intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5

Chia sẻ: Sinh Sinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

52
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Học xong chương trình Tiểu học các em không những phải đọc được lưu loát mà các em phải biết đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Song thực tế hiện nay, học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng còn mắc rất nhiều lỗi trong khi đọc như: Đọc chưa đúng chính âm, trọng âm, ngắt nghỉ câu văn chưa đúng, chưa làm chủ được về cao độ, trường độ...đọc chưa lưu loát, chưa hay và chưa biết cách đọc diễn cảm. Học sinh chưa làm chủ được mặt âm thanh của ngôn ngữ nên chưa sử dụng ngôn ngữ một cách có hiệu quả. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng trên? Làm thế nào để khắc phục tình trạng này? Tham khảo sáng kiến kinh nghiệm để biết thêm chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5

  1. PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ   I. LỜI MỞ ĐẦU:           Tiếng Việt là một môn học chiếm nhiều thời lượng trong chương trình  bậc Tiểu. Nhằm hình thành và phát triển các kĩ năng sử dụng tiếng việt như:  nghe, nói, đọc, viết. Học tốt môn Tiếng Việt nó là phương tiện giúp các em  học tốt các môn học khác. Tập đọc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ   năng đọc, một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc tiểu học.         Học xong chương trình Tiểu học các em không những phải đọc được  lưu loát mà các em phải biết đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Song thực tế  hiện nay, học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng còn mắc rất   nhiều lỗi trong khi đọc như: Đọc chưa đúng chính âm, trọng âm, ngắt nghỉ câu  văn chưa đúng, chưa làm chủ được về cao độ, trường độ...đọc chưa lưu loát,  chưa hay và chưa biết cách đọc diễn cảm. Học sinh chưa làm chủ  được mặt   âm thanh của ngôn ngữ  nên chưa sử  dụng ngôn ngữ  một cách có hiệu quả.  Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng trên? Làm thế nào để khắc phục tình  trạng này? Đó chính là nỗi băn khoăn, trăn trở  của các nhà quản lý giáo dục,  của các giáo viên trực tiếp giảng dạy. Bản thân tôi, là một giáo viên được   phân công phụ  trách lớp 5, qua thực tế  giảng dạy, tôi càng ý thức được tầm   quan trọng của phân môn Tập đọc trong mục tiêu của môn Tiếng Việt. Bên  cạnh việc nghiên cứu, học hỏi để  không ngừng nâng cao về  trình độ, chuyên  môn nghiệp vụ, tôi còn dành nhiều thời gian để  tìm hiểu, rút kinh nghiệm và   vận dụng vào thực tế  dạy học Tập đọc với mong muốn cung cấp cho học  sinh được nhiều vốn kiến thức, giúp các em phát triển kĩ năng đọc một cách  tốt nhất. Từ  những lí do trên tôi chọn vấn đề  “Một số  biện pháp rèn đọc   diễn cảm cho học sinh lớp 5 ” để làm đề tài nghiên cứu của mình. II.CƠ SỞ THỰC TIỄN:        1.Về phía giáo viên:       ­ Các giáo viên dạy lớp 5 đều có trình độ  đào tạo đạt chuẩn và trên  chuẩn,  trình độ chuyên môn nghiệp vụ tương đối vững vàng.      ­ Một số đồng chí giáo viên được bố trí dạy lớp 5 liên tục trong nhiều   năm nên đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong quá trình dạy học.        ­   Một   số   giáo   viên   phát   âm   chưa   chuẩn   (Phát   âm   theo   tiếng   địa  phương), đọc diễn cảm chưa tốt, chưa thể hiện chính xác nội dung văn bản  theo yêu cầu của bài tập đọc.       ­ Giáo viên chưa biết phân loại nội dung các bài tập đọc thành các dạng  văn bản khác nhau để  hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm: giọng đọc   1
  2. truyện khác với kịch, thơ  lục bát với thơ  tự  do, văn miêu tả  khác với văn kể  chuyện...          ­ Giáo viên chưa biết cách hướng dẫn cách ngắt nhịp của câu văn dài,   khó, về  cao độ, trường độ, diễn biến tâm lý của các nhân vật trong bài tập   đọc...           ­ Chưa biết cách sửa lỗi phát âm sai tiếng địa phương cho HS.   2. Thực trạng của việc đọc diễn cảm của học sinh lớp 5C:         2.1. Thuận lợi.            Phần lớn các bài  tập đọc (bài văn, bài thơ, kịch, truyện, ca dao, tục  ngữ) đưa vào chương trình sách Tiếng Việt 5 đều phù hợp với tâm lý lứa tuổi  và vừa sức đối với học sinh. Hệ thống bài học được nâng dần từ dễ đến khó.  Các bài được tuyển chọn vào chương trình phần lớn là viết cho thiếu nhi có  chất lượng cao về nghệ thuật được sắp xếp theo mười chủ điểm: Việt Nam   Tổ  quốc em, Cánh chim hoà bình, Con người với thiên nhiên, Giữ  lấy màu   xanh, Vì hạnh phúc con người, Người công dân, Vì cuộc sống thanh bình, Nhớ  nguồn, Nam và nữ, Những chủ nhân tương lai.        Trình bày rõ kiến thức cơ  bản về Tiếng Việt, đảm bảo tính khoa học,  hệ thống và dễ hiểu đối với học sinh Tiểu học.         Số lượng các bài tập đọc phong phú, đa dạng, hay về nội dung, hấp dẫn   về hình thức, có hiệu quả thiết thực và được sắp xếp hợp lý nhằm giúp cho   giáo viên và học sinh dễ dạy, dễ học.         2.2. Khó khăn:   Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy thực trạng của việc đọc diễn  cảm của các em học sinh như sau:  ­ Hầu hết các em chỉ mới dừng lại ở mức độ đọc thông thạo, đọc liếng  thoắng, giọng đọc đều đều chứ chưa chú ý đến cao độ, trường độ, cách ngắt  nhịp, các em còn ngắt hơi tuỳ  tiện do chưa có ý thức tự  giác trong quá trình   luyện đọc nên HS đọc chưa hay, chưa diễn cảm. ­ Các em thường bắt chước giọng đọc mẫu của thầy cô, chưa biết phân  tích nội dung bài tập đọc để  tìm ra cách đọc đúng, đọc sáng tạo theo ý chủ  quan của mình trong quá trình luyện đọc.  ­ Nhiều em còn phát âm sai nhất là những từ  ngữ  do  ảnh hưởng của  tiếng địa phương.  ­ Việc hiểu và giải nghĩa từ, cảm thụ và hiểu kĩ nội dung văn bản còn  hạn chế, chưa phân biệt được giọng đọc diễn cảm giữa thơ với văn xuôi, văn   miêu tả với văn tự sự ... hay trong cùng một thể loại thơ như: thơ lục bát khác  với thơ tự do...    ­ Đặc biệt với đối tượng học sinh miền núi như  học sinh lớp tôi phụ  trách (có tới 85% học sinh dân tộc), việc nghe và nói tiếng phổ thông còn hạn  2
  3. chế thì việc đọc diễn cảm tương đối khó. Thêm nữa chất giọng của các em bị  ảnh hưởng nhiều bởi sự giao thoa của ngôn ngữ địa phương và ngôn ngữ phổ  thông dẫn đến phát âm còn chưa đúng chính âm. Ngay cả  cha mẹ  là người   thân của các em trong từng câu nói, câu viết hay đọc bài thơ, bài văn thì đọc   diễn cảm còn rất hạn chế. Do vậy, đã ảnh hưởng không nhỏ  đối  víi lứa tuổi  các em, lứa tuổi hiếu động, hay bắt chước, có thói quen học vẹt, chưa ý thức  rõ về cái hay, cái đẹp trong ngôn ngữ.            Từ  thực trạng nêu trên tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đọc của   học sinh lớp 5C ngay từ tuần thứ 3, phân loại đối tượng như sau: Giỏi Khá Trung bình Yếu Sĩ số SL TL SL TL SL TL SL TL 21 1 4,7% 5 23,5% 10 48,3% 5 23,5% Nhìn vào bảng thống kê cho ta thấy học sinh biết cách đọc diễn cảm   thấp. Chủ yếu các em mới đọc được thông thạo. Học sinh đọc còn ê a, chưa  đạt theo chuẩn theo kiến thức và kĩ năng chiếm tỷ lệ cao 23,5%. 3
  4. PHẦN II: GI¶I QUYẾT VẤN ĐỀ   Từ  thực trạng nêu trên, để  nâng cao chất lượng dạy ­ học Tập đọc  nhất là phần đọc diễn cảm đạt kết quả tốt, tôi đã tích lũy, nghiên cứu, tìm tòi   và đưa ra một số biện pháp để dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 như sau:  I. Biện pháp 1: Sửa lỗi phát âm:             Nếu phát âm không đúng thì đọc sẽ  sai và không thể  đọc diễn cảm   được.  vì vậy, để  đọc diễn cảm được đầu tiên tôi phải quan tâm đến việc  hướng dẫn học sinh phát âm đúng chuẩn những âm khó đọc và đặc biệt những  âm mà địa bàn xã Thiết èng hay phát âm sai.         Qua thực tế giảng dạy lớp 5C tôi thấy. Trước hết giáo viên cần cho các  em thấy rõ tầm quan trọng của việc phát âm đúng. Có thể  đưa ra một số  truyện gây cười do phát âm sai như: Thưa cô cho em về lấy vợ (vở),…để các  em thấy tác hại của việc phát âm sai.         Một yếu tố rất quan trọng là giáo viên cần phát âm chuẩn xác ở tất cả  các giờ  học, trong mọi lúc, mọi nơi trong quá trình giao tiếp để  học sinh bắt   chước và làm theo. Giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo,   mọi cử  chỉ, hành động của giáo viên phải mẫu mực. Tuyệt  đối giáo viên  không được phát âm sai.         Giáo viên phải luôn luôn có ý thức, thói quen sửa lỗi phát âm cho học  sinh trong tất cả các môn học cũng như trong giao tiếp giữa cô và trò. Đặc biệt  cần chú ý đến tiết  tập đọc phân môn được đọc và phát âm nhiều. Khi thấy  học sinh phát âm sai giáo viên phải hướng dẫn tỉ mỉ, kiên trì giúp các em phát   âm đúng, đọc đúng. Khi học sinh có sự  tiến bộ  cần khen ngợi, động viên kịp   thời, khuyến khích các em cầu tiến. 4
  5.        Giáo viên cần tạo høng thú học tập cho các em không chỉ trong giờ  tập  đọc mà cả trong các giờ học khác hướng sự chú ý của các em vào việc nói và   trả  lời đúng chuẩn. Ngoài việc hướng dẫn trong giờ  học, trước lớp…Giáo   viên cũng cần phải giúp các em hiểu nghĩa của các từ  để  giúp cho việc phát   âm đúng, đọc đúng. Có đọc đúng thì mới viết đúng và đọc diễn cảm được.       Ví dụ:   Sửa lỗi phát âm  ở  các cặp phụ  âm và các cặp vần mà do  ảnh  hưởng của tiếng địa phương nên các em đọc sai: v –b, ch – tr, x – s, d – r – gi;   ong ­ ông.          ­ Bước đầu tiên giáo viên cho học sinh nêu các từ  trong bài mà các em  hay đọc sai, giáo viên có thể bổ sung thêm.         Ví Dụ: Khi dạy bài: “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” (TV5­ tập 1) học  sinh thường đọc sai phụ âm đầu:  bát các em hay đọc thành vát, vàng các em đọc thành bàng, chuối các em đọc  thành truối, trắng các em đọc thành chắng        Ví dụ: Khi học bài: “Những người bạn tốt” ( TV5­ tập 1) học sinh   thường đọc sai phụ âm:    xin các em hay đọc sin, sai các em hay đọc xai          Ví dụ: Khi dạy bài “ Tác phẩm của Si­ le và tên phát xít” ( TV5­ tập 1)  học sinh thường đọc sai các vần  ong (trong) các em hay đọc ông (trông), ông các em hay đọc ong         ­ Giáo viên phát âm mẫu từng tiếng. Tiếp đó giáo viên dùng lý thuyết  giảng giải cho học sinh cách phát âm, cho học sinh phát âm thử  từng âm, khi   được rồi mới ghép các phụ âm đó vào tiếng. Chẳng hạn:         + Âm v: là âm tắc vang nên khi phát âm đầu lưỡi thẳng.         + Âm b: là phụ âm sát vang nên khi phát âm đầu lưỡi cong, vòm miệng  trên hơi thoát ra ngoài.         + Âm tr: khi phát âm lưỡi cong và chạm nhẹ  vào hàm trên, độ  mở  của   miệng hơi rộng.        + Âm ch: khi phát âm lưỡi không cong hàm trên chạm vào lưỡi nhiều,  độ mở của miệng hẹp.       Tương tự  như  trên, giáo viên cũng hướng dẫn cách đọc, phân biệt các  cặp , x ­ s, d – r – gi cùng với các tiếng khó đọc để  hướng dẫn học sinh đọc  đúng, chính xác. Giáo viên cần trực tiếp hướng dẫn, sửa cho từng em phát âm  sai rồi yêu cầu em đó đọc nhiều lần.   Biện pháp 2: Nâng cao năng lực đọc của giáo viên:         Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt thì giáo viên phải đọc mẫu tốt   vì đọc mẫu của giáo viên có tác dụng truyền cảm qua kĩ thuật đọc, nó có tác   dụng rất quan trọng đến sự  rung động tâm hồn của các em về  một tác phẩm   văn chương. Để đọc mẫu đúng và hay giáo viên phải không ngừng rèn luyện   5
  6. để  nâng cao năng lực của mình, phải biết tự  điều chỉnh giọng đọc cho phù  hợp với mỗi một tác phẩm văn chương. Bắt đầu từ  việc giáo viên phải đọc  đúng chính âm, trọng âm, đọc đúng ngữ điệu, biết ngắt nghỉ đúng chỗ  và phù  hợp, biết thay đổi giọng linh hoạt tuỳ theo yêu cầu từng phần, từng nội dung   mà đọc lên giọng hay xuống giọng. Tuy nhiên cái hồn của bài đọc lại có khả  năng cảm nhận  ở  mỗi người một khác nhau, thể  hiện sự  rung động cá nhân  khác nhau. Việc đọc mẫu của giáo viên cũng vô cùng quan trọng nhưng không  phải là một cách áp đặt về  cách đọc diễn cảm của giáo viên để  học sinh có  thể  bắt chước theo một cách  ấy. Vì vậy, trong việc chuẩn bị  bài, giáo viên   phải xác định được cách đọc diễn cảm của mình. Trong gìơ học, sau khi trình  bày phần đọc mẫu giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết tại sao lại đọc  như  vậy và gợi ý để  học sinh trao đổi về  cách đọc diễn cảm của bài đọc.   Giáo viên không nên áp đặt sẵn giọng đọc của bài.       Vậy để  nâng cao năng lực đọc của giáo viên, mỗi chúng ta khi đứng  trước bất kì một văn bản nào hãy suy nghĩ, tìm tòi để tìm ra cách đọc hay nhất   để  hướng dẫn học sinh  đọc và thể  hiện   được cái hay  của tác phẩm văn  chương một cách trọn vẹn. Biện pháp 3: Rèn kĩ năng đọc đúng chính âm, trọng âm:   Đọc đúng chính âm, trọng âm là yêu cầu cần thiết của việc đọc diễn cảm.   Nhiều học sinh hay phát âm sai chính âm, trọng âm và sai thanh hỏi thành   thanh ngã, thanh ngã thành thanh hỏi. Vì vậy cần rèn luyện cho các em phát âm  theo chính âm (Bắc Bộ)        Ví dụ: Dạy học sinh phát âm đúng thanh hỏi, thanh ngã trong các tiếng:   xã ­ xả, ngả ­ ngã. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh đọc cao giọng ở tiếng có   thanh ngã, đọc thấp trầm giọng  ở  tiếng có thanh ngả  và quan trọng là cách  phát âm mẫu của cô giáo để học sinh phát âm sau.         Ngoài đọc đúng chính âm, học sinh cần phải đọc đúng trọng âm (độ  vang, độ  mạnh, khi phát ra tiếng). Nhiều khi học sinh thường đọc các hư  từ  với trọng âm tạo ra những cách đọc sai nghĩa hoặc đọc nhấn vào từng tiếng   đều đều như đọc chính tả, không diễn cảm được.            Ví dụ: Học sinh đọc câu:  Tàu đu đủ, chiếc lá sắn / héo lại mở  năm   cánh vàng tươi.  (Quang cảnh làng mạc ngày mùa) Tạo ra cách hiểu sai là:  Chiếc lá sắn bị  héo lại. Vì học sinh đọc nhấn vào tiếng sắn mà không nhấn  vào cả  2 tiếng sắn và héo. Vì thế  học sinh xác định chỗ  ngắt nghỉ  trong câu   văn chưa hợp lý dẫn đến chỗ  học sinh đọc sai. Đối với những trường hợp  trên, giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh nhấn giọng vào cả  2 tiếng  sắn   héo và không ngắt giọng giữa 2 tiếng.   Biện pháp 4: Phân loại các dạng văn bản để  lựa chọn giọng cho  phù hợp. 6
  7. 1. Đối với văn bản nghệ thuật:          Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua việc dẫn dắt, gợi  mở  để  học sinh thể  hiện tình cảm, thái độ  qua giọng đọc phù hợp với hình   ảnh, cảm xúc trong bài thơ, sự việc, tính cách nhân vật trong bài văn, vở kịch...   2. Đối với văn bản phi nghệ thuật:          Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định ngữ  điệu đọc sao cho phù hợp  với mục đích thông báo giúp cho người nghe tiếp nhận được những vấn đề  quan trọng trong văn bản.    Biện   pháp   5:   Giúp   học   sinh   hiểu   và   cảm   thụ   tác   phẩm   để   tìm  giọng đọc cho toàn bài:         Trước hết giáo viên cần cho học sinh tiếp xúc với tác phẩm, tìm hiểu  hoàn cảnh sáng tác của t¸c giả  và vị  trí của bài văn, bài thơ  trong sự  nghiệp   sáng tác của tác giả. Tiến tới phân tích tìm hiểu văn bản, ngữ nghĩa, thủ pháp  nghệ  thuật, bố  cục gồm mấy phần? Kết cấu như thế nào? Nội dung và chủ  đề  chứa chất lý lẽ, tư  tưởng tình cảm gì? Thái độ, hành động, tính cách của  nhân vật, tiến triển của sự việc có mối liên hệ ra sao với hoàn cảnh tâm lý xã  hội với điều kiện sống thực tại của mỗi con người. Sau khi giáo viên đã giúp  học sinh lãm rõ những câu hỏi trên thì chuyển qua đàm thoại bằng các câu hỏi   gợi mở  để  tìm ra những yếu tố  chính, từ  đó học sinh sẽ  xác định được cảm   xúc của bài: vui, buồn, tự hào, thiết tha, trang nghiêm, sâu lắng, ngợi ca... nhịp   điệu của bài: nhanh, hơi nhanh, chậm, hơi chậm... Có hiểu được nội dung tư  tưởng của tác giả  thì mới xác định được giọng đọc toàn bài (nếu là đọc thơ  phải chú ý đến tính nhịp điệu của ngôn ngữ  thơ  ca tức là chất nhạc của thơ,   tránh dừng lại máy móc cuối mỗi dòng).          Ví  dô:  Qua tìm hiểu bài thơ  “Chú đi tuần”, học sinh nắm được nội   dung chính của bài là: Các chiến sĩ công an yêu thương các cháu học sinh, sẵn   sàng chịu gian khổ, khó khăn để bảo vệ cuộc sống bình yên và tương lai tươi   đẹp của các cháu. Học sinh đã nắm được các hình  ảnh, các từ  ngữ, chi tiết  đẹp, những biện pháp nghệ  thuật đã sử  dụng trong bài thơ…Từ  đó, học sinh  sẽ tìm được giọng đọc toàn bài phải nhẹ nhàng, trầm lắng, trìu mến, thiết tha;   vui nhanh hơn ở ba dòng thơ cuối thể hiện mơ ước của người chiến sĩ an ninh  và tương lai tươi đẹp của các cháu và quyết tâm làm tốt nhiệm vụ  vì hạnh   phúc của trẻ thơ. Học sinh hiểu được nghĩa của từ thì mới không đọc sai theo   kiểu thường ngắt nhịp của thơ tự do (5,6,8 tiếng)                           Hải Phòng/ yên giấc ngủ say                             Cây/ rung theo gió, lá/ bay xuống đường…         Như  vậy, hiểu nội dung văn bản là rất quan trọng để  luyện đọc đúng,  luyện đọc diễn cảm.   Biện pháp 6: Rèn kỹ năng đọc đúng ngữ điệu: 7
  8.   1. Sắc thái giọng đọc:       Sắc thái giọng đọc là sự  thể hiện những nét khác nhau của thái độ  tình   cảm, tính cách của con người thông qua giọng đọc như: trang trọng, vui tươi,   nhí nhảnh, nhẹ nhàng, hóm hỉnh, gay gắt châm biếm, buồn rầu, bực tức. Đối   với học sinh lớp 5  thì khi đọc diễm cảm sắc thái giọng đọc chỉ đặt ra sau khi   tìm hiểu từng phần hoặc toàn bộ nội dung bài giáo viên không nên “chỉ thị”cho   các em về  giọng đọc buồn hay vui đoạn văn, bài văn. Sự  diễn cảm chỉ  đạt   được tính chất thật, sinh động và phong phú khi giáo viên gợi được ở học sinh   khả  năng truyền đạt cho người nghe những điều mà các em đã học. Việc  ấy   chỉ có thể thực hiện được với điều kiện là các em nhận thức sâu sắc nội dung   và biết lựa chọn cách diễn đạt thích hợp dưới sự hướng dẫn của giáo viên.         Giọng đọc của mỗi tác phẩm thường mang một sắc thái riêng biệt, đó là  kết quả  của việc tìm hiểu và cảm thụ  của học sinh. Trong một bài thơ, bài  văn giọng đọc của đoạn này có âm sắc khác giọng đọc của đoạn kia, lời của  nhân vật này đọc lên âm sắc khác với lời nói của nhân vật khác, ta có thể thấy   rõ điều đó qua ví dụ sau:       Ví dụ: Khi học sinh đọc diễn cảm lời đối thoại của các nhân vật trong bài “Thái sư Trần Thủ Độ” TV5 – tập2 như sau: ­ Đoạn 1 (Từ  đầu đến ông mới tha cho): câu giới thiệu về  Trần Tuur   Độ ­ đọc với giọng chậm rãi, rõ ràng. Chuyển giọng hấp dẫn khi kể sự kiện  Trần Thủ  Độ  giải quyết việc một người được Linh Từ  Quốc Mẫu xin cho   chức câu đương. Câu nói của Trần Thủ  Độ  (Ngươi có phu nhân xin…phải  chặt một ngón chân để phân biệt.) ­ đọc với giọng nghiêm, lạnh lùng. ­ Đoạn 2 (từ Một lần khác đến Nói rồi, lấy vàng, lụa thưởng cho.): lời  Linh Từ Quốc Mẫu ấm ức; lời Trần Thủ Độ ­ ôn tồn, điềm đạm. ­ Đoạn 3 (phần còn lại): lời viên quan tâu với vua – tha thiết; lời vua –   chân thành, tin cậy; lời Trần Thủ Độ  – trầm ngâm, thành thật, gây ấn tượng  bất ngờ về cách ứng xử của Trần Thủ Độ.       2. Đọc đúng chỗ ngắt:  Trong văn bản, những dấu câu thể hiện chỗ ngắt giọng khi đọc. Vì vậy   phải lưu ý học sinh khi đọc phải ngắt giọng ở các dấu câu (Ngắt giọng lôgic).  Dấu phẩy phải thể hiện bằng chỗ ngắt hơi; sau dấu chấm nghỉ hơi lâu hơn 2   lần so với ngắt hơi sau dấu phẩy; sau dấu chấm xuống dòng phải ngừng lâu   gấp đôi so với chỗ ngừng sau dấu chấm.  Bên cạnh những chỗ ngắt giọng được thể hiện trên chữ viết bằng dấu  câu thì một số  chỗ  ngắt giọng phản ánh các quan hệ  ngữ  pháp không được  biểu hiện gì trên chữ  viết. Thường thì học sinh hay đọc sai  ở  những câu văn   có cấu trúc phức tạp, câu dài nhưng không có dấu phẩy thể hiện chỗ cần ngắt   8
  9. hơi, đối với những trường hợp đó, giáo viên cần phải hướng dẫn HS ngắt,   nghỉ  hơi, theo cấu trúc ngữ pháp hay dựa vào ý nghĩa.   Ví dụ: Ta đọc liền mạch câu sau, nếu không ngắt giọng trong câu thì ý   tứ sẽ không rõ ràng “ Tôi dậy sớm ra sông lúc 5 giờ bắt đầu tắm.” Nếu ta đọc  có ngắt giọng như  sau thì quan hệ  ý nghĩa giữa các nhóm từ  trong câu mới  được hiểu chính xác “Tôi dậy sớm/ ra sông/ lúc 5 giờ  bắt đầu tắm.” Ví dụ:  Với câu sau giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc đúng là: “ Phải yêu mến   cuộc  đời  trồng trọt, chăn nuôi lắm/ mới khắc  được những tranh lợn ráy/ …/những đàn gà con/ tưng bừng như ca múa bên gà mái mẹ.”(Tranh làng Hồ)  TV5 – tập 2.  Trong thơ, học sinh cũng thường hay ngắt nhịp sai. Cần chú ý hướng   dẫn các em cách ngắt nhịp cho đúng. Thường thì với thơ 4 tiếng các em phải   ngắt nhịp 2/2, với thơ 5 tiếng các em sẽ ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2 với thơ 7 tiếng  các em sẽ  ngắt nhịp 4/3, 3/4 hoặc 2/2/3, thơ  lục bát sẽ  ngắt theo nhịp chẵn   2/2/2. Có những câu thơ  không được ngắt nhịp theo cách thông thường như  vậy thì phải hướng dẫn học sinh dựa vào nghĩa của từ  và trọng âm trong câu  để ngắt nhịp cho đúng. Ví dô: Cây / rung theo gió, lá/ bay xuống đường. ( Chú đi tuần).       Trong câu thơ  có nhiều cách ngắt nhịp thì hướng dẫn HS chọn cách  ngắt nhịp hay nhất thể hiện được nhiều hơn. Ví dụ: Trời xanh đây là của chúng ta.( Đất nước). Câu thơ  trên ta có thể  ngắt nhịp 3/4 hoặc 2/1/4 nhưng nên chọn cách  ngắt 2/1/4 sẽ  thể  hiện được sự  khẳng định, tự  hào về  chủ  quyền của đất  nước hơn:              Trời xanh/ đây/ là của chúng ta. 3. Ngắt giọng biểu cảm: Bên cạnh việc dạy học sinh ngắt giọng thể  hiện đúng quan hệ  ngữ  nghĩa ­ ngữ pháp còn cần phải dạy học sinh biết ngắt giọng biểu cảm. Đó là   chỗ ngừng lâu hơn bình thường hoặc chỗ ngừng không lôgic ngữ nghĩa mà do  dụng ý của người đọc nhằm gây ấn tượng về cảm xúc. Các dấu (....) cũng có   khi là sự  ngừng giọng thể hiện một sự ngập ngừng chưa nói hết hay sự  bất   ngờ mà người nghe đoán  ra được.  Ví dụ: Trong bài  Tiếng rao đêm, chỗ 3 chấm “ Ô....này” làm mọi người  bất ngờ khi phát hiện ra chiếc chân gỗ của người bán bánh giò. Ngắt giọng biểu cảm còn thể  hiện  ở  sự  lựa chọn trong các cách ngắt   nhịp, cách ngắt nhịp có hiệu quả nghệ thuật hơn . Ví dụ: Chọn cách ngắt: Trời xanh/ đây/ là của chúng ta. Núi rùng /đây/ là của chúng ta 9
  10. Chứ  không chọn cách ngắt 3/4 Vì nếu ngắt theo nhịp 2/1/4 thì  đây sẽ  được đứng một mình tạo ra điệp ngữ  làm cho câu thơ  thắt lại, giọng đọc  mạnh lên nhấn mạnh thêm: khẳng định quyền sở hữu đất, trời là của dân tộc  ta, bất cứ  kẻ  thù nào cũng không có quyền xâm phạm. Càng làm tăng thêm  cảm xúc tự  hào, lòng kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam. Hay ta sẽ  chọn cách   ngắt: “Còi/ngân lên/khúc giã từ” (Cửa sông) để tiếng vang ngân mãi của khúc còi từ  giã khi con tầu rời cửa sông ra biển.      4. Nhấn giọng:   Các từ  trong câu, các câu trong đoạn văn không phải  đọc với giọng đều đều như nhau mà có từ, có câu đọc nhấn mạnh hơn, đó là   những từ câu mang ý nghĩa nổi bật hơn và nó bộc lộ chủ đề của bài văn, bài   thơ.            Ví dụ:  Quan nói sư  cụ  biện lễ cúng Phật, rồi gọi hết sư  vãi, kẻ  ăn   người ở trong chủa ra, giao cho mỗi người cầm một  nắm thóc và bảo:(Phân  xử  tài tình). Khi đọc câu trên giáo viên hướng dẫn sao cho học sinh biết đọc  nhấn giọng những từ ngữ  in đậm để  người nghe hiểu và nắm bắt được chủ  đề của bài học một cách chính xác. Hay khi hướng dẫn học sinh đọc khổ thơ  sau:                                                 Rồi đến chị rất thương                                                 Rồi đến em rất thảo                                                          Ông lành như hạt gạo                                                        Bà hiền như suối trong.                                                                                        (Cao Bằng)           Các từ ngữ được in đậm là những từ ngữ được đọc nhấn mạnh nhưng   đọc với giọng nhẹ  nhàng hơn, tình cảm hơn, thiết tha hơnđể  gây  ấn tượng   đặc biệt, gây xúc động đến người nghe.       5. Đọc đúng ngữ điệu bài văn:             Trong cách hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm đoạn văn, bài văn, giáo  viên không chỉ dừng lại ở những chỉ dẫn:  Em cố gắng đọc hay hơn, cố gắng   đọc diễn cảm hơn, cố gắng đọc vui hơi, đọc cho thiết tha hơn !.. Mà giáo viên  phải hướng dẫn bằng cách chỉ  dẫn rõ ràng, nghĩa là: Cần đọc to lên, nhỏ  đi,   cao giọng lên, hạ  giọng xuống, ngắt nghỉ   ở  chỗ  này, chỗ  kia; kéo dài tiếng  này, lớn giọng tiếng kia... phải dạy học sinh làm chủ  được chỗ  ngắt giọng   (kỹ thuật ngắt giọng biểu cảm), làm chủ  tốc độ  (độ  nhanh, chậm, chỗ  ngân,   hay là  việc dãn nhịp đọc), làm chủ cường độ giọng đọc (đọc to hay nhỏ, nhấn   giọng hay lơi giọng) và làm chủ các độ ( độ cao của giọng đọc, lên giọng hay   hạ giọng).        Ví dụ: ­ Tốt cái bụng đó, cô giáo ạ! (Buôn Chư Lênh đón cô giáo) 10
  11. Giáo viên hướng dẫn học sinh biết đây là lời nói của ai? Cần đọc với  giọng như thế nào? (Đây là lời nói của già làng nên đọc với giọng trầm và hạ  giọng xuống).            ­ Bây giờ cho người già xem cái chữ  của cô giáo đi!  (Buôn Chư Lênh  đón cô giáo)           Với câu này giáo viên hướng dẫn cho học sinh đọc tương tự  câu trên  nhưng cần phải hướng dẫn để học sinh phát hiện thêm, ngoài giọng đọc trầm,  hạ  giọng xuống thì còn phải đọc với giọng vui hơn để  thể  hiện niềm vui   mừng của già làng khi chuẩn bị được xem “cái chữ” của cô giáo.       6. Đọc đúng kiểu câu:       Ngữ  điệu câu được chia thành: Ngữ  điệu cầu khiến, ngữ  điệu mệnh  lệnh, ngữ điệu kết thúc, ngữ điệu chưa kết thúc, ngữ điệu hỏi, ngữ điệu liệt   kê...như  vậy đối với kiểu câu cảm, cầu khiến, mệnh lệnh mà trên chữ  viết  biểu thị bằng dấu  “!” thì phải đọc mạnh. Những câu cầu khiến mời mọc đề  nghị  nhẹ  nhàng mà trên chữ  viết thường ghi bằng dấu chấm sẽ  được đọc  giọng nhẹ hơn. Ví dụ: Mời em vào nhà chơi. Những câu hỏi thưởng phải đọc  cao  ở cuối câu.  Ví  dụ: Bà để nó chỗ nào? ( Lòng dân). Những câu chưa kết  thúc còn bỏ lửng trên chữ viết thường thấy dấu (...) thì sự ngập ngừng thường   đọc nhỏ và lơi giọng (Ngữ điệu yếu)  Ví dụ: Thưa...có phải ngọc thật không? (Chuỗi ngọc lam).       7. Đọc đúng nhịp điệu:          Nhịp điệu là sự  thể  hiện của giọng đọc nhanh hay chậm, khẩn trương   hay vừa nhịp. Nhịp điệu đọc do nội dung hay bài văn qui định và có biến đổi  từ đoạn này sang đoạn khác, yêu cầu cơ bản của tốc độ đọc diễn cảm là làm  sao cho vừa tầm với tốc độ  của ngôn ngữ  nói. NÕu học sinh đọc nhanh quá,  chậm quá đều ảnh hưởng đến tốc độ của người nghe. Tuy nhiên tuỳ theo văn  cảnh mà tốc độ đọc sẽ  thay đổi cho thích hợp với nội dung. Thay đổi tốc độ  đọc cũng là biện pháp tốt để làm cho ngôn ngữ sinh động, có màu sắc nhất là   tiết tấu khi đọc thơ.           Ví dụ: Khi đọc khổ thơ sau:                                                      “ Hạt gạo làng ta                                                         Có bão tháng bảy                                                         Có mưa tháng ba                                                         Giọt mồ hôi sa                                                         Những trưa tháng sáu                                                         Nước như ai nấu                                                         Chết cả cá cờ                                                         Cua ngoi lên bờ                                                          Mẹ em xuống cấy.” 11
  12.          Giáo viên hướng dẫn học sinh tốc độ  tiết tấu khi đọc các câu thơ  trên   hơi nhanh, đọc câu trước vắt sang câu sau, nhấn mạnh và kéo dài các tiếng có  vần với nhau ở cuối dòng thơ để diễn tả nỗi khó nhọc, vất vả của người mẹ.       8. Tốc độ:         Giáo viên cần giúp học sinh hiểu  đọc nhanh không phải là đọc liến  thoắng.   Tốc   độ   đọc   nhanh   chấp   nhận   được   khi   trùng   với   tốc   độ   lời   nói  .Nhưng tốc độ đọc còn phụ thuộc vào nội dung bài đọc: một bản tin phải đọc   nhanh hơn một văn bản văn chương hay đọc truyện phải nhanh hơn đọc thơ  trữ tình vì thơ trữ tình cần có thời gian để bộc lộ cảm xúc.         Khi đọc văn bản có nội dung miêu tả một cảnh lộn xộn, hoảng loạn thì  phải đọc với nhịp nhanh, gấp gáp: cảm xúc vui hay tả một công việc dồn dập   khẩn trương cũng phải đọc nhịp nhanh. Ví dụ  cần đọc nhanh câu: “Những đợt sóng khủng khiếp phá thủng  khoang tàu, nước phun vào khoang như vòi rồng” để diễn tả cảnh bất ngờ ập   đến gây tai nạn khủng khiếp của cơn bão trong bài: “Một vụ  đắm tàu”. Hay   đoạn lấy lửa chuẩn bị  nấu cơm  ở  bài: “Hội thổi cơm thi  ở  Đồng Vân” cần   đọc dồn dập náo nức. Cảm xúc vui tự hào cũng cần được thể hiện với tốc độ  nhanh .              Ví dụ :                               Mùa thu nay khác rồi                                               Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi                                                                                             ( Đất nước) Những bài văn xuôi, trữ  tình, chứa chan cảm xúc cần phải đọc chậm,   những đoạn văn diễn tả  tâm trạng miên man suy nghĩ, ví dụ  như  “ Ông Nhụ  bước ra võng. Cái võng làm bằng lưới đáy vẫn buộc lưu cữu  ở  ngoài hàng   hiên. Ông ngồi xuống võng vặn mình. Hai má phập phồng như  người súc  mệng khan...”                                                                               ( Lập làng giữ biển).         Những chỗ có ba chấm trong văn bản mô phỏng âm thanh keó dài của  giọng như  “ Bánh giò...ò...ò” ( Tiếng rao đêm) cần phải đọc kéo dài. Những   chỗ thay đổi tốc độ sẽ gây được sự chú ý, có giá trị biểu cảm tốt.   Ví dụ  : Khi đọc bài “Những cánh buồm” nếu câu cuối   “Cha gặp lại   mình trong những ước mơ con” đọc chậm lại, nhịp dãn ra thì sẽ  gây được ấn  tượng cho người đọc, người nghe hơn là đọc với tốc độ  bình thường như  những câu khác.       Ở  những bài có câu ngắn, câu dài thì những câu ngắn được nén lại và  phải đọc với nhịp nhanh, gấp gáp hơn nhất là khi những câu điệp cú pháp,   những câu có tính chất liệt kê. Những câu dài thì đọc nhịp trải dài ra. * Cường độ: 12
  13. Khi đọc trước nhiều người học sinh phải tính đến người nghe, phải đọc  sao cho cả tập thể nghe rõ nghĩa là phải đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong  lớp nghe thấy mới thôi. Nhưng như  thế  lại không có nghĩa là đọc quá to hay  gào lên để gây sự chú ý của một số học sinh. Ví dụ: Ở những câu thơ: Khói hình nấm là tai hoạ đấy                                          Bom H, bom A không phải bạn ta           Cần đọc với giọng vang, để thể hiện lời khẳng định không thể có bạn  bè   với những  thø  vũ khí nguy hiểm, kẻ  thù của sự  bình yên. Ngược lại, âm  hưởng chung của bài “ Bầm  ơi” là một giọng lắng vì đây là giọng điệu nội   tâm, tâm tình, nhất là hai câu đầu:                        Ai về thăm mẹ quê ta     Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm.... Cần đọc với giọng trầm diễn tả  nỗi nhớ  mong sâu nặng của người   chiến sỹ với mẹ nơi quê nhà, hay câu nói của Ma­ri­ô: “ Giu­li­ét­ta, xuống đi!   Bạn còn bố mẹ...” ( Một vụ đắm tàu) là mệnh lệnh, cần phải đọc với cường   độ  mạnh để  cho câu văn vang lên thể hiện sự  mong mỏi thôi thúc mạnh mẽ,   nhưng ở câu nói của Giu­li­ét­ta cuối bài : “ Vĩnh biệt Ma­ri­ô! “ Cần đọc với  giọng trầm thể hiện sự đau xót nghẹn ngào. *Cao độ:   Rèn cho học sinh cách lên giọng, xuống giọng đúng với nội  dung, dụng ý nghệ thuật. Ví dụ : Khi đọc câu cảm thường đọc với cường độ  mạnh, cao giọng, nhưng câu cảm:   Và con sẽ nói giùm với mẹ  Cha đi vui, xin mẹ đừng buồn!  ( E­ mi­ li, con....) Cần đọc hạ  giọng để  thể  hiện sự  nghẹn ngào, đau thương. Câu cuối   trong bài: “ Tác phẩm của Si ­ le và tên phát xít” được đọc hạ  giọng, ngưng   một lát trước từ “ vở” và nhấn vào “ Những tên cướp” để thể hiện ngụ ý hóm   hỉnh, sâu cay của ông cụ. “ Đó là vở Những tên cướp” hay câu hỏi thường đọc  cao giọng  ở  cuối câu nhưng  ở  câu “ và giết cả  những dòng sông của thơ  ca  nhạc hoạ?” trong bài ( E ­ mi ­ li, con...) lại hạ giọng để thể hiện sự đau xót.        Cần kết hợp giữa cao độ và cường độ trong giọng đọc để phân biệt lời   tác giả và lời nhận vật: chương trình 2000 có rất nhiều văn bản kể chuyện, ở  đó luôn có sự  xen kẽ  lời nhân vật và lời tác giả  ­ lời dẫn chuyện. Khi đọc  những lời dẫn chuyện cần đọc với giọng nhỏ  hơn, thấp hơn những lời nói  trực tiếp của nhân vật.  ở đây có sự chuyển giọng mà những lời dẫn như nền  thấp để cho những lời hội thoại nổi lên. Đọc văn bản kịch (Lòng dân, Người  công dân số Một) cũng như vậy.   Biện pháp 7: Tổ chức giờ học sôi nổi gây hứng thú cho học sinh: 13
  14.   Học sinh Tiểu học thường thì học mà chơi, chơi để  mà học. Nếu giờ  học diễn ra đều đều, chỉ  luyện đọc và trả  lời câu hỏi thì giờ  học sẽ  rất tẻ  nhạt. Để giờ học diễn ra sôi nổi gây hứng thủ học tập cho học sinh,tôi đã kết  hợp cho học sinh tham gia trò chơi học tập. 1. Đối với giờ tập đọc có lời văn đối thoại:       Tôi xây dựng màn kịch gắn với nội dung bài học.       Ví dụ: Bài “Lòng dân” TV5­ Tập 1       Trong phần đọc diễn cảm tôi tổ chức phân vai cho học sinh.       *Phần 1: ­ Giọng cai và lính: hống hách, xấc xược. ­ Giọng dì Năm và chú cán bộ ở đoạn đầu: tự nhiên, ở đoạn sau: dì Năm  rất khéo giả vờ than vãn khi bị trói, nghẹn ngào nói lời trối trăng với con khi bị  doạ bắn chết. ­ Giọng An: giọng một đứa trẻ đang khóc (An tham gia rất tự nhiên vào  vở kịch do má em dàn dựng. Trong tình huống nguy hiểm, em khóc vì thực sự  lo cho má). *Phần 2: ­ Giọng cai và lính: khi dịu giọng để  mua chuộc, dụ  dỗ, lúc hống hách   để doạ dẫm, lúc ngọt ngào xin ăn. ­ Giọng An: thật thà, hồn nhiên. ­ Giọng dì Năm và chú cán bộ: tự nhiên, bình tĩnh. Giáo viên tổ chức cho cả lớp luyện diễn phân vai theo nhóm, sau đó gọi   học sinh thi đua lần lược lên bảng và nhập vai, tất cả các học sinh đều được  hoạt động, đều được luyện nói, được thể hiện bằng cử chỉ, nét mặt thông qua   các nhân vật mà mình nhập vai.          Qua các giờ học như vậy học sinh yếu có tiến bộ rõ rệt, các em tự tin ở  bản thân mình hơn. Giờ học diễn ra sôi nổi, học sinh hứng thú học bài.         2. Đối với bài tập đọc khác: Giáo viên tổ  chức trò chơi truyền điện, giáo viên gọi học sinh đọc bài,  học sinh đó đọc được một đoạn văn, một khổ  thơ  hay một câu văn, câu thơ,   đột nhiên học sinh đó dừng lại và gọi học sinh khác đọc tiếp bài của mình, cứ  như vậy cho đến hết.        Với cách học này, học sinh đều tập trung vào bài, số  học sinh được   luyện đọc nhiều, lớp giữ trật tự.         Giáo viên chia lớp thành các tổ  hoặc nhóm để  thi đua đọc xem nhóm  nào, tổ  nào đọc diễn cảm nhất. Khi học sinh đọc bài giáo viên lắng nghe để  kịp thời sửa chữa cho những học sinh đọc sai, khen ngợi kịp thời đối với học  sinh đọc diễn cảm hay có sự tiến bộ hơn.         Tổ chức thi đọc diễn cảm dẫn đến tiết học hấp dẫn và đạt hiệu quả. 14
  15.  Biện pháp 8: Rèn tư thế, nét mặt khi đọc diễn cảm:          Tư thế, nét mặt, ánh mắt là những biểu hiện bên ngoài của người đọc  có tác dụng bổ sung cho ngữ điệu khi đọc diễn cảm.          Tư  thế  có thể đứng hoặc ngồi, song giáo viên hướng dẫn học sinh sao  cho tự nhiên, ung dung, đĩnh đạc tránh đi lại lăng xăng gò bó. Giáo viên hướng   dẫn học sinh nét mặt luôn phải thể hiện được thái độ  của người đọc đối với  nội dung tác phẩm một cách tự  nhiên. Đọc một câu chuyện vui nét mặt phải  tươi sáng, đọc một câu chuyện buồn nét mặt lộ rõ u buồn. NÕu người đọc tỏ  thái độ gì sẽ hạn chế sự cảm nhận của người nghe tới nội dung bài học. Khi   đọc không nên chú ý vào sách hoàn toàn mà cần có sự  giao cảm qua ánh mắt   với người nghe. Nếu hướng dẫn học sinh thực hiện tốt  điều này thì thành  công trong việc đọc diễn cảm sẽ rất cao.   Biện pháp 9: Tổ chức tốt phong trào thi đua “ Rèn kỹ năng đọc  diễn  cảm” cho học sinh:         1. Đối với ở lớp:          Trong gần cả năm học, tôi duy trì tốt phong trào “ Rèn đọc diễn cảm”.   Cứ hai tuần tôi tổ chức cho học sinh cả lớp thi “Đọc diễn cảm” một lần, các  em bắt thăm được bài nào thì đọc bài ấy .            ­ Những học sinh nào đọc hay đọc tốt sẽ  được thưởng hoa điểm tốt,   điểm số của các em sẽ được ghi vào bảng theo dõi treo trên tường lớp. Những  em được điểm cao và những em có sự  tiến bộ  tôi kịp thời động viên, khen  ngợi, sẽ  được tuyên dương trước lớp và được giữ  cờ  thi đua của lớp để  gây   thêm sự  hứng thú học tập cho các em, giúp các em có ý thức vươn lên trong  học tập và luyện đọc ở mọi nơi, mọi lúc. Có như vậy, các em mới thực sự đạt  được kỹ năng đọc diễn cảm đối với yêu cầu rèn đọc của học sinh lớp 5.           Tường của lớp học, tôi dành một phần để  treo bảng “ Hoa điểm tốt”,  bảng theo dõi “Kết quả thi đọc diễn cảm” của từng em.    Qua phong trào thi đua “Đọc diễn cảm” của lớp, tôi thấy rằng học sinh  cả  lớp đều có ý thức học tập nói chung và việc rèn đọc diễn cảm nói riêng   ngày một tiến bộ  hơn. Đặc biệt các em có tinh thần thi đua rất tốt, cho nên  chất lượng đọc của các em được nâng lên rõ rệt.         2. Đối với nhà trêng: Phong trào thi đua “ Đọc diễn cảm” được nhà trường thường xuyên tổ  chức. Trong năm học này, nhà trường tổ  chức rất nhiều lần thông qua “Giao  lưu Tiếng Việt của chúng em”. Nhà trường kết hợp với Đoàn đội tổ chức thi qua buổi “Giao lưu Tiếng   Việt   của   chúng   em”.   Qua   mỗi   đợt   thi,   nhà  trêng  đều   tuyên   dương,   khen  thưởng những lớp, những học sinh có phong trào học tập tốt. Lần nào, lớp tôi  cũng là một trong những lớp dẫn đầu về phong trào này. 15
  16.      Qua phong trào này, tôi thấy rằng đây cũng là một động lực không nhỏ  thúc đẩy tinh thần học tập của các em.         3.“Câu lạc bộ bạn yêu thơ”:          Giáo viên tổ chức cho cả lớp thi đua làm thơ hoặc sưu tầm các bài thơ  theo các chủ đề: Mái trường, tình thầy trò, quê hương, đất nước, bạn bè…         Cứ hai  tuần, giáo viên lại tổ chức cho học sinh thi đọc diễn cảm các bài  thơ  mà các em đã làm hoặc sưu tầm được vào tiết sinh hoạt thứ 6. Giáo viên  cùng học sinh cả lớp lắng nghe để sửa sai cho bạn sau đó cho điểm và thưởng  những bông hoa điểm tốt. Đặc biệt kịp  thêi khen ngợi, động viên những em  làm thơ hay, sưu tầm được những bài thơ có ý nghĩa và đọc diễn cảm tốt, hay   những em tích cực tham gia “Câu lạc bộ”, những em có sự  tiến bộ  trong học   tập hơn. Bài thơ nào hay, có ý nghĩa sẽ được treo lên góc sáng tạo để mỗi khi  đến lớp các em có thể đọc.          Mỗi lần sinh hoạt “Câu lạc bộ bạn yêu thơ” tôi thấy, tất cả các em đều  rất thích thú tham gia, em nào cũng xung phong đọc những bài thơ  mình làm   hoặc sưu tầm đến. Qua việc làm này đã rèn đọc diễn cảm cho học sinh rất   nhiều và đạt hiệu quả. Biện pháp 10: Rèn đọc  diễn cảm cho học sinh  ở  những giờ  học   khác:                 Ngoài việc đọc diễn cảm cho học sinh trong giờ  tập đọc, cần  kết hợp rèn đọc diễn cảm cho học sinh trong các giờ học khác (Toán, Tập làm  văn, Đạo đức, Khoa học,…). Ví dụ: Trong giờ học Toán học sinh trả  lời hay   đọc yêu cầu bài toán, đề bài toán nếu các em phát âm chưa chuẩn còn đọc sai   thì giáo viên cần phải sửa sai cho các em ngay vì các em nói, đọc đúng thì mới  hiểu và nắm tốt được nội dung kiến thức của bài học và vận dụng  kiến thức   đó để  làm bài tập. Việc rèn đọc này nó sẽ  góp phần nào thành công khi đọc   diễn cảm trong giờ Tập đọc. Cần đọc diễn cảm các bài: Tình quê hương, Bà   cụ  bán hàng nước chè,…Trong các giờ  Tập làm văn, Luyện từ  & câu hay  những câu chuyện trong giờ  Đạo đức…Bất kỳ  một thể  loại văn, thơ, truyện  khi đọc diễn cảm chúng ta đã khai thác một khía cạnh nào về nghệ thuật của  nội dung để làm rõ các nội dung được phản ánh trong tác phẩm. Và như vậy,  việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh không chỉ   ở  phân môn Tập đọc mà còn  rèn đọc diễn cảm cho học sinh ở tất cả các phân môn và các môn học khác vào  tất cả các thời điểm.        Ví dụ: luôn nhắc nhở học sinh, yêu cầu học sinh nói, đọc đúng chuẩn   khi trả  lời các câu hỏi hoặc đọc một câu, một đoạn,…mà cô giáo yêu cầu  trong bất kỳ trường hợp nào.         Rèn đọc diễn cảm cho học sinh là cả  một quá trình lâu dài và liên tục.   Do vậy, ngoài tiết học chính khoá tôi còn tổ  chức rèn đọc diễn cảm, thi đọc  diễn cảm cho các em vào 15 phút đầu gìơ. Ngoài ra, tôi còn rèn đọc và tổ chức  16
  17. cho các em thi đọc diễn cảm trong các buæi học thêm, các buổi giao lưu kiến  thức trong khối và còn có thể rèn đọc cho các em trong các buổi lao động nữa  (Bởi vì muốn đọc diễn cảm hay đầu tiên là phải đọc đúng, muốn đọc đúng  được thì khi nói cũng phải nói đúng chuẩn.)   Biện pháp 11: Kết hợp với gia đình học sinh.         Để rèn đọc diễn cảm cho học sinh có hiệu quả tốt hơn cần phải có sự  kết hợp giữa việc rèn luyện của giáo viên với sự quan tâm và giúp đỡ của gia  đình học sinh. Vì vậy, tôi tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho  các bậc phụ huynh, bằng cách:        Trao đổi để phụ huynh biết tác hại của việc đọc sai và cách hướng dẫn  con em mình không chỉ  rèn đọc diễn cảm mà còn cả  trong lời nói giao tiếp  hằng ngày cũng phải nói đúng chuẩn. Thông báo tình hình học tập nói chung   và việc đọc nói riêng của các em cho phụ huynh biết để có kế hoạch dạy bảo  con cái học tập.        Cố gắng dành nhiều thời gian quan tâm để kèm cặp, kiểm tra việc học   hành của con cái, thậm chí có thể trao đổi, tranh luận để nói đúng chuẩn cũng  như đọc diễn cảm hay nhất. PHẦN III: KẾT KUẬN I. Kết quả nghiên cứu:         Khi vận dụng các biện pháp với nhiều hình thức khác nhau như đã trình  bày ở trên, tôi thấy chất lượng giờ học  tập đọc ngày một nâng lên rõ rệt. Hầu  hết các em đã biết cách đọc diễn cảm, trong đó có một số  em đọc diễn cảm  rất tốt.        Kết quả cụ thể như sau: BẢNG KẾT QUẢ KIỂM TRA ĐỊNH KỲ LẦN 3 Giỏi Khá Trung bình Yếu Sĩ số SL TL SL TL SL TL SL TL 21 7 32,9% 8 37,6% 6 29,5% 0     Kết quả  này cho thấy rằng các phương pháp, các biện pháp cũng như  các hình thức tổ chức dạy học mà tôi vận dụng đã phần nào có hiệu quả trong  việc giảng dạy môn Tập đọc nói chung và phần đọc diễn cảm nói riêng.  II. Bài học kinh nghiệm:  Qua quá trình dạy Tập đọc lớp 5 và quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã   rút ra một số kinh nghiệm như sau: 17
  18.  ­ Giáo viên phải quan tâm đầu tư thời gian, công sức để nghiên cứu, học   hỏi nắm chắc kiến thức Tiếng Việt (ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng,…)  ­ Không ngừng rèn luyện nâng cao năng lực đọc. Phải suy nghĩ, tìm tòi  cách đọc hợp lý nhất để thể hiện giọng đọc hay nhất cho học sinh.  ­ Lời nói của thầy cô trong khi giảng bài cũng như  trong giao tiếp hằng  ngày với học sinh phải luôn đúng chuẩn.   ­ Luôn quan tâm theo sát từng đối tượng học sinh, nắm vững năng lực  đọc của từng em để  có kế hoạch, biện pháp cụ thể trong việc cung cấp kiến   thức rèn luyện năng lực đọc cho học sinh.   ­ Nghiên cứu, lựa chọn, vận dụng linh hoạt nội dung và hình thức tổ  chức dạy học theo hướng đổi mới: Học sinh là trung tâm của quá trình dạy   học, mọi hoạt động đều hướng vào học sinh.   ­ Trong quá trình dạy học Tập đọc không nên chỉ  tập trung luyện đọc  diễn cảm như  một hoạt động thứ  ba của qui trình dạy học Tập đọc mà cần  dạy tốt cả  phần luyện đọc và đặc biệt là tìm hiểu nội dung của bài để  học   sinh nắm được cái thần của bài, lúc đó, đọc diễn cảm sẽ  như  một động thái  diễn ra hết sức tự nhiên.  ­ Khi sửa lỗi đọc cho học sinh đòi hỏi sự khéo léo tinh tế của người thầy.   Làm thế nào để học sinh thấy việc rèn đọc diễn cảm là điều cần thiết, có lợi  cho các em, đồng thời nâng cao trình độ văn hoá cho xã hội.  ­ Rèn đọc diễn cảm cho học sinh, người giáo viên phải nắm được đặc  điểm tâm lý của lứa tuổi, có biện pháp khen, chê kịp thời, khéo léo, tế nhị.         Theo tôi trên đây là bài học cần thiết đối với những giáo viên muốn học  sinh của mình đọc diễn cảm tốt. Tuy nhiên việc áp dụng biện pháp này vào  từng lớp cụ thể đòi hỏi phải có sự linh hoạt, kiên trì của cả thầy và trò. Việc   rèn đọc  diễn cảm cho học sinh có đạt kết quả  cao hay không còn phụ  thuộc vào khả  năng, lòng nhiệt tình của mỗi giáo viên. Phải xuất phát từ lòng yêu nghề, mến  trẻ, có tâm huyết với nghề  thì chất lượng giáo dục mới đạt hiệu quả  cao.  Đồng thời còn phụ  thuộc vào bản thân học sinh có ý thức tự  học tập, rèn  luyện hay không. Tóm lại thành công trong việc nâng cao năng lực đọc diễn   cảm cho học sinh phụ thuộc vào cả thầy và trò./.                                                               Thiết Ống, ngày 25 tháng 3 năm 2011.                                                                                Người thực hiện:                                                                                                                                                                                                    Lưu Thị Lan 18
  19.            MỤC LỤC Nội dung Trang PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1 I.Lời mở đầu  1 II.Cơ sở thực tiễn 1 1.Về giáo viên 1 2.Thực trạng của việc đọc diễn cảm của học sinh lớp 5C 2 PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 4 Biện pháp 1: Sửa lỗi phát âm 4 Biện pháp 2: Nâng cao năng lực đọc của giáo viên 5 19
  20. Biện pháp 3: Rèn kĩ năng đọc đúng chính âm, trọng âm 5 Biện pháp 4: Phân loại các dạng văn bản để lựa chọn giọng cho  6 phù hợp. Biện pháp 5: Giúp học sinh hiểu và cảm thụ tác phẩm để tìm  6 giọng đọc cho toàn bài. Biện pháp 6: Rèn kỹ năng đọc đúng ngữ điệu 7 Biện pháp 7: Tổ chức giờ học sôi nổi gây hứng thú cho học sinh 12 Biện pháp 8: Rèn tư thế, nét mặt khi đọc diễn cảm 13 Biện pháp 9: Tổ chức tốt phong trào thi đua “Rèn kỹ năng đọc diễn  14 cảm” cho học sinh. Biện pháp 10: Rèn đọc diễn cảm cho học sinh ở những giờ học  15 khác Biện pháp 11: Kết hợp với gia đình học sinh. 15 PHẦN III: KẾT LUẬN 16 I.Kết quả nghiên cứu 16 II.Bài học kinh nghiệm 16 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2