Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp học sinh yếu kém học môn Vật lý 9
lượt xem 16
download
Học sinh yếu kém về vật lí là những học sinh có kết quả về môn vật lí thường xuyên dưới mức trung bình. Do đó việc lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng cần thiết đối với những học sinh này tất yếu đòi hỏi tốn nhiều công sức và thời gian hơn so với những học sinh khác. Về mặt lý luận, người thầy phải nắm vững các đặc điểm của học sinh yếu kém để từ đó đề ra các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục tình trạng yếu kém trong vật lí của học sinh. Chuyên đề này sẽ trình bày một số kinh nghiệm giúp học sinh yếu kém học môn Vật lý 9. Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp học sinh yếu kém học môn Vật lý 9
- PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO QUẢNG XƯƠNG ************************************ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH YẾU KÉM HỌC MÔN VẬT LÝ 9 Họ và tên: LÊ THỊ THANH Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Quảng Yên 1
- THÁNG 4 – 2011 PHẦN I : MỞ ĐẦU 1 LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Học sinh yếu kém về vật lí là những học sinh có kết quả về môn vật lí thường xuyên dưới mức trung bình. Do đó việc lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng cần thiết đối với những học sinh này tất yếu đòi hỏi tốn nhiều công sức và thời gian hơn so với những học sinh khác. Về mặt lý luận, người thầy phải nắm vững các đặc điểm của học sinh yếu kém để từ đó đề ra các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục tình trạng yếu kém trong vật lí của học sinh. Với mong muốn tìm ra những phương pháp thích hợp để giúp các em học sinh yếu, kém yêu thích và học tốt hơn môn vật lí hơn nên tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài"Một số kinh nghiệm giúp học sinh yếu kém học môn Vật lí 9”. 2 MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI: Sở dĩ tôi chọn đề tài này là vì mong muốn tìm được một phương pháp tối ưu nhất để trong quỹ thời gian cho phép hoàn thành được một hệ thống chương trình qui định, nhằm lấp đầy các chỗ hổng kiến thức và từng bước nâng cao thêm về mặt kỹ năng trong việc giải các bài tập vật lí cho học sinh. Từ đó phát huy, khơi dậy khả năng sử dụng hiệu quả kiến thức vốn có của học sinh, đồng thời thu hút, lôi cuốn các em ham thích học môn vật lí, đáp ứng những yêu cầu về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay. 2
- PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1 THỰC TRẠNG: Cũng như việc bồi dưỡng học sinh giỏi vật lí, việc giúp đỡ học sinh yếu kém phải được tiến hành ngay cả trong những tiết dạy học đồng loạt bằng các biện pháp phân hoá nội tại thích hợp. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học, việc nâng cao hiệu suất giờ lên lớp để giúp đỡ học sinh yếu kém người thầy vẫn cần có sự giúp đỡ tách riêng đối với nhóm học sinh yếu kém (thực hiện chủ yếu ngoài giờ chính khoá). Trên địa bàn mà trường tôi trực thuộc, học sinh đa số là con em nông thôn, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên việc đầu tư về vật chất cũng như thời gian cho con cái học tập chưa cao, ngoài giờ đến lớp các em còn phải giúp đỡ bố mẹ các công việc gia đình, không có thời gian để tự học. Sự quan tâm kèm cặp con cái của phụ huynh còn hạn chế . Ý thức học tập của một số em chưa cao, phương pháp học tập chưa phù hợp, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh còn yếu vì thế hầu hết các em sợ học môn vật lí. Là một giáo viên đã có hơn mười năm gắn bó với nghề. Tôi rất hiểu và thông cảm trước những khó khăn của các em. Bởi vậy trong quá trình giảng dạy tôi luôn học hỏi đồng nghiệp và tìm tòi những phương pháp thích hợp để giúp các em học sinh yếu, kém yêu thích và học tốt môn vật lí hơn.Với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học môn vật lí ở trường THCS và qua thực tế dạy học tôi đã tìm tòi áp dụng một số giải pháp đem lại thành công. Cụ thể chất lượng môn vật lí hàng năm được nâng 3
- lên rõ rệt thể hiện qua sổ điểm. Hơn nữa chất lượng học sinh khá cũng tăng lên. Học sinh tỏ ra quan tâm yêu thích học vật lí hơn trước đây. 2- CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 2.1: Khảo sát chất lượng đầu năm của học sinh để tìm đối tượng yếu, kém. Thông qua học bạ lớp dưới, thông qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm, kiểm tra vấn đáp những kiến thức cơ bản, trọng tâm mà các em đã được học. Qua đó giúp tôi nắm được những đối tượng học sinh yếu kém và những ''lỗ hổng” kiến thức của các em. Trên cơ sở đó tôi phân lớp thành nhiều nhóm gọi là nhóm ''Tương đồng về kiến thức”. Rồi tìm hiểu nguyên nhân và lập kế hoạch khắc phục. 2.2: Tìm hiểu và phân loại các nguyên nhân Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến học sinh học yếu đó là: Học sinh có nhiều " lỗ hổng" về kiến thức cũng như kỹ năng do: * Nguyên nhân khách quan: Do kinh tế gia đình khó khăn nên điều kiện học tập thiếu thốn về cả vật chất cũng như thời gian, dẫn đến kết quả học tập theo đó bị hạn chế. Do học sinh có sự khủng hoảng nhất thời về mặt tinh thần trong cuộc sống dẫn đến sao nhãng việc học hành. * Nguyên nhân chủ quan: Do vật lí là một môn khoa học thực nghiệm, tất cả các kiến thức mà các em chiến lĩnh được đa số đều được rút ra thông qua kết quả thí nghiệm. Các học sinh có khả năng tiếp thu bài chậm thường thiếu tự tin trước các bạn khi làm thí nghiệm do đó việc không trực tiếp làm thí nghiệm dẫn đến việc chiếm lĩnh kiến thức gặp nhiều khó khăn. Khi 4
- lượng kiến thức càng nhiều lên. Việc nắm các kiến thức mà không hiểu rõ bản chất sẽ rất khó khăn dẫn đến học sinh bị “ hổng ” kiến thức. Do học sinh học tập bộ môn toán không tốt trong khi đó toán học là công cụ không thể thiếu được khi học bộ môn vật lí nên dẫn đến bộ môn vật lí học cũng không tốt đặc biệt kĩ năng vận dụng kiến thức toán kết hơn với kiến thức vật lí để giải toán rất kém. Kiến thức bị hổng do học sinh lười học. Do khả năng tiếp thu chậm. Do thiếu phương pháp học tập phù hợp. 2.3: Lập kế hoạch thực hiện (Xác định thời gian nội dung chương trình) 2.4: Thực hiện các biện pháp khắc phục yếu, kém. 2.4.1: Trước hết, tôi chú trọng khắc phục các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến kết quả học tập của những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn : ví dụ như các em bị thiếu thốn sách vở đồ dùng học tập. Ngoài các buổi đến lớp các em phải đi làm để phụ giúp kinh tế gia đình không có thời gian để học tập. Sau khi tìm hiểu biết được hoàn cảnh của các em tôi đã đã phát động các em học sinh trong lớp quyên góp một phần nào đó để giúp bạn có thể mua một số đồ dùng học tập như sách giáo khoa,bút vở… Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các em đó trong học tập. Với đối tượng học sinh gặp sự cố bất thường về tinh thần : Ví dụ như bố mẹ đi làm ăn kinh tế ở xa, hay những trường hợp có những cú sốc về tình cảm trong gia đình mà các em bị ảnh hưởng, có một số em phải ở với ông bà bị thiếu thốn về tình cảm và sự chăm sóc của bố mẹ...Thông qua học sinh và phụ huynh tôi thường xuyên trò chuyện thân mật riêng 5
- với các em , động viên an ủi để các em có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần, góp phần nào giúp các em trở lại trạng thái cân bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn. Với đối tượng học sinh yếu kém do lười học: Tôi trực tiếp trò chuyện riêng với các em, phân tích cho các em hiểu mặt tốt, xấu và sự liên quan đến tương lai của các em. Về mặt chuyên môn, tôi tăng cường công tác kiểm tra việc học và làm bài về nhà, trong các giờ học tôi khuyến khích cho các em phát biểu, gọi các em lên bảng và có lời khen kịp thời, cho điểm khuyến khích, động viên các em, giúp các em tự tin và hứng thú học tập hơn. Sau khi tạo được tâm thế thoải mái về tinh thần trong học sinh thì việc tiếp theo đóng vai trò quan trọng và quyết định. Đó chính là thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm giúp các học sinh yếu kém có điều kiện về mặt kiến thức để theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên lớp, tiến tới có thể hoà nhập vào việc dạy học đồng loạt. 2.4.2: Khắc phục các yếu tố chủ quan: * Trước hết cần đảm bảo cho học sinh có trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp. Để tiết học trên lớp có kết quả thường đòi hỏi những tiền đề nhất định về trình độ kiến thức, kỹ năng sẵn có của học sinh. Đối với diện học sinh yếu kém thì thiếu hẳn tiền đề này. Vì thế cần giúp nhóm học sinh này có đủ tiền đề đảm bảo trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp đạt hiệu quả. Trước hết, tôi nghiên cứu kỹ nội dung chương trình, vạch rõ khối lượng tri thức và những kỹ năng cần thiết như những tiền đề xuất phát thông qua SGK, SGV, chuẩn kiến thức ... 6
- Sau đó, phân tích những tri thức kỹ năng có sẵn ở học sinh ở mức độ nào (qua quá trình tìm hiểu, quan sát ở học sinh trên lớp, qua các bài kiểm tra ...) Tiếp đến, tôi tập trung vào việc tái hiện những tri thức và tái tạo những kỹ năng cần thiết một cách tường minh thông qua việc cho học sinh ôn tập những tri thức, kỹ năng trước khi dạy nội dung mới . Ví dụ1: Khi dạy bài “Sự phụ thuộc của cường độ dòng điện vào hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn”. để học sinh học tốt bài này thì các em buộc phải nắm được cách sử dụng vônkế và ampekế để đo hiệu điện thế giữa 2 đầu vật đẫn và cường độ dòng địên chạy qua vật dẫn đã được học ở vật lí lớp 7. Do vậy trước khi dạy bài này giáo viên cần phải bố trí thời gian để ôn tập lại cho học sinh. Ví dụ2: Khi dạy các bài “đoạn mạch nối tiếp ”; “Đoạn mạch song song”. trước khi học 2 bài này học sinh phải nhớ lại được các kiến thức về đoạn mạch gồm 2; 3 bóng đèn mắc nối tiếp ; mắc song song. Có như thế học sinh mới có thể nhận biết được các loại đoạn mạch gồm các điện trở mắc nối tiếp ; song song. thiết lập được các công thức tính Rtđ ; U , I trong đoạn mạch gồm các điện trở mắc nối tiếp , song song. Do đó giáo viên cần tổ chức cho học sinh ôn tập hoặc ra 1 số bài tập về nhà giúp học sinh hệ thống lại kiến thức. chẳng hạn như: Bài tập 1: a) 2 bóng đèn được gọi là mắc nối tiếp khi nào? b) Vẽ sơ đồ mạch điện trong đó có 2 bóng đèn mắc nối tiếp với nhau. c) Cho cường độ dòng điện chạy trong đoạn mạch là 1A, tính cường độ dòng điện qua mỗi bóng đèn. 7
- d) Cho hiệu điện thế giữa 2 đầu mỗi đèn là 6V. tính hiệu điện thế giữa 2 đầu đoạn mạch. Bài tập 2: a) 2 bóng đèn được gọi là mắc song song khi nào? b) Vẽ sơ đồ mạch điện trong đó có 2 bóng đèn mắc song song với nhau. c) Cho cường độ dòng điện chạy mỗi bóng đèn là 0,5 A , tính cường độ dòng điện trong đoạn mạch. d) Cho hiệu điện thế giữa 2 đoạn mạch là 6V. tính hiệu điện thế giữa 2 đầu mỗi bóng đèn. Như vậy học sinh đã nắm được những kiến thức tiền đề của bài mới. Đảm bảo trình độ xuất phát cho tiết học chính khoá giúp các em tiếp thu bài một cách chủ động và hứng thú hơn, phát biểu xây dựng bài sôi nổi hơn. Hiệu quả giờ học được nâng lên rõ rệt. Trong thực hiện việc tạo tiền đề đảm bảo trình độ xuất phát cần chú ý: Mỗi bài toán phải được thực hiện qua nhiều bước, hướng dẫn và yêu cầu cách thực hiện thành thạo từng bước một. Tổ chức phân dạng bài tập một cách khoa học, chi tiết, cung cấp cho học sinh các dạng bài tập một cách có hệ thống. Soạn thêm nhiều bài tập đơn giản và tương tự cho từng dạng để các em tự làm, qua đó các em được lặp lại nhiều lần, giúp các em dễ khắc sâu kiến thức. Sau khi kiến thức lớp dưới đã được bù đắp và bằng cách hạ thấp yêu cầu đến mức tối thiểu ở các dạng bài tập tôi nhận thấy các em học sinh đã xích lại gần nhau hơn, tiếp thu bài mới tốt hơn, yêu thích học môn lí hơn. 8
- * Lồng ghép ôn tập các kiến thức toán học giúp học sinh nhớ các kiến thức vật lí một cách khoa hoc . Chương trình vật lí 9 đặc biệt là phần “ Điện học ” xuất hiện rất nhiều công thức. Đối với học sinh yếu kém việc nhớ hết các công thức là cả một vấn đề lớn. Trên thực tế giảng dạy tôi nhận thấy khả năng suy luận công thức để tính toán các đại lượng vật lí ở nhiều học sinh là rất kém mà nguyên nhân chủ yếu là do kiến thức toán học của các em rất non yếu. U VD: Từ công thức I học sinh không biết suy luận ra công thức tính R U ; R . Từ công thức Q = U.I.t học sinh không biết suy luận ra công thức tính U; I ; R. Đa số các học sinh này nhớ công thức một cách máy móc do đó mà lượng kiến thức cần nhớ là quá tải với các em. Chính vì thế trong quá trình giảng dạy giáo viên cần kéo léo nhắc lại các kiến thức toán học có liên quan đến kiến thức vật lí cho đối tượng học sinh yếu này. Giúp các em nắm kiến thức một cách khoa học. U VD: Khi dạy bài định luật ôm , xuất hiện CT : I R Giáo viên cần cho đối tượng này phân tích để hiểu xét về mặt đại số I: là thương số : U là số bị chia; R là số chia. Tính U tức là tìm số bị chia vậy phải làm như thế nào? Tính R là tìm số chia thì phải làm như thế nào ? Từ đó học sinh thiết lập được công thức tính U cũng như R chứ không cần nhớ máy móc. Cũng trong chương trình vật lí 9. Nếu phần “ Điện học”, học sinh phải nắm một lượng công thức tương đối nhiều thì phần “ Quang học” học sinh lại phải biết vận dụng hình học vào để giải bài tập . Đây là vấn 9
- đề mà học sinh ở đối tượng yếu kém hay vướng mắc nhất. Do đó việc lồng ghép các kiến thức hình học ở người thầy vào trong quá trình học tập của học sinh cũng cần hết sức khéo léo, phải lồng ghép ôn tập thế nào để không ảnh hướng đến việc giảng dạy các kiến thức vật lí đồng thời các kiến thức hình học cũng vừa đủ để học quang học. VD: Khi ôn tập các bài toán về tính chiều cao của ảnh và khoảng cách từ ảnh đến thấu kính khi vật đặt vuông góc với trục chính của thấu kính. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh các lập các cặp cạnh góc vuông tỉ lệ của các cặp tam giác vuông đồng dạng sau: TH1: B’ B A’ 0’ A ABO ~ A ' B 'O g .g AB AO A' B ' A'O TH2 A B 0 A’ B’ ABO ~ A ' B 'O g.g AB AO A' B ' A'O Và tính độ dài của đoạn thẳng: A’ F O 10
- A’O = A’F + FO A’F = A’O OF OF = A’O A’F Với chừng ấy kiến thức hình học thì khi làm các bài toán tính chiều cao của ảnh và khoảng cách từ ảnh đến thấu kính học sinh có thể tìm ra các cặp tam giác đồng dạng trên hình vẽ, lập các cặp cạnh tỉ lệ , sử dụng cách tính độ dài đoạn thẳng để biến đổi từ đó có thể tính được theo yêu cầu của bài toán. * Giao nhiệm vụ học tập cụ thể trong quá trình học tập: Như chúng ta đã biết phương pháp học tập theo nhóm có rất nhiều yêu điểm, một trong những yêu điểm lớn nhất là phát huy tính tích cực của học sinh, học sinh chủ động lĩnh hội tri thức. tuy nhiên nêu không tổ chức tốt thì một số học sinh thiếu tự giác sẽ ỉ lại. Một số học sinh tiếp thu chậm tự ti, không giám nói lên ý kiến riêng của bản thân. Chính vì thế trong quá trình giảng dạy giáo viên cần chủ ý giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đối tượng học sinh. VD: Khi tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm. Với bài thực hành đòi hỏi cần có kỹ năng thực hành tốt thì nhóm trưởng là các thành viên có học lực tốt. Đưa đối tượng có học lực yếu làm các nhiệm vụ phụ giúp như thư kí, theo dõi kết quả. Đối với những bài thực hành đơn giản thì giao nhiệm vụ nhóm trưởng cho đối tượng có học lực yếu hơn. Việc tổng hợp trình bày kết quả thí nghiệm của nhóm là 1 trong các thanh viên bất kỳ trong nhóm. Có như vậy tất cả các thành viên mới tham gia hoạt động tích cực đồng thời tạo cơ hội cho các học sinh có học lực yếu hơn thể hiện khả năng của bản thân. 11
- * Thực hiện biện pháp lấp "lỗ hổng" về kiến thức và kỹ năng cho học sinh Qua tìm hiểu thực tế cho thấy: Kiến thức có nhiều "lỗ hổng" là một "bệnh " phổ biến của học sinh yếu kém môn vật lí. Vai trò của việc đảm bảo trình độ xuất phát là cần thiết nhưng chỉ để phục vụ cho nội dung sắp học . Còn việc lấp lỗ hổng về kiến thức kỹ năng là nhiệm vụ cần thiết nhưng mang tính tổng quát không phụ thuộc ý đồ chuẩn bị cho một bài học cụ thể nào sắp tới. Trong quá trình dạy học người thầy cần quan tâm phát hiện những lỗ hổng về kiến thức, kỹ năng của học sinh. Tìm ra những "lỗ hổng" điển hình đối với học sinh yếu kém mà ở trên lớp vì điều kiện thời gian chưa khắc phục được để có kế hoạch tiếp tục giúp đỡ. Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy ở học sinh yếu kém vật lí 9 thường bị hổng kiến thức cũng như kỹ năng vận dụng kém chủ yếu ở các phần sau: Phần điện học: +) Định luật ôm cho đoạn mạch mắc nối tiếp, song song +) Các bài toán về công , công suất của dòng điện +) Các bài toán về đoạn mạch có sử dụng biến trở. Phần điện từ học: +) Sử dụng qui tắc nắm bàn tay phải để xác định chiều đường sức từ hoặc chiều dòng điện khi biết yếu tố còn lại. +) S ử d ụng qui t ắc bàn tay trái để xác định chiều của lực điện từ , chiều của dòng điên hoặc chiều của đường sức từ khi biết 2 yêu tố còn lại. Phần Quang học:+)Vẽ ảnh tạo bởi thấu kính hội tụ , phân kỳ +) Tính chiều cao của ảnh , khoảng cách từ ảnh đến thấu 12
- Kính. Bởi thế tôi tập trung thời gian và sức lực cho việc bù đắp những lỗ hổng này cho các nhóm học sinh vào các buổi học đại trà và cả giao bài về nhà. Ở các buổi học đại trà, tôi đã hệ thống hoá những kiến thức, kỹ năng còn hổng cho học sinh và đặc biệt chú ý đến hệ thống các bài tập chứa đựng nội dung kiến thức và kỹ năng cần bù đắp. Chẳng hạn: Với nhóm học sinh yếu về kỹ năng vẽ ảnh của một vật tạo bởi thấu kính.Một mặt ở giờ học đại trà tôi hướng dẫn lại chi tiết cách vẽ đồng thời cho các em thực hành nhiều lần với bài tập đơn giản vừa sức để các em mau chóng lấy lại được kiến thức và kỹ năng cơ bản. Mặt khác tôi giao bài tập về nhà và phân công học sinh khá kiểm tra giúp đỡ, hướng dẫn thêm cho nhóm. Ở các nhóm khác tôi cũng tiến hành tương tự. Ngoài ra, thông qua quá trình học lí thuyết và làm bài tập của học sinh tôi đã cố gắng tập cho học sinh có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của mình và biết cách tra cứu sách vở, tài liệu để tự mình lấp những "lỗ hổng" đó. *Giúp học sinh yếu kém luyện tập đảm bảo vừa sức : Đối với học sinh yếu kém, thầy giáo nên đặt quan điểm đảm bảo tính vững chắc của kiến thức lên hàng đầu. Việc luyện tập theo trình độ chung sẽ không phù hợp với học sinh yếu kém, vì vậy nhóm này cần nhiều thời gian luyện tập hơn. Trước hết phải làm cho các em hiểu rõ đề bài: Đề bài cho biết cái gì? yêu cầu cái gì? 13
- Nếu học sinh không hiểu đề bài thì không thể tiếp tục quá trình giải toán để đưa lại kết quả đúng được. Do đó giáo viên cần dành nhiều thì giờ giúp các em vượt qua được vấp váp đầu tiên này. Để rèn một kiến thức hay kỹ năng nào đó thì số lượng bài tập cùng mức độ cùng thể loại đối với các em yếu kém cần nhiều hơn bình thường, cùng mức độ . Do đó giáo viên cần chú ý gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại . Ngoài ra các bài tập phải được phân bậc với mức độ gần nhau. Thông thường khi ra bài tập cho đối tượng học sinh yếu , kém không nên ra quá nhiều và khó, các dạng bài tập phải vừa sức với các em đặc biệt là có kiểm tra, chấm, chữa và cho điểm để động viên, khuyến khích các em. VD: Khi giao bài tập phần “ đoạn mạch nối tiếp”. Giáo viên có thể ra các bài tập sau: Bài 1: Cho 2 điện trở R1; R2 mắc nối tiếp vào 2 điểm A , B có hiệu điện thế 3 V. a) Vẽ sơ đồ mạch điện. b) Tính điện trở tương đương của đoạn mạch biết R1 = R2 = 3 c) Tính cường độ dòng điện chạy qua đoạn mạch. Bài 2: Cho 3 điện trở R1; R2 , R3 mắc nối tiếp vào 2 điểm M , N có hiệu điện thế 4,5 V. a) Vẽ sơ đồ mạch điện. b) Tính điện trở tương đương của đoạn mạch biết R1 = R2 = R3 = 3 C) Tính cường độ dòng điện chạy qua đoạn mạch. d) Tính hiệu điện thế giữa 2 đầu mỗi điện trở 14
- Bài 3: Cho 1 đoạn mạch gồm 2 điện trở R1; R2 mắc nối tiếp. 1 ampekế đo cường độ dòng điện chạy qua đoạn mạch. một vônkế đo hiệu điện thế giữa 2 đầu đoạn mạch. a) Vẽ sơ đồ mạch điện. b) Tính điện trở tương đương của đoạn mạch biết ampekế chỉ 1A, vônkế chỉ 6V. Bài 4: Cho 1 đoạn mạch gồm 2 điện trở R1; R2 mắc nối tiếp. 1 ampekế đo cường độ dòng điện chạy qua đoạn mạch , một vônkế đo hiệu điện thế giữa 2 đầu điện trở R1. a) Vẽ sơ đồ mạch điện. b) Tính điện trở tương đương của đoạn mạch biết R1= 6 ; R2 = 10 c) Xác định số chỉ của ampekế biết số chỉ của vônkế là 3V. Được bước đi theo từng bậc thang vừa sức với mình, các em yếu kém sẽ tự tin hơn, không còn cảm giác bị hụt hẫng và sợ ngã. Sự tự tin giúp các em có thể tự leo hết các nấc thang dành cho mình. Từ đó dần dần chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng cơ bản cần thiết. Các bậc thang dù có thấp song sự kiên trì và nghị lực mới là điều quan trọng giúp các em vượt qua tình trạng yếu kém hiện tại. * Giúp đỡ học sinh rèn luyện kỹ năng học tập,có phương pháp học tập phù hợp. Một thực tế vẫn xảy ra thường xuyên là học sinh không biết cách học như thế nào cho có hiệu quả. Các em do không có kỹ năng học tập nên thường chưa học kỹ, thậm chí chưa hiểu lý thuyết đã lao vào làm bài tập, đọc chưa kỹ đề đã đặt bút vào làm bài, trong khi làm bài các em thường vẽ hình cẩu thả, viết nháp lộn xộn...Vì thế việc hướng dẫn các em phương pháp học cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Trước hết cần nói rõ yêu cầu sơ đẳng của việc học tập : 15
- Phải nắm vững lý thuyết trước khi làm bài tập. Trước một bài tập cần đọc kỹ đầu bài, vẽ hình rõ ràng, viết nháp cẩn thận. Sau khi học xong một chương cần giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức (tốt nhất là bằng bảng hoặc bằng sơ đồ). Tóm tắt lý thuyết cơ bản và các công thức quan trọng cũng như cách giải một số dạng toán cơ bản và dán vào góc học tập. PHẦN III KẾT LUẬN 1. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM : Quá trình thực hiện nêu trên đối với học sinh ở trường mà tôi đang giảng dạy , kết quả tỉ lệ yếu kém đã giảm đi đáng kể cụ thể : Ở đầu năm, kết quả khảo sát của 3 lớp 9 : Khá ; giỏi Trung bình Yếu; kém Trung bình Lớp Sĩ số trở lên SL % SL % SL % SL % 9A 31 7 22,6 14 45,2 10 32,2 21 67,7 9B 31 8 25,8 15 48,4 8 25,8 23 74,2 9C 29 5 17,2 12 41,4 12 41,4 17 58,6 Kết qua này cho thấy tổng số học sinh yếu kém ở cả 3 lớp là : 30 em. Sau khi thực hiện các biện pháp trên đối với 30 em học sinh này. Trong bài kiểm tra định kỳ học kỳ II , kết quả đã đạt được: Lớp Số học sinh Khá giỏi Trung bình Yếu kém 9A 10 1 6 3 9B 8 0 5 3 9C 12 1 7 4 16
- Hơn thế nữa qua cách làm này, các em hứng thú và yêu thích môn vật lí hơn, tự tin hơn trong học tập. 2 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ Việc giúp đỡ học sinh yếu , kém học môn vật lí là việc làm rất khó khăn lâu dài đòi hỏi giáo viên phải có tình thương, một chút hy sinh và tinh thần trách nhiệm. Việc sắp xếp thời gian thích hợp ngoài giờ lên lớp để bổ trợ kiến thức bị hổng cho học sinh yếu, kém đó là một khó khăn không phải ai cũng làm được. Mà phải có sự tận tâm hy sinh cao cả của người thầy tất cả vì tương lai các em. Do vậy rất cần đến sự chia sẻ từ phía lãnh đạo và các cấp ngành giáo dục. Mỗi người thầy có một cách làm riêng, song với cách làm nêu trên với thành công ban đầu thiết nghĩ đó là kết quả đáng phấn khởi đối với người thầy . Việc làm này không dễ thành công trong ngày một ngày hai mà phải là sự cố gắng bền bỉ và tận tuỵ thì mới mong mang lại kết quả tốt. Với vốn kiến thức của mình còn hạn hẹp, bề dày kinh nghiệm còn khiêm tốn, nên không tránh khỏi những hạn chế khiếm khuyết. Vậy rất mong hội đồng xét duyệt góp ý, bổ sung để kinh nghiệm giảng dạy của tôi ngày càng phong phú và có hiệu quả hơn. Tháng 4 năm 2011 Người thực hiện Lê Thị Thanh 17
- MỤC LỤC Trang PHẦN I : MỞ ĐẦU 1 Lí do chọn đề tài 2 2 Mục đích của đề tài 2 PHẦN II : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1 Thực trạng 3 2 Các giải pháp thực hiện 3 PHẦN III : KẾT LUẬN 1 Kết quả đạt được 14 2 Đề xuất kiến nghị 14 18
- 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm nâng cao công tác chủ nhiệm học sinh lớp 5
14 p | 2592 | 686
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn học vần cho học sinh lớp 1 trường tiểu học Mỹ Phước D
50 p | 2695 | 408
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn tập làm văn
10 p | 2122 | 376
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kĩ năng học tốt môn tập làm văn ở lớp 5
11 p | 1174 | 281
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đầu cấp
28 p | 777 | 213
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thảo luận nhóm trong dạy học môn Toán lớp 3 - Bùi Thị Giao Thủy
20 p | 658 | 121
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 đọc đúng, đọc diễn cảm
24 p | 571 | 119
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt lớp 2 phân môn kể chuyện
20 p | 589 | 112
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 2 trong phân môn Tiếng Việt
11 p | 595 | 100
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức học sinh trường tiểu học
9 p | 436 | 80
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt
15 p | 612 | 74
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giải bài toán BĐT
25 p | 309 | 70
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm khai thác triệt để mô hình để giảng dạy môn Sinh học lớp 7
17 p | 384 | 69
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kỹ năng học tốt môn tập làm văn ở lớp 5
13 p | 360 | 66
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số phương pháp giải phương trình mũ – phương trình Logarit
29 p | 352 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số sai lầm thường gặp của học sinh khi giải phương trình lượng giác cơ bản
13 p | 297 | 29
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giảng dạy lồng ghép giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản vị thành niên thông qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu - Môn Ngữ Văn - Lớp 12 chương trình chuẩn
51 p | 273 | 24
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao công tác nữ công trong trường Tiểu học
17 p | 20 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn