intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số phương pháp sử dụng phương tiện dạy học Địa lí lớp 8

Chia sẻ: Hoàng Nhật Linh Linh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:86

344
lượt xem
65
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số phương pháp sử dụng phương tiện dạy học Địa lí lớp 8 giới thiệu tới các bạn phương pháp dạy Địa lí phát huy tính tích cực tự giác của học sinh trong quá trình dạy và học bằng việc vận dụng Bản đồ tư duy. Mời các bạn tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số phương pháp sử dụng phương tiện dạy học Địa lí lớp 8

  1. Sáng kiến kinh nghiệm Địa lí 8                    Một số PP sử dụng phương tiện dạy học địa lí lớp 8. I.ĐẶT VẤN ĐỀ : 1. Yêu cầu của ngành :   Trong bối cảnh hiện nay toàn ngành giáo dục đang nổ lực thực hiện đổi mới phương   pháp dạy học, theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. NQ  TW 2 khoá 8 tiếp tục khẳng định “Phải đổi mới phương pháp giáo dục và đào tạo  khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người  học. Từng bước áp dụng các phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học...”.    Định hướng đó đã được pháp chế trong luật giáo dục “Phương pháp giáo dục phổ  thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc  điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp dạy học, rèn luyện kĩ năng  vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú  học tập cho học sinh” Cần chuyển từ “Dạy học lấy giáo viên làm trung tâm” sang  “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”, phải tích cực hoá các hoạt động của học sinh,  khơi dậy cho các em tính khao khát, tìm tòi, nghiên cứu, cố gắng phát huy trí tuệ và  nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức. Để thực hiện điều này đòi hỏi mỗi  nhà trường, mỗi giáo viên phải có những bước chuyển biến rõ nét trong việc cải tiến  phương pháp dạy và học. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá cần giáo dục thế  hệ trẻ trở thành những con người “Năng động sáng tạo – Có năng lực giải quyết vấn  đề” Những con người tự tin có trách nhiệm, có những hành động phù hợp với giá trị  nhân văn và công bằng xã hội. Cần thực hiện giảng dạy trên lớp với nhiều phương  pháp phù hợp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.   Năm học 2008 – 2009 là năm học đầu tiên Bộ Giáo dục ­ đào tạo triển khai thực  hiện mô hình xây dựng “Nhà trường thân thiện học, học sinh tích cực”.Đây là mô hình   cải thiện linh hoạt các hoạt động thường ngày của nhà trường nhằm làm cho các hoạt   động giáo dục trở nên nhẹ nhàng, vui tươi, nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng  trong giáo dục, phù hợp với nhu cầu và cuộc sống tại địa phương, tạo tâm lý cho  người học được thoải mái, gắn liền với việc bảo vệ gìn giữ các giá trị văn hoá truyền   thống, bảo đảm cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, các nguồn lực cần thiết, phù hợp với   học sinh. 2. Thực trạng :   Trong năm học vấn đề sử dụng phương tiện dạy học, đặc biệt là bản đồ giáo khoa,  tranh ảnh, các mẫu vật của bộ môn địa lí được thực hiện ở chương trình địa lí lớp 8 .  Đây là một chương trình giúp các em hiểu sâu về địa lí tự nhiên – kinh tế xã hội Việt  Nam, và liên hệ các châu lục, các quốc gia trên thế giới. Khi đã hiểu rõ, nắm chắc các   kiến thức đó các em sẽ có cơ sở áp dụng các biện pháp để khai thác kiến thức từ bản  đồ giáo khoa, giúp các em hiểu rõ hơn về tự nhiên con người các quốc gia trên thế  giới, càng có ý nghĩa hơn khi các em được học về tự nhiên kinh tế xã hội của Việt  Nam, tạo điều kiện cho hoạt động học tập và lao động có hiệu quả và chất lượng,  đáp ứng yêu cầu khi đất nước mở cửa hội nhập.   Trước đây khi chưa thực hiện đồng bộ kết hợp nhiều phương pháp dạy trên lớp. Kết  
  2. quả học tập chưa đạt hiệu quả tối ưu. Phần lớn giáo viên chưa chú trọng khâu chuẩn   bị : Soạn bài, bản đồ, tranh ảnh, các mẫu vật, mô hình, sơ đồ nhất là các hình động  trên máy tính. … nên kết quả của một giờ lên lớp chưa cao. Qua những năm tháng  giảng dạy tôi thấy : Nếu chỉ sử dụng các phương pháp giảng dạy đơn thuần giáo viên  hướng dẫn các em quan sát mà không đi sâu vào phương pháp hướng dẫn các em cách  quan sát sử dụng bản đồ, mẫu vật thật, mô hình, thì các em chỉ như cái máy nhớ rồi  lại quên không khắc sâu được kiến thức cho các em . 3. Giải pháp đã sử dụng :   Trong một giờ học áp dụng nhiều phương pháp để đạt hiệu quả cao nhất, cần phối  hợp đồng bộ giữa các phương pháp với nhau để học sinh nắm chắc kiến thức ngay  tại lớp, bằng các kiến thức mình tự tìm tòi và cùng nhóm xây dựng lên, chứ không phải   là kiến thức mà thầy cô truyền thụ cho mình. Trong đề tài này phương pháp chủ yếu  tôi muốn cùng đồng nghiệp chúng ta quan tâm đến đó là : Phương pháp phát huy tính  tích cực, chủ động tìm tòi kiến thức của học sinh, qua các dạng bản đồ, hình ảnh, mô  hình, tranh ảnh, mẫu vật cụ thể để các em tự xác định được.   Làm thế nào để các em tiếp thu bài ngay trên lớp, hiểu sâu về kiến thức đòi hỏi  người GV phải có nhiều phương pháp giảng dạy để giúp các em học tập năng động  thoải mái sáng tạo, phát huy trí thông minh của các em. Đó là lý do tôi muốn trao đổi  với các bạn đồng nghiệp kinh nghiệm :“ phương pháp dạy tốt môn địa lí lớp 8” I.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ : 1. Cơ sở lý luận :   Để góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo học sinh thành những con người  năng động, độc lập và sáng tạo, tiếp thu được những tri thức khoa học, kỹ thuật hiện  đại, biết vận dụng tìm ra các giải pháp hợp lí cho những vấn đề trong cuộc sống của  bản thân và xã hội. Thì việc giảng dạy học sinh vận dụng những kiến thức đã học vào   thực tế là điều thầy cô mong muốn.   Với nội dung học tập của môn Địa lí 8 chứa đựng cả một kho tàng kiến thức sinh  động và phong phú, hấp dẫn, dễ kích thích tính tò mò ham hiểu biết của học sinh, tạo  điều kiện cho việc hình thành động cơ, nhu cầu nhận thức cũng như hứng thú học tập  của học sinh. Địa lí là môn khoa học của các môn khoa học, tri thức địa lí chủ yếu  được hình thành bằng các phương pháp quan sát, mô tả thực nghiệm, thực hành,  tưởng tượng, liên hệ địa phương... Muốn thực hiện các bài học trên lớp. Giáo viên  phải là người hướng dẫn các em chủ động trong giờ học. Qua thực tế hiện nay để  đạt một giờ dạy tốt là cả một vấn đề mà mỗi thầy cô chúng ta cần quan tâm : Có  những giờ dạy rất thành công, nhưng cũng có những giờ dạy chưa đạt được mục đích  của bản thân mỗi giáo viên đứng lớp. Vì những cơ sở trên đây tôi muốn trao đổi với  các bạn tìm ra những phương pháp tối ưu nhất để các giờ dạy địa lí đạt kết quả cao  nhất. 2. Giả thuyết :   Trong chương trình SGK lớp 8 có 2 nội dung chính đó là phần tự nhiên ­ kinh tế Châu   Á và Tự nhiên Việt Nam. Dù là dạy địa lí các châu hay địa lí Việt Nam chúng ta cũng  cần hình thành cho các em học sinh những nội dung cơ bản sau : ­Về kiến thức : Cần nắm những kiến thức cơ bản nào? ­Về kỹ năng : Cần rèn luyện kỹ năng gì ? ­Về thái độ : GD học sinh về thái độ … ­> tìm ra biện pháp thực hiện.
  3.   Trong các giờ lên lớp những bài dạy nào có bản đồ, tranh ảnh, mẫu vật thật là tốt  nhất vì học sinh không thể đi đến tận nơi, thấy tận mắt tất cả những nơi trên bề mặt  của trái đất, hay ở Việt Nam để quan sát thực tế địa phương.... Ví dụ : Dạy bài “Đặc điểm tài nguyên khoáng sản Việt Nam” . Giáo viên sử dụng bản đồ tự nhiên Việt Nam bản đồ khoáng sản Việt Nam, mẫu vật  khoáng sản Việt Nam, bản đồ trống Việt Nam. Học sinh quan sát. Tài nguyên khoáng sản : ­ Việt Nam có khoảng 5000 điểm tụ và quặng khoáng sản với 60 loại khác nhau. ­ Các khoáng sản có trữ lượng lớn như: + Than, dầu mỏ, apatít, đá vôi, sắt, crôm, đồng thiếc, bô xít.... Với những bài dạy không có bản đồ, mẫu vật để quan sát . Giáo viên cho học sinh  quan sát tranh ảnh, bảng số liệu có đủ thời gian để quan sát. Có thể đưa ra yêu cầu  trước hoặc cho học sinh quan sát xong mới đưa yêu cầu. Ví dụ : Dạy bài “Đặc điểm tài nguyên khoáng sản Việt Nam” . Yêu cầu cho học sinh quan sát lược đồ khoáng sản Việt Nam treo tường và sách giáo  khoa, để nhận xét nguồn tài nguyên khoáng sản, sự phân bố, trữ lượng các loại  khoáng sản của nước ta.   Sau khi đã xác định được mục tiêu của bài ta thấy cần áp dụng những phương pháp  nào cho phù hợp. Tuỳ theo mỗi bài dạy có những phương pháp khác nhau áp dụng ở  mỗi lớp khác nhau. Tuy vậy nhưng ở chương trình lớp 8 những phương pháp tôi cho là   phù hợp có thể áp dụng được để giảng dạy đạt hiệu qủa, đó là : + Quan sát lược đồ, mẫu vật, mô hình, băng hình, tranh ảnh. + Phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. + Phương pháp hoạt động nhóm : Phát huy tính chủ động tìm tòi, tìm ra những kiến  thức mới của học sinh. + Phương pháp kiểm tra đánh giá. a.Hướng dẫn học sinh quan sát : Bản đồ, sơ đồ, biểu đồ,mẫu vật, hình ảnh động trên  màn hình, tranh ảnh, thí nghiệm. ­ Bản đồ vùa là phương tiện trực quan, vừa là nguồn tri thức quan trọng là cuốn sách  giáo khoa thứ hai của bộ môn địa lí. ­ Từ bản đồ, tranh ảnh, mẫu vật.. có thể bồi dưỡng cho học sinh thế giới duy vật biện   chứng, bồi dưỡng năng lực tư duy, tự học, tự nghiên cứu. Do đặc điểm của các đối  tượng sự vật địa lí được trãi rộng trong không gian, giáo viên không thể dẫn học sinh  đến tận nơi được. Vì vậy dạy học không thể thiếu bản đồ, tranh ảnh, mẫu vật.. Trong   giảng dạy địa lí mở đầu bằng bản đồ kết thúc bằng bản đồ. Đây là đặc trưng của bộ  môn khoa học địa lí mà không một môn khoa học nào có thể so sánh được. Cho nên khi   lên lớp giáo viên phải căn cứ vào nội dung yêu cầu của bài học để đưa ra một hệ  thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức trên bản đồ một cách  có hiệu quả.   Ví dụ : Quan sát lược đồ khoáng sản Việt Nam cho biết nước ta có những loại khoáng sản  nào ? + Học sinh quan sát và trả lời: Than, dầu mỏ, apatít, đá vôi, sắt, crôm, đồng thiếc, bô  xít....dựa vào các kí hiệu của bản đồ mà không cần sử dụng sách giáo khoa.
  4. Các em đã thấy các loại khoáng sản này chưa ?   Sau khi học sinh trả lời giáo viên cho học sinh quan sát các mẫu vật khoáng sản Việt  Nam, để các em nhận biết các loại khoáng sản một cách hiệu quả nhất. b.Phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tìm tòi kiến thức của học  sinh. Sau khi học sinh đã quan sát cụ thể một mẫu vật, sơ đồ, bảng số liệu thống kê, hình  ảnh … nào đó hoặc các kiến thức đã qua thực tế ­ Giáo viên cần phát huy tối đa hoạt  động tư duy tích cực của học sinh bằng các tình huống để các em dự đoán nên giả  thuyết tranh luận giữa những ý kiến trái ngược… Ví dụ : Quan sát tranh khai thác than, dầu khí em có nhận xét gì?: + Em dự đoán xem, hậu quả của việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên, tại sao con  người lại khai thác quá mức nguồn tài nguyên, có ảnh hưởng gì tới tương lai? + Em thử đoán xem khai thác hợp lí nguồn tài nguyên là biện pháp tích cực hay tiêu  cực? + Để bảo vệ nguồn tài nguyên chúng ta cần phải làm gì ? c.Phương pháp hoạt động nhóm :   Với những câu hỏi khó, những tình huống chưa giải quyết, cá nhân các em có thể  đưa ra ý kiến thảo luận trong nhóm để thống nhất ý kiến.   Thảo luận nhóm là phương pháp thể hiện rõ nhất sự đổi mới trong phương pháp dạy   học, lấy học sinh làm trung tâm. Hoạt động nhóm là hoạt động đòi hỏi tính tự giác của học sinh rất cao, em nào cũng  được đưa ra ý kiến của mình. Nhưng hoạt động này đôi khi không hiệu quả vì giáo  viên chưa đi sâu đi sát đến từng nhóm và hướng dẫn các nhóm hoạt động chưa cụ thể.   Đây là một hoạt động mà người giáo viên thực hiện chưa tốt. Có giáo viên để các  nhóm hoạt động, ít để ý đến các em, có nhóm các em gây ồn ào mất trật tự, có nhóm  chỉ có một vài em làm việc còn lại một số các em khác không chú ý .   Thảo luận là trao đổi ý kiến về một vấn đề có phân tích lý lẽ, giữa giáo viên và học  sinh, giữa học sinh với học sinh. Giúp cho học sinh mở rộng kiến thức, phát triển  được tư duy khoa học. Giúp học sinh phát triển kĩ năng nói, giao tiếp tranh luận...  Thảo luận có nhiều hình thức : Thảo luận cá nhân(hay cả lớp..), thảo luận theo cặp,  nhóm, theo tổ...   Để hoạt động nhóm đạt hiệu quả trước hết giáo viên phải đưa ra những yêu cầu rõ  ràng cần thảo luận những câu hỏi nào ? (Chú ý những câu hỏi khó mới cần đưa ra  thảo luận). Thời gian qui định là bao lâu? Mỗi nhóm báo cáo xong cần có nhận xét  đánh giá (khen, nhắc nhở) Một điều giáo viên cần chú ý đó là theo dõi sự hoạt động  của các nhóm ­ Mỗi nhóm sẽ cử một nhóm trưởng chỉ đạo các bạn trong nhóm hoạt  động và một thư ký ghi ý kiến của các bạn trong nhóm. d.Phương pháp kiểm tra đánh giá : Đây là một hoạt động nhằm đánh giá kết quả hoạt động của nhóm, của cá nhân thông   qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm (Đúng, sai – lựa chọn câu đúng). Bài tập điền từ  phù hợp vào chỗ trống bằng các phiếu học tập, trò chơi, nhận biết mô hình, tư duy  kiến thức từ bản đồ… 3/ Quá trình thể nghiệm (Thực nghiệm ) : Để thực hiện tốt một giờ dạy đạt kết quả thì việc đầu tiên là khâu thiết kế một bài  dạy (Các bước lên lớp)
  5. Tôi đã áp dụng kết hợp nhiều phương pháp để giảng dạy bài “Đặc điểm tài nguyên  khoáng sản Việt Nam” Với bài dạy này : Về mục tiêu cần xác định : 1.Kiến thức : ­ Hiểu và trình bày được. + Việt Nam là một nước giàu tài nguyên khoáng sản. Đó là một nguồn lực quan trọng  để công nghiệp hóa đất nước. + Mối quan hệ giữa khoáng sản với lịch sử phát triển. Giải thích được vì sao nước ta  giàu tài nguyên khoáng sản. + Các giai đoạn tạo mỏ và sự phân bố các mỏ, các loại khoáng sản chủ yếu của nước   ta. + Bảo vệ và khai thác có hiệu quả và tiết kiệm nguồn khoáng sản quý giá của nước  ta. 2.Kỹ năng : ­ Biết xác định các đối tượng bản đồ, kí hiệu của các loại khoáng sản, tên các loại  khoáng sản chính. ­ Chỉ được các vùng mỏ khoáng sản chính của nước ta. ­ Xác định được các loại khoáng sản và vùng phân bố trên bản đồ trống Việt Nam. ­ Các vùng khai thác khoáng sản, các cơ sở luyện kim và suất khẩu. ­ Vận dụng kiến thức vào thực tế, liên hệ địa phương. 3.Thái độ : ­ Tham gia và có ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên của nước ta đặc biệt là  nguồn tài nguyên khoáng sản, có ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên và môi trường. ­ Sau khi xác định rõ mục tiêu của bài thì khâu chuẩn bị đồ dùng dạy học và phương  pháp dạy cho phù hợp với từng phần của bài học. Ví dụ : Phần 1 :Việt Nam là một nước giàu tài nguyên khoáng sản : + Cho học sinh quan sát bản đồ khoáng sản Việt Nam. ? Cho biết Việt Nam có những loại khoáng sản nào có trữ lượng lớn ? ­ Các khoáng sản có trữ lượng lớn như : Than, dầu mỏ, apatít, đá vôi, sắt, crôm, đồng,   thiếc… ? Em hãy xác định các mỏ khoáng sản trên bản đồ. ­ Sau khi học sinh trả lời Giáo viên : Cho học sinh quan sát mẫu khoáng sản. ? Nơi phân bố ? Giáo viên cho học sinh tự dán kí hiệu cắt rời lên bản đồ trống Việt Nam. Ví dụ : Phần 2/ Sự hình thành các vùng mỏ chính ở nước ta. Hoạt động nhóm : Nhóm 1 : Giai đoạn tiền Cambri. Nhóm 2 : Giai đoạn cổ kiến tạo. Nhóm 3 : Giai đoạn tân kiến tạo. * Đại diện nhóm trình bày, chỉ trên bản đồ khoáng sản Việt Nam. + Quan sát thảo luận nhóm. Rút ra kết luận … Bằng sự kết hợp đồng bộ giữa phương pháp quan sát – Thảo luận – Kiểm tra đánh  giá giờ học đã thật sự thu hút học sinh. 4. Hiệu quả mới : Các tiết dạy có sự chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, đồ dùng dạy học như : Tranh  ảnh, bảng số liệu, mẫu vật, bản đồ, thao tác chính xác, kết hợp đồng bộ nhuần 
  6. nhuyễn các phương pháp dạy học. Giáo viên đã giúp các em nắm các kiến thức cơ bản   một cách chính xác, do chính các em tìm ra từ các phương tiện trực quan và biết tái  hiện kiến thức khi cần thiết, biết suy luận, diễn tả một sự vật hiện tượng địa lí, vận  dụng chúng vào thực tiễn, trong đời sống hằng ngày, đặc biệt là trong quá trình thi và  kiển tra. III .BÀI HỌC KINH NGHIỆM : 1. Kinh nghiệm cụ thể : Qua những giờ dạy được chuẩn bị đầy đủ, thao tác chính xác, giúp các em nắm các  bài lý thuyết sâu hơn áp dụng trong đời sống hằng ngày, những kiến thức địa lí trong  chương trình lớp 8 để giải thích mối quan hệ nhân quả của tự nhiên và kinh tế xã hội  Việt Nam trong thời kỳ mở cửa, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang  trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, áp dụng những hiểu biết của   mình vào thực tế hiện nay là điều hết sức cần thiết, sau khi học song chương trình  THCS các em có thể bước vào cuộc sống với sự tự tin và lòng dũng cảm, để đối mặt  với cuộc sống xã hội đầy khó khăn và gian khổ, tạo điều kiện cho hoạt động học tập  và lao động có hiệu quả và chất lượng. 2. Kết luận chung và kiến nghị : Trong đề tài này tôi muốn trao đổi với các bạn đồng nghiệp những suy nghĩ của tôi về   một số phương pháp sử dụng phương tiện dạy học, để dạy tốt chương trình địa lí lớp   8 đạt hiệu quả cao. Tôi rất mong được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp để chúng ta   cùng xây dựng nên một hình thức dạy môn địa lí thế nào cho hay nhất, đạt kết quả cao   nhất của bộ môn địa lí. Kiến nghị : ­ Mở lớp tập huấn về việc sử dụng công nghệ thông tin. ­ Hình ảnh khai thác khoáng sản tại các vùng mỏ Việt Nam. ­ Mẫu vật từ ngành công nghiệp luyện kim của Việt Nam. ­ Hình ảnh nhà máy sán xuất. Tài liệu tham khảo : + Sách giáo khoa địa lí lớp 8. + Sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng địa lí lớp 8. + Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên môn địa. + Át lát địa lí Việt Nam ­ Thế giới. + Tài liệu bộ giáo dục đào tạo “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” Vận dụng Bản đồ tư duy trong việc dạy và học môn Lịch sử ở nhà trường THCS I.      ĐẶT VẤN ĐỀ
  7.      1. Lý do chọn đề tài: Bản đồ tư duy ( mind map) còn gọi là Sơ đồ tư duy,  là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, từ khóa, hình ảnh  để  mở  rộng và đào sâu ý tưởng, hệ  thống hóa một chủ  đề  hay một mạch kiến thức...Đặc biệt đây là một sơ  đồ  mở, không yêu cầu tỷ  lệ, chi tiết chặt chẽ  như  bản đồ  địa lý, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ  một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ  diễn đạt khác nhau, cùng một chủ  đề  nhưng mỗi người  có thể "thể  hiện" nó dưới dạng Bản đồ  tư  duy theo một  cách riêng, do đó, việc lập Bản đồ  tư  duy phát huy được  tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.  Bản   đồ   tư   duy   (mind   map)   phát   triển   bởi   Tony  Buzan vào những năm 1960. Hiện nay, kỹ thuật này đang  được hơn 200 triệu người trên thế giới sử dụng (công ty,  tổ   chức   giáo   dục,   trường   học,   cá   nhân,   diễn   giả,   HS­ SV…) Bản đồ  tư  duy mang lại hiệu quả  tốt cho quá trình  Dạy – Học, giáo viên tiết kiệm thời gian, tăng tính linh 
  8. hoạt; Học sinh tăng tính chủ động sáng tạo, phát triển tư  duy... Ở  nước ta tuy mới được áp dụng từ  đầu năm học  2010 ­ 2011 nhưng dạy học bằng BĐTD kết hợp với các  phương pháp dạy học khác đã giúp học sinh học tập tích  cực, chủ  động, hiểu vấn đề  sâu sắc, có hệ  thống, học  sinh yêu thích đi học hơn.            Nhằm mục đích phát huy tính tích cực tự  giác của   học sinh trong quá trình dạy và học, ngành Giáo dục đã  vận dụng Bản đồ tư duy vào dạy và học. Tuy nhiên, thời   gian vận dụng còn quá ngắn chưa vận dụng tốt vào giảng  dạy. Đối với bộ  môn Lịch sử, việc lập Bản đồ  tư  duy  còn gặp nhiều khó khăn, chưa có công trình nghiên cứu  chuyên biệt. Vì vậy, chúng tôi thông qua giảng dạy môn  Lịch sử   ở  trường THCS Bình Tân­ TX. La Gi, thông qua  các tiết dự giờ, các tiết thao giảng , hội giảng  của đồng  nghiệp...   chúng   tôi   viết   sáng   kiến   kinh   nghiệm   VẬN  DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY VÀ HỌC LỊCH  SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ.                2. Khảo sát và thực trạng:
  9. Trong những năm gần đây, chất lượng bộ  môn Lịch  sử  là vấn đề  bức xúc của xã hội. Việc dạy và học bộ  môn Lịch sử chưa phát huy được tinh tích cực, tự giác của  học sinh, chất lượng  bộ môn thường không đạt yêu cầu. Đối với học sinh trường THCS Bình Tân, là học sinh  vùng biển, chất lượng học tập các bộ  văn hóa chưa cao,  đặc biệt với môn Lịch sử, rất ít học sinh có hứng thú với  bộ môn.         Khó khăn nhất của môn lịch sử và phát huy tính tích  cực và lòng say mê của học sinh đối với  lịch sử Dân tộc.         Trong những lớp học chúng tôi đã dạy, học sinh chỉ  trả  lời được câu hỏi phát hiện, chủ  yếu xem sách giáo  khoa để  trả  lời, không trả  lời được câu hỏi tái hiện và  câu hỏi phát huy trí lực.         Muốn học sinh tiếp thu tốt, chúng ta đồng thời phải   huy động nhiều phương pháp tích cực, trong đó phát huy  trí lực thông qua bản đồ tư duy cũng là một phương pháp  thích hợp đối với môn Lịch sử. II.   NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP.
  10.         Việc đưa Bản đồ  tư  duy hay Sơ  đồ  tư  duy vào nội  dung phương pháp dạy và học là một vấn đề  tương đối  mới mẽ  đối với thầy và trò. Khi thực hiện BĐTD chúng  tôi thường xác định bài nào sử dụng được BĐTD, bài nào  không sử dụng được? Dùng loại bản đồ nào để cung cấp  kiến thức ?  Đối với môn Lịch sử, khi kết hợp sử dụng Bản đồ tư  duy với các phương pháp đặc trưng bộ môn khác thực sự  đã tạo ra một luồng gió mới, tạo sự  kích thích và hứng  thú  học tập đối với học sinh. Đối với thầy giáo dạy Lịch sử cũng rất cần hiểu biết  và có kỹ năng thực hiện bản đồ tư duy, khi dạy học bằng   BĐTD kiến thức lịch sử  được kết nối liền mạch, trình  bày bài có hệ thống hơn .  Vì vậy thông qua giảng dạy chúng tôi đề  ra một số  nội dung và giải pháp   để  đưa  BĐTD vào việc dạy và  học Lịch sử.        2.1. Tổ chức dạy học bằng bản đồ tư duy. 
  11.           Việc tổ  chức dạy học bằng BĐTD khi cả  thầy và  trò có sự  chuẩn bị, học sinh cần phải được rèn kỹ  năng  vẽ  BĐTD  ( Bản đồ  tư  duy ) thường xuyên, có dụng cụ  giấy, bút, màu để  vẽ. Đặc biệt phải có hứng thú khi vẽ  thì mới đạt hiệu quả cao. Vì vậy việc trước tiên là chúng  ta phải tìm cách tạo hứng thú và sau đó hướng dẫn học   sinh theo các bước để vẽ.            Đối   với   thầy   giáo   nên   hướng   dẫn   cho   học   sinh  nhiều cách vẽ  BĐTD, biết cách sử  dụng chữ  viết, màu  sắc và ký hiệu khi vẽ, từ  đó các em có hứng thú khi vẽ  một BĐTD. Thực hiện dạy học bằng cách lập BĐTD được tóm  tắt qua 4 bước như sau:              ­ Bước 1: Học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá  nhân với gợi ý, hướng dẫn của giáo viên.             ­ Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm  học sinh lên báo cáo, thuyết minh về  BĐTD mà nhóm  mình đã thiết lập.            ­ Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa   để  hoàn thiện BĐTD về  kiến thức của bài học đó. Giáo 
  12. viên sẽ  là người cố  vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn  chỉnh BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.            ­ Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà  giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã  tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày,  thuyết minh về kiến thức đó.            Việc thuyết minh, trình bày nội dung bằng BĐTD  hiện nay là vấn đề  khó, nhất là học trường THCS Bình  Tân chúng tôi, năng lực diễn đạt của học sinh nhiều hạn  chế, chúng ta từng bước rèn kỹ năng trình bày BĐTD cho  các em, giáo viên dạy Sử nên coi việc rèn kỹ năng thuyết  minh BĐTD là rèn kỹ năng sống cho học sinh. Khi củng cố kiến thức từng mục hoặc củng cố kiến   thức toàn bài giáo viên hướng dẫn HS hệ thống kiến thức   bài học bằng bản đồ tư  duy. Vi dụ: Khi dạy Lịch sử 8,  bài : KHỞI NGHĨA YÊN THẾ  , phần củng cố, chúng tôi vẽ  BĐTD theo từng bước như  trên, ta có BĐTD như sau :
  13.          Nếu là tiết dạy bằng giáo án điện tử,  BĐTD  xuất  hiện theo trình tự rất rõ ràng và màu sắc rất đẹp mắt thu  
  14. hút học sinh tiếp thu kiến thức dẽ dàng. Chúng ta nên cho  BĐTD  xuất hiện lần thứ  hai để  rèn thêm kỹ  năng trình  bày nếu có thời gian.      2.2. Sử  dụng Bản đồ  tư  duy trong 1 tiết học Lịch   sử. Lịch   sử   là   một   một   môn   học   đặc   thù   với   những  chuỗi sự  kiện, diễn biến  đã diễn ra trong quá khứ. Vì  vậy, nhiệm vụ của dạy học lịch sử là khôi phục lại bức  tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ. Vì vậy,   khi sử  dụng  BĐTD  để  trình bày những sự  kiện lịch sử  chúng  ta  dễ   dàng  liên  kết  sự   kiện  với  nhau  tạo   thành  những chuổi kiến thức làm cho học sinh dễ dàng tiếp thu  kiến thức.  Khi liên kết các sự kiện lịch sử trên một BĐTD thầy  giáo trình bày kiến thức sẽ có hệ thống  và hấp dẫn học  sinh hơn, học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức hơn. Tất cả  mọi tiến trình của bài dạy đều có thể  vận dụng  BĐTD  để dạy. a/ Bản đồ tư duy để giới thiệu nội dung bài:
  15. Khi giới thiệu nội dung bài mới, người thầy có nhiều  cách để  giới thiệu, giới thiệu bằng  BĐTD  là một cách  tương đối đơn giản nhưng đạt hiệu quả  cao,  BĐTD tác  động   đến   học   sinh   những   kiến   thức   cơ   bản   nhất   từ  những đường nét  đơn giản, dễ hiểu, dễ tiếp thu.           Ví dụ : khi dạy Lịch sử 9, bài 14: VIỆT NAM SAU   CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT. Nếu sử dụng giáo án điện tử để  dạy thì vấn đề  đơn  giản, còn nếu không sử dụng giáo án điện tử chúng ta có  thể vẽ nhanh trên bảng đen BĐTD để giới thiệu nội dung  bài cho học sinh.  Bước giới thiệu bài chính là bước tạo bộ khung ban  đầu   của  BĐTD,   hình   dáng   của  BĐTD  xuất   hiện,   bao  nhiêu nhánh, bao nhiêu cành xuất hiện, thầy và trò định  hướng về hình dáng của BĐTD mà chúng ta sẽ vẽ. b/  Bản đồ tư duy để trình bày nội dung tùng phần Khi dạy nội dung kiến thức từng phần, chúng ta có  nhiều cách để  cung cấp kiến thức cho học sinh, nhưng  khi   dạy   với  BĐTD  chúng   tôi   thường   sử   dụng   một   số  phương pháp sau:
  16.           ­ Hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa để tìm ra  các sự kiện, sau đó giáo viên phân tích đào sâu....Giáo viên  liệt kê các sự  kiện lên BĐTD để  học sinh trình bày hoàn  chỉnh sự kiện. Vì dụ :  Khi dạy Lịch sử 9, bài 23: TỔNG KHỞI NGHĨA  THÁNG TÁM 1945 VÀ SỰ  THÀNH LẬP NƯỚC VIỆT  NAM DÂN CHỦ  CỘNG HÒA, mục 2 và 3 là diễn biến  của Tổng khởi nghĩa ta có thể vẽ sơ đồ sau:            Sau khi vẽ  BĐTD  chúng ta cho học sinh trình bày  diễn biến theo bản đồ, qua đó, các em nắm được trình tự  và liên kết các sự kiện với nhau.          ­ Bản đồ tư duy trong bộ môn Lịch sử cũng chính là  sơ  đồ  thời gian, cho nên khi giảng dạy nội dung có sự  kiện tiến triển theo thời gian chúng ta sử dụng BĐTD để  dạy. Sau khi đọc đoạn sách giáo khoa, giáo viên gợi ý để  học sinh xác định các cột mốc thời gian, giáo viên vẽ  lên  sơ đồ, sau đó phân tích nội dung. Ví dụ: khi Lịch sử 9, dạy bài 16: HOẠT ĐỘNG CỦA  NGUYỄN   ÁI   QUỐC   Ở   NƯỚC   NGOÀI   TRONG  NHỮNG NĂM 1917­1923, học sinh đọc sách giáo khoa 
  17. mục I : Nguyễn Ái Quốc  ở  Pháp, học sinh tìm các sự  kiện: ­ 1919, 7/1920, 12/1920, 1921...giáo viên thể  hiện sự  kiện lên BĐTD và sau đó phân tích sự kiện.            Khi dạy phần diễn biến trên  BĐTD, chúng ta liên  kết được trình tự  diễn biến như một sơ đồ thời gian, còn  nội dung diễn biến chúng ta phải sử  dụng những biện  pháp sư phạm khác dể  mở rộng, đào sâu kiến thức. c/ Bản đồ tư duy dạy toàn bài.  Trong nội dung chương trình môn lịch sử, có một số  bài chúng ta có thể  thực hiện dạy toàn bài theo  BĐTD,  chủ  yếu là những bài mà sách giáo khoa trình bày những   khái niệm, những sự kiện có hệ thống, học sinh đọc sách  giáo khoa có thể trình bày được những khái niệm. Chúng  ta   có   thể   cho   học   sinh   đọc   sách   giáo   khoa,   thầy   giáo  hướng dẫn vẽ  BĐTD, sau đó phân tích khái niệm, học  sinh vẽ BĐTD vào vở và học bài theo BĐTD. Ví dụ : Khi dạy Lịch sử 9, bài 14: VIỆT NAM SAU   CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT, nội dung bài có  3 mục, chia làm 3 nhánh chính,   học sinh đọc sách giáo 
  18. khoa và tìm ra các ý là các cành nhỏ, chúng ta hướng dẫn  học sinh vẽ  BĐTD, và đây cũng là nội dung cô đọng của  toàn bài, khi học học sinh sẽ  dễ  nhớ  kiến thức của bài  học. d/ Bản đồ tư duy để tổng kết, củng cố      Với thế mạnh của BĐTD là kiến thức được hệ thống  hóa dưới dạng sơ đồ, các đường nối là sự  diễn tả mạch   logic kiến thức hoặc các mối quan hệ nhân quả hay quan  hệ tương đương, cộng thêm màu sắc của các đường nối,  màu sắc của các đơn vị  kiến thức, sẽ giúp học sinh nhìn  thấy “Bức tranh tổng thể” cả một phần kiến thức đã học.  Có nhiều cách xây dựng BĐTD trong tiết ôn tập, củng  cố:     ­ Thông thường giáo viên cho một số câu hỏi và bài tập  để  học sinh chuẩn bị   ở  nhà. Trong tiết ôn tập, củng cố,  giáo viên hướng dẫn học sinh tự  lập BĐTD, sau đó cho  học sinh trao đổi kết quả với nhau và sau cùng đối chiếu  với BĐTD do giáo viên lập ra. Từng em có thể  bổ  sung   hay sửa lại BĐTD của mình và coi đó là tài liệu ôn tập  của mình.
  19.      ­ Cách khác: Giáo viên lập BĐTD mở. Trong giờ  ôn  tập, củng cố, giáo viên chỉ  vẽ  một số nhánh chính, thậm  chí không đủ nhánh, hoặc thiếu, hoặc thừa thông tin trong  tiết học đó, giáo viên yêu cầu học sinh tự bổ  sung, thêm  hoặc bớt thông tin, để  cuối cùng toàn lớp lập được một  BĐTD ôn tập, củng cố  kiến thức chương đó tương đối  hoàn chỉnh và hợp lý. Cách làm này sẽ  lôi cuốn được sự  tham   gia   của   học   sinh   (   suy   nghĩ   nhiều   hơn,   trao   đổi  nhiều hơn, tranh luận nhiều hơn) và giờ ôn tập, tổng kết  chương sẽ không tẻ nhạt và có chất lượng hơn. Trong bộ môn lịch sử, loại bài tổng kết thường được  viết thành từng bài, các tác giả sách giáo khoa đã một lần  cô đọng kiến thức, chúng ta vận dụng vào BĐTD tương  đối dễ  vì những đơn vị  kiến thức đã được khái quát, rút  gọn, chúng ta chỉ  làm nhiệm vụ  hướng dẫn học sinh vẽ  BĐTD .   Thông qua tiết tổng kết, với  BĐTD  chúng ta có thể  củng cố kiến thức từng chương, từng phần.         Ví dụ: khi dạy Lịch sử  6, tiết 29, bài: 25: ÔN TẬP  CHƯƠNG  III.  Nội  dung  ôn  tập giai  đoạn  “nghìn năm 
  20. Bắc thuộc” chủ  yếu nằm trong 3 nội dung: Chính sách  cai trị, những lần thay đổi tên của nước ta và các cuộc  khởi nghĩa của nhân dân ta, 3 nội dung nằm trong 3 nhánh  của BĐTD rất dẽ dàng khai thác, khi dạy học sinh rất thú  vị. ,           Tóm lại : Dạy học bằng bản đồ tư duy rất phù hợp  với phương pháp dạy học tích cực mà ngành giáo dục đã  và đang triển khai, đối với môn Lịch sử , sử dụng  BĐTD  trong tất cả  các tiến trình của bài dạy, từ  giới thiệu bài,  dạy bài mới, tổng kết, củng cố, ôn tập và cả  những bài  tập …đều có thể vận  dụng BĐTD để giảng dạy .  III.           KẾT  QUẢ VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG. 1.     Kết quả
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0