Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục ở một bộ phận học sinh THPT hiện nay, nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm 10E7 trường THPT Triệu Sơn 3
lượt xem 9
download
Mục đích nghiên cứu: Đưa ra giải pháp ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục ở một bộ phận học sinh THPT hiện nay để: - Tăng cường giáo dục sức khỏe sinh sản, giới tính và kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm. - Giáo dục các em biết coi trọng giá trị bản thân, giá trị đạo đức, biết xây dựng hoài bão, lý tưởng của mình. Từ đó có được tình bạn, tình yêu lành mạnh trong sáng, giúp đỡ nhau trong học tập và cuộc sống, hướng tới xây dựng tương lai.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục ở một bộ phận học sinh THPT hiện nay, nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm 10E7 trường THPT Triệu Sơn 3
- 1. Mở đầu 1.1 Lý do chọn đề tài Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2015 đã ̣ xac đinh rõ trong Đi ́ ều 27 về mục tiêu Giáo dục phổ thông là: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của người công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy với mục tiêu đó thì nhiệm vụ giáo dục đạo đức học sinh đóng vai trò quan trọng, vừa phải phù hợp với các qui định và chuẩn mực của xã hội, đồng thời phải phù hợp với những qui định của nhà trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay. Nếu làm tốt, làm đúng quy trình giáo dục đạo đức phù hợp với qui luật nhận thức sẽ giúp cho học sinh tích cực điều chỉnh hành vi, ý thức của mình theo chuẩn đạo đức. Đối với học sinh THPT tâm sinh lý lứa tuổi có nhiều thay đổi, các em có nhu cầu được hiểu biết, tìm tòi, khám phá, thích giao lưu tìm hiểu, thích thể hiện mình là người lớn...; Trong khi đó kiến thức, kỹ năng sống và hiểu biết về pháp luật còn rất hạn chế, vì vậy các em chưa hoàn toàn làm chủ được hành vi của mình. Cùng với tác động tiêu cực từ cơ chế thị trường nên một bộ phận học sinh THPT suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, chạy theo lối sống buông thả và thiếu trách nhiệm. Một thực trạng đã diễn ra ở các nhà trường THPT thậm chí cả nhà trường Trung học cơ sở là hiện tượng học sinh mang thai ngoài ý muốn. Do vậy buộc các em đó phải phá thai, sinh con hoặc kết hôn ở tuổi vị thành niên, làm mẹ, làm vợ ở tuối còn quá trẻ. Điều đó làm mất đi vẻ đẹp văn hóa học đường đi ngược lại thuần phong mỹ tục của người Việt Nam. Hơn nữa, điều đó còn vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật và làm mai một đi thế hệ trẻ của đất nước, để lại hậu quả nặng nề cho bản thân các em và hệ lụy cho xã hội. Trường THPT Triệu Sơn 3 đóng ở vùng bán sơn địa, xa trung tâm văn hóa của huyện, điều kiện kinh tế khó khăn, nên cơ bản các em còn nhiều hạn chế về hiểu biết, nghèo về vốn sống. Bố mẹ các em có những quan điểm lạc hậu, cổ hủ; Sự quan tâm chăm sóc về đời sống tâm lý, tinh thần con cái chưa tốt; Quản lý con cái còn lỏng lẻo; Sự hiểu biết để giáo dục con về giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên còn hạn chế. Là một giáo viên làm công tác chủ nhiệm nhiều năm, tôi luôn nhận thức và đánh giá cao việc rèn luyện kỹ năng sống, giáo dục giới tính sức khỏe sinh sản vị thành niên cho học sinh, nhằm ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục ở lứa tuổi học sinh THPT cho lớp chủ nhiệm trong giai đoạn hiện nay là cần thiết hơn bao giờ hết. Cùng với khẩu hiệu của Đoàn thanh niên trường THPT Triệu Sơn 3 “ Rèn đức sáng, luyện tâm trong và xây dựng hoài bão lớn” cùng với cuộc vận 1
- động “ Mỗi thầy cô gáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo’’ để tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục toàn diện cho học sinh theo tôi phải bắt đầu từ việc xây dựng chuẩn hành vi đạo đức và tạo ra không gian văn hóa học đường. Từ đó có được thế hệ trẻ vừa hồng vừa chuyên, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho sự nghiệm phát triển Giáo dục và Đào tạo.Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “ Một số giải pháp ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục ở một bộ phận học sinh THPT hiện nay, nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm 10E7 trường THPT Triệu Sơn 3” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 20172018. 1.2. Mục đích nghiên cứu Đưa ra giải pháp ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục ở một bộ phận học sinh THPT hiện nay để: Tăng cường giáo dục sức khỏe sinh sản, giới tính và kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm. Giáo dục các em biết coi trọng giá trị bản thân, giá trị đạo đức, biết xây dựng hoài bão, lý tưởng của mình. Từ đó có được tình bạn, tình yêu lành mạnh trong sáng, giúp đỡ nhau trong học tập và cuộc sống, hướng tới xây dựng tương lai. Tuyên truyền hậu quả của việc quan hệ tình dục ở độ tuổi học sinh THPT. Tạo ra cuộc tuyên truyền rộng lớn trong nhà trường, gia đình và xã hội về vấn đề sức khỏe sinh sản, tình dục vị thành niên. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Là quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đưa ra một số giải pháp ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục ở một bộ phận học sinh THPT hiện nay, nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm 10E7 trường THPT Triệu Sơn 3. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lí luận; Phương pháp quan sát; Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế; Phương pháp thực nghiệm; Phương pháp thống kê và xử lý số liệu. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến Sinh thời Bác đã dạy “Đạo đức là cái gốc rất quan trọng”, “Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ không phải là con người bình thường và cuộc sống xã 2
- hội sẽ không phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn định” , “Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, người có tài mà không có đức là người vô dụng”. Do vậy Nghị quyết số 29/NQTW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo. Đã có quan điểm chỉ đạo “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; Lý luận gắn với thực tiễn; Giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Vì vậy mục tiêu giáo dục trong các nhà trường hiện nay là phải tạo ra những thế hệ học trò vừa hồng vừa chuyên, muốn vậy thì công tác giáo dục nhà trường phải chú trọng cả việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Kỹ năng sống chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả. Hình thành kỹ năng sống cho con em trong lứa tuổi thanh thiếu niên đang là vấn đề ngày càng được nhiều bậc cha mẹ, các nhà giáo dục và xã hội chú ý đến. Kỹ năng sống cho học sinh theo cách hiểu đơn giản nhất, gần gũi nhất thì đó chính là những kỹ năng học tập, kỹ năng làm chủ bản thân, kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống, kỹ năng làm việc, giúp các em tạo dựng khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp với mọi người, với xã hội và khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Người càng có nhiều kỹ năng sống sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; Biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực, hiệu quả hơn; Làm chủ được bản thân, chắc chắn rằng họ sẽ thành công nhiều hơn trong cuộc sống. Ngược lại, người thiếu kỹ năng sống thường dễ bị vấp ngã, ngày nay xã hội càng phát triển thì kéo theo mặt trái của nó, điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến giới trẻ. Trong xã hội tiên tiến, học sinh ngày nay càng thông minh nhạy bén, dễ tiếp thu cái mới, cái đẹp nhưng cũng dễ nhiễm cái xấu. Một thực trạng đang diễn ra trong các trường THPT là do thiếu kiến thức và kỹ năng về sức khỏe sinh sản, tình dục hoặc do lối sống “ lệch chuẩn” nên một bộ phận học sinh do yêu đương quá giới hạn dẫn tới việc quan hệ tình dục, mang thai, nạo phá thai và kết hôn khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường . Theo TS Nguyễn Tùng Lâm, Chủ tịch Hội Tâm lý giáo dục Hà Nội.Theo ông, các nhà trường hiện nay công tác giáo dục giới tính trong nhà trường chưa hiệu quả, cung cấp cho học sinh kiến thức về quan hệ tình dục còn hạn chế. Các trường cũng có chuyên đề về giới tính và tình yêu tuổi học trò, nhưng nặng về lý thuyết. Ông thể hiện quan điểm của mình về vấn đề này “ Đừng lảng tránh, hãy đối mặt”. Ông cho rằng: “Chúng ta phải đối mặt với vấn đề yêu và quan hệ tình dục ở học sinh”. “Ngành giáo dục và các 3
- chuyên gia cần nghiên cứu để đưa vấn đề này vào chương trình giáo dục chính thống, cách làm phải gần gũi để học sinh ngấm hơn. Thầy cô phải lắng nghe và đồng hành với học sinh mới mang lại hiệu quả. Việc giáo dục sức khỏe giới tính đang dần trở nên cấp bách của nhiều cấp, ngành trong xã hội nói chung và của ngành giáo dục nói riêng”. Vậy theo tôi việc cần làm ngay bây giờ giáo dục cho các em những kiến thức, kỹ năng về giới tính và sức khỏe sinh sản vị thành niên, cụ thể như cách từ chối tình dục, cách giữ gìn thân thể, cách thoát hiểm…, tình dục an toàn và có trách nhiệm với hành vi tình dục thay vì để các em hành động theo bản năng. Hay quan điểm “ vẽ đường cho hươu chạy đúng đường, còn hơn đưa hươu vào bụi rậm”. 2.2. Thực trạng tình trạng quan hệ tình dục của học sinh THPT hiện nay khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, nguyên nhân và hậu quả. 2.2.1. Thực trạng tình trạng quan hệ tình dục của học sinh THPT hiện nay. Những con số và kết quả sau đây không làm ít người khỏi giật mình: Theo tổ chức y tế thế giới WHO lứa tuổi vị thành niên chiếm tỉ lệ khá lớn trong dân số thế giới, có tới 500 triệu vị thành niên tuổi từ 15 đến 19 trong số đó có phần không nhỏ đã quan hệ tình dục. Ông Trần Thành Nam Tiến sĩ Tâm lý học trẻ em và vị thành niên ĐHQGHN cho biết, theo những số liệu nghiên cứu của ông và đồng nghiệp, chọn mẫu tại một số trường ở nội và ngoại thành Hà Nội, thì đến hết lớp 9 có khoảng 10% học sinh đã từng quan hệ tình dục; Tính đến hết lớp 12 thì con số là 39%. Cũng theo ông Nam, khoảng 10% học sinh THPT báo cáo đã từng quan hệ với từ 3 người trở lên. Đáng chú ý, các em không chỉ quan hệ tình dục một cách đơn thuần nhất mà đi kèm với đó là có tới 15% học sinh sử dụng các chất kích thích như rượu, các dạng ma túy tổng hợp... trong khi quan hệ. Nguồn: VTC14. Giáo sư Hoài Đức lo ngại tình trạng phá thai ở người trẻ ngày càng gia tăng. Nghiên cứu của bà và các đồng nghiệp từng chỉ ra tình trạng nạo phá thai ở tuổi vị thành niên Việt Nam cao hơn nhiều nước trong khu vực và đứng thứ 5 trên thế giới. Hàng năm, khoảng 300.000 nữ giới từ 1219 tuổi phá thai, 2030% ca phá thai là phụ nữ chưa kết hôn, 6070% là học sinh, sinh viên. Theo thống kê của vụ sức khỏe Bà mẹ trẻ em, Bộ y tế năm 2016, tính riêng trong hệ thống bệnh viện công lập thuộc 63 tỉnh thành phố đã có đến 265.536 ca nạo phá thai, trong đó ở độ tuổi vị thành niên, thanh niên chiếm xấp xỉ 4600 ca. 4
- Chuyên gia tổng cục Cục dân số KHHGĐ, những số liệu về tỉ lệ mang thai, phá thai và sinh con sớm ở tuôi vị thành niên cho thấy, xu hướng về mang thai, phái thai và sinh con sớm ở tuổi vị thành niên gia tăng đáng kể. Điều này có nhiều tác động đến tỉ xuất chết ở trẻ em dưới một tuổi, đến tỷ số tử vong bà mẹ và chính tương lai của vị thành niên đó. Tỷ lệ sinh con ở tuổi vị thành niên tại Việt Nam năm 2011 là 46/1000. Tỷ lệ này cao hơn so với nhiều nước ở Châu Á. Trong khi đó, trong những năm vừa qua, có một thực trạng đã diễn ra ở trường THPT Triệu Sơn 3 đó là một số năm trước đây và liên tục trong các năm học 20132014, 20142015, 20152016, 20162017, 20172018. Trong nhà trường đều có một số em học sinh nữ do yêu đương và đi quá giới hạn nên đã quan hệ tình dục để xảy ra có thai ngoài ý muốn. Vì vậy đã phải nghỉ học giữa chừng để kết hôn. Có một trường hợp đáng tiếc em Nguyễn Thị N là học sinh lớp 10 có học lực khá nhất của lớp, em rất gương mẫu trong công việc tập thể. Đầu học kỳ II lớp 10 năm hoc 20172018 em đã phải nghĩ học để cưới chồng ngày 02/3/2017. Hay trường hợp em Trần Thị K học sinh khóa 20142017 là học sinh có ý thức về học tập. Bất ngờ biết được em có thai ngoài ý muốn, sau khi phát hiện ra thì GVCN và giáo viên bộ môn tư vấn cho em hướng giải quyết, nhưng do quan điểm gia đình thì em vẫn để sinh con và kết hôn, đến ngày thi tốt nghiệp thì em mang thai đến tháng thứ 7. Còn có trường hợp em Trần Thị Dung học khóa 20142017 do yêu đương em đã không làm chủ được bản thân, em đã mang thai ngoài ý muốn. Do xấu hổ với bạn bè thầy cô nên em đã bỏ học khi chỉ cách kỳ thi THPT một tháng, thầy cô giáo bộ môn và cô chủ nhiệm biết chuyện rất giận nhưng cũng rất thương các em. Đó là một vấn đề thật đáng tiếc đối với bản thân các em, với gia đình, với nhà trường và với xã hội chúng ta hiện nay. Ngày nay tình trạng sinh viên sống thử không còn mới mẻ, hình ảnh những nam nữ mặc áo đồng phục đi vào nhà nghỉ không còn xa lạ. Lớp 10E7 có 42 học sinh thì tất cả các em đều là con của các gia đình làm nông nghiệp, có 9 em là con em dân tộc, có 11 em thuộc vùng 135, có nhiều em ở cách xa trường phải ở trọ. Là lớp cơ bản có điểm vào lớp 10 rất thấp, vậy nên nhận thức của các em còn nhiều hạn chế. Bản thân bố mẹ còn nhiều hạn chế trong một trong những hạn chế đó là thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản, tình dục, nhiều bố mẹ tâm lý ngại ngùng, e dè, xấu hổ khi nói với con cái về tình yêu, tình dục. Quan điểm của nhiều gia đình là lớn lên tự tìm hiểu, sẽ biết và không để ý đến giáo dục sức khỏe sinh sản, tình dục cho các con và coi việc giáo dục đó như “ Vẽ đường cho hương chạy” và điều đó càng làm cho con trẻ tò mò hơn. 5
- Học sinh lớp 10, giai đoạn này được hiểu một cách đơn giản là giai đoạn “sau trẻ con và trước người lớn” của mỗi cá thể, được gọi là “thời kỳ vị thành niên”. Đây là lứa tuổi diễn ra rất nhiều thay đổi về tâm sinh lý lứa tuổi dậy thì. Là học sinh lớp 10 nên bản thân các em còn non nớt. Kỹ năng sống còn ít ỏi, nhiều điều mới lạ ở ngôi trường mới, mọi thứ xung quanh còn lạ lẫm và mới mẻ. Nên những tác động tiêu cực rất dễ đến với các em. Để đánh giá được hiệu quả của đề tài, nên tôi chọn hai lớp mà học sinh có độ tuổi như nhau, sự nhận thức tương đối đồng đều. Ngay đầu năm học tôi tiến hành điều tra ở cả 2 lớp và giành 10 phút trong tiết sinh hoạt cuối tuần để điều tra thực trạng (Nội dung phiếu điều tra được trình bày ở phụ lục 1). Lưu ý: Phiếu điều tra không yêu cầu ghi tên người được điều tra để đảm bảo bí mật và đảm bảo tính khách quan. Kết quả thu được như sau: Bảng 1 Lớp Sĩ số Em có đồng ý với quan điểm “ Tình yêu của giới trẻ hiện nay phải đồng hành cùng với tình dục” Đồng ý Không đồng ý 6
- SL % SL % 10D6(20162017) 41 11 26,8 30 73,2 10E7(20172018) 42 13 31 29 69 Bảng 2 Mức độ hiểu về sức khỏe sinh sản vị thành niên Lớp SS Hiểu đúng Hiểu gần Hiểu sơ sài Không đúng hiểu gì SL % SL % SL % SL % 10D6(20162017) 41 0 0 5 12,2 35 85,4 1 2,4 10E7(20172018) 42 0 0 4 9,5 36 85,7 2 4,8 Bảng 3 Hạnh kiểm Lớp SS Tốt Khá TB YếuKém SL % SL % SL % SL % 10D6(20162017) 41 32 78,06 8 19,5 1 2,44 0 0 10B6(20172018) 42 34 80,95 7 16,67 1 2,38 0 0 2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng 2.2.2.1. Thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản và tình dục vị thành niên. Hiện nay trong nhà trường do chương trình học chính khóa quá nặng nên giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên còn nhiều hạn chế, chỉ dừng lại mang tính chất phong trào. Chưa chú trọng đúng mức mà chỉ lồng ghép vào các môn học. Đối với gia đình thì nhiều gia đình còn né tránh, không quan tâm, không coi trọng việc giáo dục giới tính cho con em mình. Vậy điều đó càng gây tò mò cho các em. Mặt khác do thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản, nhiều bạn cho rằng quan hệ một lần thì không thể có thai, hoặc sau khi quan hệ thì thụt rửa âm đạo là xong, nạo phá thai là chuyện bình thường, nhiều em cho đó chỉ là thủ thuật nhỏ và các bạn không hề quan tâm đến hậu quả sau này. Vậy nguyên nhân đó dẫn đến tình trạng quan hệ tình dục ở một bộ phận học sinh THPT như hiện nay. 7
- 2.2.2.2. Thiếu kỹ năng sống. Ngoài thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản và tình dục, các bạn còn thiếu kỹ năng sống. Như chưa có những kỹ năng từ chối trước những đòi hỏi của bạn tình, chưa biết giữ gìn cơ thể tránh đụng chạm vào các vùng kín, chưa biết cách thoát hiểm, chưa biết cách xử lý tình huống, chưa phân biệt rõ khái niệm tình yêu và tình dục, “Ảo tưởng sức mạnh tình yêu”. Hơn nữa nhiều em có nguy cơ bị dụ dỗ, lôi kéo hoặc bị ép buộc quan hệ tình dục… 2.2.2.3. Do nhu cầu giới tính của tuổi dậy thì. Tuổi dậy thì bắt đầu từ giai đoạn thiếu niên và kết thúc vào giai đoạn đầu tuổi thanh niên. Đầu tiên, các cơ quan sinh dục bắt đầu hoạt động báo hiệu thời kỳ trưởng thành về mặt tình dục. Các tuyến sinh dục trong thời kỳ này hoạt động tích cực và tính trội của giới tính xuất hiện rõ ràng theo hiệu ứng hoạt động của hoocmon cũng được phát triển. Song song đó, chức năng sinh sản cũng được hình thành để duy trì nòi giống. Nhu cầu tình dục cũng bắt đầu xuất hiện. Hơn nữa hiện nay do trẻ em dậy thì sớm hơn so với trước do tác động của môi trường nên các cơ quan sinh dục phát triển rất nhanh. 2.2.2.4. Do tác động tiêu cực từ mặt trái của xã hội. Do phim ảnh hiện nay quá lạm dụng các hình ảnh nhạy cảm. Trên mạng internet tràn lan văn hóa phẩm đồi trụy. Điện thoại thông minh để truy cập mạng thì quá phổ biến. Những kích thích mạnh mẽ như xem phim, đọc truyện khiêu dâm, kích dục làm cho khả năng tình dục dễ bị hưng phấn, kích động khi đó nghĩ đến nhu cầu quan hệ tình dục của bản thân. Bên cạnh đó hệ thống nhà nghỉ thì tràn lan, sự quản lý của các cấp quản lý đối với các nhà nghỉ rất lỏng lẽo. Nếu thiếu ý thức làm chủ bản thân, không tự kiềm chế thì các em có thể vượt qua giới hạn và dẫn tới quan hệ tình dục là dễ dàng. 2.2.2.5. Do thiếu sự quan tâm giáo dục của gia đình. Sống trong gia đình lục đục, không hạnh phúc, lối sống thiếu hòa khí, cha mẹ thờ ơ, không quan tâm đến con cái. Điều đó sẽ làm cho các bạn “cảm thấy cô đơn” nên dễ dẫn đến yêu đương sớm . Nhiều gia đình không quản lý con cái, dễ dãi, không quan tâm đến những biến đổi tâm sinh lý ở con. Thậm trí con mang bầu quá to rồi cha mẹ mới phát hiện ra. Nhiều gia đình nhầm tưởng giáo dục giới tính, giáo dục sức khỏe sinh sản là “ vẽ đường cho hươu chạy”. 2.2.2.6. Do lối sống buông thả thiếu giáo dục, “lệch chuẩn” của một bộ phận học sinh THPT. Nhiều học sinh nữ ăn mặc hở hang, phản cảm thiếu tế nhị. Một số em hiện nay có cách nghĩ thoáng về quan hệ tình dục, coi quan hệ tình dục là quyền của con người, cho rằng yêu là phải “quan hệ”, thích là quan hệ và 8
- “sống thử”, như vậy mới là thanh niên trong thời hiện đại. Có quan hệ tình dục thì mới khẳng định được tình yêu trọn vẹn với người mình yêu. Nhiều bạn gái không còn ý thức giữ gìn trinh tiết, phẩm giá bản thân. Nhiều em ở tuổi THPT đã có bề dày kinh nghiệm về tình trường. Thậm trí nhiều bạn đã tìm đến một số loại thuốc để kích dục, tự quay clip sex rồi tự tung lên mạng nhằm khoe “chiến tích”. Đó là những hành vi “lệch chuẩn” đi ngược lại kỷ cương, phép tắc và chuẩn mực đạo đức của nhà trường, gia đình, xã hội. Lối sống đó thể hiện những học sinh thiếu lý tưởng sống, thiếu văn hóa, thiếu nhân cách. Do các hành vi ấy đã làm xấu đi hình ảnh đẹp của người học trò, mai một đi thế hệ trẻ của đất nước, điều đó không những hạn chế khả năng đóng góp của họ vào việc xây dựng và phát triển xã hội mà còn để lại hệ lụy cho xã hội. 2.2.3. Hậu quả của tình trạng quan hệ tình dục của học sinh THPT hiện nay. 2.2.3.1. Ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Nếu quan hệ tình dục trong giai đoạn này: Đối với nữ: Cơ quan sinh dục của các bạn chưa hoàn thiện nên âm hộ và âm đạo rất yếu, bề mặt âm đạo mỏng yếu. Việc quan hệ tình dục sớm cùng với việc thiếu kiến thức thì có thể dẫn tới màng trinh rách nghiêm trọng và tổn thương âm đạo, ra nhiều máu, chức năng tự phòng ngừa của âm đạo bị giảm, do vậy rất dễ: Ung thư cổ tử cung, vô sinh, hiếm muộn, viêm nhiễm phụ khoa và lây nhiễm các bệnh xã hội qua đường tình dục. Vậy nữ là người chịu hậu quả vô cùng nặng nề. Đối với nam: Quan hệ tình dục sớm hoặc thủ dâm nhiều quá ở lứa tuổi THPT cũng là nguyên nhân gây ra vô sinh ở nam giới. Việc quan hệ tình dục sớm khiến các bạn trai dễ mắc chứng rối loạn cương dương, xuất tinh sớm và nguy hiểm là mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục như HIV/AIDS. (Trích từ báo Việt nam net). 2.2.3.2. Ảnh hưởng xấu đến tâm lý bản thân và làm xấu đi văn hóa học đường. Quan hệ tình dục sớm khiến các em lo lắng, thấp thỏm, căng thẳng, hoảng sợ. Sợ bị bạn, bố mẹ và thầy cô phát hiện. Khi mang thai ngoài ý muốn thì khủng hoảng tinh thần, không còn tâm trí để học tập. Không giữ được hòa khí hay tự xa dần với bạn bè, người thân trong gia đình và sợ định kiến của xã hội nên ngày càng thu mình vào bóng tối, kết quả học tập giảm sút, hay nghĩ đến việc bỏ học giữa chừng thậm chí nghĩ đến việc bỏ nhà đi.Thực trạng trên làm mất đi vẻ đẹp học đường vốn có của nó, mất đi sự trong sáng, ngây thơ, hồn nhiên của người học trò. Không còn ước mơ và hoài bão, không quan tâm đến việc học tập và rèn luyện, không biết coi trọng giá trị bản thân. 9
- 2.2.3.3. Nguy cơ mang thai ngoài ý muốn rất cao. Các bạn thiếu hiểu biết về chu kỳ kinh nguyệt của bản thân, cơ chế thụ thai, biện pháp tránh thai, thiếu tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Quan hệ tình dục không chuẩn bị, lén lút hoặc không an toàn cùng với sự thiếu kiến thức về sức khẻo sinh sản vị thành niên thì nguy cơ mang thai ngoài ý muốn là rất cao. 2.2.3.4. Sử dụng các biện pháp tránh thai, nạo hút thai không an toàn. Khi còn thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản vị thành niên thì chưa biết các biện pháp tránh thai an toàn và quan hệ tình dục an toàn, nguy cơ dẫn đến mang thai ngoài ý muốn rất cao. Khi các em mang thai ngoài ý muốn thì thường có tâm lý xấu hổ, giấu diếm và tìm ngay đến việc nạo phá thai ở nơi kín đáo để ít người biết. Thường đó là các cơ sở “chui” không đủ điều kiện, kỹ thuật để bỏ thai. Hậu quả sau này để lại cho các em không hề nhỏ, đó là dễ gây ra các biến chứng nặng nề như nhau không bong, sót nhau, sót màng...Tình trạng này bắt buộc phải can thiệp bằng biện pháp nạo buồng tử cung và làm tăng nguy cơ gây sang chấn đường sinh dục, gây đau và viêm nhiễm có thể dẫn đến vô sinh. Nguy hiểm hơn còn đe dọa đến tính mạng. 2.2.3.5. Mất đi cơ hội học tập, tương lai của bản thân, gia đình và hệ lụy cho xã hội. Học sinh đã quan hệ tình dục sớm thì kém tập trung vào việc học tập và rèn luyện. Mất đi cơ hội lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. Nhiều gia đình khi con mang thai ngoài ý muốn thì sợ điều tiếng, xấu hổ và cùng với sự thiếu hiểu biết về sức khỏe sinh sản vị thành niên nên cho con bỏ học để kết hôn.Vậy các bạn phải bỏ học giữa chừng nên mất đi cơ hội học tập. Việc chưa sẵn sàng cùng với việc chưa đủ hiểu biết khiến các bạn mang thai gặp các biến chứng như thiếu máu, thai lưu, đẻ non, sảy thai. Đặc biệt trong lúc sinh đẻ dễ bị băng huyết, nhiễm trùng và sản giật. Những đứa trẻ sinh ra từ những người mẹ ở tuổi vị thành niên rất dễ suy dinh dưỡng, nhẹ cân, suy hô hấp, sức đề kháng kém, trí tuệ kém phát triển. Nguyên nhân dẫn đến những hậu quả trên là do bộ máy sinh sản của người mẹ chưa hoàn thiện, chưa sẵn sàng cho việc sinh nở nên bào thai dễ bị ngạt trong tử cung. Kết hôn sớm khi chưa đủ độ chín chắn thì làm mất đi cơ hội học hành, sự nghiệp, chọn bạn đời. Khiến các bạn phải rơi vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo, bế tắc và hạn chế tiếp xúc với xã hội. Kỹ năng sống còn thiếu chưa có trải nghiệm về cuộc sống. Việc làm không có dẫn đến khó khăn về kinh tế. Cha mẹ trẻ thiếu kinh nghiệm trong 10
- việc chăm sóc, giáo dục, quản lí con dẫn đến con cái nheo nhóc, không được tạo điều kiện cho ăn học đầy đủ. Kết hôn sớm gây nên tình trạng tảo hôn làm giảm chất lượng dân số, ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội. Xảy ra nhiều trường hợp li hôn dẫn đến việc con cái thiếu sự giáo dục đầy đủ từ cả cha và mẹ. Từ đó sảy ra nhiều hệ lụy cho xã hội. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3.1. Nâng cao nhận thức, xác định vai trò và trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm trong việc ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục ở một bộ phận học sinh THPT hiện nay. Trong giai đoạn hiện nay, người giáo viên không chỉ trang bị cho học sinh kiến thức mà cần phải trang bị cho học sinh những kỹ năng sống, chuẩn mực đạo đức của người học sinh. Đó là hành trang không thể thiếu để các em vượt qua mọi thử thách, đối đầu với cuộc sống đầy khó khăn và nắm bắt được cơ hội tốt cho bản thân. Làm được điều đó thì người giáo viên mới làm tròn trách nhiệm của mình. Như người ta thường nói “Nếu dạy chữ, dạy kiến thức là thuần trí tuệ thì dạy lễ, dạy nghĩa lại cần đến cả trái tim, tâm hồn, tình cảm, dạy bằng cả nhân cách của chính mình”. Thật vậy, công tác chủ nhiệm như là một nghệ thuật, để làm tốt công tác chủ nhiệm nó đòi hỏi hội tụ nhiều yếu tố như có đạo đức; Mẫu mực trong lối sống về lời nói, hành vi, cử chỉ trong giao tiếp ứng xử, tác phong làm việc, trang phục cho đến trình độ chuyên môn; Luôn trau dồi về kiến thức tâm lý lứa tuổi; Kiến thức về sức khỏe sinh sản vị thành niên; Kỹ năng sống... Ngoài ra giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò như là một người bạn lớn với học sinh, vừa gần gũi, vừa đáng tin cậy; Có đức tính kiên trì nhẫn nại trong giáo dục học sinh theo kiểu mưa dầm thấm lâu; Giáo dục kỹ năng sống, kiến thức sinh sản vị thành niên cho học sinh phải trở thành thói quen của mình. Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Hơn ai hết, tôi là người hiểu các em và nắm rõ hoàn cảnh, tính cách và những biểu hiện và biến đổi tâm lý của từng em. Vậy tôi là người có tác động rất lớn trong lối sống và sự hình thành nhân cách của các em. Với thực trạng trên thì trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục sức khỏe sinh sản, tình dục và kỹ năng sống cho lớp chủ nhiệm là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa vấn đề đó không chỉ là trách nhiệm của thầy cô, bố mẹ, y bác sỹ và các tuyên truyền viên mà còn là sự chung tay và góp sức của toàn xã hội. 2.3.2. Xác định tầm quan trọng của việc ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục của học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay. 11
- Giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo 4 trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI đó là “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống”. Mục tiêu của giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị kỹ năng sống nhằm đào tạo những con người toàn diện đáp ứng được yêu cầu của xã hội mới. Vậy, việc rèn luyện kỹ năng sống là việc rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Nhà trường xác định mục tiêu trong giai đoạn hiện nay là đào tạo những con người toàn diện. Vì thế nhà trường là nơi giáo dục và định hướng đúng đắn cho học sinh, trang bị đầy đủ cho học sinh kiến thức và kỹ năng sống để nó trở thành vốn sống trong học tập và cuộc sống của các em sau này. Nhà trường xây dựng được môi trường văn hóa để từ đó mới truyền tải những giá trị kiến thức nhân văn cho các thế hệ học trò. Nhưng hiện nay tình trạng quan hệ tình dục của bộ phận học sinh của các trường THPT đang làm xấu hình ảnh đẹp vốn có của văn hóa học đường, mai một đi thế hệ trẻ của đất nước, đem lại những hệ lụy nặng nề cho xã hội. Ý thức được hậu quả của vấn đề trên và nhận thấy trách nhiệm của bản thân mình. Sau khi nhận lớp chủ nhiệm, tôi tận dụng khoảng thời gian sinh hoạt đầu giờ và tiết sinh hoạt cuối tuần trên lớp để truyền đạt cho các em kiến thức về sức khỏe sinh sản vị thành niên, kỹ năng tránh tình trạng quan hệ tình dục như học sinh hiện nay và phân tích cho các em thấy nguyên nhân và hậu quả nặng nề của tình trạng đó đối với lứa tuổi học sinh THPT hiện nay . Theo tôi sự tác động hiệu quả nhất tới các em đó là những bài học từ các sự việc diễn ra ở gần với các em, để các em rút kinh nghiệm sâu sắc từ đó các em tự điều chỉnh hành vi của bản thân mình. Tôi lấy các ví dụ: “ Chị N là con gái út trong một gia đình khá giả. Đầu năm học lớp 10 khi bước chân vào ngôi trường THPT, chị N là một học sinh có học lực khá. Điểm đầu vào của chị N khá cao. Nhưng do được bố mẹ cưng chiều luôn đáp ứng mọi yêu cầu của chị N, nên chị thường ăn mặc rất đẹp và hay trang điểm khi đến trường. Vậy chị luôn có nhiều bạn khác giới để ý. Chỉ trong vài tháng đầu của năm học lớp 10, chị N đã nảy sinh tình cảm khác giới với anh K học sinh lớp 11. Từ đó chị N thường đi học rất sớm và về rất muộn, khi nào hai người cũng xuất hiện cùng nhau, thậm chí chị N đã nhiều lần bỏ học để đi chới cùng anh K. Từ đó kết quả học tập của chị N ngày càng giảm sút, nghiêm trọng hơn là chị N đã vượt qua giới hạn của tình yêu học trò, kết quả là chị N đã mang thai ở tuổi 16. Bấy giờ gia đình chị N biết sự việc đã vội vàng cho chị N nghỉ học và tổ chức đám cưới cho chị N và Anh K. Vậy là chị N đã làm vợ và làm mẹ ở tuổi học trò, cái tuổi đầy ước mơ và hoài bảo. Sau khi kết hôn do kinh tế thiếu thốn và kiến thức gia đình của họ còn quá ít ỏi, việc làm thì không có nên chỉ một thời gian ngắn sống với nhau giữa hai người thường xuyên xảy ra mâu thuẩn. Em bé sinh ra thì còi cọc và suy sinh 12
- dưỡng. Gặp lại chị N bây giờ thật khó nhận ra, chị N không còn là một cô gái xinh xắn và nhí nhảnh như xưa. Cuộc sống của chị N bây giờ thật bế tắc”. Là bạn với bạn của chị N trong câu truyện trên là chị Trần Ngọc Ánh là học sinh ngoan, học lực trung bình khá và là con của gia đình bố mẹ làm nông nghiệp. Chị Ánh học tập chăm chỉ ngoài ra chị có ngoại hình rất ưa nhìn, dễ mến nên được rất nhiều anh lớp trên và các bạn nam trong lớp để ý nhưng không phải vì thế mà chị Ánh sao nhãng việc học và rèn luyện, khi nào chị cũng tập chung vào việc học. Vậy sau kết quả 3 năm học ở trường THPT chị đã đạt danh hiệu học sinh tiên tiến và là Bí thư chi đoàn của lớp. Bây giờ chị Ánh là sinh viên năm thứ nhất của trường ĐH Kinh tế Quốc dân. Khi gặp lại chị Ánh bây giờ cô sinh viên xinh sắn, tràn đầy năng lượng. Vậy bây giờ nhìn lại đôi bạn ấy thật khác biệt. Chị Ánh đang được học tập ở trường ĐH danh tiếng đầy ước mơ và tương lai rộng mở. Còn chị N đang phải đối mặt với cuộc sống luẩn quẩn chưa lối thoát, từ đó có thể rút ra bài học quý giá cho bản thân các em. Giúp các em sống có lý tưởng và hoài bão, biết phấn đấu và rèn luyện bản thân khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường THPT. 2.3.3. Điều tra, phân loại từng nhóm đối tượng học sinh lớp chủ nhiệm để tìm đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp. Nhóm 1: Gồm những học sinh ngoan, có ý thức trong học tập và chưa có bạn khác giới: Gồm em Vũ Thị Duyên, Cao thị Dương, Đinh Thị Hoa, Trần Thu Huyền, Phan Văn Khải...Nhóm học sinh này thường các em tham gia tích cực vào phong trào học tập và rèn luyện, tôi kết hợp cung cấp thêm kiến thức sinh sản vị thành niên, kết hợp các kỹ năng ngừa quan hệ tình dục cho các em vào một số buổi sinh hoạt đầu giờ. Nhóm 2: Gồm những học sinh có mối quan hệ bạn khác giới, đua đòi và hay vi phạm nề nếp. Gồm em Ngân Thị Hà Giang, Hoàng Mỹ Linh, Trần Huyền Nhi, Nguyễn Hữu Tú, Lê Trung Anh, Tô Văn Lĩnh, Vũ Thanh Hoàng, Lê Trung Hiếu, Bùi Thùy Linh, Lê Thị Thương. Đặc biệt trong nhóm học sinh trên thì em Ngân Thị Hà Giang qua tìm hiểu thì em này đã có bạn trai, đã từng bỏ học vô lý do để đi chơi cùng bạn trai, thậm trí đã đi chơi với bạn trai vào ban đêm và về khuya. Đối với nhóm này tôi quan tâm, đôn đốc và theo dõi các biểu hiện của các em. Tìm hiểu mối quan hệ với bạn khác giới xem xét mức độ phức tạp. Tìm hiểu qua các kênh thông tin bạn bè từ đó phối hợp với gia đình để gia đình có biện pháp quản lý, theo dõi quan tâm. Luôn gần gũicác em, khi các em có những băn khoăn để cùng tháo gỡ. Đồng thời tôi tiến hành cung cấp cho các em các kiến thức và kỹ năng sau: * Kiến thức về tình yêu và tình dục. 13
- Tình yêu là sự hấp dẫn, đồng điệu với nhau về tinh thần, tình cảm, thúc đẩy 2 con người gần gũi, hiểu nhau; Có nhu cầu mong muốn đi đến sự hài hoà về tâm hồn và sự tự nguyện, gắn bó bền vững. Còn tình dục là quan hệ về thể xác, đem lại cho người ta những cảm xúc, khoái cảm và sự thoả mãn nhu cầu sinh lý mà thôi. Tình yêu và tình dục có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng không phải là một. * Kỹ năng kiềm chế quan hệ tình dục trong tình yêu. Không tạo cơ hội, không dẫn nhau vào nơi vắng vẻ đặc biệt là buổi tối, không đến nhà chơi khi không có người thân ở nhà. Hãy dừng việc âu yếm khi nó quá say đắm, tránh cho bạn đụng chạm vào vùng nhạy cảm của cơ thể và trao đổi thẳng thắn với người yêu về quan điểm của mình về tình dục, không đi quá giới hạn. Không nên xem phim, đọc truyện có tính kích dục khi chỉ có 2 người. Bạn gái tránh ăn mặc hở hang, khêu gợi, cử chỉ suồng sã. Bạn trai tránh dùng các chất kích thích như rượu, bia. Phải có bản lĩnh và kĩ năng từ chối đòi hỏi của bạn. * Kiến thức về tình dục an toàn và có trách nhiệm. Tình dục có trách nhiệm là cả nam và nữ phải kiểm soát được hành vi tình dục của mình và của bạn mình khi quan hệ tình dục. Tình dục an toàn là việc phối hợp của người nam và của người nữ trong việc sử dụng các biện pháp tránh thai phù hợp, tránh mang thai ngoài ý muốn và không bị nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS. * Những phương pháp tránh thai an toàn: Vòng tránh thai, bao cao su, thuốc tránh thai, đình sản nam nữ, tính chu kỳ kinh nguyệt và xuất tinh ngoài âm đạo. Đặc biệt khi quan hệ tình dục không sử dụng các biện pháp bảo vệ để tránh mang thai ngoaì ý muốn thì phải uống thuốc tránh thai sau giao hợp 72 giờ. Nhưng phương pháp tránh thai an toàn nhất đối với các em là không quan hệ tình dục. 2.3.4. Tuyên truyền kiến thức, kỹ năng về sức khỏe sinh sản vị thành niên. Tuyên truyền cho các em biết những thay đổi cơ thể và tâm sinh lý của tuổi vị thành niên để đối mặt, đón nhận nó một cách tích cực ; Tình dục an toàn, hành vi quấy rối tình dục, nguy cơ bị xâm hại tình dục; Cách nhận biết dấu hiệu thai nghén, phòng tránh mang thai, nạo phá thai và tảo hôn ở tuổi vị thành niên; Biết cách vệ sinh cơ quan sinh dục; Hiểu biết về các bệnh lây 14
- truyền qua đường tình dục. Thông qua buổi truyền thông các bạn được cung cấp kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên. Đây cũng là dịp để các em được giao lưu, chia sẻ kiến thức, quan điểm, ứng xử trước những vấn đề đặt ra có liên quan đến các vấn đề giới tính. Chăm sóc sức khỏe sinh sản, rèn luyện kỹ năng sống góp phần nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện cũng như nâng cao chất lượng sống. Trong tuần 18 tôi tổ chức buổi ngoại khóa “ Sức khỏe sinh sản – Tình dục tuổi vị thành niên”. Dưới hình thức tổ chức hội thi: Ban giám khảo gồm GVCN, giáo viên môn sinh học, giáo viên môn GDCD và giáo viên môn Văn. Khách mời là thầy Bí thư Đoàn trường. Bốn đội chơi mỗi đội gồm 5 học sinh và một đội trưởng, số học sinh còn lại của lớp là khán giả. MC dẫn chương trình và 2 tiếp mục văn nghệ xen kẽ. Các đội đã cùng nhau tranh tài sôi nổi, hấp dẫn qua 4 phần chơi: Phần 1: Các đội chọn gói câu hỏi. Tổng số điểm tối đa cho mỗi đội là 60 điểm. ( Phụ Lục 2) Phần 2: Khán giả cùng tham gia. ( Phụ Lục 2) Phần 3: Xử lý tình huống : Tổng số điểm tối đa là 20 điểm. ( Phụ Lục 2) Sau khi kết thúc các phần thi Ban giám khảo đánh giá và trao thưởng cho đội xuất sắc nhất. Phần 4: Đoàn viên, Thanh niên của chi đoàn xem video chương trình “ Quan hệ tình dục ở tuổi vị thành niên”. (Chương trình nghìn lẻ một chuyện tập 4 của truyền hình HTV7 Đài truyền hình Thành phố HCM phát sóng ngày 09/11/2014) ( Nội dung video thể hiện ở phụ lục 3) và GVCN rút ra bài học ý nghĩ từ hội thi. 2.3.5. Tăng cường phối hợp với giáo viên bộ môn đặc biệt là giáo viên bộ môn Văn, bộ môn GDCD và bộ môn sinh học để cung cấp kiến thức về sức khỏe, giới tính; giáo dục đạo đức, lối sống và giá trị bản thân; pháp luật, luật hôn nhân gia đình cho học sinh lớp chủ nhiệm. Bộ môn GDCD giáo viên luôn giáo dục học sinh nâng cao ý thức phấn đấu, tập trung cao độ vào học tập, rèn luyện để trở thành những người con ngoan, trò giỏi, biết giữ gìn phẩm chất danh dự và giá trị bản thân. Giữ gìn và phát huy các truyền thống tốt đẹp, các chuẩn mực đạo đức trong quan hệ bạn bè, tình yêu, hôn nhân và gia đình, đặc biệt là thông qua bài học như: Bài 12; Giáo dục công dân lớp 9: Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân. Quy định tuổi công dân được kết hôn: Nam từ 20 tuổi, nữ từ 18 tuổi 15
- trở lên mới được kết hôn. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định và phải được đăng ký kết hôn ở cơ quan có thẩm quyền. Bài 12; Giáo dục công dân lớp 10: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình. Nội dung bài học học thể hiện rõ: Không quan hệ tình dục trước hôn nhân và không yêu đương sớm. Vậy nếu làm trái những điều trên là vi phạm pháp luật. Trong văn học, phẩm hạnh của người phụ nữ theo quan điểm truyền thống là phải giữ gìn trinh tiết. Coi việc giữ gìn trinh tiết của nguời phụ nữ như việc giữ gìn phẩm giá, đức hạnh của mình và trong giai đoạn hiện nay quan điểm đó vẫn thể hiện rõ. Giá trị của con người quyết định bởi việc vượt qua mọi cám dỗ, hoàn cảnh. Như nàng Kiều trong tác phẩm của Nguyễn Du. Do hoàn cảnh của xã hội lúc bấy giờ Kiều đã bị đẩy vào chốn lầu xanh, Kiều đã phải bán mình, nhưng lúc nào nàng cũng dằn vặt, đau xót. Xót xa cho thân phận của mình, nàng luôn muốn vùng lên thoát khỏi chốn lầu xanh nhơ nhớp. Điều đó thể hiện người phụ nữ luôn khát khao bảo vệ danh dự, phẩm giá của mình trong mọi hoàn cảnh. Tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu có câu: “ Trai thời trung hiếu làm đầu Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”. Hay nhân vật chị Dậu trong tác phẩm tắt đèn của Nguyễn Tất Tố. Nhân vật chị Dậu luôn giữ gìn đức hạnh và giá trị bản thân qua hành động: Chị ném nắm giấy bạc xuống đất trong khi rất cần số tiền đó để cứu chồng con, để tránh bàn tay dơ bẩn của quan huyện. Đối với bộ môn sinh học: Bài 46: Cơ chế điều hòa sinh sản. Bài 47: Điều khiển sinh sản ở động vật và sinh đẻ có kế hoạch ở người. Nội dung hai bài học trên hướng dẫn quan hệ tình dục lành mạnh và các cách tránh thai an toàn, tránh được việc mang thai ngoài ý muốn. Mặt khác trong bộ môn sinh học, giáo viên khẳng định cơ thể của lứa tuổi học sinh THPT thường là đang tuổi dậy thì hoặc đã qua giai đoạn dậy thì nên cơ thể đang dần hoàn thiện, nên trong giai đoạn này cơ thể chưa thích hợp cho việc quan hệ tình dục và mang thai. Qua nội dung môn học chúng ta có thêm kiến thức về sức khỏe, giới tính. Hiểu biết đạo đức pháp luật và giá trị bản thân. Biết tự xây dựng tình bạn, tình yêu lành mạnh, hình thành nếp sống văn hoá trong thái độ và hành vi, tinh thần trách nhiệm và tinh thần tôn trọng đối với bạn bè, vui chơi, giải trí 16
- lành mạnh; Biết tránh và đấu tranh lại lối sống tự do cá nhân, vô kỷ luật, đua đòi, buông thả... 2.3.6. Kết hợp với các tổ chức đoàn thể tạo ra sân chơi lành mạnh. Vấn đề xây dựng văn hoá học đường phải được coi là trọng tâm và quan trọng nhất trong từng trường học. Nhà trường phải tạo ra không gian văn hóa học đường vì văn hoá học đường là một môi trường rất quan trọng để rèn luyện nhân cách và giáo dục thế hệ trẻ những con người sống có hoài bão, có lý tưởng tốt đẹp, rèn đức, luyện tài, học sinh phải biết về trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân đối với thầy cô, bạn bè và các mối quan hệ khác, trách nhiệm đó thuộc vào các tổ chức đoàn thể. Đặc biệt là Đoàn trường một tổ chức của Đoàn viên, Thanh niên. Đoàn trường đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động của học sinh THPT. Vì vậy khi Đoàn trường tổ chức các hoạt động như văn hóa, văn nghệ, TDTT, các buổi ngoại khóa về tình bạn, tình yêu vv… Tôi động viên khích lệ các em tham gia đầy đủ và nhiệt tình vì đó là những sân chơi lành mạnh rèn luyện các em về thể chất và tinh thần, góp phần rèn luyện ý chí, kỷ luật và lối sống lành mạnh cho học sinh THPT. Từ đó các em tránh xa các tệ nạn xã hội và những mối quan hệ phức tạp. 2.3.7. Phối kết hợp, nâng cao vai trò, trách nhiệm của phụ huynh trong việc ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục của cho học sinh. Sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện đại trên tất cả các lĩnh vực đã tác động to lớn đến cuộc sống của mỗi gia đình theo cả hai hướng tích cự và tiêu cực, điều đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các em. Một số gia đình do cha mẹ bận làm ăn mà sao nhảng việc chăm sóc con cái khiến các em bị thiếu hụt tình cảm, tinh thần, bên cạnh đó một số do sự hiểu biết của gia đình hạn chế, thiếu sự chia sẻ giữa bố mẹ và con cái dẫn đến hậu quả khôn lường, hơn nữa các em còn bị ảnh hưởng rất nhiều về văn hóa tiêu cực của gia đình. Ngày xưa các cụ có những nhận xét: “Rau nào sâu ấy” hay “Giỏ nhà ai quai nhà ấy”. Vì vậy, giáo dục học sinh phụ thuộc một phần tất yếu của gia đình. Trong tình hình như vậy, ngoài việc giáo dục của các thầy cô giáo trong nhà trường cũng rất cần sự hợp tác tích cực của phụ huynh và Ban đại diện cha mẹ học sinh các lớp. Vì vậy, trong các phiên họp phụ huynh ngoài việc trao đổi về tình hình học tập và rèn luyện của học sinh tôi còn triển khai thêm nội dung kiến thức về sức khỏe sinh sản vị thành niên, nguyên nhân và hậu quả của việc quan hệ tình dục trong lứa tuổi THPT và tuyên truyền tới phụ huynh trách nhiệm của mình trong việc giáo dục giới tính và kỹ năng để ngăn ngừa tình trạng quan hệ tình dục của con em mình và đồng thời tư vấn cho phụ huynh. 17
- Trong gia đình ngay từ khi còn bé bố mẹ nên giáo dục con cái về giới tính, chỉ cho con biết trên cơ thể những vùng kín và cách giữ gìn và bảo vệ. Đặc biệt bố mẹ lưu ý: Tập cho con thói quen ngủ riêng từ bé, để tránh gây sự tò mò cho con. Bố mẹ không nên thay đồ trước mặt con, không cho con tắm cùng. Bố mẹ không nên thể hiện tình cảm thái quá trước mặt con. Đặc biệt là sinh hoạt vợ chồng phải kín đáo. Bố mẹ không nên xem phim, ảnh nhạy cảm công khai trước mặt con. Bố mẹ không được tùy tiện xem và động chạm vào bộ phận sinh dục của con, cho dù đó chỉ là trêu đùa. Khi con tò mò tìm hiểu về bao cao su, thuốc tránh thai và giới tính phụ huynh nên ủng hộ và chỉ bảo cho con. Khi bắt gặp các con xem phim ảnh không lành mạnh thì bố mẹ nên bình tĩnh, giải thích cho các con hiểu rằng bộ phim đó không tốt cho các con và nó sẽ gây hại cho các con, thay cho việc làm toáng lên, lo sợ, ngăn cản thậm chí là chửi bới, điều đó càng gây tò mò cho các con. Khi con có những biểu hiện như để ý đến ăn mặc, hình thức hay có bạn khác giới khi đó bố mẹ phải để ý đến con nhiều hơn, gần gũi con trao đổi với con, phân tích cho con cái lợi và cái hại. Không nên cấm đoán gay gắt, tỏ ra sợ hãi. Bởi vì khi bị cấm đoán thì các con càng cảm thấy tình yêu bùng lên mãnh liệt, tình yêu nảy sinh trong môi trường cấm đoán thì càng trở nên nồng cháy và cường điệu hóa hơn thực tế. Vì sự cứng nhắc, quân phiệt của bố mẹ đã vô tình đẩy các con xa dần bố mẹ, người thân. Thay vì chia sẻ với bố mẹ thì các con âm thầm làm theo ý mình, thiếu kiến thức, kỹ năng về giới thì khi này hậu quả sẽ khôn lường với các em. Tăng cường giáo dục kỹ năng để con em mình tránh được những hành vi quấy rối tình dục, nguy cơ bị xâm hại tình dục. Các chuyên gia đã khẳng định giáo dục giới tính cho trẻ thì “ không thầy nào tốt hơn bố mẹ”. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 2.4.1. Cơ sở kiểm nghiệm 2.4.1.1. Đối với lớp đối chứng 10D6 Kết quả điều tra cuối năm học 201162017 ( khi chưa tác động). Lưu ý: Phiếu điều tra dùng để đánh giá hiệu quả của đề tài trước khi tác động và sau khi tác động là giống nhau. 18
- Bảng 4 Lớp Sĩ Em có đồng ý với quan điểm “ Tình yêu của giới số trẻ hiện nay phải đồng hành cùng với tình dục” Đồng ý Không đồng ý SL % SL % 10D6(20162017) 41 20 48,8 21 51,2 Bảng 5 Mức độ hiểu về sức khỏe sinh sản vị thành niên Lớp SS Hiểu đúng Hiểu gần Hiểu sơ Khônghiểu đúng sài gì SL % SL % SL % SL % 10D6(20162017) 41 1 2,4 10 24,4 30 73,2 0 0 Bảng 6 Hạnh kiểm Lớp SS Tốt Khá Trung bình YếuKém SL % SL % SL % SL % 10D6 (20162017) 41 34 82,9 7 17,1 0 0 0 0 Đối với lớp đối chứng 10D6 so sánh kết quả đầu năm và cuối năm khi chưa tác động. So sánh bảng 1 và bảng 4 cho thấy: Số học sinh đồng ý với quan điểm “ Tình yêu của giới trẻ hiện nay phải đồng hành cùng với tình dục” tăng từ 26,8% lên 48,8%; Số học sinh không đồng ý với quan điểm “ Tình yêu của giới trẻ hiện nay phải đồng hành cùng với tình dục” giảm từ 73,2% xuống 51,2%. So sánh bảng 2 và bảng 5 cho thấy: Số lượng học sinh ở mức độ hiểu đúng về sức khỏe sinh sản vị thành niên tăng từ 0% lên 2,4%; Hiểu gần đúng tăng 12,2% lên 24,4%; Hiểu sơ sài giảm từ 85,4% xuống 73,2; Không hiểu giảm từ 4,5% xuống 0%. 19
- So sánh bảng 3 và bảng 6 cho thấy hạnh kiểm của học sinh: Hạnh kiểm tốt tăng từ 78,05% lên 82,9%; Hạnh kiểm khá giảm từ 19,5% xuống 17,1%; Hạnh kiểm trung bình giảm từ 2,45% xuống 0%. So sánh kết quả đầu năm và cuối năm khi chưa tác động. Nhận thấy khi chưa tác động các biện pháp trên thì kết quả cuối năm cũng được cải thiện nhưng chưa đáng kể. 2.4.1.2. Đối với lớp đối thực nghiệm 10E7 Bảng thống kê cuối năm học 20172018 (Sau khi tác động). Kết quả như sau: Bảng 7 Lớp SS Em có đồng ý với quan điểm “ Tình yêu của giới trẻ hiện nay phải đồng hành cùng với tình dục” Đồng ý Không đồng ý SL % SL % 10E7(20172018) 42 3 7,1 39 92,9 Bảng 8 Mức độ hiểu về sức khỏe sinh sản vị thành niên Lớp SS Hiểu đúng Hiểu gần Hiểu sơ Không đúng sài hiểu gì SL % SL % SL % SL % 10E7(20172018) 42 17 40,5 19 45,2 6 14,3 0 0 Bảng 9 Hạnh kiểm Lớp SS Tốt Khá Trung bình YếuKém SL % SL % SL % SL % 10B6(20172018) 42 37 88,1 5 11,9 0 0 0 0 So sánh bảng 1 và bảng 7 cho thấy: Số học sinh đồng ý với quan điểm giảm từ 31% xuống 48,8%; Số học sinh không đồng ý với quan điểm tăng từ 69% lên 92,9%. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm nâng cao công tác chủ nhiệm học sinh lớp 5
14 p | 2593 | 686
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn học vần cho học sinh lớp 1 trường tiểu học Mỹ Phước D
50 p | 2696 | 408
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn tập làm văn
10 p | 2123 | 376
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kĩ năng học tốt môn tập làm văn ở lớp 5
11 p | 1174 | 281
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đầu cấp
28 p | 778 | 213
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thảo luận nhóm trong dạy học môn Toán lớp 3 - Bùi Thị Giao Thủy
20 p | 659 | 121
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 đọc đúng, đọc diễn cảm
24 p | 572 | 119
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt lớp 2 phân môn kể chuyện
20 p | 589 | 112
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 2 trong phân môn Tiếng Việt
11 p | 595 | 100
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức học sinh trường tiểu học
9 p | 436 | 80
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt
15 p | 612 | 74
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giải bài toán BĐT
25 p | 309 | 70
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm khai thác triệt để mô hình để giảng dạy môn Sinh học lớp 7
17 p | 384 | 69
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kỹ năng học tốt môn tập làm văn ở lớp 5
13 p | 360 | 66
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số phương pháp giải phương trình mũ – phương trình Logarit
29 p | 352 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số sai lầm thường gặp của học sinh khi giải phương trình lượng giác cơ bản
13 p | 297 | 29
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giảng dạy lồng ghép giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản vị thành niên thông qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu - Môn Ngữ Văn - Lớp 12 chương trình chuẩn
51 p | 273 | 24
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao công tác nữ công trong trường Tiểu học
17 p | 22 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn