intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập đọc lớp 5

Chia sẻ: Thanhbinh225p Thanhbinh225p | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

656
lượt xem
64
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập đọc lớp 5 nêu lên thực trạng của vấn đề nghiên cứu; các giải pháp tổ chức thực hiện; kết quả nghiên cứu. Mời các bạn tham khảo tài liệu để hiểu rõ hơn về những nội dung này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập đọc lớp 5

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN    SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG  DẠY HỌC PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 5                                      Người thực hiện: Mai Thị An                                 Chức vụ: Giáo viên                                 Đơn vị: Trường Tiểu học Đông Sơn­ TX Bỉm  Sơn                                 SKKN thuộc lĩnh vực : Tiếng Việt
  2. THANH HÓA NĂM 2013 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. LỜI MỞ ĐẦU Đất nước đang tiến lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và  hội nhập quốc tế đòi hỏi sự nghiệp giáo dục cũng cần có nhiều thay đổi để đào  tạo ra những con người lao động tự  chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực giải   quyết vấn đề thường gặp, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công   bằng, dân chủ văn minh. Vì vậy, phương pháp giáo dục cũng phải hướng vào việc khơi dậy, rèn   luyện và phát triển  ở  người học khả  năng nghĩ và làm một cách tự  chủ, năng   động và sáng tạo ngay từ  khi đang học tập  ở  nhà trường, đặc biệt là rèn luyện   cho các em khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào  những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn, giúp các em có  niềm vui, hứng thú trong học tập. Trong tư thế chung đó, việc đổi mới phương pháp dạy học phân môn tập  đọc là rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn bởi vì phân môn tập đọc có vị  trí đặc  biệt trong chương trình tiểu học, nó đảm nhiệm quá trình hình thành và phát   triển cho học sinh kĩ năng đọc, một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh   bậc học đầu tiên trong nhà trường phổ thông. Đầu tiên học sinh phải đọc, sau đó   đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh một số ngôn ngữ dùng trong giao tiếp  và học tập, tạo điều kiện để  học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập:  học, học nữa, học mãi – một khả  năng không thể  thiếu của con người thời đại  mới. Mục tiêu dạy học phân môn tập đọc ở lớp 5 không chỉ giúp học sinh củng  cố, nâng cao và phát triển kĩ năng đọc mà còn bồi dưỡng ở các em tư tưởng, tình   cảm, nhân cách, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp. Dạy tập đọc  có ý nghĩa to lớn vì nó bao gồm cả nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng và phát triển. 2
  3. Song, thực tế dạy học tập đọc nói chung và lớp 5 nói riêng hiện nay ở nhà  trường chưa đạt hiệu quả  cao, chưa kích thích sự  ham học, tính tích cực, chủ  động và sáng tạo của người học, đặc biệt là chưa quan tâm đúng mức đến việc   rèn các kĩ năng đọc cho học sinh, dẫn đến học sinh đọc chưa tốt. Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến chất lượng  dạy học tập đọc như trình độ, kĩ năng sư phạm, sự nhiệt tình của giáo viên; trình  độ, ý thức tham gia học tập của học sinh; các điều kiện về cơ sở vật chất, trang   thiết bị  hỗ trợ cho việc dạy học tập đọc. Trong đó nổi bật là nguyên nhân giáo   viên   chưa   linh   hoạt   trong   việc   xây   dựng   kế   hoạch   dạy   học,   việc   đổi   mới   phương pháp và các hình thức tổ chức rèn kĩ năng đọc thành tiếng cũng như đọc   – hiểu. Do chưa hiểu rõ mối quan hệ  mật thiết giữa hai hình thức đọc thành  tiếng và đọc hiểu nên việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh còn nhiều hạn chế.   Nhiều giờ tập đọc không đạt được mục tiêu theo đúng nghĩa của nó đối với đối   tượng học sinh lớp 5 trong khi nội dung chương trình đã có bổ sung thêm một số  dạng văn bản mới. Còn đối với học sinh: Nhiều em cho rằng chỉ cần đọc đúng,  đọc lưu loát, nhiều em không hoặc ít để ý đến ngữ điệu, tốc độ đọc, ít chú ý đến  rèn kĩ năng đọc sao cho hay, đọc thế nào để hiểu được nội dung văn bản (ở mức   độ phù hợp với trình độ  của các em) không ít em chưa có phương pháp học tập   đúng đắn nên chất lượng đọc chưa cao. Nhiều giờ  dạy còn rập khuôn máy móc theo các bước nên chưa phát huy   được tính tích cực chủ động trong học tập của học sinh cũng như chưa huy động  được vốn kinh nghiệm và hiểu biết của bản thân người học vào quá trình tự  học, tự chiếm lĩnh tri thức mới dưới sự điều khiển tổ chức, định hướng của giáo  viên. Vậy tổ chức dạy học tập đọc thế nào để đạt hiệu quả, phát huy được tính  tích cực, chủ  động sáng tạo trong học tập của học sinh, không gây nhàm chán   trong tiết học? Làm thế nào để  học sinh say mê học tập đọc, thích đọc, thích tìm  hiểu nội dung bài đọc để  cảm nhận cái hay, cái đẹp từ  tác phẩm văn chương?  Làm thế nào để rèn các kĩ năng đọc  cho học sinh một cách tốt nhất? Đó là băn  khoăn, trăn trở  không những của các nhà quản lí chuyên môn mà của rất nhiều  giáo viên – những người đang trực tiếp giảng dạy. Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ  vào việc nâng cao chất lượng  dạy học phân môn tập đọc hiện nay, tôi đã nghiên cứu tìm ra biện pháp rèn các kĩ   năng đọc góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập đọc lớp 5 và  đã có hiệu quả nhất định. II.THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU. 1. Thực trạng 3
  4. 1.1 Thực trạng chung * Về  giáo viên: Thực trạng dạy học tập đọc lớp 5  ở  nhà trường hiện nay cho   thấy: ­ Hai nhiệm vụ dạy học tập đọc chưa được giáo viên quan tâm đúng mức. Nhiều  giờ  tập đọc thiên về  rèn đọc thành tiếng, nhiều giờ  thiên về  cảm thụ  văn (đọc   hiểu) , không ít giờ tập đọc ở phần tìm hiểu bài lại được giáo viên chuyển thành  giờ giảng văn (quá đi sâu vào đọc hiểu), ít thay đổi hình thức trong giờ học. ­ Việc hướng dẫn đọc cho học sinh còn mang nặng tính hình thức , chung   chung ít chú ý đến cái chi tiết, cái cụ thể. Việc phối kết hợp rèn các kĩ năng đọc   thành tiếng và đọc hiểu để  chúng phát huy tác dụng hỗ  trợ  cho nhau còn hạn  chế. Giáo viên chưa linh hoạt trong việc sử  dụng hệ  thống câu hỏi, còn phụ  thuộc vào sách. ­ Việc lập kế hoạch  dạy học còn mang nặng tính hình thức, đối phó, còn  rập  khuôn máy móc theo một quy trình có sẵn cho tất cả các dạng bài. * Về học sinh: Học sinh đã quen với cách học ở lớp dưới nên chủ yếu chỉ chú ý   đến rèn đọc sao cho đúng, chưa chú ý đến tốc độ, ngữ  liệu, cách đọc sao cho   hay. ­ Một số học sinh chưa có ý thức học tập, ít có sự phấn đấu. ­ Một số  học sinh kĩ năng đọc yếu so với mức độ  yêu cầu  tối thiểu của   khối lớp 5 nên ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng giờ học. ­ Kĩ năng đọc diễn cảm còn yếu. ­ Khả  năng hiểu bài của học sinh chưa sâu, cảm nhận cái hay, cái đẹp  trong tác phẩm còn hạn chế. 1.2. Sau đây là một số  hạn chế  trong việc rèn các kĩ năng đọc qua từng  phần cụ thể. 1.2.1. Dạy học thành tiếng. Đây là mục tiêu quan trọng trong giờ tập đọc, chiếm thời gian nhiều. Dạy   đọc thành tiếng là dạy cho học sinh cách đọc đúng, đọc lưu loát, rành mạch, đọc  diễn cảm và đọc thuộc lòng (nếu có yêu cầu học thuộc lòng). * Về giáo viên: ­ Khi dạy học phần này, giáo viên chưa thực sự  chú ý đến 3 mức độ  của  luyện đọc thành tiếng, giáo viên chỉ chủ yếu rèn cho học sinh kĩ năng đọc đúng,   đọc rõ ràng mà chưa chú ý nhiều đến luyện đọc hay (luyện đọc diễn cảm),  nhiều tiết tập đọc, thời gian dành cho luyện đọc diễn cảm chỉ chủ yếu đến các   đối tượng học sinh đọc tốt, chưa chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh. 4
  5. Việc thay đổi hình thức và phương pháp trong rèn kĩ năng đọc thành tiếng  đang còn mang tiếng chung chung, chưa thay đổi cho phù hợp với từng bài, nhiều  khi còn áp dụng máy móc cho tất cả các văn bản đọc (thơ, dịch, văn xuôi) Về học sinh:  ­ Các em chỉ chú ý đến việc đọc sao cho đúng, cho rõ ràng. ­ Việc luyện đọc diễn cảm mới chỉ chú ý đến ngắt hơi, nghỉ hơi theo dấu  câu, chưa chú ý nhiều đến việc rèn cho học sinh cách ngắt giọng biểu cảm hay   ngắt giọng logic (giáo viên chưa hướn dẫn kĩ và cụ thể cách ngắt giọng khi gặp  các câu dài thậm chí trong cả những câu văn, câu thơ ngắn mà tác giả có dụng ý   muốn đề cập đến. ­ Việc xác định các ngữ  điệu đọc đúng trong các văn bản nghệ  thuật và  các văn bản khác còn thiên về hình thức hoặc cảm nhận “ tùy tiện” của học sinh  tiểu học (nhất là văn bản kịch) ­ Nhiều học sinh chưa chú ý đến tốc độ  đọc (nhanh, chậm, dãn nhịp) và  cường độ giọng đọc nên có thói quen đọc nhanh, đọc luyến thoắng, đọc vẹt. ­ Kĩ năng đọc diễn cảm của học sinh còn quá yếu so với mục tiêu đọc  diễn cảm ở lớp 5. ­ Đối với đọc thuộc lòng, học sinh chỉ thiên về  hướng dẫn ghi nhớ máy   móc, ít chú ý đến ghi nhớ logic (ghi nhớ có ý nghĩa), ghi nhớ các từ “ chìa khóa”  thể hiện nội dung bài để rèn ghi nhớ sâu… *  Nguyên nhân:  Giáo viên chưa quan tâm đúng mức tới việc rèn kĩ năng đọc  thành tiếng cho học sinh ở các mức độ của nó.(đọc đúng; đọc trôi chảy, lưu loát;  đọc diễn cảm). ­ Giáo viên hướng dẫn nhưng chưa cụ  thể  và rõ ràng  ở  mức độ  của kĩ   năng đọc thành tiếng (ví dụ: cách ngắt giọng biểu cảm, ngắt giọng logic phải   căn cứ  vào đâu? Ngắt như  thế  nào là hợp lí, những từ  nhấn giọng là những từ  như  thế  nào?) dẫn đến học sinh khó xác định điểm ngắt giọng nhất là đối với  học sinh trung bình. Do học sinh không hiểu sâu nên giọng đọc không thay đổi linh hoạt cho  phù hợp với nội dung từng đoạn dẫn đến đọc không hay, không thể hiện được ý   nhĩa nội dung văn bản, dụng ý mà tác giả muốn gửi gắm đến người đọc. ­ Kĩ năng học thuộc lòng chậm và rất nhanh quên do các em thường đọc  vẹt. 1.2.2. Dạy đọc – hiểu: Một trong những kĩ năng đọc hiểu văn bản là đọc thầm.  Dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức, dạy đọc – hiểu. Qua thực trạng dạy   đọc ­hiểu hiện nay tôi thấy: 5
  6. *  Về  giáo viên:  Qua các giờ  tập đọc, tôi thấy giáo viên chưa chú trọng nhiều  đến rèn kĩ năng đọc thầm cho học sinh, nhiều khi yêu cầu học sinh đọc thầm  nhưng không có mục đích, không kiểm tra tốc độ đọc của học sinh nên đã không   phát huy được ưu thế của nó trong việc tìm hiểu và nắm nội dung bài. Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu bài qua hệ thống câu hỏi cuối bài  với cách dạy đồng loạt và chủ yếu sử dụng phươn pháp hỏi đáp trong quá trình  tìm hiểu bài. Thầy nêu câu hỏi – trò trả lời, sau đó thầy giảng cứ như vậy gây ra  sự  nhàm chán. Nhiều câu hỏi dài với nhiều yêu cầu nhưng giáo viên không tách  ra thành nhiều ý nên học sinh khó hiểu. * Về học sinh. ­ Các em chưa có kĩ năng đọc thầm để hiểu bài theo đúng nghĩa của nó, kĩ  năng đọc thầm để hiểu bài, trả lời câu hỏi còn chậm và nhiều khi đọc nhưng lại  đọc cho có, đọc theo ý thích của bản thân, tốc độ đọc thầm còn chậm. Khi học sinh trả  lời câu hỏi, nhiều em không có khả  năng tổng hợp và  diễn đạt nên thường trả lời câu hỏi theo cách nêu lại nguyên văn ý theo câu trong  đoạn văn hay đoạn thơ, không tóm gọn được theo ý hiểu của bản thân. ­ Khả năng cảm nhận cái hay, cái đẹp, cái gíá trị  nghệ  thuật của văn bản  còn  yếu. ­ Khả năng ghi nhớ bài học không sâu, học thuộc lòng còn chậm và nhanh   quên. * Nguyên nhân:  ­  Giáo viên chưa thực sự  thấy được  ưu điểm của hình thức đọc thầm  trong việc dạy tìm hiểu bài nên chưa thực sự quan tâm đến việc rèn kĩ năng đọc   thầm cho học sinh theo đúng cách. ­ Học sinh ít có ý thức rèn kĩ năng đọc thầm một cách đúng đắn; chưa tích  cực và chủ  động trong học tập; khả  năng phân tích, tổng hợp và diễn đạt còn  hạn chế. 1.2.3. Việc xây dựng kế hoạch dạy học: Nội dung kế hoạch dạy học gần giống như sách giáo viên và thiết kế  bài   dạy nội dung còn chung chung cho nhiều bài. Việc lập kế  hoạch dạy học còn mang nặng hình thức, chưa lột tả  được   thực chất của kế hoạch dạy học. Hình thức tổ chức và phương pháp dạy học được thể  hiện qua kế hoạch  dạy học hầu như  giống nhau, không có mấy thay đổi cho phù hợp với từng bài  để  đạt được mục tiều của bài học đó. Trong kế  hoạch dạy học chưa có định  hướng rõ ràng cho từng đối tượng học sinh. 6
  7. * Nguyên nhân: Nhiều khi, việc xây dưng kế hoạch dạy học chỉ để đối phó với  các đợt kiểm tra nên ít có gíá trị thực tế. ­ Giáo viên chưa có sự đầu tư hợp lí cho việc nghiên cứu bài, xây dựng kế  hoạch dạy học nên chất lượng kế hoạch dạy học chưa cao. 2, Kết quả thực trạng: 2.1. Tháng 9 năm học 2012, tôi đã tiến hành điều tra, dự giờ và thực hành dạy ở  lớp 5B Trường Tiểu học Đông Sơn (theo cách dạy như  trong thực trạng đã nêu  trên). Sau đó tôi tiến hành khảo sát chất lượng, cụ thẻ như sau: Sau khi học sinh lớp 5B, tôi  dạy thực nghiệm này học xong bài “ Bài ca   trái đất”( Tập đọc lớp 5 ­ tiết 8) tôi đã cho học sinh kiểm tra hai nội dung: Ví dụ:  Phần một: Đọc thành tiếng đối với học sinh khá, giỏi đọc cả bài, học sinh trung   bình đọc hai khổ thơ còn học sinh yếu đọc một khổ thơ. Phần hai:   Đọc ­  hiểu Câu 1: Nối khổ thơ với ý nghĩa của nó cho phù hợp. a. Khổ thơ thứ nhất                           Cần giữ cho trái đất bình yên (1) b. Khổ thơ thứ hai                             Trái đất thật là tươi đẹp (2) c. Khổ thơ thứ ba                               M ọi ng ười trên trái đất đều đáng quí   (3) Câu 2:  Câu thơ “ Màu hoa nào cũng quý cũng thơm!” trong khổ thơ thứ hai nói  gì? Chọn câu trả lời đúng nhất. a. Tất cả các loài hoa đều đẹp, đều đáng quý. b. Con người ở tất cả các màu da đều đẹp. c. Trẻ em trên thế giới dù khác màu da đều đáng yêu đáng quý. Câu 3: Hình  ảnh “Tiếng hát, tiếng cười” có ý nhĩa gì? Chọn câu trả  lời đúng  nhất. a. Trái đất hòa bình. b. Con người sống bình yên vui vẻ. c. Trái đất hòa bình, con người sống bình yên vui vẻ. Câu 4: Chúng ta phải làm gì để giữ bình yên cho trái đất? * Cách đánh giá: Phần 1: Đọc thành tiếng (5 điểm) ­ Đọc đúng (sai không quá 4 tiếng) (1,5 điểm). ­  Đọc lưu loát, trôi chảy bài thơ, ngắt nghỉ hơi giữa các dòng thơ, cụm từ;  nhấn giọng ở các từ, gợi tả, gợi cảm. (1,5 điểm) ­ Đọc diễn cảm và thuộc lòng một khổ  thơ  (HS yếu) hai khổ  thơ  (HS  trung bình); học sinh khá, giỏi đọc cả bài. (2 điểm) 7
  8. Phần 2: Đọc – hiểu (5 điểm) Câu 1: (1 điểm): Nối đúng: a,2 ; b,3 ; c,1 (nối sai 1 ý thì trừ 0,3 điểm). Câu 2: (1 điểm): Khoanh vào ý c. Câu 3: (1 điểm): Khoanh vào ý c. Câu 4: (1 điểm): Học sinh nêu được ý có nội dung: chúng ta phải cùng nhau  chống chiến tranh xây dựng một thế  giới hòa bình. Chỉ  có hòa bình, tiếng cười   mới mang lại sự bình yên, sự trẻ mãi không già cho trái đất. * Kết quả khảo sát:  Qua kiểm tra 25 em, tôi đã tổng hợp số em chưa đạt yêu  cầu về mặt kiến thức, kĩ năng như sau: Kiến thức, kĩ năng cần đạt Số học sinh chưa đạt yêu cầu Tỉ lệ Đọc đúng 4 16% Đọc lưu loát, trôi chảy 7 28% Đọc diễn cảm 10 40% Học thuộc lòng 5 20% Đọc – hiểu (hiểu ND bài) 6 24% ­ Kết quả kiểm tra chất lượng cụ thể như sau: Loại giỏi Loại khá Loại trung bình Loại yếu Số  Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ lượng 6 24% 6 24% 10 40% 3 12% 2.2. Nhận xét chung: Qua bài kiểm tra, khảo sát chất lượng, tôi nhận thấy: * Về đọc thành tiếng: Học sinh được luyện đọc thành tiếng nhiều, giáo viên đã chú ý sửa lỗi   phát âm để học sinh đọc đúng là chủ  yếu nhưng một số học sinh vẫn bỏ sót từ  hoặc thêm từ khi đọc, nhiều tiếng có phụ âm đầu là r,tr, s HS đọc vẫn còn chính  xác. Nhiều em chưa làm chủ  được tốc độ  đọc nên còn đọc luyến thoắng, đọc  nhanh. Học sinh đọc diễn cảm còn yếu; nhiều em ngắt nghỉ không hợp lí, nhấn  giọng tùi tiện, giọng đọc không thay đổi cho phù hợp nội dung từng đoạn. Học sinh đọc thuộc lòng theo sự  ghi nhớ  máy móc, nên nhiều khi nhầm  lẫn giữa các đoạn. * Về đọc ­  hiểu:  ­ Phần bài tập trắc nghiệm vẫn có một số  em làm sai, do hiểu bài không  sâu. 8
  9. ­ Phần bài tập tự  luận: Đa số  học sinh diễn đạt dài dòng chủ  yếu là nêu   lại nguyên văn, không tóm tắt ý theo cách hiểu của mình. Học sinh tiếp nhận trí thức bằng hình thức bên ngoài, ít hiểu sâu bản chất  bên trong nên khả  năng cảm thụ  văn còn kém ngay cả  đối tượng học sinh khá   giỏi. *Nguyên nhân: Giáo viên chưa chú ý nhiều đến rèn cho học sinh làm chủ tốc độ đọc, cách   nhấn giọng và cách ngắt giọng hợp lí theo logic và theo giá trị biểu cảm. Hình thức và phương pháp dạy học: giáo viên chưa linh hoạt trong việc   đổi mới phương pháp và hình thức tổ  chức dạy học. Đối tượng học sinh yếu,  trung bình  ít được hoạt động. Thời gian dành cho luyện đọc diễn cảm ít nên phần đọc diễn cảm có ít em  được thể hiện đọc trước lớp, chỉ chủ yếu là học sinh khá giỏi. Phần tìm hiểu bài, giáo viên nói và giảng hơi nhiều (sợ  học sinh không  hiểu) Chưa phát huy được tính tích cực trong học tập, chưa huy động vốn kiến thức  tổng hợp của nhiều học sinh. Qua thực trạng dạy học tập đọcvà qua kiểm tra kĩ năng đọc thành tiếng,   đọc hiểu của học sinh tôi nhận thấy: Các kĩ năng đọc của học sinh còn chưa tốt,   nhất là kĩ năng đọc diễn cảm, khả năng hiểu bài chưa sâu, các giờ học chưa thực   sự phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh…Để  khắc phục  tồn tại trên, giúp các em học tốt hơn, tôi đã nghiên cứu, áp dụng vào thực tế  giảng dạy và tìm ra “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân  môn tập đọc lớp 5” để  giúp  học sinh rèn các kĩ năng đọc tốt hơn, đảm bảo  mục tiêu giờ  tập đọc. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số  kinh nghiệm của bản   thân khi dạy phân môn tập đọc cho học sinh lớp 5. PHẦN II :  GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CÁC GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN: Qua điều tra, trực tiếp giảng giạy lớp 5 tôi đã vận dụng một số giải pháp  nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập đọc. Sau khi nghiên cứu, áp  dụng kiểm tra kết quả học tập của học sinh, tôi thấy chất lượng đọc thành tiến  và đọc hiểu của học sinh đã có nhiều chuyển biến và được nâng lên rõ rệt. Sau  đây là một số giải pháp cụ thể: 1. Trước hết giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài đọc trong sách giáo  khoa, hiểu ý đồ của tác giả, để nắm bản chất của mỗi dạng kiến thức học sinh   phải nắm được, từ  đó xây dựng kế  hoạch dạy học mang tính thiết thực. Dự  đoán các tình huống sư  phạm có thể  xảy ra và dự  đoán những lỗi học sinh   thường mắc phải ­ cách xử lí các tình huống đó. Điều giáo viên cần nhớ “Muốn   9
  10. học sinh đọc tốt, hiểu bài tốt, vận dụng tốt thì trước tiên giáo viên phải đọc tốt,   thiếu hiểu văn bản theo cách hiểu của đối tượng học sinh lớp 5 và tìm cách dạy  hợp lí để học sinh đạt được điều đó”. 2. Cần linh hoạt sử  dụng các phươn pháp dạy học tích cực, áp dụng phù  hợp với đặc điểm của lớp mình đang trực tiếp giảng dạy để rèn kĩ năng đọc cho   học sinh, từ  đó tìm ra những điểm yếu của học sinh để  chú trọng rèn luyện.  Thường xuyên quan tâm, phụ  đạo cho học sinh yếu, bồi dưỡng thêm cho học   sinh khá giỏi để  nâng cao chất lượng đại trà cũng như  chất lượng mũi nhọn.  Cần rèn cho học sinh có các kĩ năng đọc một cách linh hoạt, sáng tạo phù hợp  với từng dạng văn bản đọc khác nhau. 3. Khi rèn các kĩ năng đọc (đọc thành tiếng cho đến đọc hiểu) giáo viên  cần đổi mới hình thức dạy học sao cho linh hoạt nhưng cần chú trọng đến hình  thức luyện đọc các nhân để rèn luyện uốn nắn cho từng học sinh; kết hợp hình  thức đọc theo nhóm, theo cặp để  học sinh được đọc nhiều và giúp đỡ  nhau  luyện đọc trong lớp học, có thể xen kẽ hợp lí việc đọc đồng thanh (khi thật cần   thiết) để tạo không khí lôi cuốn những học sinh yếu, học sinh còn rụt rè tham gia  vào các hoạt động đọc. Bước luyện đọc diễn cảm có thể giảm yêu cầu đối với  học sinh học đại trà (chỉ tập trung luyện đọc một đoạn)  4. Để phần tìm hiểu bài thực sự phát huy được tính tích cực của học sinh,   giáo viên cần chú ý thay đổi hình thức học (cá nhan, nhóm, cặp, cả lớp). Đối với  những câu hỏi mở, những câu hỏi có nhiều hướng trả  lời, câu hỏi tổng hợp  nhiều kiến thức, giáo viên nên sử dụng hình thức học nhóm để các em phối hợp,   bổ  sung hoàn chỉnh câu trả  lời đúng, điều đó cũng có nghĩa là giúp các em huy  động vốn kiến thức của nhiều người tạo sự đoàn kết trong học tập. 5. Khi dạy, giáo viên cần tuân theo các nguyên tắc dạy học tập đọc đặc  biệt là tính vừa sức và phát huy tính tích cực của học sinh, luôn tạo ra sự  hứng   thú kích thích sự tìm tòi và đòi hỏi sự cố gắng phấn đấu cao của mỗi học sinh. 6. Phải phối hợp rèn kĩ năng đọc cho học sinh qua 2 hình thức đọc vì: Tập  đọc là phân môn thực hành và hai nhiệm vụ quan trọng nhất trong dạy tập đọc là  hình thành năng lực đọc: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, đọc trôi chảy), đọc  có ý thức (thông hiểu nội dung) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng đọc hình thành   trong hai hình thức đọc thành tiếng và đọc hiểu. Chính vì vậy mà khi dạy học   tập đọc giáo viên phải chú ý rèn luyện đồng thời cả  hai hình thức đọc này. Sự  hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ  có tác động tích cực đến những kĩ  năng khác. Đọc đúng là tiền đề  của đọc nhanh, cũng cho phép thông hiểu nội   dung văn bản. 7. Khi rèn kĩ năng đọc cho học sinh thông qua 2 hình thức này thường được   thực hiện đồng thời: Chẳng hạn, trong lúc bạn hay thầy (cô) đọc thành tiếng,  học sinh khác theo dõi nghĩa là các em đã sử  dụng kĩ năng đọc thầm, để  trả  lời  10
  11. câu hỏi của giáo viên nêu ra, cần có “lệnh” và yêu cầu cụ  thể  để  rèn cho học   sinh có thói quen đọc thầm từng câu, đoạn, hay cả bài có mục đích. 8. Rèn đọc thuộc lòng phải đạt được mục tiêu tích lũy trí thức và rèn kĩ   năng nhớ cho học sinh nhưng giáo viên cần lưu ý rèn cho học sinh sự ghi nhớ có  ý thức kết hợp ghi nhớ máy móc và ghi nhớ logic, tuyệt đối tránh rèn học thuộc   lòng qua một mình sự ghi nhớ máy móc. 9. Chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy, từ bước chuẩn bị cho đến tiết thực hiện   trên lớp. Thường xuyên tự  đánh giá hiệu quả  của giờ  dạy của bản thân qua  chính kết quả, chất lượng học tập của học sinh trong mỗi tiết để phát huy điểm   mạnh, khắc phục những hạn chế  từ  đó mà điều chỉnh phương pháp cũng như  hình thức tổ chức dạy học cho hợp lí. 10. Chú ý rèn các kĩ năng đọc cho học sinh một cách hài hòa, tìm biện pháp  cụ thể và thích hợp cho việc rèn từng kĩ năng đọc đó. II. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN 1. Chuẩn bị tốt cho giờ dạy:  Cần rèn cho học sinh thói quen đọc và chuẩn bị bài ở nhà đầy đủ. Giáo viên phải nghiên cứu sách tỉ  mỉ, chu đáo, phải đọc bài nhiều lần, để  đọc mẫu tốt và hiểu thấu đáo nội dung bài đọc. Giáo viên cần trả lời các câu hỏi   trong bài để xác định mục tiêu yêu cầu, nội dung và lựa chọn phương pháp cũng  như hình thức dạy một cách hợp lí: ­ Trong bài vừa đọc học sinh dễ  mắc những lỗi nào về  phát âm ? (Đó  thường là những tiếng khó, những chỗ ngắt nhịp khó, đặc biệt là câu dài). ­ Giọng đọc, ngữ  điệu chung của cả  bài, từng đoạn như  thế  nào? Đoạn  nào cần nhấn mạnh? Khi đọc diễn cảm cần bộc lộ cảm xúc gì? ­ Bài cần đọc trong thời gian bao lâu, những từ  ngữ  nào cần giải nghĩa,   những nội dung nào cần hướng dẫn tìm hiểu? ­ Chuẩn bị đồ  dùng dạy học phục vụ cho giờ dạy thành công (tranh, hình  ảnh, bảng phụ  ghi câu, đoạn văn cần luyện đọc…). Những nội dung cần tìm  hiểu của bài như từ, cụm từ, câu cần khai thác hay những tình ý của bài cần tìm  hiểu nên đánh dấu lại để tránh tình trạng bỏ sót khi lên lớp. Những nội dung trên được coi là mục đích để xây dựng hệ thống câu hỏi   cho giờ tập đọc. Cần xem xét hệ thống câu hỏi của sách giáo khoa để có sự điều   chỉnh phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Bám sát mục tiêu, lựa chọn bổ  sung lại hệ  thống câu hỏi để làm rõ cách đọc, nội dung nghệ thuật của bài. Dự  kiến trước câu trả lời và tình huống có thể xảy ra, cách giải quyết. 2. Biện pháp dạy đọc thành tiếng:  2.1. Luyện đọc đúng:  Luyện cho học sinh cách đọc đúng: nghĩa là các em cần tái hiện âm thanh  của văn bản đọc một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa,  11
  12. không sót tiếng. Đọc đúng phải thể  hiện đúng ngữ  âm chuẩn, tức là đọc đúng  chính âm. Đọc đúng bao gòm việc đọc đúng các âm, các thanh, nghỉ  ngắt hơi  đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu) (đọc đúng bao gồm một phần của đọc diễn cảm) 2.1.1. Rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị Tiếng Việt: ­ Đọc đúng các phụ  âm đầu: Ví dụ  có ý thức phân biệt để  đọc đúng các  tiếng có âm tr/ch, r/d/gi, s/x… ­ Đọc đúng các chính âm: Chẳng hạn các em cần có ý thức phân biệt âm  chính để không đọc “mua rượu” thành “mua riệu”, “củ kiệu” thành “củ kiu”… ­ Đọc đúng các thanh. Ví dụ: Khi đọc bài Người công dân số  Một (TV5 – tập II) cần hướng dẫn học   sinh đọc đúng đủ các tiếng, từ chỉ tên người và tên địa lí…như: phắc – tuya, Sa­ xơ­lu Lô­ ba, Phú Lãng Sa, tọa đăng… * Rèn đọc đúng bao gồm việc rèn đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi. Hướng   dẫn học sinh: cần phải dựa vào nghĩa vào quan hệ  ngữ  pháp giữa các tiếng, từ  để ngắt hơi cho đúng, không được ngắt tùy tiện theo cảm hứng của các nhân: ­ Khi đọc, không được tách một từ ra làm hai: chẳng hạn không được tách  từ: (bệnh viện, ngây thơ, truyền thuyết) Ví dụ: Không ngắt hơi “Nằm trong bệnh / viện nhẩm đếm từng ngày còn lại của   đời mình, cô bé ngây / thơ  tin vào một truyền / thuyết nói rằng…” (bài Những   con sếu bằng giấy TV5) ­ Không tách từ chỉ loại với danh từ mà nó đi kèm, ví dụ không đọc:                                … Đến Việt Nam Để đốt những nhà thương, trường học         Giết những con / người chỉ biết yêu thương                                                                               (Ê­ mi­ li, con ...Tố Hữu – TV5) ­ Không tách từ  “là” với danh từ, từ  chỉ  quan hệ  đi liền sau nó, ví dụ  không đọc:                            Trái đất này là / của chúng ta. Ta là / nụ là / hoa của đất. (Bài ca trái đất – TV5) + Hướng dẫn học sinh cần dựa vào nghĩa và quan hệ  cú pháp để  ngắt nhịp cho  đúng, (Cần phân tính cả  cách ngắt đúng và cách ngắt sai để  học sinh hiểu, ghi   nhớ để lần sau không ngắt sai) Ví dụ cần ngắt các câu sau: Ngắt đúng:  ­ Ở đâu / tre cũng xanh tươi (Không ngắt “Ở đâu tre / cũng xanh tươi”) Ngắt đúng:  ­ Trái đất trẻ / của bạn trẻ năm châu. (Không ngắt: “Trái đất trẻ của / bạn trẻ năm châu” + Hướng dẫn học sinh nắm vững: Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu   như nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Đọc đúng ngữ điệu câu là cần  đọc lên giọng  ở  cuối câu hỏi, hạ  giọng  ở  cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù  hợp với tình cảm diễn đạt trong câu cảm. Với câu khiến cần nhấn giọng phù  12
  13. hợp để  thấy rõ  các nội dung khiến khác nhau. Ngoài ra còn phải hạ  giọng khi  đọc lời giải thích của câu...Như  vậy, luyện đọc đúng đã bao gồm một số  tiêu  chuẩn của đọc diễn cảm nhưng chưa sâu. 2.1.2. Trình tự luyện đọc đúng:  Rèn kĩ năng đọc đúng tiếng, từ, câu, đoạn cho  đến cả bài. Trước khi lên lớp, giáo viên phải dự  tính để  ngăn ngừa các lỗi khi rèn kĩ   năng đọc đúng. Tùy đối tượng học sinh, tùy vào từng bài, tùy vào phương ngữ  từng địa phương, giáo viên xác định các lỗi phát âm mà học sinh lớp mình dễ  mắc phải để chọn ra các tiếng, từ, cụm từ câu khó để học sinh luyện đọc. Khi học sinh đọc, giáo viên phát hiện, tổng hợp,lựa chọn và ghi ra mỗi số  lỗi sai phổ biến mà học sinh mắc phải để học sinh luyện đọc  các tiếng, từ khó   này. Với những câu mà giáo viên dự tính sẽ có nhiều em đọc sai, ngắt nghỉ không  đúng chỗ thì cần được ghi ra bảng phụ, cho học sinh lên đánh dấu chỗ ngắt nhỉ,   nhấn giọng sau đó cho các em luyện đọc câu rồi mới tiếp tục tiến hành đọc theo   đoạn, bài. Điều quan trọng là giáo viên biết nghe học sinh đọc để nắm được trình độ  kĩ năng đọc của từng em, từ  đó có định hướng, hướng dẫn cách phát âm, ngắt  nghỉ sao cho thích hợp. 2.2. Luyện đọc thanh: 2.2.1.   Đọc thanh: (Còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy), không phải là đọc liến   thoắng. Đọc thanh là nói đến chất lượng đọc về  tốc độ  nên đặt ra ngay từ  khi  các em luyện đọc đúng. 2.2.2. Biện pháp luyện đọc nhanh: + Giáo viên giúp học sinh hiểu rõ; ­ Tốc độ đọc phải đi song song với việc tiếp nhận có ý thức bài đọc. ­ Đọc nhanh chỉ  thực sự  có ích khi nó không tách rời việc đọc với việc  hiểu rõ điều được đọc. ­ Cần rèn cho học sinh khi đọc cho người khác nghe thì người đọc phải  xác định tốc độ đọc nhanh nhưng để cho người nghe hiểu kịp. Vì vậy, đọc nhanh  không phải là đọc luyến thoắng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc   thành tiếng trùng với tốc độ  của lời nói. Khi đọc thầm thì tốc độ  sẽ  nhanh hơn   nhiều. + Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng cách: ­ Nghe bạn đọc, nhận xét và rút kinh nghiệm. ­ giáo viên đọc mẫu để  học sinh đọc theo tốc độ  đã định. Đơn vị  để  đọc  nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài. + Giáo viên hướng dẫn học sinh điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp   đọc. Khi đọc tiếp nối bạn trên lớp, đọc thầm nên cần có sự  kiểm tra của giáo   viên ,của bạn để điều chỉnh tốc độ đọc cho phù hợp. 13
  14. + Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng cho trước và  dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. (Tốc độ như thế nào còn phụ thuộc vào độ  khó của bài đọc), từ đó điều chỉnh tốc độ đọc cho học sinh một cách hợp lí. 2.3. Luyện đọc diễn cảm. 2.3.1. Đọc diễn cảm: Đọc diễn cảm là dùng ngữ  điệu tái hiện cảm xúc của tác giả. Đó là việc  đọc thể hiện kĩ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ  giọng... để  biểu đạt đúng ý nghĩ và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời   biểu hiện sự  thông hiểu, cảm thụ  của người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn  cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao và chỉ thực hiện được trên cơ sở hiểu   nội dung bài đọc. Khi rèn đọc diễn cảm cho học sinh, giáo viên cần hướng dẫn để  các em   đọc  đúng giọng vui, buồn, giận dữ, trang nghiêm... phù hợp từng ý cơ  bản của   bài đọc, phù hợp kiểu câu, thể loại; đọc có cảm xúc cao, biết nhấn giọng từ ngữ  biểu cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả... Để  rèn kĩ năng đọc diễn cảm, cần phải rèn cho học sinh biết xác định  được chỗ  ngắt giọng (ở đây muốn nói đến kĩ thuật ngắt giọng biểu cảm), làm   chủ được tốc độ đọc (đọc nhanh, chậm, chỗ ngân hay là việc dãn nhịp đọc), làm  chủ  được cường độ  giọng đọc (đọc to hay nhỏ, nhấn giọng hay không) và làm  chủ ngữ điệu (độ cao của giọng đọc, lên giọng hay hạ giọng). 2.3.2. Biện pháp luyện đọc diễn cảm: * Giúp học sinh  thể  hiện cách ngắt giọng biểu cảm và cách ngắt   giọng logic. Ngắt giọng logic phụ  thuộc vào ý nghĩa và quan hệ  giữa các từ. Các dấu   ngắt câu cũng biểu hiện của ngắt giọng lôgic. Ngắt giọng biểu cảm là phương   tiện tác động đến người nghe. Ngắt giọng loogic thiên về  trí tuệ, ngắt giọng   biểu cảm thiên về  cảm xúc. Ngắt giọng biểu cảm là những chỗ  lắng, sự  im  lặng có tác dụng truyền cảm, góp phần tạo nên hiệu quả  nghệ  thuật cao, đó  cũng chính là ngắt giọng có ý đồ nghệ thuật. * Rèn cho học sinh kĩ năng làm chủ  tốc độ  đọc:   Vì tốc độ  đọc  ảnh  hưởng đến quá trình đọc diễn cảm, đặc biệt là chỗ  có thay tốc độ  đọc gây sự  chú ý, có gía trị biểu cảm tốt. Ví dụ:  Khi đọc bài thơ “Ê­ mi – li, con ...” có câu “Cha không bế con về  được   nữa” đọc chậm lại, nhịp giãn ra thì câu thơ có nhiều âm lượng sẽ đọng lại trong  lòng người đọc hơn là đọc với một tốc độ bình thường như những câu khác. Cần rèn cho học sinh thay đổi tốc độ đọc cho hợp lí dựa vào nội dung bài: Ví dụ: Khi đọc bài “Một vụ đắm tàu­ TV5 – Tập 1) học sinh cần đọc đoạn 1 với   giọng thong thả, tâm tình; đoạn 2 giọng đọc nhanh hơn để  thể  hiện rõ một tai  nạn đắm tàu bất ngờ ập đến. 14
  15. *   Rèn cho học sinh xác định ngữ  điệu đọc:  Học sinh phải xác định  được khi nào cần cao giọng, khi nào cần hạ giọng­ vì mỗi văn bản có ngữ điệu  riêng.    Giáo viên cần căn cứ  vào nội dung phong cách văn bản để  dẫn dắt, gợi   mở  học sinh tìm ra ngữ điệu đọc và tập thể hiện giọng đọc, từ  đó bước đầu ý   thức về cách đọc nhằm diễn tả nội dung văn bản đọc một cách tốt nhất. Ví dụ: Khi đọc bài thơ: “Nước chúng ta  Nước những người chưa bao giờ khuất Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất Những buổi ngày xưa vọng nói về. (Đất   nước   –   Nguyễn   Đình   Thi   –  TV5) Học sinh phải bắt được mạch cảm xúc của bài thơ  đó là lòng tự  hào về  đất  nước để đọc hai câu đầu vút lên cho hết chiều cao (giọng vang cao); đọc câu thứ  ba chậm, dãn nhịp để trải cho hết chiều rộng và đọc hạ giọng, giảm cường độ  để lắng cho hết chiều sâu của đất nước khi đọc câu thơ cuối. Ví dụ: Khi đọc bài (Một vụ đắm tàu – TV5 – Tập 2): Những câu miêu tả  nỗi sợ  hãi của hai bạn nhỏ   ở  đoạn 4 cần đọc giọng hồi hộp, lo sợ; đọc cao  giọng  ở  những tiếng kêu “Còn chỗ  cho một đứa nhỏ. Đứa nhỏ  thôi! Nặng lằm   rồi.” Ở đoạn 5, lời của Ma ­ ri ­ ô hét to “ Giu ­ li ­ ét – ta xuống đi! Bạn còn bố  mẹ.” Và hai câu kết đọc với giọng trầm lắng, bi tráng; lời của Giu – li – ét – ta   vĩnh biệt bạn, đọc với giọng nức nở, nghẹn ngào. Cần rèn cho học sinh cách đọc có nhấn giọng hợp lí theo các cách khác  nhau. (Những từ  nhấn giọng thường là những từ  gợi tả  gợi cảm, thể  hiện nội   dung tác phẩm). Muốn vậy học sinh phải hiểu nội dung đoạn, tìm được các từ  cần nhấn giọng. Ví dụ: Khi đọc đoạn giữa bài “Tre Việt Nam” từ “Yêu nắng nỏ trời xanh”   cho đến “có gì lạ đâu” cần nhấn giọng theo cách ngân dài những từ  ngữ khảng   định hoặc mang rõ sắc thái cảm xúc:  không đứng khuất mình, vần nguyên cái   gốc, đâu chịu mọc cong, lạ thường, có gì đâu để thể hiện rõ phẩm chất cao đẹp  của tre và cũng là của con người Việt Nam. Cần hướng dẫn để học sinh ghi nhớ: Chính nội dung bài  đọc đã quy định  ngữ  điệu của nó nên không thể  áp đặt sẵn giọng đọc  của bài, ngược lại điều  này phải là kết luận tự nhiên của học sinh đưa ra sau khi hiểu sâu sắc nội dung  bài đọc và biết cách diễn đạt thích hợp dưới sự  tổ  chức, hướng dẫn của giáo  viên. + Đối với văn bản nghệ  thuật: Khi luyện đọc hay, cần căn cứ  vào nội   dung phong cách văn bản để  dẫn dắc gợi mở học sinh tìm ra cách đọc, tập thể  hiện giọng   đọc từ  đó bước đầu ý thức được cách đọc để  nhằm diễn tả  nội   dung văn bản một cách tốt nhất. Đọc diễn cảm còn phụ  thuộc và cảm nhận  15
  16. riêng của các em nên giáo viên không nên áp đặt một cách khuôn mẫu cho tất cả  học sinh, mặt khác giáo viên còn cần khuyến khích cách đọc sáng tạo của mỗi   học sinh. + Đối với các văn bản khác: Giáo viên cần hướng dẫn HS xác định ngữ  điệu đọc sao cho phù hợp với mục đích thông báo (làm rõ những thông tin cơ bản  giúp người nghe tiếp nhận được vấn đề quan trọng, nổi bật trong văn bản) Phải khắc phục cách đọc thiên về  hình thức hoặc diễn cảm   “tùy tiện”  của học sinh. Nên thay đổi các hình thức đọc các nhân, cặp, nhóm và phải có  biện pháp  Kiểm tra, quán xuyến các hình thức đọc đó để  đạt được mục tiêu qua việc sử  dụng chúng với mong muốn nâng cao chất lượng rèn kĩ năng đọc.  Để  hình thành kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh, giáo viên cần:   Hướng dẫn cho học sinh hiểu rằng “đọc diễn cảm” không phải là đọc sao cho  “điệu”, thiếu tự nhiên, dựa vào ý thích chủ quan của người đọc. Đọc diễn cảm   phải là cách sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của tác giả qua bài đọc.   Học sinh phải hòa nhập được với bài văn, bài thơ... Khi có cảm xúc sẽ tìm thấy   ngữ  điệu thích hợp. Chính văn bản quy định ngữ  điệu cho cho chúng ta chứ  không phải chúng ta đặt ra ngữ điệu cho văn bản. ­ Để luyện đọc diễn cảm tốt cần rèn cho học sinh những kĩ năng sau: + Tập lấy hơi và tập thở: Biết thở  sâu  ở  chỗ  ngừng nghỉ  để  lấy hơi khi   đọc. + Rèn cường độ giọng đọc  ­ luyện đọc to vừa phải. + Luyện đọc chính âm thật chuẩn xác. + Tổ  chức cho học sinh tìm hiểu ý đồ  của tác giả, thảo luận tìm ra cách  đọc (giọng đọc như thế nào thì phù hợp? Nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Nghỉ  hơi như thế nào cho hợp lí? ...Nghĩa là thảo luận xem cần đọc như  thế  nào? Vì  sao lại đọc như thế?) Có thể phân vai để làm sống lại nhân vật nội dung của tác phẩm. + Theo dõi giọng đọc mẫu của giáo viên, giọng đọc của bạn để phân tích   tìm ra cách đọc đúng và hay. + Rèn đọc các nhân phải luôn có sự  đánh giá của nhóm, lớp và của giáo   viên. 2.4.  Biện pháp luyện đọc thuộc lòng: Học thuộc lòng là quá trình học sinh đọc văn bản, ghi nhớ  trong não từng   câu, chữ  rồi tái hiện lại dưới dạng hình thức âm thanh. Việc dạy học sinh học   thuộc lòng văn bản để  lưu giữ  lại những trí thức và việc làm rất cần thiết .   Những trí thức đã lưu giữ lại đặc biệt là những bài học thuộc lòng là bài văn thơ  có giá trị sẽ giúp cho học sinh tích lũy văn chương, bồi dưỡng năng lực cảm thụ  văn học cho các em. Đồng thời học thuộc lòng còn rèn luyện trí nhớ  cho học  sinh, dạy học sinh hi nhớ có phương pháp. 16
  17. Để rèn kĩ năng  học thuộc lòng phải rèn cho học sinh kĩ năng đọc hiểu bài   vì học thuộc lòng chỉ được thực hiện và ghi nhớ sâu trên cơ sở hiểu bài đã học.  Vì vậy không nên bắt học sinh học thuộc lòng cái  gì khác ngoài những cái đã  hiểu. Rèn học thuộc lòng phải rèn cho học sinh sự ghi nhớ có ý thức, phải phối   hợp ghi nhớ máy móc và ghi nhớ logic (ghi nhớ có ý nghĩ). Cần hướng dẫn học sinh ghi nhớ những từ ngữ quan trọng của câu đoạn,  những từ “chìa khóa” để học thuộc lòng nhanh và nhớ lâu. Thường xuyên kiểm tra đánh giá kết quả  học thuộc lòng của học sinh  bằng nhiều hình thức khác nhau. Bản thân học sinh tự  kiểm tra, kiểm tra trong   nhóm nhỏ, trong nhóm lớn (bạn kiểm tra), kiểm tra trước lớp (bạn và giáo viên  kiểm tra). 3. Biện pháp dạy đọc – hiểu Rèn kĩ năng đọc thầm rất quan trọng trong dạy đọc – hiểu. Nhưng trong   một Số  tài liệu dạy học cho rằng việc tổ  chức dạy học thành tiếng gọi là “luyện   đọc”. Nói như vậy, đọc đã bị thu hẹp nghĩa, chỉ còn ứng với hình thức đọc thành   tiếng. Từ  đây dẽ  dẫn đến một sai lầm trong thực tế  là giáo viên không chú ý  đúng mức đến luyện đọc thầm cho học sinh. Sự  thực thì đọc thầm có  ưu thế  hơn hẳn đọc thành tiếng  ở  chỗ  nhanh   hơn đọc thành tiếng từ 1,5 đến 2 lần. Nó có ưu thế hơn hẳn trongg quá trình tiếp  nhận, thông hiểu nội dung văn bản vì người ta không chú ý đến việc phát âm mà  chỉ  tập  chung để  hiểu nội dung điều mình đọc. Vì vậy, ngay từ  lớp 1 đã đọc   thầm và lên lớp 5 thì kĩ năng này ngày càng được củng cố  và nâng cao tốc độ  đọc. Để dạy đọc  ­ hiểu tốt cần thực hiện các việc sau: 3.1. Chuẩn bị cho việc đọc thầm  Cũng như  khi ngồi đọc thành tiếng, giáo viên phải rèn cho học sinh tư  thế  ngồi, đọc thầm phải ngay ngắn, khoảng cách giữa mắt và sách 30 – 35 cm.  Vì khi ngồi đọc không đúng tư  thế thì học sinh dễ  mệt mỏi dẫn đến tình trạng   chán học­ một yếu tố  ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp thu bài của học sinh  mà giáo viên chưa quan tâm đến nhiều. 3.2. Rèn kĩ năng đọc thầm: Kĩ năng đọc thầm phải được chuyển dần từ ngoài vào trong. Phải luyện  cho học sinh đọc thầm với tốc độ  nhanh và hiệu quả  cao (nắm bắt đúng, đủ  thông tin cơ bản, cảm thụ tốt văn bản nghệ thuật) đó là mục đích, là yêu cầu cơ  bản của hoạt động đọc nói chung. Để  thực hiện được điều đó, giáo viên phải nắm vững nội dung rèn kĩ  năng đọc  thầm không những ở khối lớp 5 mà còn ở khối lớp dưới để có hướng   phát triển và nâng cao cho các em. 17
  18. Ở  phần đọc thầm tìm hiểu theo yêu cầu cơ  bản (trả  lời câu hỏi), giáo  viên cần giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh nhằm định hướng rõ việc đọc thầm   và có biện pháp kích thích hoặc giúp đỡ các em thực hiện tốt. Khi nêu câu hỏi và   yêu cầu đọc thầm, giáo viên nên nêu câu hỏi trước khi học sinh đọc để các em có  định hướng đọc rõ ràng, đọc để làm gì và nhằm mục đính gì?  Tránh yêu cầu học  sinh đọc thầm trước sau đó giáo viên mới đưa ra lệnh (câu hỏi) sẽ  tạo cho học   sinh thói quen đọc thầm không có mục đích dẫn đến hiệu quả  đọc thầm không  cao. Ví dụ: Đọc đoạn văn hay khổ  thơ  nào? Đọc để  biết và hiểu, nhớ  hay suy nghĩ   trao đổi về vấn đề gì ? để từng bước hình thành cho học sinh thói quen tập trung  chú ý khi đọc thầm thu nhập thông tin và để cảm thụ văn bản nghệ thuật thì mới   nâng cao được hiệu quả của việc đọc thầm. ­ Đọc thầm (đọc lướt) để  nắm nội dung, tóm tắt ý hoặc chọn ý: Giáo  viên cần từng bước đề  ra nhiệm vụ  hoặc yêu cầu từ  dễ  đến khó dần để  học  sinh làm quen với cách đọc thầm ở từng khối, đặc biệt là cách đọc thầm nhanh,   đọc lứt toàn câu, đoạn, cả bài. Ví dụ: Đọc thầm khổ thơ thứ tư trong bài “Đất nước” (TV 5 – Tập 2) để  phát  hiện biện pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng. Đọc lướt đoạn 1 trong bài  “Hội thi nấu cơm ở Đồng Vân” (TV5­ tập 2) Và cho biết hội thi bắt nguồn từ đâu ? Đọc thầm cả  bài   “Chuyện một khu vườn nhỏ” và cho biết tác giả  muốn nói với chúng ta điều gì? + Cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh bằng cách quy định  thời gian đọc thầm cho từng đoạn và bài. Học sinh đọc song thì báo cho giáo viên  biết từ đó giáo viên nắm được và điều chỉnh tốc độ đọc thầm cho hợp lí. * Có hai hình thức kiểm tra đọc thầm: + Kiểm tra trực tiếp: Học sinh đang đọc thầm yêu cầu các em đọc to lên  để xem các em đã đọc đến đâu và yêu cầu giơ tay khi đã đọc hết đoạn nào đó. + Kiểm tra qua đọc – hiểu: Vì mục đích của đọc thầm  là hiểu bài nên   việc kiểm tra kết quả hiểu bài đọc của học sinh  là hình thức kiểm tra đọc thầm   quan trọng hơn. Trước khi học sinh đọc thầm giáo viên nên đưa ra mục đích  đọc  thầm, sau khi học sinh đọc thầm, yêu cầu các em trả  lời câu hỏi về  nội dung  hoặc nghệ thuật của bài để kiểm tra. 3.3. Hướng dẫn tìm hiểu bài: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài là giúp các em hiểu nghĩa của từ, cụm   từ, câu, đoạn, hiểu nội dung, giá trị  nghệ  thuật của bài. Vì vậy, học sinh tìm  hiểu bài nhằm mục đích trau dồi kĩ năng đọc – hiểu nắm bắt thông tin góp phần   nâng cao năng lực cảm thụ tạo cơ sở cho học sinh luyện đọc diễn cảm. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài bắt đầu từ  việc giải nghĩa từ: Để  hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài đạt kết quả tốt, ngay từ khi yêu cầu học sinh   18
  19. tiếp nhận văn bản nhằm mục đích đọc đúng (luyện đoc), giáo viên cần giúp các  em hiểu nghĩa một số  từ  ngữ  có tác dụng góp phần năng cao kĩ năng đọc –  hiểu( Lưu ý  không những từ  ngữ được chú giải trong sách giáo khoa cả  những   từ ngữ phổ thông   Học sinh địa phương chưa quen biết   hay là những từ  ngữ  đóng vai trò quan   trọng để giúp học sinh hiểu nội dung bài (từ khóa) Ở  phần giúp học sinh hiểu từ, giáo viên nên sử  dụng nhiều cách giải   nghĩa từ khác nhau để  học sinh có hứng thú tìm hiểu nghĩa từ  và để  các em ghi  nhớ  lâu, giúp các em làm phong phú thêm vốn từ Tiếng Việt như: giải nghĩa từ  trong văn cảnh, đặt câu; giải nghĩa bằng cách thay thế  bằng từ đồng nhĩa, từ trái   nghĩa; giải nhĩa bằng cách liên tưởng, tưởng tượng hay giải nghĩa bằng trực  quan... Việc chọn từ nào để giải thích phụ thuộc  nhiều vào đối tượng học sinh  (ở địa phương nào, thuộc dân tộc nào...), phụ thuộc vào nội dung  của từng bài.  Giáo viên phải hiểu biết về từng địa phương cũng như  có vốn từ của tiếng mẹ  đẻ để chọn từ giải thích cho phù hợp đồng thời phải chuẩn bị để  giải thích cho  học sinh về bất cứ từ nào trong bài mà các em yêu cầu. Để  hiểu và nhớ  những gì được đọc cần giúp cho học sinh “không xem   tất cả các từ trong văn bản đều quan trọng như nhau mà cần sàng lọc để giữ lại  những từ  “chìa khóa”    những nhóm từ  mang ý nghĩa cơ  bản. Đó là những từ  giúp ta hiểu nội dung  của bài, những từ  dùng “đắt” tạo nên giá trị  nghệ  thuật   của bài. Ví dụ: Trong bài “Người công dân số Một”, nếu học sinh không hiểu từ  “ngọn  đèn” cả nghĩa đen và nghĩa bóng thì không thể hiểu tại sao anh Thành lại nói với anh Lê “Sẽ  có một ngọn đèn khác anh à”,”ngọn đèn”  ở  đây   là ánh sáng của  đường lối mới. Giáo viên cần có biện pháp để  giúp học sinh phát hiện ra những từ  có  tín hiệu nghệ thuật; đó là tìm những từ giầu màu sắc biểu  cảm như các từ láy,  từ nhiều nghĩa, những từ mang nghĩa bóng những từ có sự chuyển nghĩa của từ. Ví dụ: Cần có bài tập để giúp học sinh phát hiện ra nghĩa của từ  “vàng” đã làm   nên cái hay của câu thơ “Hạt vàng làng ta” (Hạt gạo làng ta­ TV5 ­ Tập 2)  Tiếp đó cần hướng dẫn học sinh phát hiện ra những câu quan trọng của  bài những câu nêu ý chung của bài. Hướng dẫn học sinh phát hiện ra những hình  ảnh chi tết nghệ  thuật tiêu biểu nhất. Cần tìm được những mối liên hệ  bên   trong của văn bản để thấy ý nghĩa hàm ẩn của nó chứ không phải chỉ có ý nghĩa  biểu hiện. Tức là cần dạy cho học sinh biết đọc giữa các hàng chữ. Ví dụ: Vì sao chú Mo­ri – xơn lại dặn con nói với mẹ “Cha đi vui xin mẹ đừng   buồn” vì chú muốn động viên vợ con bớt đau buồn trước sự ra đi của chú. Chú   ra đi thanh thản tự nguyện vì lí tưởng cao đẹp. 19
  20. Có thể tùy từng bài, tùy từng lớp mà có biện pháp dạy đọc – hiểu khác  nhau. Dựa vào hệ thống câu hỏi cuối bài giáo viên có thể xây dựng một số kiểu   câu hỏi đọc – hiểu cho từng đối tượng học sinh   lớp mình cho phù hợp. Hệ  thống câu hỏi có thể là các dạng sau:  + Câu hỏi yêu cầu phát hiện từ quan trọng, từ các em không hiểu nghĩa. + Câu hỏi yêu cầu phát hiện và giải nghĩa từ  ngữ  quan trọng, từ  “chìa  khóa” của bài. + Câu hỏi làm bộc lộ  giá trị  của từ  dùng “đắt” trong bài (thường dùng   cho học sinh khá, giỏi để bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học) + Câu hỏi yêu cầu học sinh phát hiện chi tiết, những hình ảnh đẹp của  bài         + Câu hỏi yêu cầu tìm hiểu nội dung của từng đoạn.     + Câu hỏi yêu cầu tìm hiểu và khái quát ý của từng đoạn, bài. Vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học và thay đổi hình thức tổ chức dạy học   khác nhau để tạo điều kiện cho học sinh học tập một cách tích cực mói nâng cao  được chất lượng dạy học. Những câu hỏi đơn giản nên sử  dụng phương pháp   hỏi đáp hoặc đàm thoại; những câu hỏi khó hoặc câu hỏi mở nên sử  dụng hình   thức thảo luận nhóm, cặp; những câu hỏi có nhiều hướng trả  lời nên sử  dụng  trò chơi theo kiểu bài tập trắc nghiệm... Tuy nhiên giáo viên không được sử  dụng tùy tiện phương pháp và hình thức dạy học mà phải căn cứ vào bài cụ thể  để lựa chọn. Ví dụ: Với câu hỏi “Tại sao tác giả lại gọi là hạt vàng làng ta?” , giáo viên có  thể  sử  dụng hình thức thảo luận nhóm để  thu được kết quả  cao hơn, vì đây là   câu hỏi đòi hỏi sự tư duy, suy luận logic của học sinh. Trong quá trình tìm hiểu bài, giáo viên cần rèn cho học sinh cách trả lời và  diễn đạt ý mình muốn nói theo cách hiểu của bản thân một cách ngắn gọn, tránh  tình trạng nêu câu trả  lời theo nguyên văn câu, đoạn trong bài. Để  thực hiện  được điều này, giáo viên phải rèn cho học sinh kĩ năng phân tích và tổng hợp.  Sau câu trả lời của học sinh, giáo viên phải kết luận và chốt ý thật ngắn gọn và  súc tích. * Giáo viên cần đặc biệt khéo léo trong việc nhận xét khi có học sinh trả  lời sai hoặc chưa đầy đủ, nên tìm cái đúng trong câu sai đó cho dù là nhỏ  để  khuyến khích động viên học sinh hoặc định hướng gợi mở để các em có câu trả  lời đúng, từ đó giúp các em tự nhận ra cái sai của mình, qua đó giúp các em tự tin   và trả lời tốt hơn  ở các lần sau, tránh để các em mặc cảm, tự ti không dám phát  biểu ý kiến trả lời câu hỏi ở các lần sau. *Những điểm cần lưu ý khi dạy đọc – hiểu một  bài thuộc phong cách   ngôn ngữ văn chương. Giáo viên phải nắm được đặc trưng của ngôn ngữ  văn chương để  giúp  học sinh tiếp nhận được vẽ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp của cách nói văn chương,   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2