Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5
lượt xem 330
download
Tham khảo sáng kiến kinh nghiệm rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 dành cho quý thầy cô nhằm rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng, tư duy lôgic, cảm thụ tốt bài văn, giúp các em tìm bố cục để phát triển óc phân tích, tìm đại ý để phát triển óc tổng hợp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5
- RÈN ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH LỚP 5 I/ PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ Tập đọc là phân môn có vị trí quan trọng hàng đầu trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học. Dạy tốt phân môn này không những rèn luyện cho học sinh kỹ năng đọc mà còn phát triển cho các em vốn từ ngữ phong phú, tạo điều kiện để các em học tốt các phân môn khác. Rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh như: đọc đúng, đọc nhanh, đọc chính xác, rõ ràng, rành mạch, diễn cảm để học sinh có những hiểu biết về kiến thức văn học, về ngôn ngữ và ngược lại khi hiểu được những văn bản đọc sẽ giúp học sinh hiểu được đọc diễn cảm. Vì vậy giữa việc đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm là hai quá trình có liên quan gắn bó mật thiết với nhau. Qua việc đọc, học sinh chiếm lĩnh được văn hoá của dân tộc, tiếp thu được nền văn minh của loài người thông qua sách vở. Qua việc đọc, học sinh biết đánh giá cuộc sống xã hội, tư duy. Cũng qua hoạt động đọc, tình cảm, thẩm mỹ của các em được nâng lên cao, tầm hiểu biết của các em nhìn ra thế giới xung quanh và quá trình nhận thức cũng có chiều sâu hơn. Tập đọc là phân môn mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy đọc cho học sinh, nó còn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về Tiếng Việt cho học sinh( phát âm, từ ngữ, câu văn, đoạn văn... ), kiến thức bước đầu về văn học( văn xuôi, văn vần, nhân vật ...), kiến thức về đời sống, về giáo dục tình cảm, thể chất, thẩm mĩ. Sự phát triển nhiều mặt này tạo điều kiện để trẻ phát huy được mọi khả năng tiềm tàng, từ đó tạo cơ hội để sau này trẻ giúp ích cho xã hội. Phân môn Tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng đặt ra một nhiệm vụ quan trọng: đọc rành mạch, lưu loát bài văn( khoảng 120 tiếng/ phút), đọc có biểu cảm bài văn, bài thơ ngắn, hiểu nội dung, ý nghĩa bài đọc. Thông qua các bài văn, bài thơ, học sinh càng thêm yêu các miền quê của đất nước, đồng cảm với mọi tầng lớp nhân dân, mọi con người trên đất nước Việt Nam cũng như trên thế giới, biết quý trọng, giữ gìn những truyền thống quý báu của dân tộc ta. Phân môn Tập đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục thẩm mĩ, giúp học sinh thêm yêu cái đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong văn chương. Môn học này góp phần rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng, tư duy lôgic. Giờ tập đọc, ngoài việc rèn đọc, dẫn dắt cho học sinh cảm thụ tốt bài văn, thấy cái hay cái đẹp của hình tượng văn học, chúng ta còn cho học sinh tìm bố cục để phát triển óc phân tích, tìm đại ý để phát triển óc tổng hợp. Ngoài ra còn rèn óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ... Phân môn Tập đọc kết hợp chặt chẽ với các phân môn khác của chương trình Tiếng Việt. Qua các bài văn, bài thơ chọn lọc, học sinh vừa cảm thụ được cái hay cái đẹp, vừa học cách dùng từ chính xác, đặt câu sinh động, được luyện về ngữ âm, chính tả, tập làm văn. Học phân môn Tập đọc, việc rèn đọc và cảm thụ bài đọc là hai yếu tố không thể thiếu, hai yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó, hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp cho các em tìm được giọng đọc thích hợp cho bài đọc, từ -1-
- đó các em sẽ đọc một cách hay, diễn cảm. Ngược lại, đọc diễn cảm không tốt sẽ khó khăn việc cảm thụ bài văn. Muốn có kĩ năng đọc hay, diễn cảm, học sinh phải có khả năng cảm thụ bài đọc ở mức độ nhất định. Khi đã có kĩ năng đọc tốt, học sinh sẽ hiểu đúng, cảm thụ sâu sắc hơn. Phân môn Tập đọc luôn luôn thể hiện sự gắn bó chặt chẽ quá trình đọc và quá trình hiểu( hiểu nội dung cơ bản của bài đọc qua hệ thống từ ngữ, kiểu câu, bố cục và thể loại văn bản để đọc đúng, đọc hay và từ đó giúp học sinh cảm thụ cái hay cái đẹp của tư tưởng, tình cảm, của nghệ thuật ngôn từ để thể hiện ra cách đọc, giọng đọc, đọc diễn cảm). Để phát huy tầm quan trọng của phân môn Tâp đọc và để đạt được mục tiêu môn học, mỗi giáo viên cần hiểu sâu sắc mục đích của môn học, bài học, nhận thức rõ phương pháp giảng dạy của phân môn. Thực tế trong quá trình dạy Tâp đọc lớp 5, tôi thấy chất lượng đọc của học sinh chưa cao, nhất là việc đọc diễn cảm. Qua việc thử nghiệm ở trường Tiểu học, tôi thấy kết quả như sau: - Biết cách đọc thầm để tự hiểu nội dung bài đọc:18% HS đạt yêu cầu. - Biết đọc phần chú giải để hiểu đúng một số chi tiết trong bài: 8%. - Biết cách tìm đại ý bài: 10%. - Biết cách xác định đề tài của bài: 6%. - Biết cách suy nghĩ tìm ra điều mà tác giả muốn nói với người đọc: 3%. - Biết biểu hiện điều mình hiểu qua giọng đọc: 6%. Kết quả trên đây cho thấy cách dạy Tập đọc và tài liệu dạy Tập đọc lớp 5 chưa làm tốt việc tạo ra năng lực tự đọc ở học sinh vì chưa chú trọng việc dạy học sinh cách đọc văn bản và ứng xử với những điều đọc được. Ngày nay, đất nước ta đang từng ngày, từng giờ đổi mới, xã hội ngày càng phát triển, vì vậy mỗi con người đòi hỏi tri thức ngày càng cao, trong đó phát triển ngôn ngữ nhằm đáp ứng nhu cầu giao tiếp và tư duy trở nên vô cùng thiết yếu. Mỗi thành công không phải tự nhiên mà có, nó phải trải qua một quá trình rèn luyện kiên trì, bền bỉ. Hầu hết mỗi giáo viên đều không ngừng tìm tòi đổi mới phương pháp để nâng cao hiệu quả giờ dạy Tập đọc. Xuất phát từ những vấn đề trong thực tiễn và nhu cầu của bản thân trau dồi kiến thức chuyên môn, nâng cao năng lực của mình, mong phần nào góp phần nâng cao chất lượng đọc cho học sinh, tôi mạnh dạn đề xuất một phần kinh nghiệm nhỏ về vấn đề“ Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5”. II/ PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG. Qua thực tế giảng dạy ở lớp 5, tôi thấy việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh có một số vấn đề như sau: Về phía giáo viên: Đối với đa số giáo viên, Tập đọc không phải là phân môn khó dạy. Hầu hết trong số họ đều có nhiều cố gắng trong việc tìm tòi phương pháp, nghiên cứu nội dung, học hỏi kinh nghiệm, đặc biệt có đổi mới phương pháp giảng dạy“ lấy học sinh làm trung tâm” song kết quả cho thấy học sinh chưa đọc được hay( đọc diễn cảm) bài đọc. Bởi trong khi dạy, giáo viên thường mới chỉ coi trọng và sửa cho học sinh vấn đề đọc to, rõ ràng, lưu loát chứ chưa quan tâm nhiều đến kỹ thuật đọc, giọng đọc, cách đọc diễn cảm của học sinh hay việc đọc mẫu của giáo viên. Giáo viên dạy Tập đọc như dạy Văn trước đây. Nhìn -2-
- chung phương pháp còn mang tính chất hưởng thụ và áp đặt( về cách hiểu nội dung bài, cách đọc bài). Giáo viên giảng giải quá nhiều về các từ khó, về ý nghĩa của bài mà xem nhẹ phần luyện đọc, đặc biệt là luyện đọc diễn cảm. Bên cạnh đó, do khách quan, một số giáo viên không có chất giọng tốt để đọc hay bài đọc. Giáo viên tiểu học lại dạy quá nhiều môn trong một buổi học nên việc đầu tư thời gian để luyện đọc trước khi lên lớp còn có phần hạn chế... Về phía học sinh: Học sinh không quan tâm đến phương pháp đọc của mình, do đó các em rất yếu về năng lực di chuyển kĩ năng đọc đã được hình thành ở các lớp trước, các bài trước để giải quyết những vấn đề đặt ra trong bài mới. Các em đã đọc thành tiếng, phát âm đúng và rõ các tiếng có vần khó. Nhưng đọc để thể hiện nội dung bài đọc thì còn thấp. Khi đọc, nhiều em chưa hiểu ý của từng đoạn, từng bài, các em ngắt nghỉ câu văn, ngắt nhịp câu thơ chưa chính xác, chưa thể hiện được nội dung và tình cảm bài đọc bằng sắc thái giọng đọc vui, buồn, trầm, bổng, gợi cảm... Kĩ năng đọc lướt để tìm hiểu nội dung bài chưa tốt ở đa số các em. Ảnh hưởng của phương ngữ: tình trạng phát âm lẫn giữa thanh ngã và thanh sắc,... còn nặng nề. Sĩ số một lớp học còn đông. Do đặc điểm vùng miền, kinh tế ở gia đình chưa cao nên các em chưa được tạo điều kiện tốt để học tập. Qua điều tra khảo sát chất lượng đọc của học sinh ngay từ đầu năm học, tôi thấy lượng học sinh đã biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ rất ít, nhất là đối với những học sinh có lực học trung bình hay yếu. Cụ thể điều tra chất lượng đọc của học sinh hai lớp 5 đầu năm học này có số liệu cụ thể như sau: - Lớp 5B đầu năm học 2009- 2010 Sĩ số Học sinh đọc nhỏ, chậm Học sinh đọc to, lưu loát Học sinh đọc diễn cảm 20 9 HS = 45 % 7 HS =35 % 4 HS = 20% - Lớp 5C đầu năm học 2009 - 2010: SÜ sè Häc sinh ®äc nhá, chËm Häc sinh ®äc to, lu lo¸t Häc sinh ®äc diÔn c¶m 25 10 HS = 40% 9 HS = 36% 6 HS = 24 % II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Trước hiện trạng trên, tôi đã suy nghĩ: Phải làm thế nào để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh tốt hơn nữa, nhất là đọc diễn cảm. Để thực hiện được điều đó, tôi đã nghiên cứu và tiến hành phối hợp sử dụng nhiều phương pháp: phương pháp điều tra, phương pháp so sánh đối chứng, phương pháp quan sát, phương pháp kiểm tra đánh giá, phương pháp tổng hợp,.... Ở phương pháp điều tra, không chỉ dừng lại ở điều tra thực trạng mà phải điều tra qua từng giai đoạn trong suốt năm học, trao đổi với giáo viên và học sinh ở tiểu học, tìm hiểu thực tế việc dạy và học phân môn Tập đọc trong trường Tiểu học. Ở phương pháp so sánh đối chứng không những so sánh đối chứng trong cùng một giai đoạn giữa lớp này với lớp kia, giữa các giai đoạn với nhau trong cùng một lớp mà còn đối chứng cả với những năm học trước. Phương pháp quan sát tinh thần, thái độ, ý thức trong học Tập đọc của học sinh lớp mình, học sinh lớp khác trong khi đi dự giờ mà còn quan sát phương pháp sư phạm của giáo viên giảng dạy để tìm hiểu những tác nhân trực tiếp ảnh -3-
- hưởng đến chất lượng đọc diễn cảm của học sinh. Phương pháp kiểm tra đánh giá được tiến hành đồng thời với phương pháp kiểm tra toán học và phương pháp tổng hợp số liệu. Khi kiểm tra đánh giá chất lượng đọc của từng học sinh, tôi mô tả và thống kê chất lượng ấy bằng những số liệu cụ thể, sau đó tổng hợp các số liệu đã thu được nhằm rút ra kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân. III. CÔNG VIỆC THỰC LÀM 1. TÌM HIỂU VỀ MỤC TIÊU, CẤU TRÚC, PHƯƠNG PHÁP DẠY PHÂN MÔN TẬP ĐỌC 5. 1.1. Tập đọc là gì? Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Đọc không chỉ là công việc giải quyết một bộ mã gồm hai phần chữ viết và âm thanh, nghĩa là nó không phải chỉ là sự "đánh vần" lên thành tiếng theo đúng như các ký hiệu chữ viết, mà đọc còn là quá trình nhận thức để có khả năng hiểu đọc những gì đã được đọc. Tập đọc là cách học văn bản từ đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm. Dạy Tập đọc chính là việc giáo viên hướng dẫn hoàn thành 4 phẩm chất trên. 1.2. Ý nghĩa của việc đọc Tập đọc là một phân môn có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Nó trở thành một đòi hỏi cơ bản, đầu tiên đối với mỗi người đi học. Trước tiên, trẻ phải học đọc, sau đó phải đọc để học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ trong giao tiếp và học tập, nó cũng là công cụ để học các môn khác, nó tạo ra hứng thú và động cơ trong học tập. Đồng thời nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học. Đọc là khả năng không thể thiếu được của con người. Trong thời đại văn minh, biết đọc sẽ giúp các em hiểu biết nhiều hơn, hướng các em tới cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết tư duy. Như vậy, việc dạy đọc và đọc có một ý nghĩa vô cùng to lớn vì nó bao gồm nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. 1.3. Mục tiêu của phân môn Tập đọc ở sách Tiếng Việt lớp 5. Phân môn Tập đọc lớp 5 tiếp tục củng cố và nâng cao kĩ năng đọc một cách đầy đủ, toàn diện cho học sinh nhằm hoàn thiện yêu cầu cần đạt ghi trong Chương trình Tiểu học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành: Đọc rành mạch, lưu loát bài văn( khoảng 120 tiếng/ phút); đọc có biểu cảm bài văn, bài thơ ngắn; hiểu nội dung, ý nghĩa của bài đọc. Cụ thể: - Củng cố, phát triển kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành ở các lớp dưới; tăng cường tốc độ đọc, khả năng đọc lướt để chọn thông tin nhanh; khả năng đọc diễn cảm. - Phát triển kĩ năng đọc - hiểu lên mức cao hơn: nắm và vận dụng được một số khái niệm như đề tài, cốt truyện, nhân vật, tính cách,... để hiểu ý nghĩa của bài và phát hiện một vài giá trị nghệ thuật trong các bài văn, bài thơ. - Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần hình thành nhân cách của con người mới. 1.4. Nội dung, cấu trúc phân môn Tập đọc lớp 5. Phân môn Tập đọc ở lớp 5 gồm 66 tiết/ năm, mỗi tuần có hai tiết. 40 bài văn xuôi thuộc loại hình nghệ thuật, báo chí, khoa học, 2 vở kịch( trích), 18 bài thơ. Các bài Tập đọc gồm các chủ đề: " Việt Nam- Tổ quốc em ", " Cách chim hoà bình", " Con người với thiên nhiên", "Con người với thiên nhiên","Giỡ lấy màu -4-
- xanh","Vì hạnh phúc con người","Người công dân","Vì cuộc sống thanh bình","Nhớ nguồn","Nam và nữ","Những chủ nhân tương lai". Bài Tập đọc lớp 5 nhằm mục đích: - Tiếp tục củng cố và nâng cao kĩ năng đọc cho HS: đọc trơn, đọc thầm với tốc độ nhanh hơn, nâng cao kĩ năng đọc diễn cảm. Ở lớp 5, HS được rèn kĩ năng đọc hiểu ở mức: Nhận biết được đề tài hoặc chủ đề đơn giản của bài; nắm được dàn ý của bài, biết tóm tắt đoạn, bài; hiểu được ý nghĩa của bài; biết phát hiện và bước đầu biết nhận định về giá trị của một số nhân vật, hình ảnh trong các bài đọc có giá trị văn chương; làm quen thao tác đọc lướt để nắm ý hoặc chọn ý. Xây dựng cho HS thói quen tìm đọc sách ở thư viện, dùng sách công cụ( từ điển,...) và ghi chép những thông tin cần thiết khi đọc. - Mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho HS: Các bài đọc phản ánh vấn đề cơ bản về đạo đức, phẩm chất của con người, đề cập đến các đề tài về trẻ em và quyền của trẻ em, bảo vệ môi trường, giáo dục dân số, giới tính, ca ngợi tình đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc,....Hệ thống chủ điểm của các bài đọc trong sách TV5 vừa mang tính khái quát cao vừa có tính hình tượng góp phần cung cấp cho HS những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội,con ngươì trong nước và thế giới. Qua các bài tập đọc, HS còn được cung cấp về vốn từ ngữ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm văn học( đề tài, cốt truyện, nhân vật,...), từ đó nâng cao trình độ văn hoá nói chung và trình độ tiếng Việt nói riêng. Các bài đọc gồm các phần: văn bản đọc, chú giải những từ ngữ khó, hướng dẫn đọc( chỉ dẫn cách đọc một số câu khó, đoạn khó, cách ngắt nhịp, nhấn giọng hoặc gợi ra những đặc điểm về nội dung, những sắc thái tình cảm được biểu hiện qua giọng đọc). Phần tìm hiểu bài gồm những câu hỏi, bài tập giúp học sinh hiểu giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài văn, bài thơ. Ở nhiều bài có thêm yêu cầu học thuộc lòng từng đoạn, cả bài. 1.5. Phương pháp dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5. Trong thực tế mỗi bài tập đọc gồm có hai phần lớn: tìm hiểu nội dung và luyện đọc. Hai phần này có thể cùng tiến hành một lúc đan xen vào nhau hoặc cũng có thể dạy tách hai phần tuỳ theo từng bài mà giáo viên lựa chọn. Dù dạy theo cách nào thì hai phần này cũng luôn có mối quan hệ tương hỗ khăng khít với nhau. Phần tìm hiểu bài giúp cho học sinh hiểu kĩ nội dung, nghệ thuật của bài, từ đó các em đọc diễn cảm tốt hơn. Ngược lại, học sinh đọc hay, đọc diễn cảm để thể hiện tốt nội dung của bài, thể hiện những điều hiểu biết xung quanh bài đọc. Như vậy, việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm trong dạy Tập đọc rất quan trọng góp phần giúp học sinh biết cách xác định ngữ điệu từng loại văn bản, làm giầu vốn kiến thức ngôn ngữ và kiến thức văn học cho học sinh, từ đó góp phần hình thành ở các em ý thức được cách đọc nhằm diễn tả nội dung một cách tốt nhất. Để bài dạy đạt kết quả cao, cần quan tâm đến cách tổ chức và lôgíc các nội dung bài trong giờ học không bị ngắt quãng, gián đoạn. Giáo viên phải lấy học sinh làm trung tâm. Vai trò của giáo viên trong mỗi tiết học chỉ là người tổ chức, dẫn dắt học sinh tự tìm ra tri thức. Ngoài ra, để phần tìm hiểu bài tiến hành được tốt thì cần phải có yếu tố như: cơ sở vật chất đầy đủ, tranh ảnh minh hoạ cho bài tập phải đẹp, phong phú và cuối cùng là trình độ giáo viên phải đáp ứng được yêu cầu của môn học. Nếu phối hợp được các yếu tố nói trên sẽ giúp học sinh -5-
- hiểu bài nhanh và sâu, hiểu một cách có hệ thống và làm tăng hiệu quả giờ học. Các em hứng thú học, thích học Tiếng Việt, biết yêu cuộc sống qua từng bài học. 2. NHỮNG CÔNG VIỆC THỰC TẾ ĐÃ LÀM. Từ những hiểu biết của mình về phân môn Tập đọc nói chung và rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5 nói riêng, tôi đã suy nghĩ tự đặt ra cho mình phải nhận thức được tầm quan trọng của phân môn. Đặc biệt quan tâm nhiều đến việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh với những yêu cầu đề ra. Thực tế, tôi luôn luôn tìm tòi nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của lớp người đi trước, để tìm ra phương pháp giảng dạy, truyền thụ kiến thức và đặc biệt cách rèn đọc diễn cảm cho học sinh. Muốn rèn đọc diễn cảm tốt, trước hết trong các giờ Tập đọc, học sinh phải nắm được nội dung, phong cách văn bản của bài đọc, mức độ đọc diễn cảm tỉ lệ thuận với mức độ hiểu bài của học sinh. Qua hệ thống từ ngữ, kiểu câu, bố cục, thể loại văn bản ... các em cảm thụ sâu sắc văn bản( bài văn, bài thơ) từ đó giúp các em đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm văn bản nghệ thuật, đọc đúng ngữ điệu các văn bản có mục đích thông báo khác. Đọc diễn cảm( đọc hay) là biết thể hiện kĩ thuật đọc phù hợp với từng bài như: ngắt nhịp đúng câu văn, câu thơ, thể hiện được nội dung bài đọc bằng sắc thái giọng đọc vui, buồn, trầm, bổng, gợi cảm, nhẹ nhàng, thiết tha hay mạnh mẽ, dứt khoát, tốc độ chậm rãi, khoan thai hay dồn dập... Ngoài ra, cần biết thể hiện đúng các kiểu câu như: câu hỏi, câu kể, câu cảm... Biết phân biệt giọng đọc của các nhân vật, của người dẫn chuyện trong bài. Học sinh bước đầu làm chủ được giọng đọc sao cho vừa đúng về ngữ điệu, về tốc độ, cao độ, trường độ và âm sắc; vừa thể hiện cảm nhận riêng của từng cá nhân nhằm diễn tả đúng nội dung đọc. Để đạt những yêu cầu trên tôi đã tiến hành phương pháp rèn đọc cho học sinh như sau: PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH: Sau khi được phân công chuyên môn, việc làm đầu tiên là tôi cho lớp ổn định mọi nề nếp tổ chức. Sau đó đi sâu, đi sát để nắm được từng đối tượng học sinh về lực học, về hoàn cảnh gia đình, đặc biệt là về khả năng đọc, kĩ năng đọc và phân loại học sinh theo 3 đối tượmg: *Đối tượng 1: Học sinh đọc chậm nhỏ. *Đối tượng 2: Học sinh biết đọc to, lưu loát. *Đối tượng 3: Học sinh biết đọc diễn cảm. Căn cứ vào đó, tôi đã tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh, những em đọc yếu ngồi cạnh những em đọc khá, đọc tốt. Trong cùng một bàn có đủ các đối tượng học sinh để các em có điều kiện giúp đỡ nhau, rèn luyện bổ sung cho nhau qua quá trình luyện đọc theo cặp đôi và theo nhóm bàn để các em cùng tiến bộ. Công việc tiếp theo, tôi giới thiệu với học sinh về cấu trúc chương trình phân môn để các em nắm được các chủ điểm chính trong từng học kỳ và trong cả năm học. Đặc biệt tôi đã nêu tầm quan trọng, yêu cầu kỹ năng cơ bản về việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm. Hướng dẫn học sinh lưu lại những câu, đoạn văn, đoạn thơ, bài văn, bài thơ hay trong sổ tay của mình, giao trách nhiệm cho một số em đọc khá, đọc tốt thường xuyên kèm cặp giúp đỡ những em đọc yếu ở mọi bài học, mọi môn học chứ không chỉ dừng lại ở phần đọc theo cặp đôi hay đọc theo nhóm, đọc phân vai... Sau khi đã tiến hành như trên, tôi đã bước vào giảng dạy như sau: a.Chuẩn bị: -6-
- - Đối với giáo viên: Phải nghiên cứu tài liệu, nắm nội dung bài giảng, đọc tài liệu tham khảo để soạn bài được chu đáo. Ở mỗi bài tập đọc, giáo viên phải đọc kĩ bài, sau đó suy nghĩ xác định yêu cầu của bài, phân tích nội dung và hình thức bài đọc để tìm ra cái hay, cái đẹp của tư tưởng tình cảm, của nghệ thuật ngôn từ để tìm ra cách đọc diễn cảm. - Đối với học sinh: Phải có sự chuẩn bị bài chu đáo, hoàn thành tốt những công việc cô giáo giao trong phần dặn dò của tiết tập đọc trước như soạn bài, sưu tầm tranh, ảnh có liên quan đến bài đọc... b. Tiến hành: Khi đã chuẩn bị chu đáo về nội dung, phương pháp của tiết dạy, tôi đã tiến hành rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh như sau: Phương pháp rèn đọc cho học sinh lớp 5 Trong kinh nghiệm này tôi xin được trình bày các biện pháp để rèn đọc đúng, đọc hay (đọc diễn cảm) một văn bản cho học sinh lớp 5. 3. NHỮNG BIỆN PHÁP, GIẢI PHÁP ĐÃ THỰC HIỆN: 3.1. Khắc phục tình trạng đọc ê a, ngắc ngứ. Như chúng ta đã biết, chữ Tiếng Việt của chúng ta viết rời ra từng âm tiết chứ không phải viết liền từng từ như chữ một số nước khác (Anh, Nga, Pháp..) nhưng khi đọc ta lại không đọc rời rạc từng âm tiết một mà phải đọc theo từng cụm từ. Ví dụ: Trong vườn, lắc lư những chùm quả xoan vàng lịm không trông thấy cuống, như những chuỗi tràng hạt bồ đề treo lơ lửng. Nếu tính về mặt âm tiết thì câu văn trên có 24 âm tiết, 19 từ, 7 cụm từ. Khi học sinh tập đọc không để các em đọc rời rạc từng âm tiết như kiểu đọc nhát gừng. Nếu để học sinh đọc theo từng từ thì vẫn chưa diễn đạt được ý của câu văn nên tôi phải hướng dẫn học sinh đọc theo cụm từ. Trong vườn,/ lắc lư /những chùm quả xoan/ vàng lịm/ không trông thấy cuống, /như những chuỗi tràng hạt bồ đề/ treo lơ lửng. Cách hướng dẫn học sinh đọc theo cụm từ của tôi như sau: + Tôi viết câu văn đó ra bảng phụ( đã chuẩn bị từ trước). + Vì giai đoạn đầu lớp còn đọc yếu, do vậy tôi đọc mẫu theo cách nghỉ như trên sao cho thật chuẩn. Sau đó tôi cho học sinh phát hiện những chỗ ngắt nghỉ của cô, nếu đúng tôi sẽ dùng phấn màu gạch chéo sau những từ cần ngắt. Nếu học sinh chưa phát hiện ra tôi có thể đọc mẫu lần thứ 2 những câu đó để học sinh có thể nhận ra. Đồng thời tôi luôn củng cố kỹ năng đọc khi gặp dấu chấm( phải nghỉ hơi), gặp dấu phẩy phải ngắt hơi. Khi đã nhận ra cách ngắt nghỉ sau cụm từ, sau dấu phẩy, sau dấu chấm tôi gọi một số học sinh khá đọc, sau đó mới gọi những em hay đọc ê a ngắc ngứ lên đọc. Có thể là một lần, cũng có thể là hai lần và phải tiến hành trong một thời gian. Tôi nghĩ hiện tượng đọc ê a ngắc ngứ ở các em sẽ không còn xảy ra nữa. Nhưng lưu ý khi còn những em đọc ê a ngắc ngứ thì phải sửa một cách triệt để, có thể phải hướng dẫn từng cụm từ; giáo viên hoặc học sinh khá đọc mẫu cụm từ thứ nhất sau đó cho học sinh đọc yếu đọc lại cụm từ đó rồi mới chuyển sang cụm từ khác và cũng theo trình tự đúng như vậy, cuối cùng cho học sinh đọc lại cả đoạn văn đó. + Vậy khi học sinh đọc những câu văn dài, học sinh đã biết ngắt hơi sau cụm nhưng ngắt hơi trong thời gian bao lâu thì cũng là điều cần phải hướng dẫn các em. Thông thường, tôi hướng dẫn các em ngắt hơi sau cụm từ bằng thời gian -7-
- ngắt nghỉ khi gặp dấu phẩy hoặc dấu chấm phẩy và đương nhiên thời gian đó phải ít hơn thời gian nghỉ khi đọc gặp dấu chấm. Tránh tình trạng học sinh ngắt nghỉ quá lâu làm cho người nghe cảm thấy rời rạc. Số học sinh mắc lỗi đọc ê a, ngắc ngứ hoặc đọc liến thoắng không nhiều nên chỉ sau 3 tuần kiên trì rèn đọc cho các em( gọi cho các em đọc nhiều hơn, sửa cho các em kỹ hơn) thì loại lỗi này không còn trong lớp tôi nữa, các em đọc đã khá trôi chảy, lưu loát. 3.2. Khắc phục tình trạng đọc sai những tiếng, từ có phụ âm đầu hay nhầm lẫn l - n; s – x ; ch – tr; d – r- gi…; âm hay nhầm lẫn: thanh ngã/ thanh sắc. Những tiếng, những từ này thường là những từ khó đối với học sinh. Cho nên, trong bước rèn đọc đúng cho học sinh, tôi cho các em đọc thầm toàn bài để tự phát hiện ra những tiếng, từ mà học sinh cảm thấy khó có trong bài. Trong thực tế, nhiều khi giáo viên quá phụ thuộc vào sách hướng dẫn mà ép học sinh phải chỉ ra những từ khó giống như trong sách nêu ra là không nên bởi những từ đó với học sinh có thể chưa phải là khó. Song từ, tiếng khó đọc mà tự các em phát hiện ra có thể là rất nhiều. Do vậy, giáo viên cần kết hợp với việc quan sát theo dõi của mình trong tất cả các giờ học để thấy học sinh lớp mình hay nhầm lẫn ở những cặp phụ âm nào, vần nào để tập trung rèn cho các em những tiếng khó, từ khó ở các loại đó. Ví dụ: Ở lớp tôi ngay từ khi mới nhận lớp, qua theo dõi trong các tiết học và trong khi giao tiếp với học sinh tôi thấy các em còn hay nhầm lẫn khi phát âm: Các lỗi l/ n x/ s ch/ tr d/ r/ gi Thanh ngã/ Thanh sắc Tỷ lệ mắc lỗi 73% 15% 21% 45% 70% Tôi thấy đây không chỉ là những lỗi của các em học sinh khi đọc, khi nói mà cả nhân dân địa phương nơi đây cũng hay nhầm lẫn như vậy. Do vậy, trong một giờ học, một tuần học, thậm chí cả một tháng ta cũng không thể sửa ngay cho các em tất cả các loại lỗi. Những lỗi mà tỷ lệ học sinh mắc ít hơn và cũng dễ sửa hơn tôi đặt ra cho mình kế hoạch sẽ tiến hành rèn cho các em liên tục trong 8 tuần đầu( Đó là những cặp phụ âm s/ x, ch/ tr ). Còn những lỗi khó sửa hơn (l/ n; thanh ngã/ thanh sắc) tỷ lệ học sinh mắc lỗi nhiều hơn, tôi đặt ra cho mình kế hoạch rèn cho các em liên tục trong 3 tháng nhưng sau đó phải thường xuyên rèn trong khi nói và khi đọc, khi viết, có như thế mới trở thành thói quen nói đúng, viết đúng được. - Cách tiến hành rèn đọc đúng cho học sinh của tôi như sau: + Mục đích phần rèn đọc của bài “Một chuyên gia máy xúc”( TV 5, tập 1, tr.45) tôi sẽ tập trung rèn học sinh đọc đúng những tiếng có phụ âm đầu l/ n. + Sau khi nghe học sinh khá- giỏi đọc mẫu lần 1, tôi yêu cầu cả lớp đọc thầm toàn bài( kết hợp với việc dặn học sinh chuẩn bị bài ở nhà) tìm ra những từ, tiếng khó đọc có trong bài. sau đó cho học sinh nêu ra, tôi lần lượt ghi lên bảng theo các dòng riêng biệt. Ví dụ: học sinh tìm được các từ khó: loãng, mảng nắng, lần lượt, nét giản dị, Tôi sẽ ghi lên bảng như sau: l : loãng, mảng nắng, lần lượt,... n : mảng nắng, nét giản dị,... Hỏi: trong dòng 1, em thấy những từ đó khó đọc ở phần nào? ( khó đọc ở -8-
- phần phụ âm đầu: l); giáo viên ghi âm l trước dòng 1 bằng phấn màu. Với dòng 2 tôi cũng hỏi như vậy và ghi âm n trước dòng 2. Đối với những âm này, với học sinh của tôi, tôi phải hướng dẫn học sinh cách phát âm thật cụ thể, chi tiết. + Tôi hướng dẫn các em cách phát âm phụ âm l nh sau: Phụ âm l là phụ âm tắc, khi phát âm phụ âm này, đầu lưỡi cong lên tiếp giáp với vòm lợi trên, luồng hơi bị cản lại nên phải len qua hai cạnh lưỡi để thoát ra ngoài, do vậy luồng hơi bật ra mạnh. Giáo viên làm mẫu hai lần, sau đó cho học sinh khá phát âm, gọi học sinh hay nhầm lẫn về phụ âm này tập phát âm. Lưu ý nên cho các em phát âm cá nhân để dễ phát hiện những em phát âm sai để sửa; Tiếp theo cho học sinh đọc tiếng khó có chứa phụ âm n. Phụ âm n là phụ âm xát, khi phát âm phụ âm này mặt lưỡi tiếp giáp với vòm lợi trên, luồng hơi không bị lưỡi cản lại nên thoát ra nhẹ nhàng hơn. Cách tiến hành cũng như hướng dẫn phát âm phụ âm l. Để học sinh có được thói quen phát âm đúng, tôi yêu cầu học sinh phát âm và đọc theo kiểu đối nhau: đó là l/ n ; loãng/ mảng nắng; lần lượt/ mảng nắng, . Đưa ra cách rèn như vậy là tôi muốn cho học sinh có phản ứng nhanh nhậy để tìm ngay ra được cách đọc đúng những từ có chứa các cặp phụ âm hay nhầm lẫn. Nếu chỉ rèn như vậy thì cũng chưa đủ mà việc luyện đọc từ khó cần phải được đặt trong văn cảnh, trong môi trường ngôn ngữ thì học sinh đọc những từ đó mới đúng hơn. Bởi nhiều khi đọc riêng từ học sinh, có thể đọc đúng nhưng khi đặt từ đó vào trong câu văn, đoạn văn thì chưa chắc học sinh đã đọc đúng. Chính vì thế, sau khi rèn phát âm luyện đọc từ khó có chứa âm khó, tôi lại phải yêu cầu học sinh tìm những câu văn, câu thơ thậm chí đoạn văn, đoạn thơ có chứa từ khó đó cho học sinh đọc vì mục đích của rèn đọc đúng là rèn phát âm đúng để đọc đúng văn bản. Một số đồng chí giáo viên có hỏi: Trong một giờ tập đọc nếu chỉ tập trung hướng dẫn đọc những từ có chứa phụ âm l- n thì những tiếng khó khác rèn vào lúc nào? Tôi cho rằng: Một cặp phụ âm hay nhầm lẫn l/ n và nó đã trở thành cố tật không chỉ ở học sinh mà cả nhân dân đĩa phương. Nếu trong một tiết tập đọc có chủ định rèn cho học sinh về cặp phụ âm đó mà không thực hiện kĩ càng như vậy thì không thể đạt được cái đích đã đặt ra. Còn những từ khó khác ta có thể h- ướng dẫn các em đọc từ đó theo trình tự: giáo viên hoặc học sinh khá đọc mẫu sau đó gọi học sinh yếu kém đọc lại. Cách thức rèn cho học sinh đọc đúng các tiếng có thanh ngã và các tiếng có thanh sắc cũng tương tự như trên. Rèn cho học thói quen đọc đúng những từ có các phụ âm mà học sinh hay nhầm lẫn là một việc làm không đơn giản. Bản thân một mình phân môn Tập đọc cũng khó có thể giải quyết được. Do vậy, theo tôi trong tất cả các giờ học và trong bất kỳ hoàn cảnh giao tiếp nào tôi và lực lượng nòng cốt của tôi gồm 18% học sinh không mắc lỗi sẽ giúp các em sửa ngay. Có như thế mới giải quyết được vấn đề. Với những cặp phụ âm còn lại, tôi cũng tiến hành rèn cho học sinh lần l- ượt theo từng bước như vậy. Đến nay, năm học đã tiến hành được gần 3 tháng thì mức độ sai những từ có phụ âm hay nhầm lẫn như đã nêu ra ở trên đã giảm rõ rệt. -9-
- Các lỗi l/ n x/ s ch/ tr d/ r/ gi Thanh ngã/ Thanh sắc Tỷ lệ mắc lỗi 25% 2% 3% 7% 22% Từ kinh nghiệm của những năm học trước tôi tin tưởng rằng trong hơn hai tháng của học kỳ II tôi sẽ giải quyết triệt để các lỗi còn lại. 3.3. Khắc phục tình trạng đọc lên xuống giọng tùy tiện Theo tôi muốn khắc phục tình trạng lên xuống giọng tuỳ tiện thì giáo viên phải hướng dẫn thật tốt cách đọc các kiểu câu: Câu kể: ở cuối câu có dấu chấm khi đọc thường phải xuống giọng ở cuối câu. Câu hỏi: ở cuối câu có dấu chấm hỏi, khi đọc ta phải lên giọng ở cuối câu. Câu kể có dấu chấm lửng: khi đọc phải kéo dài giọng. Câu cảm, cầu cầu khiến: ở cuối câu có dấu chấm than khi đọc cần phải lên giọng ở cuối câu. Ví dụ: Trong bài" Tác phẩm của Si- le và tên phát- xít”(TV5, tập 1, tr.58) tôi hướng dẫn học sinh cách đọc các loại câu này như sau: - Chép đoạn văn đó lên bảng phụ. - Hỏi học sinh trong đoạn văn đó có những câu văn nào là câu hỏi, câu kể, câu cảm, câu cầu khiến và cách đọc của từng loại câu này, giáo viên dùng phấn mầu ghi ký hiệu lên giọng , xuống giọng ở cuối mỗi loại câu. Bực mình vì ông cụ biết tiếng Đức nhưng không thèm chào bằng tiếng Đức, hắn liền hỏi: (câu kể) - Lão thích nhà văn Đức hơn lời chào của người Đức chăng? ( câu hỏi). - Sao ngài lại nói thế? Si- le là nhà văn quốc tế chứ! ( câu cảm)- Ông già điềm đạm trả lời. ( câu kể ) Nhận thấy vẻ ngạc nhiên của tên sĩ quan, ông già nói tiếp:( câu kể ) - Ngài thử xem Si- le đã dành những tác phẩm của mình cho ai nào? ( câu hỏi) Nhà văn đã viết Vin- hem Ten cho người Thuỵ Sĩ, Nàng dâu ở Mét- xi- na cho người I-ta- li- a, Cô gái Oóc- lê- ăng cho người Pháp,... ( câu kể ) Càng nghe nói, tên sĩ quan phát xít càng ngây mặt ra. Cuối cùng, hắn hỏi: - Chẳng lẽ Si- le không viết gì cho chúng tôi hay sao? ( câu hỏi) Ông già mỉm cười trả lời: ( câu kể ) - Có chứ.( câu kể) Si- le đã dành cho các ngài vở Những tên cướp! ( câu cảm) Sau đó tôi hoặc học sinh khá đọc mẫu theo cách đọc đó rồi cho học sinh nhất là những em yếu kém luyện đọc với số lượng từ 5 – 6 em. Việc làm này phải được tiến hành thường xuyên khi gặp những bài tập đọc có các kiểu câu như vậy, có như thế mới hình thành được thói quen đọc đúng. Sau khoảng thời gian 1 tháng số học sinh mắc lỗi này đã giảm chỉ còn 2/29 em. 3.4. Hướng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp, nhịp độ đọc Một số người lầm tưởng hướng dẫn đọc ngắt nhịp trong thơ là hướng dẫn đọc diễn cảm. Không phải như vậy, mà đó mới chỉ là cách đọc đúng trong thơ mà thôi. Vậy muốn hướng dẫn học sinh đọc ngắt nhịp thơ đúng thì giáo viên phải nắm vững cách đọc các thể thơ. Các bài thơ trong sách Tiếng Việt 5 thường được viết theo thể thơ tự do. Vì vậy, ngắt nhịp thơ còn phụ thuộc vào cách cảm nhận của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, giáo viên cần hướng học sinh cảm nhận theo cách khai thác được giá trị nội dung và giá trị thẩm mĩ cao nhất. - 10 -
- Trong bài"Hành trình của bầy ong ", học sinh thường ngắt nhịp như sau: Chắt trong / vị ngọt mùi hương Lặng thầm thay những / con đường ong bay. Trải qua mưa nắng / vơi đầy Men trời đất đủ làm say / đất trời. Bầy ong / giữ hộ cho người Những mùa hoa / đã tàn phai / tháng ngày.. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đọc nhấn giọng và ngắt nhịp như sau: Chắt trong vị ngọt / mùi hương Lặng thầm thay / những con đường ong bay. Trải qua mưa nắng vơi đầy Men trời đất / đủ làm say đất trời. Bỗy ong giữ hộ cho người Những mùa hoa / đã tàn phai tháng ngày. Trong bài "Cao bằng", cần hướng dẫn học sinh đọc chú ý ngắt giọng, nhấn giọng tự nhiên giữa các dòng thơ. Cao Bằng rõ thật cao! Rồi dần / bằng bằng xuống Đầu tiên là mận ngọt Đón môi ta dịu dàng. Rồi đến chị rất thương Rồi đến em rất thảo Ông lành / như hạt gạo Bà hiền / như suối trong. Do vậy, tôi muốn nói khi hướng dẫn học sinh ngắt nhịp thơ thì giáo viên cần phải cho học sinh nhận biết bài thơ đó được viết ở thể thơ nào? Cách ngắt nhịp chung của toàn bài ra sao? Song cũng cần phải phát hiện những câu, những đoạn có cách ngắt nhịp khác biệt trong bài để hướng dẫn học sinh. Thực chất ngắt nhịp thơ cũng được dựa trên cơ sở ngắt nhịp theo cụm từ. Do vậy, ngắt nhịp thơ không đúng câu thơ sẽ trở nên tối nghĩa, mất hết ý vị còn đâu có thể cảm nhận được nội dung của bài. Khi đọc văn bản văn xuôi cũng cần chú ý tới ngắt nhịp. Đọc bài Mùa thảo quả( TV5, tập 1), chú ý nghỉ hơi ngắn ở những câu ngắn( Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm.) nhằm thể hiện nhịp thở của người đang hít vào để cảm nhận mùi thơm của thảo quả lan trong không gian. Không chỉ quan tâm đến việc ngắt nhịp trong khi đọc mà còn thể hiện nhịp độ đọc. Đọc nhanh hay chậm, vừa phải là do nôị dung bài văn, bài thơ quyết định. Trong một bài có thể đọc nhanh, chậm, vừa phải tuỳ thuộc theo nội dung từng đoạn như khi dạy bài:“ Kì diệu rừng xanh”( TV5- tập 1). Cần hướng dẫn học sinh đọc giọng khoan thai, thể hiện thái độ ngỡ ngàng, ngưỡng mộ cảnh vật ở đoạn 1; đọc nhanh hơn ở những câu miêu tả hình ảnh thoắt ẩn, thoắt hiện của muông thú ở đoạn 2; đọc thong thả ở những câu cuối miêu tả vẻ thơ mộng của cánh rừng trong sắc vàng mênh mông ở đoạn 3. Học sinh phải biết thay đổi tốc độ đọc như vậy tức là đã cảm nhận được vẻ đẹp kì thú của rừng xanh. Với câu văn dài, tốc độ đọc giãn ra, làm cho người đọc, người nghe có thời - 11 -
- gian suy nghĩ:“ Cô bé ngây thơ tin vào truyền thuyết nói rằng nếu gấp đủ một nghìn con sếu bằng giấy treo quanh phòng, em sẽ khỏi bệnh. Nhưng Xa- da- cô chết khi em mới gấp được 644 con”( Những con sếu bằng giấy- TV5- tập 1). Khi gặp những câu văn có dấu chấm lửng cần hướng dẫn học sinh nghỉ hơi dài:“ Để có một ngôi làng như mọi ngôi làng ở trên đất liền, rồi sẽ có chợ, có trường học, có nghĩa trang... /” ( Lập làng giữ biển - TV5, tập 2). Làm tốt khâu rèn đọc đúng tức là ta đã tạo ra cơ sở ban đầu để giúp học sinh hiểu đúng nội dung bài tập đọc và như vậy mới có thể hướng dẫn học sinh đọc diễm cảm được. 4. GIẢI PHÁP RÈN ĐỌC DIỄN CẢM Chúng ta đều biết đọc diễn cảm khó hơn đọc bình thường. Đọc bình thường chỉ đòi hỏi phát âm đúng, đọc lưu loát, biết nghỉ đúng chỗ theo các dấu ngắt câu, biết lên, xuống giọng. Đọc diễn cảm đòi hỏi người đọc phải nắm chắc nội dung từng đoạn từng bài, tâm tình và lời nói của từng nhân vật để diễn tả cho đúng tinh thần của câu văn, bài văn, tức là đi sâu vào bản chất của câu văn, bài văn. Cho nên, mục đích đọc diễn cảm là bộc lộ ra được cái bản chất của nội dung và trên cơ sở đó muốn truyền đạt đúng những ý nghĩ và tình cảm của tác giả. Muốn đọc diễn cảm tốt phải hiểu kỹ nội dung của bài tập đọc và phải truyền đạt tốt sự hiểu biết của mình tới người nghe. Học sinh đọc diễn cảm chưa tốt là do nguyên nhân: giáo viên chưa giúp học sinh cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc và nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng là khả năng đọc mẫu của giáo viên còn hạn chế. Muốn đọc diễn cảm tốt, ta cần: 4.1. Giúp học sinh cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc. Muốn vậy cần phải chú ý a, Bám sát yêu cầu của bài tập đọc Yêu cầu của bài tập đọc phải được xác định từ khi soạn bài ở nhà. VD: + Đọc trôi chảy, lưu loát bài thơ, đúng nhịp của thể thơ tự do. Biết đọc diễn cảm bài thơ thể hiện niềm xúc động của tác giả khi nghe tiếng đàn trong đêm trăng, ngắm sự kì vĩ của công trình thuỷ điện sông Đà, mơ tưởng về một tương lai tốt đẹp khi công trình hoàn thành. + Hiểu ý nghĩa bài thơ: Ca ngợi vẻ kì vĩ của công trình, sức mạnh của những người đang chinh phục dòng sông và sự gắn bó, hoà quyện giữa con người với thiên nhiên. + Gd học sinh yêu thiên nhiên, trân trọng những người đã chinh phục được thiên nhiên. - Bám sát yêu cầu của bài tập đọc, trong 3 yêu cầu ấy phải được toát ra từ bản thân bài tập đọc và giáo viên phải vận dụng vào thực tế lớp mình giảng dạy thì việc bám sát yêu cầu của bài tập đọc mới thực sự hiệu quả. b, Giảng từ và khai thác nghệ thuật. - Giảng từ: trong bài tập đọc thường có nhiều từ. Vậy ta cần phải giảng những từ nào? + Qua kinh nghiệm về giảng dạy phân môn Tập đọc tôi thấy có thể chia những từ để giảng làm 3 loại: loại từ khó, loại từ gắn với chủ đề đang học và loại từ chìa khoá (từ trung tâm). - 12 -
- Từ khó có thể là từ địa phương được tác giả đưa vào bài, là loại từ Hán Việt, là danh từ riêng. Loại từ này thường có trong phần chú giải cho nên sau khi đọc mẫu xong tôi cho học sinh đọc phần chú giải để học sinh hiểu ngay được những từ này khi bắt đầu tiếp xúc với bài tập đọc. Từ chủ đề: Trong mỗi chủ đề tập đọc có một số từ ngữ mà giáo viên cần lưu ý bởi đó là những từ làm toát lên chủ đề. Từ chủ đề cũng có khi là từ khó. Giáo viên có thể kết hợp giảng các từ chủ đề với các từ khó hoặc với các từ trung tâm trong quá trình khai thác. Từ trung tâm: Đây là những từ có sức nặng, giáo viên cần khai thác để làm toát lên nội dung bài học. Ta chia những từ cần giảng làm 3 loại như vậy để dễ phân biệt còn trong thực tế nhiều khi từ khó cũng là từ chủ đề hoặc từ trung tâm. + Vậy khi giảng từ ta có thể dùng những phương pháp nào? Những phương pháp phổ biến là phương pháp trực quan, liên hệ, so sánh, phương pháp định nghĩa, giảng giải. Khi dùng phương pháp trực quan, tôi áp dụng bằng nhiều hình thức: Trực quan bằng giọng nói, giọng đọc, nét mặt, ánh mắt, dáng điệu, động tác, hình mẫu, tranh ảnh vật thực. VD: Trong bài “Người ăn xin”, khi giảng về từ nhìn chằm chằm tôi có thể dùng ánh mắt của mình nhìn một cách chăm chú, lâu không chớp mắt và có ý dò hỏi? Trong bài tập đọc khác tôi có thể dùng môi để giảng từ mấp máy, dùng cách đi để giảng từ rón rén, dùng tư thế để giảng từ lom khom, dùng giọng nói để giảng từ sang sảng, oang oang, dùng chỉ màu để giảng từ sặc sỡ, dùng hình mẫu để giảng từ nhà sàn, nhà trệt. Phương pháp trực quan là phương pháp rất tốt để học sinh có thể hiểu và nhớ lâu nghĩa của từ nhưng phương pháp này chỉ dùng để giảng từ cụ thể. Khi gặp những từ trừu tượng như sắc lệnh, tổng tuyển cử, hữu nghị, khiêm tốn thì rất khó dùng phương pháp này. Do vậy, ngoài phương pháp này tôi còn sử dụng nhiều phương pháp khác. Phương pháp định nghĩa, giảng giải. Ở lớp 5 nhận thức lý tính tổng quát của học sinh đã phát triển nên trong khi giảng từ cho học sinh hiểu tôi vẫn thường dùng phương pháp định nghĩa hay giảng giải xen lẫn các phương pháp khác. Ví dụ: Khi giảng từ quyến rũ tôi dùng phương pháp giảng giải - Quyến rũ có nghĩa là có một sức lôi cuốn mạnh mẽ làm cho quyến luyến không muốn rời xa. - Mãnh liệt, day dứt ý nói thôi thúc, day dứt, dai dẳng và mạnh mẽ. Khi giảng về từ truyền thống tôi dùng phương pháp định nghĩa. Truyền thống là những phẩm chất tốt đẹp hoặc những điều tốt đẹp được giữ gìn, phát triển và truyền từ đời này sang đời khác. Ví dụ: Dân tộc ta cóửtuyền thống yêu nước nồng nàn. Phương pháp so sánh: Khi giảng về từ lạnh tê tái, tôi nêu lên một loạt các khái niệm lạnh lẽo, lạnh buốt, lạnh giá để học sinh thấy được lạnh tê tái ở mức độ cao hơn. Mặt khác, tôi cho học sinh tìm từ trái nghĩa với từ lạnh tê tái là nóng hầm hập để học sinh càng - 13 -
- hiểu rõ hơn về ý nghĩa của từ này. Khai thác nghệ thuật Theo tôi bài tập đọc là một thể thống nhất giữa hai mặt nội dung và nghệ thuật, do vậy, tôi nghĩ chúng ta phải thông qua việc khai thác nghệ thuật để làm toát lên nội dung tư tưởng. Tôi thấy trong khi dạy tập đọc vốn kiến thức văn học mà học sinh tích luỹ được chưa nhiều. Có đ/c hỏi: “Khai thác nghệ thuật của một bài tập đọc là khai thác những gì?” Theo tôi tuỳ từng bài mà chúng ta phải xem bài tập đọc ấy có những nét gì nổi bật về nghệ thuật cần khai thác. VD : Trong bài Đất nước, cần giúp học sinh hiểu tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hoá( Trời thu thay áo mới- Trong biếc nói cười thiết tha), lặp từ ngữ( đây, của chúng ta), liệt kê các hình ảnh( Những cánh đồng thơm mát- Những ngả đường bát ngát- Những dòng sông đỏ nặng phù sa)... nhằm tả vẻ đẹp của mùa thu thắng lợi, đồng thời thể hiện niềm tự hào về đất nước tự do. Hoặc trong bài Mùa thảo quả tôi tập trung khai thác điệp từ thơm và việc sử dụng một loạt câu văn ngắn xen lẫn với câu văn dài để làm nổi bật mùi thơm đặc biệt của thảo quả. VD: Gió tây lướt thướt bay, qua rừng, quyến hương thảo quả đi, rải theo triền núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng, thơm nồng vào các thôn xóm Chin San. Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm. Người đi từ rừng thảo quả về, hương thơm đậm, ủ ấp trong từng nếp áo nếp khăn. Tuy nhiên vẫn phải kết hợp xen kẽ các hình thức nghệ thuật khác nhau như: Khai thác nghệ thuật dùng từ, khai thác nghệ thuật viết câu văn, khai thác nghệ thuật xây dựng bố cục bài văn… Có như thế, phần khai thác nội dung bài mới đầy đủ. Song, nói như vậy cũng chưa thật đầy đủ nếu ta không nhắc đến biện pháp khai thác biện pháp nghệ thuật tu từ. Qua thực tế nhiều năm giảng dạy tôi thấy các biện pháp tu từ ở tiểu học cần tập trung khai thác là: Biện pháp so sánh, điệp từ, nhân hoá….nếu khai thác tốt các biện pháp tu từ này thì giúp ích rất nhiều trong việc hướng dẫn học sinh cảm thụ bài văn. VD: Trong bài Cửa sông, tôi giúp học sinh hiểu phép nhân hoá trong khổ thơ cuối( giáp mặt, chẳng dứt, nhớ) giúp tác giả nói được "tấm lòng" của cửa sông không quên cội nguồn, đòng thời nói lên tình cảm thuỷ chung của con người Việt Nam. c, Giảng ý và liên hệ thực tế Giảng ý: Qua kinh nghiệm giảng dạy tôi khẳng định một điều: giảng từ và giảng ý thường phải gắn chặt với nhau. Ta phải giảng từ, khai thác hình ảnh để làm toát lên ý của bài hay nói cách khác ta phải khai thác nghệ thuật để làm toát lên nội dung. VD: Trong bài “ Hạt gạo làng ta” tác giả có viết: Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi hôm nay. - 14 -
- Hỏi: Trong khổ thơ trên tác giả nêu lên hạt gạo quê thơm ngon là nhờ đâu?( câu hỏi về nội dung) ( nhờ có vị phù sa, có hương sen thơm, có lời mẹ hát) Hỏi: Trong khổ thơ đó từ nào được lặp lại nhiều lần? Lặp lại nhưvậy để nhằm mục đích gì?( Từ có được lặp lại nhiều lần, để nhấn mạnh hương vị thơm ngon của hạt gạo quê hương) VD: Cho học sinh đọc khổ thơ thứ 3 của bài “Hạt gạo làng ta” “Hạt gạo làng ta………mẹ em xuống cấy” Hỏi: Hạt gạo làng ta còn có gì đáng nhớ? ( Có bão tháng 7, có mưa tháng 3khó khăn do thiên nhiên gây ra). Có giọt mồ hôi của mẹ rơi trong những ngày nắng nóng công sức vất vả của mẹ đây là câu hỏi về nội dung. Tác giả dùng hình ảnh gì để diễn tả nỗi vất vả khó nhọc của người mẹ?đây là câu hỏi về nghệ thuật. ( Đó là: Cua ngoi lên bờ – mẹ em xuống cấy). Sự đối lập giữa hoạt động của con cua với hoạt động của mẹ được rõ thêm qua cặp từ trái nghĩa lên – xuống để càng giúp ta thấy rõ nỗi vất vả gian truân của mẹ cùng các bác xã viên khi làm ra hạt gạo. VD: Cho học sinh đọc khổ thơ cuối, hỏi câu cuối “ Hạt vàng làng ta” ý nói gì? Câu hỏi nặng về giảng ý để toát lên nội dung bài. (Hạt gạo rất quý vì được làm ra bởi công sức của biết bao người với bao thử thách gay go quyết liệt. Hạt gạo xứng đáng được ví như hạt vàng.) Tóm lại trong quá trình giảng dạy những câu hỏi giảng ý thường gắn với những câu hỏi giảng từ và câu hỏi khai thác hình ảnh thành một hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh thâm nhập vào nội dung của bài để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài văn. Từ đó học trò mới có cảm xúc thực sự và mới đọc hay bài tập đọc được. d. Liên hệ thực tế Các bài tập đọc cung cấp cho học sinh những kiến thức phong phú về cuộc sống muôn màu muôn vẻ của nhân dân ta. Những kiến thức đó muốn được cụ thể, sinh động thì tuỳ từng bài mà giáo viên cần có sự liên hệ với thực tế cho phù hợp VD: Trong bài tập đọc “Hạt gạo làng ta”có thể học sinh liên hệ nêu ra những khó khăn mà cha mẹ và các bác xã viên phải trải qua để làm ra hạt gạo ( Khó khăn do thời tiết, khó khăn do sâu bệnh gây ra, chứ không còn khó khăn do bom đạn kẻ thù nữa) Qua đó mà ta giáo dục cho học sinh tình cảm trân trọng, nâng niu từng hạt lúa và cũng muốn đóng góp công sức nhỏ bé của mình để làm ra hạt lúa. Rõ ràng chỉ sau khi giáo viên đã giảng thật kĩ nội dung bài, học sinh hiểu đợc bài, thâm nhập vào nội dung của bài thì lúc đó các em mới có thể truyền tải tới người nghe những ý nghĩ, tình cảm của tác giả (Tức là lúc đó các em mới đọc diễn cảm được). Phần hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm được tiến hành ngay sau khi tìm hiểu nội dung của toàn bài. + Cách tiến hành hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm: Tôi chép từng đoạn thơ lên bảng phụ. Sau khi hỏi học sinh về nội dung của từng đoạn, tôi hỏi về cách đọc hay của từng đoạn sau đó cho học sinh khá hoặc - 15 -
- cô giáo đọc mẫu để thể hiện cách đọc hay của từng đoạn đó; cho học sinh khác phát hiện ra những điểm nhấn, giáo viên gạch chân những từ cần nhấn và gọi học sinh khác luyện đọc lại. Nghệ thuật đọc diễn cảm thể hiện ở việc nhấn giọng, cao giọng hay hạ giọng trong một bài, một đoạn, bài không phải đọc với giọng đều đều như nhau mà có từ ngữ đọc nhấn giọng hơn. Việc nhấn gọng hay hạ giọng phải đúng, chính xác, nhằm vào những từ mấu chốt, những từ có ý nổi bật, bộc lộ rõ nội dung câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn thơ, bài văn, bài thơ. Cái gốc để giúp cho học sinh có thể đọc diễn cảm tốt là phải giúp học sinh cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc. Cách thức giúp học sinh cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc chính là các bước tiến hành mà tôi đã nêu ra ở trên. Song, học sinh có thể đọc diễn cảm tốt hơn nếu như học sinh được nghe cô giáo mình đọc hay, đọc tốt. Cách đọc của cô chính là một thứ phương tiện trực quan có hiệu quả nhất góp phần minh chứng cho những gì mà cô và trò cùng thống nhất ở trên. Để rèn cho mình khả năng đọc diễn cảm tôi thường soạn bài thật kỹ (bài soạn của tôi dựa trên những gợi ý của sách giáo viên song cũng phải căn cứ vào tình hình thực tế của lớp mình về trình độ nhận thức cũng như khả năng đọc của học sinh để có một bài soạn phù hợp nhất, cân đối nhất giữa hai phần rèn đọc và cảm thụ). Xem lại toàn bộ nội dung bài soạn trước khi lên lớp để nắm chắc nội dung bài, thẩm thấu toàn bộ nội dung của bài và nắm được suy nghĩ, tình cảm của tác giả được gửi gắm trong bài văn và đặt mình vào hoàn cảnh của tác giả để nhằm truyền tới người nghe hiểu biết của mình và tình cảm của tác giả. Với các bước tiến hành rèn luyện như vậy cùng với sự kiên trì tập luyện mà mỗi lần tôi đọc mẫu đã thực sự cuốn hút các em chú ý vào nội dung của bài. Trước những việc làm nêu trên, ngoài ra trong giờ tập đọc, tôi thường xuyên quan tâm đến những em rụt rè, nhút nhát, kịp thời khuyến khích động viên để các em có hứng thú đọc tốt hơn. Đối với những em đọc nhỏ, chậm, ngoài việc hướng dẫn chung đọc diễn cảm cho cả lớp, tôi đã có kế hoạch bồi dưỡng ngay từ đầu như: thường xuyên uốn nắn việc phát âm tiếng có vần khó, hướng dẫn đọc dứt khoát từng từ, từng ngữ. Với những câu văn dài tôi cho học sinh này dùng bút chì vạch sẵn những chỗ ngắt nhịp vào sách giáo khoa, giúp các em ngắt nhịp đúng chỗ, cứ như vậy uốn nắn dần để các em đọc tốt dần lên. Đặc biệt trong giờ Tập đọc, tôi luôn tạo cho lớp học một không khí thoải mái để các em phấn khởi học tập. Trong việc rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh tôi không sử dụng sự gò ép, áp đặt, mà thường xuyên sử dụng phương pháp gợi mở để phát huy tính chủ động, tích cực và sự sáng tạo ở mỗi học sinh, từ đó các em có điều kiện để thể hiện mình. 5. Kết quả: - Qua quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng những kinh nghiệm trên cho học sinh lớp tôi đang dạy. Tôi đã tiến hành khảo sát lớp tôi đang dạy và lớp 5A trong từng giai đoạn và có kết quả như sau: + Lớp 5B( Lớp do tôi chủ nhiệm) Giai đoạn Sĩ số Học sinh đọc nhỏ, chậm Học sinh đọc to, lưu loát Học sinh đọc diễn cảm Đầu năm 20 9 học sinh = 45% 7 học sinh = 35% 4 học sinh = 20% Cuối kỳ I 20 7 học sinh = 35% 7 học sinh = 35% 6 học sinh = 30% Tuần 25 20 4học sinh = 20% 7 học sinh = 35% 9 học sinh = 45% - 16 -
- + Lớp 5C Giai đoạn Sĩ số Học sinh đọc nhỏ, chậm Học sinh đọc to, lưu loát Học sinh đọc diễn cảm Đầu năm 25 10 học sinh = 40% 9 học sinh = 36% 6 học sinh = 24% Cuối kỳ I 25 8 học sinh = 32% 10 học sinh = 40 % 7 học sinh = 28 % Tuần 21 25 6 học sinh = 24 % 10 học sinh = 10 % 9học sinh = 36 % 6. SO SÁNH ĐỐI CHỨNG Qua kết quả tổng hợp tôi đã nêu trên, tôi rất phấn khởi vì thấy trong giờ Tập đọc, học sinh không những đã say mê học tập, lớp học rất sôi nổi mà kĩ năng đọc diễn cảm của học sinh đã được nâng lên rõ rệt. Nó không chỉ nâng lên theo từng giai đoạn khảo sát mà nó còn có sự tiến bộ hơn giữa lớp áp dụng kinh nghiệm này vào rèn đọc diễn cảm cho học sinh so với lớp không đưa kinh nghiệm này vào giảng dạy. Nếu như ở lần khảo sát đầu tiên để điều tra thực trạng trong giai đoạn đầu năm học, tỉ lệ học sinh đọc nhỏ và chậm ở lớp 5B cao hơn lớp 5A và tỉ lệ học sinh đọc diễn cảm ở lớp 5B thấp hơn lớp 5A thì đến cuối học kì I tỉ lệ này đã ngang bằng và đến tuần 26 tỉ lệ này có sự đảo lộn. Lớp 5B tỉ lệ học sinh đọc nhỏ và chậm còn ít hơn lớp 5A và tỉ lệ học sinh có kĩ năng đọc diễn cảm đã cao hơn lớp 5A. Dẫu rằng kết quả trên là chưa cao nhưng nó đã đánh dấu bước đầu sự thành công của tôi trong quá trình giảng dạy để nghiên cứu, tìm tòi ra những biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh của mình. 7. BÀI HỌC KINH NGHIỆM. Thực tế trong quá trình giảng dạy, để đạt được kết quả như trên về" Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5”, tôi tự rút ra một số kinh nghiệm sư phạm sau: 7.1. Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt, trước hết việc đọc mẫu của thầy phải chuẩn mực, bởi thầy luôn là tấm gương sáng, mẫu mực trong cách đọc diễn cảm để học sinh soi vào. Chính vì vậy, thầy phải có sự chuẩn bị chu đáo, mỗi từ ngữ thầy nói, đọc phải chính xác và chuẩn mực. Thầy cần phải nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi để nắm chắc nội dung cơ bản của chương trình sách giáo khoa... để giúp học sinh hiểu và cảm thụ bài đọc. Thực tế cho thấy, sách dùng cho học sinh, cho giáo viên có nhiều ưu điểm nổi bật và đa số giáo viên nắm được phương pháp giảng dạy, song đi vào từng bài cụ thể thì vẫn còn lúng túng không ít. Do vậy, nắm vững sách, hiểu ý đồ của người biên sọan là quan trọng, song chưa đủ, còn đỏi hỏi đến vai trò chủ động sáng tạo và tài ứng xử linh hoạt trong giảng dạy. Phải nắm chắc đối tượng học sinh để có biện pháp phù hợp với từng đối tượng, nhằm phát huy tính tích cực trong học tập, nâng cao ý thức tự giác để từ đó các em sẽ “Học vui, vui học” và hiệu quả học tập sẽ cao hơn. Người giáo viên phải có tâm huyết trong nghề, nhiệt tình trong soạn, giảng, quan tâm đến mọi đối tượng học sinh nhất là học sinh học yếu, đọc sai, đọc ngọng để kịp thời uốn nắn, sửa chữa cho học sinh thật tận tình, chu đáo để các em khắc phục. Luôn động viên, khích lệ những em có kĩ năng đọc diễn cảm tốt để các em ngày càng đọc tốt hơn. Động viên các em chép những câu văn, câu thơ, bài văn, bài thơ hay vào sổ tay của mình; khuyến khích các em nói, đọc trước đám đông. Tổ chức cho các em thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm trong lớp vào những giờ ngoại khoá. 7.2. Bên cạnh đó, muốn rèn đọc cho học sinh có hiệu quả thì người giáo viên phải nắm chắc phương pháp dạy đọc bao gồm: - 17 -
- a, Phương pháp đọc rõ văn xuôi: Hướng dẫn học sinh đọc chính xác (phát âm đúng, đọc đúng những tiếng có vần khó, những tiếng có dấu thanh học sinh hay nhầm lẫn, hướng dẫn học sinh biết đọc ngắt theo cụm từ, đọc đúng các kiểu câu). b, Phương pháp dạy đọc rõ văn vần (đó là cách ngắt nhịp các thể thơ). c, Phương pháp dạy đọc to và đọc thầm: Cần phải lưu ý có đọc to đúng thì đọc thầm mới đúng được. Do đó, khâu hướng dẫn đọc đúng phải được tiến hành trư- ớc và phải làm thật tốt. Trong giờ tập đọc, một em được chỉ định đọc to thì đồng thời giáo viên cũng yêu cầu các em khác luyện đọc thầm theo bạn. Như vậy trong một giờ tập đọc có khoảng 15 em đọc thì cả lớp cũng được luyện đọc thầm 15 lần. d, Phương pháp dạy đọc diễn cảm: Cơ sở để giúp học sinh luyện đọc tốt là phải hiểu và cảm thụ được nội dung của bài. Đồng thời phải tạo cho các em một tâm trạng bình tình, tự nhiên và thoải mái khi đọc. Các em không thể đọc diễn cảm được nếu như trong một trạng thái sợ sệt, hồi hộp, lo lắng. Vận dụng tốt những phương pháp đã dạy đọc như đã nêu ở trên là nhằm mục đích đạt được 4 yêu cầu về đọc đó là: đọc chính xác, đọc lưu loát, đọc thầm, đọc diễn cảm. Bốn yêu cầu đó phải được thâm nhập vào nhau, hỗ trợ nhau mà không nên tách rời thì mới có thể nâng cao hiệu quả của giờ tập đọc 7.3. Trong một giờ tập đọc, giáo viên cần khéo léo tổ chức để thu hút tất cả học sinh đều làm việc với sách giáo khoa, chú ý vào nội dung bài tập đọc. Muốn làm được điều đó, tôi nghĩ chúng ta cần: a, Phải xây dựng cho lớp một nề nếp học tập nghiêm túc, có tính kỉ luật cao b, Giáo viên phải luyện cho mình khả năng đọc mẫu thật tốt để cuốn hút học sinh chú ý vào nội dung bài. c, Trong một giờ tập đọc, giáo viên cần phải coi trọng cả hai yêu cầu đó là rèn đọc cho học sinh và giúp các em cảm thụ tốt nội dung bài tập đọc. Hai yêu cầu này cần phải được bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau nên không thể tách bạch từng phần riêng lẻ. Vì thế, khi soạn bài, giáo viên cần lựa chọn và đưa ra hệ thống câu hỏi sao cho phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong lớp. Có câu hỏi khó dành cho học sinh khá giỏi, có câu hỏi dễ dành cho học sinh yếu để mọi học sinh đều có cơ hội thể hiện khả năng của mình mà không cảm thấy nhàm chán hoặc quá sức. d, Cần sử dụng có hiệu quả nhiều hình thức đọc khác nhau: đọc to, đọc thầm, đọc mấp máy môi, đọc nối tiếp, đọc phân vai… để thay đổi không khí của lớp học, thu hút học sinh vào bài. e, Để tạo không khí vui tươi, hồn nhiên, nhẹ nhàng, sinh động trong các giờ học tôi thờng tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “ Thả thơ” đ]ợc dùng khi dạy các bài tập đọc là bài thơ; trò chơi “ Ai tinh ai nhanh” được dùng khi dạy các bài tập đọc là văn xuôi. Những trò chơi này tuy chỉ tiến hành trong khoảng thời gian từ 3- 4 phút nhưng rất hấp dẫn đối với học sinh và mang lại kết quả tốt cho bài dạy. Rèn luyện kĩ năng cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng quả là một công việc khó khăn. Giáo viên phải có kiến thức vững, phải đọc mẫu hay và phải kiên trì, bền bỉ, tâm huyết với nghề thì mới thành công được. 8. Phạm vi áp dụng đề tài. Trên đây là một số suy nghĩ về việc rèn đọc diễn cảm của tôi cho học sinh lớp 5 do tôi chủ nhiệm, với phương pháp dạy học này sẽ giúp các em lớp 5 học tốt - 18 -
- phân môn Tập đọc. Không những vậy, phương pháp này có thể áp dụng vào rèn đọc cho học sinh lớp 4. 9. Những vấn đề bỏ ngỏ và những vấn đề cần kiến nghị: a. Những vấn đề bỏ ngỏ. Trong thực tế giảng dạy phân môn Tập đọc, đặc biệt là việc rèn đọc cho học sinh lớp 5, tôi thấy còn có những mặt hạn chế như: - Về trò: Một số em đọc còn ngọng phát âm chưa chuẩn l/n, tr/ch, thanh ngã/ thanh sắc. - Về thầy: Còn hạn chế về nghiệp vụ sư phạm, đặc biệt là việc đọc mẫu, do vậy bản thân tôi thấy cần phải học hỏi, rèn luyện nhiều. b. Những vấn đề cần kiến nghị. Để có kết quả rèn đọc diễn cảm cho học sinh cao hơn, tôi mạn phép đề xuất một vài ý kiến với các cấp chỉ đạo như sau: - Thường xuyên dự giờ của giáo viên để nắm vững phương pháp giảng dạy, từ đó khắc phục kịp thời những tồn tại để thống nhất phương pháp giảng dạy đặc biệt là việc rèn đọc diễn cảm. - Khơi dậy phong trào thi ngâm thơ, kể chuyện, đọc diễn cảm cho học sinh, giáo viên trong khối, trong trường. - Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên ở các môn học nhất là phân môn Tập đọc. Có đầy đủ đồ dùng dạy học cho giáo viên nhất là đồ dùng dạy phân môn Tập đọc. - Đề nghị cấp phòng sau khi chấm sáng kiến kinh nghiệm nên phổ biến những kinh nghiệm giảng dạy có chất lượng để giáo viên học tập kinh nghiệm giảng dạy của đồng nghiệp. - Sau mỗi đợt thi giáo viên giỏi chúng tôi rất mong ban chỉ đạo hội thi có những thống nhất một cách cụ thể chi tiết về phương pháp giảng dạy các phân môn. - Tổ chức thường xuyên hội thi đọc hay với giáo viên và học sinh để tăng c- ường ý thức luyện đọc hay ở từng giáo viên và học sinh. …………………………………………………………………………………….. PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN Tập đọc là một môn không khó nhưng cũng không dễ dạy. Cái khó đó do chủ quan người dạy và cũng do khách quan của bộ môn tạo nên. Phía chủ quan người dạy phải có kiến thức rộng về ngữ văn, phải có trình độ nhất định về tư tưởng, tình cảm và phải nắm chắc phương pháp bộ môn. Phía khách quan, Tập đọc là một phân môn khó dạy vì tính chất phong phú của nó. Nếu chỉ chú ý tính khoa học của bài như phân tích ngữ âm, câu, từ thì bài dạy sẽ khô khan. Nếu khai thác tính nghệ thuật mà không dựa cơ sở ngôn ngữ thì cũng dễ tràn lan. Do vậy, muốn dạy tốt phân môn tập đọc chúng ta cần phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ nhận thức của bản thân, nắm vững phương pháp giảng dạy bộ môn, kiên trì luyện cho mình kỹ năng đọc tốt cùng với tâm huyết của mình dành cho nghề tôi nghĩ chúng ta sẽ có những giờ dạy thành công. Thông qua thực tế trong giảng dạy, tôi đi đến kết luận: Muốn rèn đọc diễn cảm cho học sinh tốt thì điều kiện quan trọng nhất là người thầy. Bởi thầy là người hướng dẫn các em cách đọc đúng đọc hay. Vì vậy thầy phải hướng dẫn - 19 -
- thật cụ thể chu đáo từng chữ, từng ngữ... với từng đối tượng học sinh. Đặc biệt là đọc mẫu bởi thầy có vai trò quan trọng trong việc đọc diễn cảm của trò. Muốn đạt được điều đó đòi hỏi thầy phải là người có tâm thực sự quan tâm đến trò nhiệt tình trong phương pháp soạn giảng, trau dồi nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiệm để nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học, đặc biệt là phân môn Tập đọc. Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 trong giờ Tập đọc. Rất mong sự đóng góp ý kiến của các vị độc giả. TÀI LIỆU THAM KHẢO. TT Tài liệu Ghi chú 1 Nội dung và chương trình tiếng việt 5. 2 Sách giáo khoa tiếng việt 5. 3 Tài liệu phổ biến SKKN. 4 Thế giới quanh ta 5 Bồi dưỡng tiếng việt lớp 5. 6 Để học tốt tiếng việt 5. 7 Những bài văn hay lớp 5._ 8 Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 2003 -2007 MỤC LỤC STT Nội dung Trang 1 Đặt vấn đề 1 2 Giải quyết vấn đề 2 3 Phương pháp nghiên cứu 3 4 Những công việc thực tế đã làm. 3 - 20 -
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2
42 p | 1899 | 500
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1
8 p | 1398 | 176
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Hồng Thái - GV Hồ Thị Quế
23 p | 597 | 143
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kĩ năng viết chính tả cho học sinh lớp 2
8 p | 1595 | 96
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh lớp 2
53 p | 693 | 65
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt cho học sinh lớp 3
18 p | 322 | 52
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện kĩ năng làm bài tập thực hành địa lí cho học sinh lớp 9 ở trường PTDTBT-THCS Xuân Chinh (Vi Văn Bằng)
18 p | 246 | 50
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện tư duy giải toán Hình học không gian cho học sinh lớp 11 thông qua một số bài toán về khoảng cách
28 p | 198 | 41
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 thông qua môn tập đọc của trường tiểu học Hòa Bình
20 p | 370 | 38
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy tiếng Việt cho học sinh lớp hai
32 p | 184 | 32
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn thuyết minh cho học sinh lớp 10
11 p | 419 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kỹ năng giải bài tập toán bằng cách lập phương trình - hệ phương trình
16 p | 213 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kĩ năng vẽ tranh phong cảnh cho học sinh lớp 4
15 p | 236 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện kỹ năng nói qua giờ đọc văn cho học sinh THPT
27 p | 129 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện năng lực tìm đoán cho học sinh thông qua dạy học giải phương trình ở trường THPT
144 p | 149 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 5 thông qua tiết Tập đọc
17 p | 18 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc thơ đúng cho học sinh trong các tiết Tập đọc ở lớp Một
34 p | 34 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn