Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm về vai trò của người lớn trong việc phát triển năng lực xã hội cho trẻ em
lượt xem 1
download
Mục tiêu của sáng kiến kinh nghiệm này nhằm nâng cao nhận thức của phụ huynh về việc phát triển năng lực xã hội cho trẻ. Có những biện pháp nghiên cứu cụ thể, hiệu quả để nắm được thực trạng tâm thế, trí tuệ, kỹ năng học tập… của trẻ mẫu giáo lớn. Từ đó có những biện pháp phù hợp để cải thiện thực trạng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm về vai trò của người lớn trong việc phát triển năng lực xã hội cho trẻ em
- MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC XÃ HỘI CHO TRẺ 5 6 TUỔI TẠI TRƯỜNG MẦM NON HOA PHƯỢNG PHẦN I MỞ ĐẤU 1. Lý do chọn đế tài Con người mới trong thời ki công nghi ̀ ệp hoa – hi ́ ện đai hoa, giáo viên m ̣ ́ ầm non ngày càng phải đối mặt với các hành vi có vấn đề của trẻ. Nguyên nhân chủ yếu đó là người lớn càng dành ít thời gian hơn đối với trẻ để hiểu trẻ hơn, để biết trẻ cần gì và muốn những gì. Nhiều cha mẹ dành cho con thời gian rất ít, số lượng cha mẹ quá bận rộn với công việc tăng lên nhanh chóng chính vì vậy làm cho trẻ ít được tiếp xúc trò chuyện cùng bố mẹ dẫn đến trẻ ít có kinh nghiệm xã hội hơn. Biết xây dựng những mối quan hệ thân thiện là một kỹ năng sống rất cơ bản vì qua đây trẻ học được rất nhiều điều, ngoài việc nắm vững tri thức, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, có phẩm chất kỹ năng sống tốt thì cần phải có năng lực xã hội. Đặc biệt trong xu thế hội nhập với một xã hội không ngừng biến đổi hiện nay, đoi hoi con ng ̀ ̉ ười phai th ̉ ường xuyên ứng pho v ́ ới những thay đổi hang ngay c ̀ ̀ ủa cuộc sống, mục tiêu giáo dục không chỉ giup con ng ́ ười học để biết, học để làm mà còn học để làm người và học để cùng chung sống. Do đo, v ́ ấn đề phát triển năng lực xã hội cho học sinh lứa tuổi mầm non là vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết. Học sinh mầm non là những học sinh đang trong quá trình hình thành và phát triển các phẩm chất về nhân cách; những thoi quen c ́ ơ ban ch ̉ ưa có tính ổn định mà đang trong quá trình hình thành và củng cố. Chính vì vậy việc phát triển năng lực xã hội giup các em có th ́ ể sống một cách an toàn và khoe m ̉ ạnh biết bảo vệ bản thân là việc làm cần thiết. Chính những kết quả này se là c ̃ ơ sở, là nền tảng ́ ọc sinh phát triển nhân cách sau này, làm hành trang cho các cháu bước vào đời. giup h Từ lúc ra trường đến nay, tôi được phân công đứng mẫu giáo lớn. Là một trong những lứa tuổi cần phải chuẩn bị chu đáo một cách toàn diện về các mặt thể chất, trí
- tuệ, những phẩm chất đạo đức và một số kỹ năng cần thiết của hoạt động học tập nhằm giúp trẻ thích ứng với cuộc sống, với hoạt động học tập ở trường phổ thông. Thấy được sự cần thiết khi phải trang bị những năng lực xã hội cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non để phần nào giúp trẻ không phải lúng túng hay rụt rè khi tự phục vụ cho bản thân mình. Tuy nhiên, năng lực xã hội không phải tự nhiên có mà là kết quả của sự rèn luyện của mỗi người trong suốt cuộc đời, trong các mối quan hệ xã hội, dưới ảnh hưởng của giáo dục, trong đó giáo dục nhà trường có vai trò hết sức quan trọng. Giáo dục nhà trường tạo ra những cơ sở ban đầu quan trọng nhất cho sự phát triển nhân cách nói chung và năng lực xã hội của trẻ nói riêng. Ở trường mầm non, giáo dục năng lực xã hội là một yêu cầu tất yếu, là một hoạt động mang tính chất xã hội chính trị quan trọng. Nó gắn liền với cơ cấu vai trò nhiệm vụ giáo dục của nhà trường. Việc phát triển năng lực xã hội ở trường học sẽ giúp thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội tích cực cho trẻ; đồng thời tạo những tác động tốt đối với các mối quan hệ giữa thầy và trò, giữa các học sinh, bạn bè với nhau; giúp tạo nên sự hứng thú học tập cho trẻ đồng thời giúp hoàn thành nhiệm vụ của người giáo viên một cách đầy đủ hơn và đề cao các chuẩn mực đạo đức, góp phần nâng cao vị trí của nhà trường trong xã hội. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cùng với sự mở cửa, hội nhập quốc tế về quan hệ kinh tế, giao lưu văn hóa,… Giáo dục mầm non là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, chính vì vậy vai trò của nhà trường đối với việc phát triển năng lực xã hội cho học sinh càng trở nên có ý nghĩa. Là những người làm công tác giáo dục ở nhà trường mầm non, chúng ta cần có ý thức trách nhiệm trước vấn đề phát triển năng lực xã hội của học sinh, cần có những biện pháp quản lý và tổ chức hoạt động phát triển năng lực xã hội, đó là nhiệm vụ hết sức quan trọng của nhà trường. Để giúp giáo viên, cán bộ quản lý trường học Mẫu giáo Hoa Phượng có nhận thức và kiến thức thực hiện việc phát triển năng lực xã hội cho học sinh, nâng cao chất lượng phát triển năng lực xã hội, góp phần giáo dục toàn diện, giúp học sinh phát triển hài hòa cả về đức, trí, thể, mĩ, và lao động thực hiện mục tiêu của giáo dục, cần phải quan tâm hơn nữa hoạt động quản lý của nhà trường, đề ra được cách tổ chức, biện
- pháp nhằm giúp trẻ có thể lĩnh hội những kiến thức cơ bản cho mình. Đó chính là lý do mà tôi chọn đề tài : “ Một số kinh nghiệm về vai trò của người lớn trong việc phát triển năng lực xã hội cho trẻ em”. Hi vọng nhận được sự góp ý của đồng nghiệp. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ a) Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Trong công tác giáo dục trẻ mầm non hiện nay thì việc trang bị cho trẻ những kỹ năng cần thiết và đó không phải là nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp 5 tuổi mà là nhiệm vụ mỗi gia đình và của toàn xã hội. Từ đó nâng cao nhận thức của phụ huynh về việc phát triển năng lực xã hội cho trẻ. Có những biện pháp nghiên cứu cụ thể, hiệu quả để nắm được thực trạng tâm thế, trí tuệ, kỹ năng học tập… của trẻ mẫu giáo lớn. Từ đó có những biện pháp phù hợp để cải thiện thực trạng. b) Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Khái quát hóa trên cơ sở phân tích những tài liệu có liên quan và điều tra, khảo sát các bậc phụ huynh đến việc phát triển năng lực xã hội cần thiết từ đó phân tích, đánh giá để có những biện pháp thiết thực nhất nhằm giúp trẻ có một sức khỏe và một thể trạng tốt, nắm những kỹ năng cần thiết không bị áp lực hay gặp bất cứ một sức ép tâm lý nào ảnh hưởng đến việc học tập của trẻ sau này. 3. Đối tượng nghiên cứu Căn cứ vào yêu cầu của đề tài, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là phát triển năng lực cho trẻ 5 – 6 tuổi tại trường Mẫu giáo Hoa Phượng. 4. Giới hạn nghiên cứu Các cháu lớp lá 1 trường Mẫu giáo Hoa Phượng. 5. Phương pháp nghiên cứu Khi nghiên cứu tôi sử dụng các phương pháp sau đây:
- a, Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu: Sưu tầm các tài liệu, tìm sách, đọc báo, phân tích tổng hợp tài liệu để có cơ sở lý luận về việc chuẩn bị tốt cho trẻ để phát triển những kỹ năng xã hội cần thiết. b, Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra: Dùng phiếu điều tra để phỏng vấn giáo viên, phụ huynh học sinh và một số vấn đề liên quan đến việc phát triển năng lực xã hội cho trẻ. Phương pháp quan sát hoạt động của giáo viên,các cháu mẫu giáo lớn trường MG Hoa phượng: Tri giác, quan sát các hoạt động vui chơi, giao tiếp, hoạt động học tập của trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo lớn làm cứ liệu tham khảo để nghiên cứu. Quan sát các hoạt động của giáo viên trong công tác chăm sóc, giáo dục các cháu mẫu giáo lớn, quan sát hoạt động giảng dạy, tổ chức các loại hình hoạt động của giáo viên và các cháu ở trong trường. PHẦN II NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Bác Hồ đã nói: “ Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được như thế trước mắt phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt”. Qua đó ta thấy người giáo viên đóng vai trò quan trọng như thế nào để dìu dắt một thế hệ trở thành người tốt. Để làm được điều đó không phải ngày một ngày hai mà có thể thực hiện được và phải trải qua một quá trình mà đòi hỏi người giáo viên phải bền bỉ và kiên nhẫn. Và để đạt được những điều đó người giáo viên phải lựa chọn những nội dung, hình thức tổ chức và những phương pháp làm sao mà thực sự tác động đến vùng gần nhất của đứa trẻ. Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo rất hiếu động, tò mò, ham học hỏi thích khám phá thế giới tự nhiên và xã hội. Ở lứa tuổi này các yếu tố của hoạt động học tập đã xuất hiện tuy mới ở dạng sơ khai, nó chịu sự chi phối của hoạt động chủ đạo – hoạt
- động vui chơi làm cho hoạt động của trẻ mang những nét đặc trưng riêng. Trẻ thực sự học trong khi chơi, trẻ lĩnh hội các tri thức tiền khoa học trong trường mầm non qua vui chơi theo phương châm “ Học bằng chơi, chơi bằng học”. Đối với mầm non các môn học không phân riêng biệt như tiểu học mà luôn được tích hợp một cách có chủ đích trẻ được học qua chơi, qua trải nghiệm. Cho nên việc cho trẻ học đúng chương trình, đúng theo lứa tuổi là một việc làm rất cần thiết và đó là trách nhiệm không phải riêng ai, nhưng trách nhiệm cao cả và lớn lao nhất thuộc về những giáo viên mầm non. Vì họ là những người trực tiếp dạy dỗ trẻ, chuẩn bị cho các cháu có những kỹ năng sống cần thiết. Và họ phải làm sao để phụ huynh thấy được tầm quan trọng của việc phát triển năng lực xã hội là rất cần thiết. 2. Thực trạng Trẻ ở lúa tuổi mầm non rất hiếu động, ham tò mò và thích khám phá, thích làm những điều mình thích nhưng không biết rằng làm những việc đó có đung hay không. Nhưng chưa được người lớn quan tâm và thỏa mãn nhu cầu của trẻ, phụ huynh lúc nào cũng có suy nghĩ trẻ đến trường phải biết đọc chữ mà quên đi rằng việc chuẩn bị cho trẻ những kiến thức cơ bản về kỹ năng xã hội cũng không kém phần quan trọng. Bản thân tôi nhận thấy việc chuẩn bị những kỹ năng xã hội cần thiết cho trẻ là một việc làm quan trọng, chính vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu tìm ra nhũng biện pháp giúp cho phụ huynh hiểu được vấn đề từ đó đưa ra những hình thức, phương pháp phù hợp để giáo dục trẻ. Qua một năm nghiên cứu và vận dụng đề tài này có sự chuyển biến rõ rệt: Đối với trẻ: Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt 97% trở lên và ít gặp khó khăn khi đến lớp, trẻ có kỹ năng tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ghế khi ăn, tự treo khăn, tự chuẩn bị đồ dùng khi ăn như mang chén, muỗng…sau khi ăn xong trẻ tự biết cất đồ dùng và tự trải nệm khi ngủ. Đối với các bậc cha mẹ: Cha mẹ coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường. Phụ huynh đã có thói quen phối hợp với giáo viên trong
- việc dạy kỹ năng sống cho trẻ bằng cách phân việc cho trẻ như quyét nhà, dọn chiếu.. thay vì cưng chiều trẻ. Đối với giáo viên: Cô giáo chịu khó trò chuyện với trẻ nhiều hơn, trả lời những câu hỏi vụn vặt của trẻ, không la mắng đối xử công bằng với trẻ, giải quyết công bằng với mọi tình huống xảy ra giữa các trẻ trong lớp. Chính vì chuẩn bị tốt về mặt tâm lý cũng như thể trạng và các kỹ năng học tập nên kết quả là một số cháu đã được đi thi vở sạch chữ đẹp và thi làm toán trên mạng… 3. Nội dung và hình thức của giải pháp a) Mục tiêu của biện pháp Khi thực hiện biện pháp này nhằm mục đích làm cho giáo viên có sự chủ động hơn trong công tác giảng dạy của mình. Lựa chọn những hình thức tổ chức cho phù hợp với tình hình của lớp mình. Giúp cho giáo viên thấy được tầm quan trọng của việc phát triển năng lực xã hội. Và quan trọng hơn là giúp cho phụ huynh thấy được tầm quan trọng khi trang bị cho trẻ những kỹ năng cần thiết. b) Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp Biện pháp 1: Tạo niềm vui ở trẻ khi có bạn Trẻ cần được động viên tìm kiếm bạn, Chúng cần hiểu rằng có bạn là một điều tuyệt vời và biết lợi ích của việc có bạn, bạn là người giúp mình khi cảm thấy cô đơn, khi mình gặp phiền toái, khi mình khó khăn hay cô đơn bạn sẽ là người động viên mình và ở bên cạnh mình. Trẻ cũng hiểu rằng nếu mình quan tâm đến người khác, người khác cũng sẽ quan tâm đến mình. Nói rộng ra, nếu trẻ giúp đỡ, chia sẻ, biết chờ đến lượt và thể hiện sự tốt bụng, thì bạn sẽ thể hiện hành động giống như chúng. Điều này cũng liên quan đến cả sự phát triển đạo đức của trẻ. Những đứa trẻ có được sự nhận thức xã hội tốt thường xuất thân từ những gia đình có hành vi xã hội mẫu mực và chúng được hướng dẫn cách quan tâm chăm sóc người khác. Sau này chúng hành động theo những gì mà chúng đã thấy.
- Những đứa trẻ không được chấp nhận thỉnh thoảng cũng cố gắng tham gia vào trò chơi, song thường chúng không biết cách bắt đầu như thế nào cho hợp lý hoặc cố gắng gây sự chú ý của bạn nhưng không đạt kết quả. Những đứa trẻ này không hiểu và không tuân theo các nguyên tắc của bạn bè trong các mối quan hệ. Giáo viên nên tận dụng những tình huống xảy ra trong quá trình chơi của trẻ để dạy trẻ những kỹ năng biết hợp tác, chia sẻ cùng bạn. Ví dụ: Một trẻ đang loay hoay một mình với bộ đồ lắp ráp người máy, cháu đang rất cố gắng nhưng vẫn không thể ráp được, giáo viên nên gợi ý để trẻ rủ thêm bạn cùng chơi. Trong giờ hoạt động vui chơi , nếu quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy vô vàn những tình huống xảy ra. Vì vậy giáo viên nên quan tâm và suy nghĩ để tìm ra những biện pháp kịp thời xử lý tình huống, điều chỉnh hành vi cho trẻ, giúp trẻ có thói quen tốt, biết được cái nào nên làm và cái nào không nên làm. Do đó vai trò của giáo viên và phụ huynh là rất quan trọng, giáo viên cần cho phụ huynh thấy được những lợi ích của việc có bạn còn phụ huynh cần cho trẻ hiểu rằng bạn bè là tuyệt vời, là người rất cần thiết cho cuộc sống để từ đó phát triển tình bạn ở trẻ. Biện pháp 2: Sử dụng tình huống có vấn đề nhằm hình thành cho bé một số kỹ năng cần thiết. Một trong những kỹ năng cần hình thành ở trẻ, đó là giúp các bé có khả năng biết từ chối, kỹ năng biết xử lý tình huống khi bé cảm thấy không an toàn. Giáo viên có thể thiết kế một số tình huống để tập cho trẻ tự giải quyết vấn đề. Những tình huống này được sử dụng xuyên suốt trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Ví dụ: Cô kể cho trẻ nghe mẩu chuyện Hôm nay sau giờ tan học, Hà đang chờ mẹ đón về, cô bé rất lo lắng khi chờ mãi mà không thấy mẹ tới, nhân lúc đó cô giáo không để ý và Hà đã chạy thật nhanh ra cổng để đón mẹ. Bỗng có một người phụ nữ xuất hiện và đưa cho Hà một gói bánh và nói với Hà hãy đi theo cô nhà cô con có rất nhiều bánh ngon nữa….. Sau khi kể cho trẻ nghe mẩu chuyện đó, cô có thể hỏi trẻ một số câu hỏi để trẻ giải quyết tình huống.
- + Con có được tự ý chạy ra khỏi lớp khi chưa có sự đồng ý của cô không? Vì sao? + Nếu là con con có đi theo người đàn bà đã cho con bánh hay không? Vì sao? Một số yếu tố khác cũng góp phần để trẻ phát triển một số kỹ năng cần thiết đó chính là tạo cơ hội để trẻ thảo luận về các kỹ năng trong xã hội. Nếu giáo viên muôn trẻ giúp đỡ, quan tâm đến người khác, biết tự bảo vệ mình thì trẻ phải được khuyến khích giải quyết vấn đề. Trẻ cần được phát triển khả năng suy nghĩ về vấn đề xảy ra và tự giải quyết chúng. Có như vậy mới phát triển được các kỹ năng giải quyết vấn đề. Cho trẻ tham gia vào tình huống và giải quyết những tình huống đó dần dần chúng sẽ học được nhiều điều và đó sẽ là những kiến thức quý báu để hình thành những kỹ năng cần thiết cho trẻ. Biện pháp 3: Hướng dẫn cha mẹ về nội dung và cách rèn luyện kỹ năng cần thiết cho trẻ. Tuổi mầm non là giai đoạn mà trẻ học về mình và học cách hành động với người khác. Chúng không thể tự biết cần phải làm gì. Chính vì vậy, bố mẹ là những người làm gương quan trọng nhất của con cái. Nhiều người đã bỏ qua những cơ hội đơn giản và thuận lợi hàng ngày để hướng dẫn con những thói quen tốt để rồi sau đó lại mất thời gian bắt con phải học những điều này ở một nơi khác với những người xa lạ. Cho nên việc phối hợp với phụ huynh trong việc giáo dục hình thành kỹ năng xã hội là vô cùng cần thiết cho trẻ. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, bất cứ phụ huynh nào cũng cảm thấy lo lắng bởi tác động của cuộc sống hàng ngày tới các con. Cha mẹ mong muốn giáo dục con cái thành người tài giỏi, nhưng liệu những phương pháp mà cha mẹ đang sử dụng đã phù hợp hay chưa?. Điều quan trọng là người lớn cần nhận thức về những điều mình làm, những hành động của mình. Cần nhớ rằng trẻ luôn ghi nhớ và copy những điều người lớn làm Để dạy con nên người, cha mẹ nào cũng có những bí quyết dạy con riêng, nhưng đa số chúng ta đều đang sử dụng biện pháp theo đám đông, hoặc đem suy nghĩ cách nhìn
- của mình để áp đặt vào con cái. Có rất nhiều phụ huynh cảm thấy băn khoăn vì sao con cái của mình khi mới sinh ra ngoan ngoãn và dễ dạy bảo như vậy, mà bây giờ thì bướng bỉnh, mải chơi? Trong tâm lý của bất cứ phụ huynh nào cũng đều có những câu hỏi : Tại sao con hư? Tại sao trẻ lười học? Và cha mẹ không ngần ngại học hỏi phương pháp của bạn bè, sách vở để tìm ra cách dạy dỗ con cái ? Làm sao để dạy con nên người? Tuy nhiên, những biện pháp đó liệu có phù hợp hay không khi mà mỗi đứa trẻ lại có những đặc điểm tính cách khác nhau, và mỗi độ tuổi lại cần một biện pháp giáo dục mang tính đặc thù. Có thể nói, trong giáo dục con cái, mọi sự ép buộc của cha mẹ đều không mang lại hiệu quả gì. Do đó thay vì cha mẹ quát mắng con, bắt buộc con và giám sát để con cái học hành thì cha mẹ cần hiểu rằng: Giáo dục con cái trong thời đại ngày nay, cần dạy tính cách cho con thay vì dạy hành vi, hành động. Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ cần bắt đầu ngay từ khi các em còn đang hình thành thói quen, phản xạ. Có bao giờ bạn băn khoăn tự hỏi : Tại sao trẻ em ngày xưa ở độ tuổi đó đã có thể giúp đỡ cha mẹ việc nhà, trông em, học hành chăm chỉ? Hoặc tại sao trẻ em ở nông thôn vất vả hơn nhưng trái lại học hành rất tốt, và thường đỗ đạt? Vậy tại sao trẻ em tại các thành phố, các gia đình có điều kiện lại dễ bị hư hỏng hơn. Các em có quá nhiều điều kiện vật chất tốt, thì lại dễ dàng hư hỏng, đua đòi theo bạn bè, thậm trí bỏ nhà đi bụi…Tất cả những điều đó đều xuất phát từ việc cha mẹ không nắm bắt được tâm lý trẻ, và không trang bị cho trẻ những kỹ năng xã hội cần thiết theo độ tuổi. Xã hội tác động vào các em hàng giờ, hàng ngày, trong khi giáo dục của cha mẹ lại chỉ mang tính chất lý thuyết, thậm chí có nhiều cha mẹ nghe nói có trung tâm dạy kỹ năng sống hè là đăng kí cho con theo học mà không hiểu rằng : kỹ năng sống cần trang bị thường xuyên chứ không phải một hai ngày. Thử hỏi, sau một vài ngày hè học kỹ năng theo kiểu tập trung, xô bồ, các con của bạn đọng lại điều gì? Khi tiếp xúc với bạn bè, với những thói hư tật xấu liệu các em có đủ bản lĩnh để đối phó, bước qua? Sau nhiều năm nghiên cứu, các chuyên gia WedoWegood khẳng định: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em cần có sự kết hợp giữa cha mẹ và nhà trường. Đó là quá trình
- giáo dục thường xuyên từ suy nghĩ, hành vi, lối sống, và hoạt động. Dạy kỹ năng sống cho học sinh không phải là bài giảng lý thuyết dài, hay những trò chơi mang tính vui vẻ., mà đó là sự trải nghiệm, hành trình khám phá những cá thể khác nhau. Điều quan trọng nhất trong việc học kỹ năng đó là chính bản thân các em phải có sự khám phá từ sâu bên trong mình, phát hiện ra đâu là ưu điểm, đâu là nhược điểm của bản thân. Từ đó thông qua tình huống thực tế, quá trình trải nghiệm để bản thân trở nên vững vàng, biết cách xử lý mọi tình huống, cũng như chính các em phải tìm ra ước mơ của mình, và cách thức thực hiện đạt được ước mơ đó. Cha mẹ là những người có thể dạy kỹ năng xã hôi cho con nhiều nhất và hiệu quả nhất thông qua bài học về cuộc sống hàng ngày. Mọi sự giáo dục đều lấy nền tảng giáo dục gia đình làm cốt lõi. Cha mẹ mong muốn con nên người, cha mẹ mong muốn con thành người tài giỏi, con vâng lời, con tiến bộ trong học tập… Hãy giáo dục cho con những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống hiện đại: Đó là bài học về lòng tin, sự linh hoạt trong giao tiếp, kỹ năng ứng phó và giải quyết khó khăn, các kỹ năng mềm, phương pháp tư duy học tập hiệu quả….Giáo dục kỹ năng cần có những bài học thực tế, nhằm giúp trẻ trải nghiệm và đặt mình vào chính hoàn cảnh đó, và đưa ra phương pháp giải quyết vấn đề một cách linh hoạt. Chính vì vậy vai trò của các bậc phụ huynh rất quan trọng trong việc phát triển một số kỹ năng cần thiết cho cuộc sống của trẻ, cho nên vai trò của người giáo viên cũng rất quan trọng trong việc tuyên truyền các bậc phụ huynh cần chú ý hơn và tận dụng những điều đơn giản ở nhà để góp phần hình thành kỹ năng cho trẻ. Ví dụ: Giáo viên có thể thông qua cuộc họp phụ huynh, giáo viên cần trao đổi những nội dung ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện và mang tính thuyết phục cao. Giáo viên có thể kể những mẩu chuyện vui, hấp dẫn, nhẹ nhàng, chứa đựng những bài học bổ ích về cách nuôi dạy trẻ. Ví dụ trong câu chuyện “ Qủa trứng” Cậu bé 6 tuổi đang háo hức chờ mẹ bóc vỏ quả trứng cho ăn. Vừa cầm quả trứng lên thì chuông điện thoại reo, sau khi nghe điện thoại, người mẹ vội vàng ra khỏi nhà, trước khi đi bà mẹ dặn cậu con trai, con ở nhà và tự ăn trứng đi nhé, mẹ có việc phải đi
- ra ngoài ngay bây giờ”. Đến trưa khi bà mẹ về thì quả trứng vẫn còn y nguyên trên bàn. Bà mẹ hỏi tại sao con không ăn trứng”. Cậu bé mếu máo trả lời: “con rất đói, con rất muốn ăn nhưng chẳng có ai bóc trứng cho con ăn cả mẹ ạ”. Bà mẹ nhìn con bỡ ngàng bối rối…và bà đã hiểu ra một điều gì đó. Thông qua câu chuyện ngắn gọn trên, phụ huynh sẽ tự đúc rút ra cho mình một kinh nghiệm trong cách hình thành kỹ năng cho trẻ. Giáo viên nên khuyến khích cha mẹ tạo điều kiện cho trẻ được làm những việc mà khi chúng có thể tự làm, trẻ sẽ cảm thấy vui và thoải mái. Cha mẹ tạo cơ hội để trẻ tự phục vụ bản thân như: Tự rửa mặt, chải răng, thay quần áo, tự chọn quần áo, đồ dung cá nhân chuẩn bị đi học…. Người lớn dạy trẻ số điện thoại của bố mẹ và số điện thoại cần thiết khác như là công an, cứu hỏa, cấp cứu để trẻ có thể tự bảo vệ bản thân trong những trường hợp nguy hiểm. Hãy cho trẻ chơi và bày đồ chơi theo ý thích của trẻ, đừng bao giờ cấm đoán hay la mắng trẻ. Điều quan trọng là hãy để trẻ tự thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong. Cha mẹ có thể cùng thu dọn nhưng tuyệt đối không bao giờ làm thay cho trẻ. Trong các dịp tết lễ, cha mẹ nên tạo cơ hội khuyến khích trẻ tham gia dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa, phụ ông bà lau lá bánh chưng, bánh tét, cùng bố trang trí cây mai, cây quất, hay đi chợ cùng mẹ…. Biện pháp 4: Hình thành kỹ năng xã hội cho trẻ mọi lúc, mọi nơi Trong cuộc sống hàng ngày có rất nhiều cơ hội để trẻ tương tác xã hội. Các rắc rối thường xuất hiện khi trẻ phải giải quyêt vấn đề. Trẻ có thẻ tự độc lập giải quyết vấn đề hoặc cần được giúp đỡ khi cần. Giáo viên cần tận dụng những lần đụng độ này như là những cơ hội để giúp trẻ hiểu được những cảm xúc của chúng và cảm xúc của người khác. Việc hình thành kỹ năng xã hội cho trẻ không phải một sớm một chiều mà nó nó là một quá trình dài và đòi hỏi rất nhiều thời gian để rèn luyện. Đó là một sự lặp đi lặp lại một thao tác, một hành vi nào đó, dần dần nó sẽ trở thành kỹ năng đối với trẻ.
- Những kỹ năng đầu tiên và quan trọng nhất của đứa trẻ luôn được tiếp nhận và rèn luyện trong một môi trường tự nhiên, đó chính là môi trường tự nhiên trong xã hội. Ở trường mầm non dưới sự hướng dẫn của giáo viên sẽ góp phần không nhỏ trong việc hình thành kỹ năng cho trẻ. Giáo viên tận dụng các thời điểm trong ngày, bất cứ khi nào có cơ hội và cảm thấy trẻ hứng thú. Ví dụ: Khi có một vài trẻ đang chờ đến lượt để chơi đu quay và một trẻ khác ở đâu chạy đến xếp ngay ở đầu hàng, lúc này giáo viên có thể nêu các hành động đúng thông qua lời nhận xét: Khi chơi thì chúng ta phải chờ đến lượt vì nếu mọi người không chờ đến lượt của mình thì những bạn đang chờ sẽ không chơi được và các bạn sẽ cảm thấy buồn. Không có đứa trẻ nào sinh ra đã là đứa trẻ hư, không có học sinh nào bản chất là học sinh cá biệt, mọi đứa trẻ nếu được nhận phương pháp giáo dục phù hợp đều sẽ nên người. Điều quan trọng hình thành kỹ năng cho trẻ là phụ thuộc vào cách dạy dỗ con cái của các bậc phụ huynh và phương pháp trang bị kiến thức về cuộc sống của cha mẹ, các cô giáo dành cho trẻ. c) Mối quan hệ giữa các biện pháp Tất cả các biện pháp khi dạy kỹ năng sống cho trẻ đều quan trọng và luôn hỗ trợ cho nhau. d) Kết quả khảo nghiệm Để có được kết quả khảo sát tôi sử dụng các phương pháp quan sát trẻ để theo dõi một cách có kế hoạch, có hệ thống và phân tích những thông tin mình thu thập được. Đánh giá thông qua quan sát các hoạt động của trẻ được thực hiện thường xuyên, liên tục và có những tác dụng nhất định như: Giúp giáo viên thấy được hành động và quá trình hoạt động của trẻ từ đó dễ dàng quan sát các hoạt động của trẻ hàng ngày, các sản phẩm của trẻ thông qua các hoạt động như: Đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch, tạo hình và các hoạt động khác. Đánh giá thông qua nhật ký của lớp và thông qua ý kiến của phụ huynh. Sau khi thu thập thông tin và đã có những bài tập và câu hỏi đánh giá trẻ để xem khi thực hiện các giải pháp này thì trẻ đã học được những gì, tiếp thu được những
- gì, giáo viên đã làm được gì sau khi sử dụng các phương pháp đó thì tôi đã có kết quả như sau. KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM Được biểu hiện qua bảng sau Mức độ Kỹ năng Đầu năm Cuối năm Tăng SL % SL % S L % * Kỹ năng giao tiếp có hiệu quả 5 21,7 11 47,8 6 26 Biết khởi xướng và duy trì cuộc trò chuyện, chờ đến lượt khi trò chuyện với người khác. 7 30,4 9 39,1 2 * Kỹ năng xã hội 8,6 Trẻ biết chia sẻ đồ chơi với bạn, biết nhường nhịn nhau khi chơi, biết chờ đến lượt giúp đỡ người khác cùng làm, biết an ủi bạn khi bạn có chuyện buồn. 9 39,1 3 13 *Kỹ năng giao tiếp Trẻ mạnh dạn, tự tin khi giao 2 8,6 0 0 tiếp với người lớn, có khả năng tập trung chú ý, ghi nhớ và lắng nghe. Lúc đầu khi chưa sử dụng phương pháp đưa một số kỹ năng xã hội lồng ghép vào trong tiết dạy, dạy trẻ mọi lức mọi nơi thì một số cháu còn rụt rè, nhút nhát nhưng khi sử dụng phương pháp này trẻ học tích cực hơn, các cháu có tính tự lập, chủ động trong các hoạt động và kết quả cháu tiếp thu lượng kiến thức cũng cao hơn. Khi được trang bị tốt các kỹ năng cần thiết trước khi vào lớp 1 thì tỉ lệ trẻ học sinh giỏi tăng và có một số cháu được chọn đi thi vở sạch chữ đẹp hay thi làm toán trên mạng. Giá trị khoa học: Với đề tài này giúp cho quá trình dạy học của cô không bị gò bó, không mang tính chất áp đặt như trước. Và qua đây giáo viên có thể phát huy được khả năng sáng tạo của mình thông qua việc làm đồ dùng đồ chơi, thông qua việc tìm tòi trau dồi
- thêm hiểu biết cho bản thân. Trẻ được học một cách nhẹ nhàng và làm thỏa mãn nhu cầu được chơi, được học, được làm mọi việc của trẻ. Hình thành kỹ năng sống cho trẻ góp phần gúp cho giáo viên bớt đi những công việc đơn giản hàng ngày để trẻ được lao động tự phục vụ cho bản thân. PHẦN III KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Chuẩn bị cho trẻ kỹ năng sống là việc làm cần thiết cấp bách, phải được tiến hành một cách nghiêm túc. Chính vì vậy cần nắm vững nội dung và tầm quan trọng của việc chuẩn bị kỹ năng sống cho trẻ. Chuẩn bị cho trẻ vốn tri thức, biểu tượng và kỹ năng thực hiện hoạt động trí óc nhất định. Hình thành cho trẻ kỹ năng điều khiển hành vi của mình, biết điều khiển hành động cử chỉ việc làm phù hợp với yêu cầu chung của xã hội, của gia đình, của nhà trường, tập thể lớp. Hình thành những động cơ kích thích trẻ học tập, làm cho trẻ thích đi học, muốn được học và xem đó là một công việc thích thú, hấp dẫn, quan trọng cần phải làm. Cần hướng dẫn trẻ các kỹ năng vận động khéo léo đôi bàn tay, giúp trẻ diễn đạt ngôn ngữ rõ ràng, mạch lạc. 2. Kiến nghị Để thực hiện tốt đề tài này chúng tôi những người làm công tác giáo dục trực tiếp đứng lớp giảng dạy trên địa bàn có cả dân tộc thiểu số, một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình, còn một số phụ huynh lại quá coi trong việc học của con em mình mà lại quên đi rằng chuẩn bị kỹ năng sống cho trẻ cũng là một trong những việc làm hết sức quan trọng và cần phải được tiến hành thường xuyên và liên tục. Để chuẩn bị kỹ năng sống cho trẻ ngày càng tốt hơn, hứng thú hơn rất mong các cấp lành đạo quan tâm hơn nữa trong việc mở các buổi tập huấn về rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ, bổ sung thêm trang thiết bị, đồ dùng cho các môn học để phục vụ cho các tiết dạy được tốt hơn. Bản thân tôi sẽ luôn cố gắng và cố gắng hơn nữa trong việc làm thêm đồ dùng, đồ chơi và tạo mọi điều kiện để trẻ tiếp
- thu bài được tốt hơn. Cố gắng tuyên truyền để các bậc cha mẹ phụ huynh hiểu được tầm quan trọng khi chuẩn bị kỹ năng sống cho trẻ. Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, mặc dù được sự giúp đỡ của ban giám hiệu nhà trường và các chị em đồng nghiệp nhưng không tránh khỏi những thiếu sót rất mong được sự đóng góp ý kiến của ban lãnh đạo cấp trên để sáng kiến đạt kết quả cao hơn. Buôn Trấp, ngày 20 tháng 3 năm 2017 Người viết Nguyễn Thị Như Ngọc
- NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM CẤP TRƯỜNG ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
- NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………
- PHỤ LỤC PHẦN I MỞ ĐẤU 1. Lý do chọn đế tài 2. Mục tiêu, nhiệm vụ a) Mục tiêu nghiên cứu của đề tài b) Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3. Đối tượng nghiên cứu. 4. Giới hạn nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu PHẦN II NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận 2. Thực trạng 3. Các biện pháp a) Mục tiêu của biện pháp b) Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp Biện pháp 1: Tạo niềm vui ở trẻ khi có bạn Biện pháp 2: Sử dụng tình huống có vấn đề nhằm hình thành cho bé một số kỹ năng cần thiết.
- Biện pháp 3: Hướng dẫn cha mẹ về nội dung và cách rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ. Biện pháp 4 Hình thành kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc, mọi nơi c) Mối quan hệ giữa các biện pháp d) Kết quả khảo nghiệm PHẦN III KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận 2. Kiến nghị TÀI LIỆU THAM KHẢO STT Tên tài liệu Tác giả 1 Tổ chức hoạt động giáo dục cho trẻ ở Nguyễn Thị Hằng trường mầm non. 2 Sưu tầm các tài liệu có liên quan đến đề Tập thể giảng viên trường tài trong quá trình học tại trường Cao cao đẳng sư phạm TW đẳng SPTW Nha Trang. Nha Trang 3 Sách nghiên cứu khoa học Tập thể giáo viên trường cao đẳng sư phạm TW Nha Trang 4 Tạp chí giáo dục mâm non Bộ giáo dục và đào tạo
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm nâng cao công tác chủ nhiệm học sinh lớp 5
14 p | 2592 | 686
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn học vần cho học sinh lớp 1 trường tiểu học Mỹ Phước D
50 p | 2695 | 408
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn tập làm văn
10 p | 2122 | 376
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kĩ năng học tốt môn tập làm văn ở lớp 5
11 p | 1174 | 281
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đầu cấp
28 p | 777 | 213
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thảo luận nhóm trong dạy học môn Toán lớp 3 - Bùi Thị Giao Thủy
20 p | 658 | 121
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 đọc đúng, đọc diễn cảm
24 p | 571 | 119
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt lớp 2 phân môn kể chuyện
20 p | 589 | 112
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 2 trong phân môn Tiếng Việt
11 p | 595 | 100
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức học sinh trường tiểu học
9 p | 436 | 80
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt
15 p | 612 | 74
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giải bài toán BĐT
25 p | 309 | 70
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm khai thác triệt để mô hình để giảng dạy môn Sinh học lớp 7
17 p | 384 | 69
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kỹ năng học tốt môn tập làm văn ở lớp 5
13 p | 360 | 66
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số phương pháp giải phương trình mũ – phương trình Logarit
29 p | 352 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số sai lầm thường gặp của học sinh khi giải phương trình lượng giác cơ bản
13 p | 297 | 29
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giảng dạy lồng ghép giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản vị thành niên thông qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu - Môn Ngữ Văn - Lớp 12 chương trình chuẩn
51 p | 273 | 24
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao công tác nữ công trong trường Tiểu học
17 p | 21 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn