khu vườn? Sau đó, giáo viên hướng cho học sinh tái hiện từng hình ảnh của khu vườn theo trí tưởng tượng nhưng phải sát với hiện thực. Ví dụ: Trước sân nhà, giàn thiên lý dây leo vấn vít khéo léo khoe những chùm hoa xinh xắn như muôn ngàn ngôi sao xanh. Cạnh bể nước có cây cau đang trổ hoa. Tàu là già dang rộng, đọt lá non cao vút, bên nách lá, lấp ló buồng hoa mứi nở.Hoa cau trắng rơi lộp độp trên nền sân gạch. Những đọt mồng tơi quăn mình vắt trên bờ dậu. Bụi chuối với buồng quả nặng đã ngả màu trứng cuốc. Hàng bưởi với những trái chín vàng ong lúc lỉu, đu đưa. Cảnh nổi bật nhất trong khu vườn là vạt cải đã trổ ngồng. Những bông hoa cải củ trăng trắng tim tím trộn lẫn sắc vàng tươi như màu nắng của đám hoa cải sen gọi đàm bướm rập rờn trông xa như những đốm nắng lung linh. Với cách làm như trên, tôi đã cho học sinh luyện tập tìm đặc điểm của nhiều cảnh khác nhau với những thời gian và không gian đa dạng. Các em được luyện tập dưới hình thức “ Ai tìm được nhiều đặc điểm nhất ”. Giáo viên hệ thống và giúp các em lựa chọn những đặc điểm tiêu biểu nhất trong mỗi cảnh. Điều đó giúp học sinh tìm được hứng thú làm văn tả cảnh khi mình có thể tự phát hiện ra nhiều điều thú vị trong thiên nhiên. Dần dần, các em sẽ có được kỹ năng tìm và lựa chọn ý mà không cần sự giúp đỡ nhiều của cô giáo. 3.4. Rèn kỹ năng diễn đạt cho học sinh trong bài văn tả cảnh. 12
- Tìm được các đặc điểm tiêu biểu của cảnh định tả vẫn chưa phải là tả cảnh tốt. Vấn đề là học sinh phải dựng lại được cảnh một cách sống động, chân thực và có tính nghệ thuật. Vậy những đặc điểm vừa tìm được ở trên sẽ được diễn đạt như thế nào? Đó là một điều cần được quan tâm. Thực tế là qua chấm các bài tả cảnh của các em còn thật đáng buồn bởi vốn từ còn nghèo, có kết quả quan sát rồi chuyển thành câu văn, bài văn đầy vụng về, rời rạc, thiếu liên kết, dùng từ sai nghĩa….Như vậy, để bài làm văn cảu học sinh diễn đạt trong sáng, có sức hấp dẫn, không có con đường nào khác là phải tăng cường luyện tập , trau dồi vốn ngôn từ nghệ thuật cho các em. Ta biết rằng,thế giới âm thanh, hình tượng và màu sắc tạo cho bài văn miêu tả của các em thật hơn, sống động hơn, góp phần không nhỏ cho vẻ đẹp của bài văn. Các biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh cũng là thế mạnh đặc trưng, là phương tiện miêu tả hữu hiệu. So sánh là biện pháp nghệ thuật tạo hình, khiến cho sự vật được so sánh cụ thể hơn, hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Sử dụng so sánh trong bài văn còn là cách thức làm đẹp ngôn từ. trong tả cảnh cần có nhiều hình ảnh so sánh. Chẳng hạn: Mặt hồ phẳng lặng như một tấm gương lớn soi rõ bầu trời xanh. Dòng sông như một chiếc khăn voan mỏng mà nàng tiên nào đó đánh rơi trên cánh đồng. Quê hương vào thu như một bức tranh với những sắc màu tươi sáng…. Nhân hóa cũng là một biện pháp miêu tả sinh động, hấp dẫn, lý thú các sự vật, hiện tượng, làm cho những đối tượng này không phải là người nhưng lại mang dấu hiệu, thuộc tính của người. Nhân hóa là con đường thú vị nhất, ngắn nhất đưa những vấn đề trừu tượng đến với nhận thức của con người. 13
- Khi sử dụng nhân hóa, người viết được thả sức vùng vẫy, lựa chọn ngôn từ để làm tăng sự uyển chuyển , mềm mại khi diễn đạt. Chẳng hạn: Dòng sông chảy vòng quanh làng, ta liên tưởng đến điều gì? Như vòng tay của người mẹ hiền ôm ấp lấy đứa con yêu. Gió thổi khiến lá cây va vào nhau xào xạc có thể liên tưởng đến hàng cây đang bá vai nhau thì thầm trò chuyện. Hình ảnh trăng nhô ra khỏi đám mây, chiếu sáng có thể liên tưởng chị Hắng vén mây, âu yếm nhìn đàn em nhỏ đang chơi đùa dọc con đường nhỏ. Ngoài ra,tôi còn bồi dưỡng khả năng sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm, các biện pháp tu từ bằng hệ thống bài tập bổ trợ thông qua các phân môn khác hoặc các tiết tự học. Một số dạng bài tập như: Tìm các từ gợi tả + Tiếng gió: vi vu, lao xao, rì rào, xào xạc… + Tiếng mưa: lộp độp, tí tách, boong boong, rào rào… + Âm thanh trong cuộc sống : lợn eng éc, ụt ịt, chim hót véo von, chim kêu lích rích, tiếng còi xe bim bim, bíp bíp, tiếng dế kêu rỉ rả, rích rích… + Hình ảnh: sâu hun hút, xanh ngăn ngắt, rộng thênh thênh, + Chỉ màu: đỏ ối, vàng hoe, xanh lè, trong vắt… + Chỉ mùi: thơm thoang thoảng, hăng hắc, nồng nàn, nồng nồng, ngan ngát… Sau khi các em đã tìm được từ, tôi tiến hành giúp các em lựa chọn từ phù hợp Ví dụ : Hoa cau chúng ta chọn mùi hương như thế nào? ( hăng hắc) Âm thanh giọt mưa rơi khi đã tạnh miêu tả như thế nào? ( tí tách) …. 14
- Chuyển các câu kể thành câu văn có sử dụng các biện pháp so sánh hoặc nhân hóa: Chim hót trên cành. Cây đa cổ thụ đứng đầu làng. Vào đêm trăng sáng, dòng sông rất đẹp. Trong mưa, cây ớt rạp xuống đất. HS có thể viết thành: Đàn chim đang hát vang bài hát ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp. Hay: Đàn chim đang tấu lên bản nhạc ngợi ca cuộc sống tự do. Cây đa đứng đó từ bao đời như một người vệ sĩ khổng lồ bảo vệ cho bình yên của thôn xóm. Mặt nước tĩnh lặng. Sông giờ đây như một chiếc khăn kim tuyến được đính muôn vàn vì sao lấp lánh. Mưa mỗi lúc một to hơn. Cây ớt nhỏ dường như không chống chọi nổi cơn thịnh nộ của trời chới với ngã rạp xuống đất. 3.5.Chấm bài kỹ, phân loại lỗi, dự kiến phương án khắc phục: Tuy chấm bài không nằm trong quá trình lên lớp 40 phút trả bài, nhưng nó lại là yếu tố quan trọng làm cơ sở cho giờ trả bài. Giờ trả bài có thành công hay không ? Học sinh có thấy được đúng sai trong bài làm của em đó hay không ?.... đều được bắt đầu bằng việc chấm. Đó chính là phần chuẩn bị của giáo viên. Song song với việc chấm bài kỹ là sổ chấm bài. Sổ chấm bài có tác dụng thống kê các loại lỗi để tìm ra lỗi phổ biến, ghi chép những sai, đúng cụ thể của từng học sinh làm tư liệu để phục vụ cho việc nhận xét và hướng dẫn chữa lỗi.. Nhưng trước hết muốn ghi chép đúng thì giáo viên phải chấm kỹ, bám sát yêu cầu mà chuẩn kiến thức và kĩ năng đã đề ra, đưa ra một biểu điểm để đảm bảo tính khoa học , khách quan, vô tư. Từ đó thấy được ưu và nhược 15
- điểm của bài viết. Đồng thời sổ này giúp giáo viên so sánh đối chiếu những bài sau so với những bài trước xem sự dứt điểm của từng loại lỗi đã làm được chưa ? Làm đến đâu ? Sự tiến bộ của các em đạt đến mức độ nào? Số được trình bày theo bảng sau: Loại sai Tên học sinh Dẫn chứng Hướng chữa 1.Bố cục 2. Lạc đề 3.Chính tả, dùng từ 4.Diễn đạt 5.Câu Cuối bảng giáo viên ghi rõ cần dứt điểm loại lỗi nào trong bài viết, kế tiếp việc này được nêu ở giờ trả bài phần củng cố, học sinh sẽ thấy được để ở giờ sau phấn đấu đạt kết quả tốt hơn. Như vậy việc làm từng bước ấy rõ ràng không bị miên man kéo dài. 3.6. Thực hiện tốt tiết Tập làm văn trả bài: Muốn nâng cao chất lượng cho học sinh môn Tập làm văn nói chung và tả cảnh nói riêng, giáo viên phải đặc biệt chú ý trong tiết tập làm văn trả bài. Điều tôi đi sâu nhất đó chính là bước "sửa lỗi sai cần thiết " trong quá trình lên lớp như sau: Thông thường bước này giáo viên thường làm qua loa vì thời gian, vì trọng tâm không xác định, vì một số giáo viên ngại khó khăn... Nhưng nếu có sự bố trí lôgic và khoa học trong thiết kế mà phần này chúng ta vẫn thấy có thể làm chủ được thời gian. Về phương pháp, có thể nêu ra phương pháp chung nhất cho phần này mang tính tổng quát là" Thầy chủ đạo, trò chủ động " 16
- và cùng với nó sự vận dụng linh hoạt, hỏi, phát hiện, gợi tìm, gợi mở, tổng hợp, đánh giá. Tôi tổ chức cho học sinh học tiết trả bài theo tuần tự: * Giáo viên nhận xét, đánh giá bài làm của học sinh, các ưu, nhược điểm của bài làm. * Hướng dẫn học sinh chữa lỗi: Theo tôi, đây là bước quan trọng. Học sinh tự tìm ra lỗi của mình, biết cách sửa hoặc sửa được cho bạn tức là các em đã được củng cố thêm về kỹ năng viết. Vì vậy, việc đầu tiên của khâu này là tôi cho HS: Tự tìm lỗi sai trong bài của mình Nghĩa là tôi không nên nêu ra cái sai cụ thể trên bảng, làm như vậy học sinh bị thụ động mặc dù cái sai đó tôi đã nắm được chắc và ghi trong sổ chấm trả, nhận xét về bài làm rồi. Về vấn đề này tôi đã gợi mở làm cho học sinh phải động não bằng cách như sau: Gọi học sinh (học sinh này bài văn có câu sai, lỗi sai tôi đã ghi trong bài) và yêu cầu em đọc cho đoạn văn sai của em mà cô đã gạch trong vở. Tôi có thể phát vấn em: + Em có nhận xét gì về câu (đoạn) văn em vừa đọc + Em định trình bày ý gì? Nội dung gì? Nội dung ấy đã toát lên chưa? + Theo em phải sửa lại như thế nào? Nếu học sinh đó vẫn chưa làm được thì tôi tiếp tục hỏi học sinh khác. Như vậy kết hợp hỏi, gợi tìm với giáo cụ trực quan (ghi bảng) nó tác động vào tư duy của các em, bắt buộc tư duy phải hoạt động. Làm việc như vậy các em sẽ nhớ rất lâu. Các em thấy cách viết ấy là sai, và phải biết sửa lại như thế nào. 17
- * Chữa lỗi về bố cục: Trước tiên tôi hỏi về bố cục thông thường của một bài văn, sau đó cho học sinh đối chiếu với bài của mình xem đã đủ về bố cục chưa? Nếu chưa đủ thì còn thiếu phần nào? Em cần sửa ra sao? Giáo viên hướng dẫn học sinh chữa lỗi về mở bài, kết bài (Theo cách đã học), về thân bài(sắp xếp ý theo trình tự đã học một cách hợp lí . Sau đó, tôi tổ chức cho các em tiến hành sửa lỗi cá nhân và trao đổi bài cho nhau để cùng kiểm tra trao đổi kinh nghiệm. Ngoài ra,ở phần này học sinh thường không biết tách giữa mở bài với thân bài hoặc giữa thân bài với kết bài. Vì vậy khi sửa lỗi về bố cục, tôi gợi học sinh nhớ lại dàn ý của bài.Từ đó học sinh sẽ tách được đoạn văn viết lẫn hoặc viết được đoạn văn còn thiếu trong bài văn. * Chữa lỗi về cách dùng từ Ví dụ: Dòng sông trải ra trước mắt em rộng mênh mông. + Em có nhận xét gì về cách dùng từ ở câu trên? Nếu học sinh vẫn chưa nhận ra, tôi tiếp tục gợi ý: + Em nhớ lại xem, dòng sông có đặc điểm gì về hình dạng? ( HS có thể nhớ lại: dòng sông dài, chảy quanh co..) + Vậy các từ gợi tả trong câu có chỗ nào chưa hợp lý? ( HS sẽ nhận ra đó là cách dùng từ mênh mông, từ trải không phù hợp cho miêu tả dòng sông. Từ mênh mông gợi cảm giác về độ rộng không giới hạn; Trải là mở rộng bề mặt về 4 phía. Nhưng dòng sông có giới hạn là đôi bờ và nó kéo dài, vì vậy hai từ này dùng chưa đúng) + Vậy ta có thể diễn đạt lại câu như thế nào? 18
- Chẳng hạn: Khúc sông chảy qua làng em rộng lắm! Đứng bên này nhìn sang chẳng thấy bờ bên kia. * Chữa lỗi về câu về đoạn văn về diễn đạt Các lỗi về câu thường gặp ở tiểu học là câu thiếu chủ ngữ hoặc vị ngữ, câu chỉ có thành phần phụ chỉ địa điểm hoặc thời gian, nguyên nhân, kết quả... Thiếu thành phần chính (tức là cả cụm chủ vị ), nêu ý chưa chọn vẹn , câu có nhiều từ ngữ thừa, rườm rà, lủng củng. Cách chữa: giáo viên kẻ bảng thành ba cột. CÂU SAI LỖI NGỮ PHÁP CÂU ĐÃ ĐƯỢC SỬA THÀNH CÂU ĐÚNG Ví dụ: Đứng trước cảnh đẹp nên thơ của dòng sông La. Em càng thấy yêu quý quê hương mình tha thiết. Em có nhận xét gì về hai câu văn trên? ( Về cách dùng từ, đặt câu? ) ( Câu sai ngữ pháp: Đứng trước cảnh đẹp nên thơ của dòng sông La chỉ mới là một nhóm từ ngữ.) Em có thể sửa lại thế nào? ( Thay vì điền dấu chấm ở sau từ sông La, em điền dấu phẩy để tạo ra trạng ngữ) * Giáo viên có thể thay đổi hình thức sửa bằng cách cho hai em đổi vở cho nhau để tìm ra lỗi sai kết hợp cùng giáo viên để tìm ra cách sửa sai. Với hình thức này, tôi cho học sinh tạo thành nhóm đôi theo năng lực (giỏi, khá, trung bình) hoặc Đôi bạn cùng tiến. Các em đổi vở, đọc bài của bạn, phát hiện lỗi, nêu lỗi và hướng sửa, trao đổi xem bạn có đồng ý với cách 19
- sửa như vậy không , ngoài ra còn có thể phát hiện thêm một số lỗi giáo viên bỏ sót. Sau đó cùng trao đổi, kiểm tra, chia sẻ kinh nghiệm làm bài và chữa lỗi với bạn. * Có thể cho các em thảo luận trong nhóm để tìm ra cách sửa sai. Với cách làm này tôi thường chia nhóm theo năng lực, sở trường của học sinh rồi giao việc: + Nhóm học sinh trung bình: Tìm lỗi chính tả của các bạn trong nhóm rồi thảo luận, tìm cách sửa. + Nhóm học sinh khá: Tìm từ dùng sai, câu lủng củng...rồi tìm cách sửa. + Nhóm học sinh giỏi, có năng khiếu với yêu cầu cao hơn: Tìm câu hay trong bài của bạn, thêm hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa để câu văn được sinh động hơn, hoặc chuyển mở bài trực tiếp thành gián tiếp, kết bài không mở rộng thành kết bài mở rộng...Sau đó đọc lại bài đã sửa và đọc mẫu cho cả lớp tham khảo. Tóm lại: Hệ thống câu hỏi dành cho phần này là làm cho học sinh chỉ ra được. Câu sai ở đâu? Lý do sai? Nêu cách sửa. Và đặc biệt với phần chữa lỗi bao giờ tôi cũng đảm bảo chữa từ lỗi dễ, lỗi đơn giản đến những lỗi khó, phức tạp. Ví dụ: Trong một giờ trả bài tôi đi từ việc hướng dẫn nhận xét, chữa lỗi về: Bố cục. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm nâng cao công tác chủ nhiệm học sinh lớp 5
14 p | 2593 | 686
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn học vần cho học sinh lớp 1 trường tiểu học Mỹ Phước D
50 p | 2696 | 408
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn tập làm văn
10 p | 2123 | 376
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kĩ năng học tốt môn tập làm văn ở lớp 5
11 p | 1174 | 281
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đầu cấp
28 p | 778 | 213
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thảo luận nhóm trong dạy học môn Toán lớp 3 - Bùi Thị Giao Thủy
20 p | 659 | 121
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 đọc đúng, đọc diễn cảm
24 p | 572 | 119
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt lớp 2 phân môn kể chuyện
20 p | 589 | 112
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 2 trong phân môn Tiếng Việt
11 p | 595 | 100
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức học sinh trường tiểu học
9 p | 436 | 80
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt
15 p | 612 | 74
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giải bài toán BĐT
25 p | 309 | 70
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm khai thác triệt để mô hình để giảng dạy môn Sinh học lớp 7
17 p | 384 | 69
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kỹ năng học tốt môn tập làm văn ở lớp 5
13 p | 360 | 66
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số phương pháp giải phương trình mũ – phương trình Logarit
29 p | 352 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số sai lầm thường gặp của học sinh khi giải phương trình lượng giác cơ bản
13 p | 297 | 29
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giảng dạy lồng ghép giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản vị thành niên thông qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu - Môn Ngữ Văn - Lớp 12 chương trình chuẩn
51 p | 273 | 24
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao công tác nữ công trong trường Tiểu học
17 p | 22 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn